Nhà văn Patrick White (1912-1990)
Chân Dung Kẻ Sĩ: Năm 1973, Patrick White là nhà văn người Úc đầu tiên thắng giải Nobel Văn chương. Tác giả của hai tiểu thuyết Cây người (The tree of man, 1955) và Voss (1957) được Ủy ban Nobel giới thiệu rằng, ông thắng giải Vì những tác phẩm có nghệ thuật phân tích tâm lý sâu sắc và bút pháp sử thi, nhờ đó đã mở ra một châu lục văn chương mới.
Những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “The Tree of Man”, “The Vivisector” và “Voss”… Trong đó, tiểu thuyết Voss (1957) được đánh giá là tác phẩm hay nhất của P. White, thông qua cái chết của một nhà thám hiểm nói về cuộc vật lộn giữa lòng kiêu hãnh và sự nhẫn nhục của con người.
Tôi gọi điện thoại cho Hâysen Kinchơ xem có phải ông ta định đi vào thành phố không.
- Có, sẽ đi! Ông ta trả lời với một giọng khô khan, lạnh lùng.
- Tôi có việc cần phải giải quyết ngoài ấy. - Tôi trả lời và tỏ ý cho ông ta biết là tôi sẽ rất thích nếu được đi cùng xe với ông ta.
- Được ta có thể đi cùng.
Tôi biết Hâysen Kinchơ sẽ chẳng bao giờ đồng ý đi với bất kỳ ai quanh đây và chịu chấp nhận một điều gì tương tự như thế.
- Mười phút nữa tôi sẽ có mặt ở chỗ anh.
Tôi vội vàng mặc quần áo và chạy tới nhà ông ta.
Mùa đông năm nay ở chỗ chúng tôi lạnh khủng khiếp. Từ cửa sổ của nhà tôi có thể nhìn rõ cái vịnh lớn của con sông đóng băng trải dài mười ba dặm, từ phía nam lên phía bắc. Mọi người có thể đi xe trượt trên mặt sông đã đóng băng tới những đảo xa. Ô tô đuổi nhau trên con đường trước kia tàu thuỷ vẫn chạy. Tuyết trắng phủ kín hai bờ sông. Chỉ có màu xám của cây cối nổi bật trên nền trắng của một miền tuyết phủ.
Như tôi đã nói, xung quanh đây có lẽ chẳng ai được Hâysen cho đi nhờ xe bao giờ. Thậm chí trên thế giới này cũng chẳng có ai bao giờ được hưởng một cử chỉ thân thiện nào của ông ta. Đó là một người keo kiệt và cô độc hiếm có. Loại người như ông ta có lẽ chẳng bao giờ có chỗ đứng trong một xã hội công bằng.
Nhưng Hâysen Kinchơ không những sống đầy đủ, mà có thể nói, ông ta chết đuối trong sự giàu có của mình. Cũng chính vì thế mà tôi muốn biết rõ hơn về ông ta. Ông ta có một sức hấp dẫn kỳ lạ, một sức mạnh đặc trưng cho những người dũng cảm đi trên dây qua sông Nilagara hay nhào lộn trên không.
Những người mà ngắm nhìn họ, chúng ta thấy sợ hãi đến tim ngừng cả đập, chúng ta lo sợ cho cuộc sống của họ và không muốn nhìn thấy họ rơi xuống chết. Đôi khi tôi có cảm tưởng là Hâysen đoán biết được những ý nghĩ của tôi về ông ta. Chẳng có bằng cách nào, ông ta trông có vẻ chân thành một cách trơ tráo, có lẽ quan hệ của tôi với ông ta đã làm ông phấn khởi chăng? Tôi cho rằng tôi là người duy nhất trên thế giới này được ông ta tin như thế.
Hâysen là người đã có tuổi, thấp và gầy đét.
