chan_dung-ke_si

NGƯỜI TRONG BAO - Truyện ngắn Chekhov

25-10-2024

Lượt xem 2263

Đánh giá 4 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Chekhov

NGƯỜI TRONG BAO - Truyện ngắn Chekhov

Nhà văn Chekhov (1860-1904)

Chân Dung Kẻ Sĩ: Người trong bao (The Man in a Case) là phần đầu, cùng với lần lượt hai truyện ngắn tiếp theo gồm "Gooseberries" và "About Love", thuộc một tác phẩm mà sau này được người ta gọi là “tiểu bộ ba”* của nhà văn vĩ đại nước Nga Anton Chekhov.

Bản dịch dưới đây, để bạn đọc tiện tra cứu, Chân Dung Kẻ Sĩ đã hiệu chỉnh các tên riêng theo bản dịch từ tiếng Nga sang tiếng Anh của dịch giả người Anh Constance Garnett (1861-1946).

CÓ HAI NGƯỜI ĐI SĂN ra khỏi rừng quá muộn đã phải dừng lại nghỉ đêm trong gian nhà kho của ông trưởng xóm Prokofy ở tận cuối làng Mironositskoe . Đó là bác sĩ thú y Ivan Ivanovitch và giáo viên trường phổ thông Burkin. Ivan Ivanovitch có cái họ khá lạ tai, một họ kép là Tchimsha-Himalaisky, họ ấy xem ra không thích hợp gì lắm với ông và khắp cả tỉnh này đều quen gọi ông đơn giản là Ivan Ivanovitch. Ông ở trại nuôi ngựa giống gần thành phố và vừa rồi đến đây đi săn để hưởng khí trời trong lành. Còn giáo viên Burkin thì hè nào cũng là khách của bá tước P. và từ lâu đã rất quen thuộc với vùng này.

Họ không ngủ. Ivan Ivanovitch, một ông già cao gầy, ria mép dài, thì ngồi phía ngoài cửa và ngậm tẩu thuốc lá; ánh trăng chiếu lên người ông. Còn Burkin thì nằm trên đống cỏ khô, trong bóng tối không nhìn thấy rõ ông.

Họ kể cho nhau về đủ thứ chuyện. Đại loại như họ nói rằng bà Mavra, vợ của ông trưởng xóm, một phụ nữ khỏe mạnh không đến nỗi ngu đần, nhưng cả đời không đi ra khỏi làng, chưa từng nhìn thấy thành phố, đường sắt, và chục năm trở lại đây lúc nào cũng ngồi ru rú bên bệ lò, chỉ buổi tối mới đi ra ngoài nhà.

- Ồ, thế thì có gì là lạ đâu? - Burkin nói. - Trên thế giới này chẳng thiếu cái thứ người bản tính vốn ưa sống đơn độc như con ốc, con sên lúc này cũng cố thu mình vào trong vỏ. Có lẽ đó là một thứ di truyền lưu lại từ thời xa xưa khi tổ tiên con người chưa phải là một động vật sống trong xã hội mà sống đơn độc trong hang hốc của mình, cũng có thể đó là một dạng của tính cách con người - ai mà biết được? Tôi không phải nhà khoa học tự nhiên, và đề cập tới những vấn đề ấy cũng chẳng phải là việc của tôi; tôi chỉ muốn nói rằng những người như bà Mavra không phải là hiện tượng hiếm thấy. Đây này, chẳng phải tìm đâu xa, cách đây khoảng hai tháng, ở thành phố có một người mới chết tên là Byelikov, bạn đồng nghiệp của tôi, một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp. Chắc là anh cũng đã nghe tên ông này rồi. Hắn ta nổi tiếng về điều là lúc nào cũng vậy, thậm chí cả vào khi rất đẹp trời, hắn đều đi giày cao su, cầm ô và nhất thiết là mặc áo bành tô ấm cốt bông. Ô hắn để trong bao, chiếc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao bằng da hươu, và khi rút chiếc dao nhỏ để gọt bút chì thì chiếc dao ấy cũng đặt trong bao; cả bộ mặt hắn ta nữa dường như cũng ở trong bao vì lúc nào hắn cũng giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên. Hắn đeo kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông, và khi ngồi lên xe ngựa thì bao giờ cũng cho kéo mui lên. Nói tóm lại con người này lúc nào cũng có khát vọng mãnh liệt thu mình vào trong một cái vỏ, tạo ra cho mình một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài. Cuộc sống làm hắn khó chịu, sợ hãi, buộc hắn phải thường xuyên lo âu và có lẽ như để bào chữa cho thái độ nhút nhát, ghê tởm đối với hiện tại, lúc nào hắn cũng ngợi ca quá khứ, ngợi ca những gì không bao giờ có thật; mấy thứ ngôn ngữ cổ mà hắn dạy đối với hắn thật ra cũng chỉ là một thứ giày cao su, một thứ ô che mà nhờ đó hắn có thể trốn tránh được cuộc sống thực.

- Ồ, tiếng Hy Lạp nghe thật là tuyệt vời, êm tai, - hắn ta nói với vẻ ngọt ngào; và như để chứng minh cho lời nói của mình, hắn nheo mắt lại, giơ một ngón tay lên và thốt ra tiếng: - Anthropos(1)!

Cả ý nghĩ của mình Byelikov cũng cố giấu vào bao. Đối với hắn, chỉ có những chỉ thị, thông tư, những bài báo cấm đoán điều này điều nọ mới là những cái rõ ràng. Khi một thông tư cấm học sinh ra khỏi nhà sau 9 giờ tối hay một bài báo nào đó ngăn cấm tình yêu nhục thể thì những điều đó là rất rạch ròi, rõ ràng với hắn; cấm rồi thế là đủ. Hắn bao giờ cũng cảm thấy có cái gì đó mờ ám, khó nói, đáng ngờ vực chứa đựng trong sự cho phép làm điều này điều nọ. Khi người ta đồng ý cho một đoàn kịch, một phòng đọc sách hay quán trà trong thành phố được phép hoạt động thì hắn lắc đầu và nói nhỏ:

- Cái đó đã đành, hay thì hay thật, nhưng nhỡ lại xảy ra chuyện gì.

Mọi chuyện vi phạm khuôn phép, hơi trái với lẽ thường đều làm hắn rầu rĩ, mặc dầu thật ra những chuyện đó chẳng liên quan gì đến hắn cả. Nếu có bạn đồng nghiệp nào đi muộn lễ nhà thờ, hay có tin đồn về một trò nghịch ngợm nào đấy của học sinh, hay người ta thấy có bà giáo nào đó đi chơi khuya với một sĩ quan thì hắn ta lo lắng ra mặt, luôn miệng nói nhỡ lại xảy ra chuyện gì. Trong các buổi họp hội đồng giáo viên, quả tình hắn đã làm khổ chúng tôi bằng thái độ thận trọng đầy đa nghi, bởi những suy luận đúng theo kiểu thu mình trong vỏ ốc của hắn rằng bọn trẻ ở các trường nam nữ rất hư hỏng, rằng vào giờ học các lớp rất ồn ào, nhỡ ra lại đến tai ban giám hiệu, nhỡ ra lại xảy ra chuyện gì và nếu đuổi được thằng Petrov ra khỏi lớp hai và thằng Yegorov ra khỏi lớp bốn thì thật là hay. Thế rồi sao? Bằng những tiếng thở dài, những lời than vãn, với cặp kính đen trên gương mặt nhợt nhạt, nhỏ bé - anh biết không, bé choắt lại như mặt chồn - hắn đã lấn át tất cả chúng tôi, và chúng tôi phải nhượng bộ hắn, phải bớt điểm hạnh kiểm của Petrov và Yegorov, bắt giam cả hai rồi cuối cùng thì đuổi chúng ra khỏi trường. Hắn có một thói quen kỳ quặc là đi hết nhà này đến nhà khác nơi bọn chúng tôi ở. Hắn đến nhà giáo viên nào đó chẳng hạn, kéo ghế ngồi, chẳng nói chẳng rằng, mắt nhìn chung quanh như tìm kiếm vật gì. Hắn cứ ngồi im như phỗng thế rồi độ một giờ sau thì cáo từ. Hắn gọi đó là “cách duy trì những mối quan hệ tốt với bạn đồng nghiệp”. Quả tình đi đến nhà chúng tôi và ngồi im như thế là một việc nặng nề với hắn, nên hắn đến nhà chúng tôi chỉ vì coi đó là nghĩa vụ bạn bè. Bọn giáo viên chúng tôi đều sợ hắn. Thậm chí cả hiệu trưởng cũng sợ hắn. Anh thử nghĩ mà xem, giáo giới chúng tôi là bọn người biết suy nghĩ, rất nghiêm chỉnh, được giáo dục qua các tác phẩm của Turgenev và Shtchedrin(2), thế mà cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy đã khống chế cả trường học chúng tôi suốt mười lăm năm trời. Mà đâu phải chỉ có trường học! Cả thành phố nữa ấy! Các bà các cô tối thứ bảy không dám tổ chức diễn kịch tại nhà nữa, sợ rằng nhỡ hắn biết thì lại phiền, giới tu hành khi có mặt hắn không dám ăn thịt và đánh bài. Dưới ảnh hưởng của những kẻ như Byelikov, trong vòng mươi, mười lăm năm trở lại đây, dân chúng trong thành phố đâm ra sợ tất cả. Sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, giúp đỡ người nghèo, dạy học chữ...