Tôi tới đúng lúc ông ta thắng yên cương cho ngựa trong chuồng. Đó là một con ngựa cái nhanh nhẹn và tuyệt đẹp nhưng nó rất sợ ông chủ và căm thù ông ta nữa. Tôi nhận thấy điều ấy qua ánh mắt dè chừng của nó. Không nhìn tôi, Hâysen nói to:
- Đóng cửa lại. Không thấy lạnh à? Đồ quỷ tha ma bắt!
Tôi đóng cửa và nhìn thấy trong chuồng cũng khá ấm áp.
- Tuyết sẽ rơi đấy, - tôi nói - Tôi tin rằng với thời tiết như thế, chắc anh sẽ không đi vào thành phố nữa chứ ông ta cười nhếch mép và cắt ngang lời tôi:
- Chẳng lẽ tuyết làm thay đổi thời tiết sao? Làm sao anh biết là tuyết sắp rơi?
- Trời tối sầm lại và có vẻ ấm lên chút ít...
- Tôi không chịu thua tuyết đâu. - ông ta cười mỉa mai. Tôi có cảm giác là ông ta đang theo dõi nét mặt của tôi. - Mở hộ tôi cái cửa!
Ông ta dắt ngựa ra rồi dựng lại trước bếp.
- Ta vào trong uống chút gì cho ấm người đã.
Tôi đi theo Hâysen vào bếp. Ở đó vợ và con của ông ta đang quấn quýt bên nhau. Người vợ là một phụ nữ có thân hình thon thả, nước da tai tái và sợ chồng đến chết khiếp. Các điền chủ xung quanh đây vẫn kể với nhau rằng Hâysen lấy bà về để bù vào món nợ mà bố bà ta không trả được.
“Lần ấy tôi hiểu rằng đó là thời gian tốt nhất để lấy vợ,” Hâysen vẫn thường nói như vậy.
Đứa con trai nhỏ ngồi trên sân. Người vợ chuẩn bị nước giải khát bằng sữa, trứng và rượu rum. Khi chúng tôi uống xong, Hâysen quỳ xuống trước mặt đứa con. Trong mắt đứa bé toát lên cái gì đó có vẻ căm thù. Đấy là một đứa bé tàn tật. Hàng xóm vẫn bàn tán thà rằng nó chết đi có lẽ đỡ khổ hơn. Nhưng Hâysen yêu con một cách đặc biệt. Ông ta âu yếm bế con trên tay. Thằng bé chỉ trợn tròn đôi mắt nhìn, rồi khóc ré lên khi người mẹ tiến đến gần.
- Cút đi! Cô đừng có quấy rầy chúng tôi...
Người vợ lùi lại và Hâysen chỉ tay vào đứa con, nói một cách huênh hoang:
- Một thằng bé tuyệt diệu, phải không?
Chẳng có ai trả lời ông ta. Hâysen gầm gừ cái gì nghe không rõ trong cổ họng và chơi với con một lúc nữa. Sau đó ông ta đặt con xuống nhà và ra lệnh cho vợ:
- Cô trông lấy nó !
Người vợ gật đầu một cách sợ hãi, đôi mắt lộ rõ nỗi đau khổ và khuất phục.
Chẳng thèm chia tay vợ, ông ta đi ra khỏi bếp.
Tôi theo Hâysen ra ngoài. Chúng tôi ngồi vào xe trượt và lấy chăn trùm lên người. Phía trước chúng tôi là chặng đường khá dài, những sáu dặm trên tuyết. Cơn bão tuyết tới gần.
Hâysen lập tức hiểu ngay tôi nghĩ gì khi thấy tôi nhìn ông ta:
- Bão tuyết tôi cũng không sợ, - ông ta nói khẽ và nhếch mép cười.
Tôi biết rõ rằng chả mấy chốc bão tuyết sẽ đuổi kịp chúng tôi. Tiếng rạn nứt lạo xạo của mặt tuyết đã đóng băng đổ dài theo vó ngựa. Xe trượt lướt trên mặt băng phát ra những âm thanh kỳ quặc.