Ivan Ivanovitch húng hắng ho, như muốn nói điều gì, nhưng rồi thoạt đầu thì hút thuốc, nhìn lên trăng sau đó mới nói nhát gừng:

- Phải rồi. Mang tiếng là những người biết nghĩ, có học, đọc Shtchedrin và Turgenev, Buckle(3) và các thứ sách khác, thế rồi phải im lặng chịu đựng, quy phục... Đấy, việc đời là thế đấy.

- Byelikov ở ngay cùng một nhà với tôi, - Burkin nói tiếp, cùng một tầng, cửa đối diện nhau. Tôi với hắn vẫn thường xuyên giáp mặt nhau, và tôi biết rõ sinh hoạt ở nhà của hắn. Ở nhà hắn cũng sống thế thôi: cũng vẫn mặc áo khoác ngoài, đội mũ, đóng cửa, cài then, có đủ sự ngăn cấm và hạn chế lúc này cũng sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì. Ăn chay thì có hại mà thịt thì không nên; vì sợ người ta có thể kháo rằng Byelikov không chịu ăn chay nên hắn ăn cá rô với mỡ bò, một món ăn không phải là chay nhưng cũng không thể gọi là thịt được. Hắn không nuôi đầy tớ gái vì sợ người khác có thể dị nghị. Hắn nuôi ông già đầu bếp Afanasy, tuổi chừng sáu mươi, say rượu luôn luôn, dở khôn, dở dại, trước đây đã từng làm lính hầu và cũng biết nấu nướng qua loa. Lão già Afanasy này thường đứng khoanh tay ở cửa, vừa thở dài vừa lẩm bẩm mỗi một câu:

- Người ở đâu ra bây giờ mà lắm thế!

Buồng ngủ của Byelikov chật như cái hộp, giường nằm thì móc màn. Khi nằm ngủ, hắn kéo chăn trùm đầu kín mít, trong buồng nóng bức, ngột ngạt, gió thổi ngoài cửa sổ đóng kín mít, lửa reo trong lò, có tiếng thở dài nghe dễ sợ vọng lên từ dưới bếp...

Nằm trong chăn hắn cảm thấy rờn rợn. Hắn sợ nhỡ ra lại có chuyện gì, nhỡ lão Afanasy lại cắt cổ hắn, sợ kẻ trộm chui vào nhà, sau đó suốt đêm hắn nằm mơ toàn những điều khủng khiếp; và buổi sáng khi cùng đi đến trường với tôi, mặt hắn tái nhợt, rầu rĩ. Có thể thấy rõ rằng cái trường học đông đúc mà hắn đang bước tới kia thật là đáng sợ, trái ngược với cả con người hắn, và việc đi cạnh tôi đối với kẻ bản tính vốn cô độc như hắn quả là nặng nề.

- Độ này các lớp học ồn quá, - hắn nói như để tìm nguyên nhân cho tâm trạng nặng nề của hắn. - Thật chẳng ra làm sao nữa.

Thế mà vị giáo viên dạy tiếng Hy Lạp, người mang bao ấy, anh biết không, suýt nữa thì đã lấy vợ đấy.

Ivan Ivanovitch liếc nhanh vào nhà kho và nói:

- Nói đùa đấy chứ!

- Không đâu, suýt nữa hắn lấy vợ đấy, thế mới lạ chứ. Dạo ấy người ta bổ đến trường tôi một thầy giáo mới dạy lịch sử và địa lý, tên là Milhail Savvitch Kovalenko, người xứ Tiểu Nga. Anh ta không đến một mình mà với chị là Varinka. Anh ta còn trẻ, cao lớn, nước da bánh mật, đôi tay to tướng, trông mặt cũng có thể đoán rằng anh ta có giọng trầm, và quả thật anh ta nói giọng ồm ồm như phát ra từ thùng gỗ. Varinka thì không còn trẻ nữa, tuổi chừng ba mươi, người cũng cao to, dáng thẳng, lông mày đen, má hồng - nói tóm lại không ra vẻ một cô gái mà như một thứ mứt trái cây, tính tình nhí nhảnh, hay nói, hay cười, hay hát những bản tình ca xứ Tiểu Nga. Hơi một tý là cười phá lên ha-ha-ha! Tôi còn nhớ lần làm quen kỹ càng đầu tiên với chị em nhà Kovalenkos là trong buổi tiệc mừng sinh nhật ông hiệu trưởng. Giữa đám giáo viên mặt mày nghiêm nghị, nặng nề, buồn tẻ, những người đến dự lễ sinh nhật cũng chỉ vì nghĩa vụ, tôi bỗng thấy nữ thần Aphrodite tái sinh từ bọt sóng: Varinka đi lại, tay chống nạnh, cười, hát, nhún nhảy liên hồi... Chị ta say sưa hát bài “Gió cuốn”(4), tiếp đó hát một bản tình ca rồi lại hát nữa, làm tất cả chúng tôi cứ ngây cả ra, kể cả Byelikov nữa. Hắn ta sán lại ngồi cạnh Varinka và mỉm cười cầu tài nói:

- Tiếng Tiểu Nga của chị nghe cũng êm dịu, thánh thót như tiếng cổ Hy Lạp.

Câu nói đó làm cho Varinka hởi lòng hởi dạ, cô ta bắt đầu kể cho Byelikov nghe với giọng rạch ròi, say sưa rằng cô ta có một trang ấp riêng ở huyện Gadyatchsky, ở đấy cô ta còn mẹ, ở đấy có nào lê, nào dưa hấu, nào bí ngô, người Tiểu Nga gọi bí ngô là kabaks(5), còn quán rượu lại gọi là shinki, súp củ cải đỏ nấu lẫn với rau xanh “ngon tuyệt là ngon, ngon kinh khủng”.

Chúng tôi ngồi nghe họ nói chuyện và tất cả bỗng cùng nảy ra ý nghĩ.

- Này, ghép họ thành đôi cũng hay đấy chứ, - bà vợ ông hiệu trưởng nói nhỏ với tôi.

Không hiểu sao chúng tôi đều chợt nhớ rằng Byelikov không có vợ, và bây giờ chúng tôi mới lấy làm lạ rằng bấy lâu nay chúng tôi đã bỏ qua, đã hoàn toàn không để ý đến chi tiết quan trọng đến thế trong đời hắn. Nói chung là hắn đối xử với phụ nữ thế nào, hắn có thái độ thế nào đối với vấn đề quan trọng đó? Trước đây chuyện đó chẳng làm chúng tôi quan tâm chút nào, có thể là vì chúng tôi cũng không thể tưởng tượng được rằng cái người bất cứ thời tiết nào cũng đi giày cao su và nằm màn ấy lại có thể biết yêu.

- Anh ta thì đã ngoại tứ tuần từ lâu, còn cô ả thì đã ba chục xuân xanh rồi... - bà vợ ông hiệu trưởng giải thích ý nghĩ của mình. - Tôi có cảm giác rằng cô ta cũng sẵn sàng lấy Byelikov đấy.

chelovek_v_futlare

Tượng Byelikov tại ngôi trường nhà văn Chekhov học thời niên thiếu. Từ năm 1975, ngôi trường đã trở thành bảo tàng văn học Chekhov, thường được biết đến với tên Chekhov Gymnasium.

Ở tỉnh lẻ chúng tôi, người ta đã làm đủ chuyện vô bổ, ngu xuẩn vì quá buồn tẻ. Mà điều đó xảy ra chỉ vì những việc cần làm đã không được ai ngó ngàng tới. Chẳng hạn, hà cớ gì mà tự nhiên chúng tôi lại thấy cần phải tìm vợ cho Byelikov, một kẻ không ai có thể hình dung được là có vợ? Bà vợ ông hiệu trưởng, bà vợ ngài thanh tra và tất cả các bà trong trường chúng tôi đều hồ hởi hẳn lên, thậm chí trông như còn đẹp ra nữa, hệt như bất ngờ tìm được mục đích cuộc đời. Bà vợ ông hiệu trưởng mua vé cả lô trong rạp hát, và thế là chúng tôi thấy Varinka, tay cầm quạt, mặt mày tươi tỉnh, rạng rỡ đang ngồi cạnh Byelikov, nhỏ bé, dúm dó, co ro như thể người ta vừa khiêng hắn từ nhà đến trong một cái lồng. Có lần tôi tổ chức tối liên hoan thân mật, thì các bà đòi tôi thế nào cũng phải mời cả Byelikov và Varinka nữa. Nói tóm lại là cả một guồng máy lớn đã chạy. Hóa ra là Varinka cũng không phản đối gì chuyện lấy chồng. Cô ta sống với em trai chẳng lấy gì làm vui vẻ, hai chị em cứ cãi vã, chửi bới nhau suốt ngày này qua ngày khác. Đây, đại loại như thế này: Kovalenko đi ngoài phố, người cao lớn, khỏe mạnh, mặc áo thêu, tóc lòa xòa trước trán dưới vành mũ, một tay cầm mấy quyển sách, tay kia cầm một cái gậy to đầy mắt. Đi phía sau là Varinka, tay cũng cầm sách.