Chúng tôi đi vòng quanh hàng rào rồi hướng về phía thung lũng đằng xa. Chúng tôi dừng lại trước cửa ngôi nhà cũ của Râyboóc cho ngựa nghỉ ngơi. Ngôi nhà đã lâu không có người ở, cửa khoá chặt. Những cánh cửa sổ được giữ chặt bằng các thanh gỗ đóng đinh chắn ngang.
- Đó là một gia đình xấu xa, bỉ ổi và ngu ngốc. - Hâysen gầm gừ giơ roi ngựa chỉ vào ngôi nhà.
Con trai cả của gia đình Râyboóc thì tôi biết. Đó là một con người tuyệt diệu. Một lần vào mùa thu, anh ta thu hoạch táo chẳng may bị ngã từ trên cây xuống chết. Vợ anh ta muốn làm ăn tiếp tục nhưng đã không cẩn thận vay tiền của Hâysen. Nhờ thế mà ông ta chiếm được cả trang trại này. Tất nhiên đấy không phải trường hợp tội lỗi duy nhất của Hâysen chứ.
Gió đã bắt đầu rít lên. Trên đường xuất hiện thêm nhiều đống tuyết bị đóng băng. Khi đi qua một đống tuyết to lên đến đỉnh thì chiếc xe bị nghiêng và cả hai chúng tôi ngã xuống. Con ngựa sợ hãi hí lên, nhưng Hâysen vẫn cầm chắc dây cương. Chúng tôi rũ tuyết, kéo xe trượt từ trong đống tuyết ra, thắng ngựa, rồi tiếp tục lên đường. Gió rét nổi lên mạnh hơn nữa. Mặt trời lúc nãy còn chiếu, giờ đã bị mây đen che kín.
Trước khi đi tiếp, Hâysen tiến lại gần con ngựa. Thông thường khi giận dữ người ta đánh hay mắng con vật. Nhưng Hâysen thì khác hẳn. Ông ta nắm chặt hai tai ngựa xoáy mạnh làm con vật đáng thương vặn cả người và cúi đầu sát tận đất. Đặc biệt ông ta không hề nói một câu nào.
Con ngựa vùng vằng giận dữ. Lúc này Hâysen mới lấy roi quấy túi bụi vào đầu gối con vật. Sau đó ông ta lại túm lấy tai ngựa vặn và nói:
- Bây giờ chắc mày sẽ không đi nhầm đường nữa. Nói xong ông lên ngồi cạnh tôi. Tôi im lặng. Tôi có thể can thiệp, nhưng có gì đấy nhắc tôi không nên dính vào. Con ngựa đi có vẻ khập khiễng. Song Hâysen thúc nó đi không thương tiếc. Càng bị thúc ngựa càng đi chậm, nên khi chúng tôi tới được văn phòng của Hâysen thì tuyết đã rơi phủ kín mọi nơi.
Tôi chia tay với Hâysen trên bậc thềm rồi đi vào phố giải quyết việc riêng.
Đi một quãng xa tôi nghe thấy Hâysen nói to:
- Ba giờ quay lại đây nhé!
Tôi gật đầu, tuy biết rằng ngày hôm nay chúng tôi không thể quay trở về được. Giải quyết xong mọi việc, tôi đi đến chuồng ngựa của nhà trọ xem tình hình con ngựa. Máu chảy ri rỉ từ chỗ sưng phồng ở đầu gối nó. Bên cạnh bão tuyết nổi lên càng mạnh hơn. Chủ nhà trọ nhổ nước bọt và nói:
- Chân ngựa sưng to lắm. Ngày hôm nay chắc chắn các anh không về nổi đâu.
- Tôi biết thế - tôi trả lời.
- Đồ man rợ - chủ nhà trọ chửi đổng, nhưng tôi biết là ông ta ám chỉ Hâysen.