- Mihalik này, cuốn đó cậu đã đọc đâu! - Varinka nói rất to. - Tôi đã nói với cậu rồi mà, thề rằng là cậu chưa hề đọc cuốn đó!

- Thì tôi đã nói là tôi đọc rồi mà! - Kovalenko nói như gào lên, đập mạnh gậy xuống vỉa hè.

- Trời, sao lại thế được hả Mihalik! Cậu bực tức cái gì mới được chứ, vì chuyện này của chúng ta là chuyện có tính nguyên tắc cơ mà!

- Thì tôi đã nói với chị là tôi đọc rồi mà! - Kovalenko lại gào lên to hơn.

Ở nhà thì như người dưng nước lã, cãi nhau suốt ngày. Sống như thế thì chắc là phát ngấy lên được, ai cũng muốn được sống riêng rẽ, mà tuổi tác thì cũng chẳng còn trẻ trung gì nữa. Đến nước ấy thì chẳng còn thì giờ đâu mà kén chọn, lấy ai cũng được, thậm chí cả giáo viên dạy tiếng Hy Lạp. Tiện thể, cũng nên nói thêm rằng nói chung là cánh đàn bà con gái nước ta cũng có cần biết là lấy người thế nào đâu, chỉ cần lấy chồng thôi. Dù sao đi nữa thì Varinka vẫn bắt đầu tỏ rõ mối cảm tình của mình đối với Byelikov.

Còn Byelikov thì sao? Hắn ta lui tới nhà chị em Kovalenko cũng như lui tới nhà chúng tôi thôi. Tới đó, ngồi cũng không nói nửa lời. Hắn thì ngồi im còn Varinka thì hát bài “Gió cuốn” cho hắn nghe hay mơ màng nhìn hắn bằng cặp mắt đen của mình hoặc bất chợt cười phá lên:

- Ha-ha-ha!

Trong chuyện tình ái, nhất là trong hôn nhân, sự xúi bẩy của người ngoài đóng vai trò khá quan trọng. Mọi người, bạn đồng nghiệp cũng như các bà, đều thuyết phục Byelikov rằng hắn cần phải lấy vợ, rằng đời hắn chẳng còn việc gì đáng làm hơn là lấy vợ, tất cả chúng tôi đều chúc tụng hắn, nói với hắn đủ thứ chuyện tầm phào bằng giọng thật là trịnh trọng, đại loại như hôn nhân là một việc hệ trọng, thêm nữa Varinka cũng không đến nỗi xấu, tính tình hấp dẫn, cô ta lại là con gái một viên chức bậc năm, có trang ấp riêng, và điều chủ yếu là cô ta là người đàn bà đầu tiên đối xử dịu dàng, chân thành với hắn, - đầu óc hắn quay cuồng và hắn quyết định rằng quả thật là hắn cũng cần phải lấy vợ.

- Có thế mới lột được đôi giày cao su và cái ô của hắn, - Ivan Ivanovitch nói chen vào.

- Anh tưởng thế, chứ có lột nổi mấy thứ đó đâu! Hắn đặt ảnh Varinka lên bàn, thường sang nhà tôi nói chuyện về Varinka, về cuộc sống gia đình, về điều rằng hôn nhân là một việc quan trọng, hắn hay đến chơi nhà Kovalenko nhưng cung cách sống của mình thì hắn không thay đổi chút nào. Ngược lại thế nữa, quyết định lấy vợ tác động lên hắn một cách bệnh hoạn đến mức hắn gầy gò hẳn đi, mặt mày nhợt nhạt, và hình như là lại càng thu mình sâu hơn vào trong bao của hắn.

- Tôi cũng thích Varinka, - hắn vừa nói với tôi, vừa khẽ nhếch mép cười gượng gạo. - Tôi biết rằng ai ai cũng phải lấy vợ lấy chồng, nhưng... chuyện này, anh biết không, đã xảy ra hơi đột ngột quá... Cần phải cân nhắc một chút.

- Còn cân nhắc cái gì mới được chứ, - tôi nói với hắn. - Lấy thì lấy quách, thế là xong.

- Không được, hôn nhân là một việc hệ trọng, trước tiên còn phải cân nhắc mọi phận sự, nghĩa vụ... để sau này khỏi xảy ra điều gì đáng tiếc. Chuyện đó làm tôi lo lắng lắm, dạo này đêm nào tôi cũng thức trắng. Thú thật rằng quả là có điều tôi cũng sợ: hai chị em cô ấy có lối nghĩ hơi khác thường, cung cách tư duy của họ là lạ làm sao ấy, tính tình thì sôi nổi thái quá. Lấy cô ấy rồi liệu sau này có gì hay ho không khi phải rơi vào môi trường như thế.

Và hắn không ngỏ lời cầu hôn, hắn cứ lần lữa mãi làm cho bà vợ ông hiệu trưởng và các bà trong trường chúng tôi đều thấy phát bực lên. Lúc nào hắn cũng đắn đo suy tính những phận sự, nghĩa vụ tương lai và đồng thời hầu như ngày nào hắn cũng đi chơi với Varinka, có lẽ hắn nghĩ rằng ở hoàn cảnh của hắn, cần phải làm như thế. Hắn cũng hay đến nhà tôi để bàn về cuộc sống gia đình. Xem ra thì cuối cùng chắc là hắn đã ngỏ lời cầu hôn và sẽ lại có thêm một đám cưới trong số hàng nghìn đám cưới vô bổ ngu xuẩn vẫn diễn ra ở ta vì buồn tẻ, vô công rồi nghề, nếu nửa chừng không bất ngờ xảy ra một vụ bê bối kolossalische(6). Cần phải nói rằng em của Varinka ngay từ ngày đầu tiên quen biết Byelikov đã có ác cảm với hắn và không thể nào chịu nổi hắn.

- Tôi không hiểu, - anh ta nhún vai nói với chúng tôi. - Tôi không thể hiểu nổi, vì sao các ngài lại chịu đựng nổi cái tên mách lẻo, cái mồm ton hót bẩn thỉu ấy. Ô, các ngài, thế mà các ngài cũng sống được trong cái bầu không khí ngột ngạt, tởm lợm này. Chẳng lẽ các ngài lại là thầy giáo, là nhà sư phạm ư? Các ngài chỉ là những kẻ tranh giành cố leo lên bực thang công danh, nhà trường của các ngài không phải là lâu đài khoa học mà chỉ là nơi chia nhau tước vị, bốc mùi chua loét như trong đồn cảnh sát. Không đâu các ông ơi, tôi cố sống với các ông ít năm nữa rồi cũng đến bỏ về làng tôi thôi, tôi sẽ đi bắt tôm, và dạy người Tiểu Nga học.

Cũng có khi anh ta cười sằng sặc, cười đến chảy nước mắt, rồi lúc thì cất giọng ồm ồm, lúc thì the thé giọng mũi hỏi tôi, tay khoa lên:

- Hắn đến ngồi nhà tôi mần chi? Hắn cần chi nạ? Cứ ngồi mà giương mắt ra thế!

Thậm chí anh ta chỉ còn đặt tên cho Byelikov là “kẻ phú hào hoặc là kẻ sống bám vào người khác”(7). Cũng dễ hiểu vì sao chúng tôi cũng tránh nói với anh ta rằng chị Varinka của anh ta sắp sửa lấy “con nhện”*** ấy. Có lần khi bà vợ ông hiệu trưởng nói xa nói gần với anh ta rằng kể cũng tốt nếu vun vén cho chị anh ta đi lấy một người đứng đắn, ai cũng vì nể như Byelikov thì anh ta nhăn mặt và càu nhàu:

- Chẳng phải việc của tôi. Chị ấy có đi lấy rắn rết đi nữa tôi cũng mặc, tôi không ưa xen vào việc riêng của người khác.