Trước ba giờ, tôi đã có mặt ớ văn phòng của Hâysen. Đó là một căn phòng sát mái, tối tăm và lạnh lẽo. Ở vào địa vị như thế, Hâysen thừa khả năng có một địa điểm xứng đáng hơn. Khói từ lò sưởi bốc lên mù mịt đến khó thở. Trong phòng chẳng có gì để thông gió. Đồ đạc trong phòng chỉ có một cái bàn, hai cái ghế tựa và một cái két sắt chắc chắn đứng ở góc nhà. Hâysen tin rằng cất tiền ở đây là chắc chắn, còn tôi thì nghĩ chỉ cần tuốcnơvít thông thường cũng mở được.
Tôi gặp Hâysen ở bậc thềm. Nhận ra tôi, ông ta càu nhàu vẻ khó chịu:
- Tôi đi gọi điện thoại một tí. Đường nghe đâu không thể đi nổi.
Hâysen không có điện thoại trong phòng. Mỗi khi cần, ông ta lại xuống nhờ máy của cửa hiệu ở tầng mặt đất. Ông ta giữ thói quen ấy và chẳng bao giờ chịu thay đổi.
- Tôi sẽ đợi trong văn phòng. - Tôi trả lời Hâysen.
Vừa bước vào phòng, tôi vội đến che miệng lò sưởi và tìm cách thông gió. Nhưng chiếc cửa sổ duy nhất đã được đóng chặt bằng đinh. Một lúc sau Hâysen quay lại ...
- Quỷ tha ma bắt những đống tuyết ấy đi? - Hâysen nói với giọng bực tức. - Đường dây không liên lạc được.
- Đường dây nào?
- Điện thoại. Tới trại...
- Anh muốn báo tin rằng...
- Rằng ngày hôm nay tôi không trở về nhà được. Anh sẽ ngủ lại khách sạn.
- Còn anh thì không ư?
- Tôi ngủ ở đây. - ông ta cắt ngang.
Tôi nhìn lại căn phòng một lần nữa. Giường không có, chỉ có hai chiếc ghế tựa. Hâysen đoán được ý nghĩ của tôi.
- Tôi vẫn thường ngủ ở đây, tất nhiên là trên sàn.
Quan tâm đến suy nghĩ bên trong của Hâysen, tôi hỏi:
- Anh định báo cho vợ biết là anh không về chứ gì?
- Ồ, đời nào. Tôi muốn hỏi xem sức khoẻ của thằng bé ra sao...
Có tiếng chân bước thận trọng lên cầu thang.
Hâysen theo dõi và căng mắt nhìn ra cửa. Người đi lên đứng lại trong hành lang tối, chắc là đang tìm nắm đấm cửa. Cánh cửa bỗng mở, và Đin Mácsay bước vào. Nhà của ông ta nằm bên cạnh trại của Hâysen. Đin sống với vợ và năm đứa con trong một ngôi nhà nhỏ được ngăn cách với chuồng ngựa bằng hàng rào gỗ. Gia đình ông ta nghèo và sống vô cùng vất vả, mặc dầu phải làm việc từ sáng đến tối. Đin gầy như cò hương, cổ dài ngoẵng, hai gò má nhô cao, bộ ria phủ kín cả môi trên. Ông ta có đôi mắt chân thành, thật thà nhưng mệt mỏi.
Đin dừng lại trước cửa, hai mắt nhấp nháy, từ từ cởi chiếc khăn quàng cổ đã rách ra. Hai tay đi găng vẫn để nguyên.
- Vào nhanh lên ! Anh nghĩ tôi có lò sưởi ở đây để sưởi ấm cho cả thành phố chăng?
Đin đập đập gót chân vào nhau và đóng cửa lại.
- Xin chào ông Kinchơ, - ông ta cười gượng gạo và sợ hãi nhìn chủ trại.
- Anh muốn gì? - Hâysen hỏi, không thèm chào lại - Anh muốn trả tiền lãi hả?
- Vâng, thưa ông Kinchơ. Nhưng bây giờ tôi không thể trả hết được.
- Lại vẫn bài hát quen thuộc! Thế thì bao nhiêu? - Hâysen hỏi một cách giận dữ.
- Mười một đô la và năm mươi xu...
- Anh nợ hai mươi cơ mà!
- Tôi sẽ trả nốt khi nào gà nhà đẻ trứng.
Hâysen phá lên cười mỉa mai:
- À? Thế là quá kéo dài. Nếu như trang trại của anh đáng giá vài đồng tiền rách thì tôi đã tống cổ anh ra khỏi đó từ lâu rồi, thằng già đểu cáng ạ.
- Xin ông rủ lòng thương, ông Kinchơ. Tôi sẽ trả đến đồng xu cuối cùng. Đin trả lời một cách van xin, cầu khẩn.
Hâysen đặt tay xuống mặt bàn:
- Đồ nói dối! Nào hãy đặt lên bàn xem có bao nhiêu. Cuối tháng này là anh phải trả hết nợ.
Mácsay tiến lên gần bàn. Tôi ngồi cạnh lò sưởi.
Đôi mắt cận thị của Mácsay nhìn Hâysen rồi nhìn tôi. Dễ thấy là ông ta toàn thân lạnh cóng. Ông ta tháo găng tay, và lúc đó hiện rõ đôi tay sần sùi tím ngắt.
Đặt găng tay lên bàn, Mácsay rút từ túi chiếc áo khoác rách ra cái túi nhỏ đựng thuốc lá. Lắc lắc trong túi, Mácsay móc tiền ra. ông ta vừa đặt hai đồng năm mươi xu lên bàn là Hâysen lập tức vồ lấy ngay. Từ trong túi rơi ra một cái gì đấy. Chắc chắn là tờ giấy bạc. Tôi muốn nhắc cho Mácsay biết thì Hâysen đã dùng lòng bàn tay che lại rồi từ từ kéo về phía mình. Khi Hâysen nhấc tay lên thì tờ giấy bạc cũng không còn ở đấy nữa.
Mácsay móc những tờ giấy bạc cũ nát còn lại đưa cho Hâysen, Hâysen tính rất nhanh:
- Mười một đô la và năm mươi xu, đúng rồi. Đợi tí, tôi sẽ viết giấy chứng nhận cho anh. Đừng quên là anh phải trả hết nợ cuối tháng đấy nhé ...
Mácsay thẫn thờ nhìn Hâysen viết giấy chứng nhận. Cất túi thuốc lá vào túi áo khoác, Mácsay đứng chờ. Hâysen xé đôi tờ giấy đưa cho con nợ một nửa.
- Cám ơn ông, - Mácsay khẽ nói.
Hâysen gật đầu.
- Đừng có quên đấy nhé. - Hâysen nhắc lại lần nữa.
- Tôi sẽ cố gắng, thưa ông Kinchơ.
Mácsay quay người đi ra.
- Anh ta đánh rơi cái gì trong túi ra đấy? - Tôi hỏi.
- Một đô la. Thằng ngốc, nó mất một đô la...
- Anh có trả lại cho anh ta không ?
Hâysen cười ngất:
- Sao? Của cải của mình mà không biết giữ gìn, tôi phải trả lại cho nó ấy à? Nó sống khốn khổ như vậy là vì thế...
- Nhưng đồng đô la ấy là của anh ta.
- Hắn nợ tôi nhiều hơn thế nhiều.
- Thế cũng được, nhưng anh sẽ ghi thêm một đô la vào số tiền trả rồi.
- Thế anh cho tôi là thằng ngu à?
- Anh ta có thể buộc anh vào tội ăn trộm, - tôi nói mặc dù biết sẽ chẳng làm cho Hâysen nao núng.