Bây giờ anh hẵng nghe chuyện gì xảy ra tiếp nhé. Có một cậu ngỗ nghịch nào đó đã vẽ một bức tranh châm biếm: Byelikov đang đi, chân xỏ trong giày mưa, quần túm ống, tay cầm ô, tay khoác tay Varinka; bên dưới bức tranh là dòng chữ “Một người si tình”. Anh biết không, đường nét vẽ thật là sắc sảo, độc địa. Người vẽ chắc không phải chỉ làm việc một buổi tối vì tất cả giáo viên ở hai trường nam nữ, giáo viên chủng viện, các viên chức đều nhận được mỗi người một bản. Cả Byelikov cũng nhận được. Bức tranh châm biếm đã gây cho hắn một ấn tượng nặng nề.

Chúng tôi cùng ra khỏi nhà, - đó là vào ngày mùng một tháng Năm, một ngày chủ nhật, tất cả giáo viên và học sinh chúng tôi đã hẹn gặp nhau ở trường rồi sau đó cùng đi ra ngoài thành phố vào rừng chơi, chúng tôi đi ra và thấy mặt hắn xanh mét, ảo não hơn cả mây đen.

- Sao lại có những người xấu xa, ác độc đến thế nhỉ? - hắn làu bàu nói, môi run run.

Trông vẻ mặt hắn tôi cũng phải thương hại. Chúng tôi đang đi thì, anh có thể tưởng tượng được không, bỗng thấy Kovalenko phóng xe đạp qua, đi sau anh ta là Varinka, cũng ngồi xe đạp, mặt mày ửng đỏ, trông mệt mỏi, mà vẫn vui vẻ hớn hở.

- Chúng tôi vượt lên trước nhé, - cô ta gào to. - Trời hôm nay đẹp thật, đẹp tuyệt, đẹp ghê gớm!

Cả hai người đi khuất. Mặt Byelikov đang từ xanh mét chuyển sang trắng bệch, hắn ngẩn người ra. Hắn đứng lại và nhìn tôi...

- Xin phép hỏi anh, đó là cái gì vậy? - hắn hỏi. - Hay có thể là thị giác đánh lừa tôi? Chẳng lẽ giáo viên và đàn bà con gái lại có thể cưỡi xe đạp, làm như thế coi sao tiện?

- Có gì mà không tiện? - tôi đáp. - Ai muốn đi thì cứ tha hồ mà đi.

- Hừ, sao lại có thể thế được? - hắn kêu lên, sửng sốt thấy tôi vẫn bình thản như không. - Anh nói cái gì lạ vậy?

Hắn thảng thốt đến mức không muốn đi chơi nữa và bỏ về nhà.

Suốt ngày hôm sau lúc nào hắn cũng bực dọc xoa tay toàn thân run lên; trông mặt cũng biết là hắn đang thấy khó chịu trong người lắm. Hắn bỏ buổi lên lớp, và đó là điều xưa nay hắn chưa từng làm. Trưa hắn cũng không ăn gì. Chập tối hắn mặc áo ấm hơn bình thường một chút mặc dù lúc đó là tiết trời mùa hạ, rồi lần mò đến nhà Kovalenko. Varinka đi vắng, hắn chỉ gặp người em.

- Xin mời ông ngồi xuống cho, - Kovalenko lạnh lùng nói, đôi lông mày nhíu lại, anh vừa nghỉ ngơi sau bữa ăn trưa muộn màng, nét mặt còn đang ngái ngủ, trong người đang rất bực bội.

Byelikov ngồi yên, chẳng nói chẳng rằng chừng độ mười phút rồi lên tiếng:

- Tôi tìm đến anh để giãi bày tâm sự. Tôi rất buồn bực anh ạ. Có một tên vô lại nào đó đã vẽ châm biếm tôi và một người gần gũi với cả hai chúng ta. Tôi thấy có nghĩa vụ phải nói quả quyết với anh rằng tôi chẳng hề có liên quan gì tới một chuyện như thế... Tôi chẳng hề làm điều gì sơ suất đáng để cho mọi người giễu cợt như vậy, lúc nào tôi cũng xử sự như một người tử tế, đứng đắn.

Kovalenko ngồi lầm lầm và im lặng. Chờ một lát, Byelikov lại nói tiếp với giọng buồn rầu nhỏ nhẹ:

- Còn một điều nữa tôi cũng muốn nói với anh. Tôi thì vào nghề đã lâu, còn anh thì mới bắt đầu đi làm, nên với tư cách là bạn đồng nghiệp đi trước, tôi thấy có nghĩa vụ phải nhắc nhở anh đôi điều. Anh đã đi xe đạp và cái trò giải trí ấy hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên.