Tôi thấy rõ tôi đã đem lại niềm vui cho Hâysen khi tôi tỏ ý kinh tởm về ông ta.
- Nếu như hắn không là thằng ngốc thì hắn đã không trả tám mươi đôla tiền lãi hàng năm vì nợ bốn trăm đôla. - Hâysen trả lời với giọng kẻ chiến thắng.
Tôi tò mò không hiểu anh ta có quay lại không khi biết mất tiền.
- Ngoài ra, hắn còn nói dối tôi nữa. Hắn nói có mười một đô la và năm mươi xu thôi mà. - Hâysen tiếp tục. Sau đó Hâysen cúi xuống viết cái gì đó trên bàn.
Tôi vẫn ngồi chăm chú theo dõi. Bỗng tôi nghe tiếng chân trên cầu thang.
Mácsay bước vội vào phòng với nét mặt hốt hoảng, ông ta chăm chú nhìn lên sàn, nhìn tôi, nhìn lên bàn rồi nhìn Hâysen.
- Tôi đánh mất một đôla, - ông ta nói. - Chắc chắn là tôi đánh rơi nó trong phòng này.
Hâysen cau mặt.
- Rõ ràng anh chỉ có mười một đôla và năm mươi xu.
- Đó không phải là đồng đôla của tôi...
- Anh nghĩ là tôi tin anh à? Ai có thể đưa cho anh một đôla? Có nghĩa là lúc nãy anh lừa dối tôi?
- Không phải tiền của tôi. Mácsay nhắc lại. Tôi phải mua thuốc hộ người khác.
- Thế anh nghi cho tôi ăn cắp của anh phải không?
Mácsay buông thõng tay một cách bất lực.
- Không, không, làm sao tôi dám nghi như thế được - Mácsay nhìn quanh một lúc rồi lắp bắp. Có thể là tôi đánh rơi ở chỗ khác...
Mácsay quay người và cúi đầu ủ rũ đi ra. Hâysen nhìn tôi, nở nụ cười đắc thắng.
- Anh đã thấy chưa ? - Ông ta nói.
Tôi rời khỏi văn phòng đi về khách sạn. Dọc đường tôi ghé qua hiệu thuốc mua ít thuốc ngủ.
Mácsay đang đứng cạnh quầy nói chuyện với người bán thuốc.
Bỗng tôi nghe thấy người bán hàng trả lời:
- Tôi không thể giúp anh được đâu, Mácsay ạ. - Bao nhiều lần anh không trả tiền tôi rồi...
- Biết làm thế nào bây giờ khi anh không tin tôi.
Mácsay buồn rầu nói rồi bỏ đi.
Nằm mãi trong khách sạn, tôi không tài nào ngủ được Tôi luôn nghĩ đến Hâysen.
Sang ngày thứ ba, bão tuyết đã tan. Tôi gặp Hâysen ở bưu điện.
- Chúng ta đi chứ ? - Ông ta nói.
- Có đi nổi không?
- Chắc chắn là có. - Ông trả lời và cười vui vẻ.
- Tại sao anh lại vội vã như vậy?
- Chẳng sao cả. Tôi nhớ thằng bé quá.
Khi chúng tôi lên đường thì con ngựa vẫn còn khập khiễng. Nhưng đi được chừng hai ba dặm, nó bắt đầu phi nước đại. Như mọi lần, sau cơn bão tuyết mặt trời chiếu sáng. Ánh sáng chiếu xuống nền tuyết trắng xoá phản chiếu lại chói chang. Cành cây hàng rào, đường dây điện... tất cả đều phủ một lớp tuyết mỏng. Rừng thông dưới thung lũng xanh thẫm, trông từ trên cao xuống giống như một bàn cờ tây ô trắng ô đen chen nhau. Dọc đường, Hâysen kể nhiều về đứa con. Còn tôi chỉ im lặng.
Khi dừng lại trước nhà, Hâysen vui vẻ mời tôi.
- Nào, chúng ta hãy vào nhà làm miếng gì cho ấm người đã. Để xem chàng công tử của tôi đang làm gì.
Tôi theo Hâysen vào nhà.
Mùa đông, bếp của Hâysen cũng là nhà ăn, và phòng ngủ, vì ông ta rất tiết kiệm củi đốt lò sưởi.
Bước vào nhà thì thấy vợ Hâysen từ giường nhổm dậy. Tôi không thể nhận ra chị ta nữa. Trông chị ta thiểu não, rũ rượi đau khổ.
- Chúng ta đã ở nhà. Con đâu? - Hâysen nói giọng oang oang.
Vợ nhìn chồng và bỗng môi rung rung. Chị mơ mộng mấp máy không ra lời rồi lại mím môi lại.
Cố gắng lắm mãi sau chị Mácsay mới nói được.
- Con... chết rồi...
Trong bếp sự sống như ngưng lại. Tôi nhìn lên thân hình thấp lùn của Hâysen, lúc này tôi có cảm giác là ông ta còn lùn thêm nữa. Mặt ông ta xám ngắt như người chết. Chỉ có các thớ thịt trên má khẽ động đậy.
- Con đâu! - Hâysen hỏi với giọng người cúm.
Người vợ nhìn lên giường. Hâysen nhìn theo vợ.
Bước mấy bước loạng choạng tới gần giường chúng tôi nhìn thấy thân hình co quắp của đứa bé. Chắc chị ta nằm ôm sưởi ấm thằng bé cho tới tận lúc chúng tôi về. Chiếc giường ngổn ngang chăn gối nhàu nát, chứng tỏ chị ta đã trải qua một tấn thảm kịch lớn.
Hâysen ngắm nhìn con, nhưng không động vào người nó. Ông ta giận dữ nhìn vợ.
- Em đã làm tất cả những gì em có thể.
- Cô đã làm những gì? - Ông ta hỏi.
- Con bị ho, - người vợ trả lời. - Em biết là con bị sưng phổi. Anh còn nhớ... em đã bảo anh mua thuốc cho con, nhưng anh nói là không cần, rồi con sẽ khỏi. Người vợ tiến tới cửa sổ.
- Em đã nhờ vợ Mácsay giúp đỡ. Cách đây không lâu con chị ấy cũng bị sưng phổi. Chồng chị ấy có việc phải đi vào thành phố. Chị ấy hứa là sẽ mua hộ thuốc. Em không dám nói là cho con chúng ta. Vì như thế chắc họ sẽ không mua hộ. Em có đưa cho chị ấy một đôla. Ngày hôm qua Mácsay trở về. Lúc đó tình hình của con đã rất nguy kịch. Em tới ngay nhà họ hỏi thuốc, Mácsay chỉ nhìn em rồi nói là không có.
Người vợ im lặng một chút rồi nói tiếp:
- Khi Mácsay trở về cũng còn chưa muộn lắm, nhưng sau đó thì không còn kịp nữa rồi...
Trông Hâysen như hoá đá. Ông ta đờ đẫn nhìn căn phòng, sau đó dần dần hồi tỉnh lại. Chắc là ông ta đã cảm thấy mối liên quan gì đó.
- Tại sao hắn không mang thuốc về? - Hâysen hỏi thầm.
- Bác sĩ không muốn bán chịu cho anh ta.
Nét mặt của Hâysen trở nên nhúm nhó, hai tay giơ lên, Hâysen thét to:
- Còn tiền? Chuyện gì đã xảy ra với đồng đôla?
- Mácsay nói rằng anh ta... đánh mất... trong phòng của anh.
Lão keo kiệt loạng choạng ngã dựa vào bức tường.
Da ông ta trông như da ngỗng, và trên mặt ông ta in rõ những nét nhăn nhó kinh khủng. Ông ta mở to mồm và rú lên khủng khiếp.
ĐINH VIỆT TÚ dịch.
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com