- Vì sao vậy? - Kovalenko hỏi lại bằng giọng trầm trầm.

- Chẳng lẽ điều này lại còn cần phải giải thích nữa sao? Chẳng lẽ đó lại là điều khó hiểu ư? Nếu thầy giáo đi xe đạp thì học sinh sẽ làm gì? Lũ trẻ chỉ còn thiếu nước là đi đầu xuống đất thôi. Vả lại nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hôm qua tôi sợ phát kinh lên đấy! Khi tôi nhìn thấy chị của anh, mắt tôi hoa lên. Đàn bà con gái mà đi xe đạp thì quả là chuyện kinh khủng!

- Nhưng mà ông muốn cái gì mới được chứ?

- Tôi chỉ muốn mỗi một điều là nhắc bảo anh. Anh còn trẻ, tương lai anh còn ở phía trước, anh cần phải xử sự rất, rất thận trọng, thế mà anh đã buông thả, ô, anh buông thả mình quá chừng! Anh mặc áo thêu ra đường, đi ngoài phố lúc nào anh cũng cầm theo sách này sách nọ, rồi bây giờ lại còn cưỡi xe đạp nữa. Chuyện anh và chị anh đi xe đạp mà đến tai ông hiệu trưởng, rồi đến tai ông thanh tra... Lúc ấy thì còn ra cái thể thống gì nữa không?

- Việc ta và chị ta đi xe đạp chẳng liên quan gì đến ai cả! - Kovalenko nói, mặt đỏ gay. - Con nào thằng nào thò mũi vào chuyện riêng của nhà ta, ta cho chầu diêm vương tất!

Byelikov tái mặt đứng dậy.

- Nếu anh nói với tôi bằng cái giọng như thế thì tôi không thể tiếp tục nữa, - hắn ta nói. - Và tôi cũng yêu cầu anh khi có mặt tôi, đừng bao giờ ăn nói như thế về cấp trên. Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền.

- Hóa ra là ta đã nói gì động đến chính quyền sao? - Kovalenko hỏi, mắt hằn học nhìn Byelikov. - Xin ông để cho ta yên. Ta là người trung thực và với những người như “quý ngài” ta không muốn nói chuyện. Ta không ưa những tên mách lẻo.

Byelikov bối rối, luống cuống mặc lại áo ngoài, vẻ mặt đầy hoảng hốt. Bởi đó là lần đầu tiên trong đời hắn phải nghe những lời thô bạo đến thế.

- Anh có thể nói gì tùy anh, - hắn vừa nói vừa bước ra ngoài hành lang dẫn xuống cầu thang. - Tôi chỉ muốn báo trước cho anh rằng có thể có người đã nghe được cuộc nói chuyện này, và để cho không ai có thể xuyên tạc câu chuyện vừa rồi và để khỏi có điều gì chẳng lành xảy ra, tôi sẽ báo cáo với ngài hiệu trưởng nội dung câu chuyện hôm nay... trên những nét chính. Tôi sẽ phải làm việc đó.

- Báo cáo hả? Này, đi mà báo cáo đi này!

Kovalenko túm lấy cổ áo hắn từ phía sau rồi xô mạnh. Byelikov lộn nhào xuống cầu thang, đôi giày cao su lộc cộc đập vào bậc gỗ. Cầu thang khá cao, nhưng hắn đã lăn xuống dưới một cách bình yên vô sự. Hắn đứng dậy sờ lên mũi xem cặp kính có còn nguyên vẹn không? Nhưng đúng vào lúc hắn xuống cầu thang thì Varinka và hai bà nữa cùng vừa đi đâu về. Họ đứng ở dưới và nhìn lên - điều này đối với Byelikov là kinh khủng hơn cả. Thà tự vặt cổ, bẻ gãy chân mình đi còn hơn là biến thành trò cười cho thiên hạ; bây giờ thì trước sau gì cả thành phố chả biết, chuyện sẽ đến tai ngài hiệu trưởng, ngài thanh tra, chao ôi, thế rồi lại nhỡ xảy ra chuyện gì nữa chứ! - họ sẽ lại vẽ tranh châm biếm khác, rồi mọi chuyện dẫn đến chỗ là người ta sẽ ép mình về hưu...

Khi hắn đứng dậy, Varinka nhận ra hắn. Cô ta nhìn bộ mặt nực cười của hắn, nhìn chiếc bành tô nhăn nhúm, đôi giày cao su, không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Cô ta tưởng rằng hắn đã vô ý trượt ngã, không nén được, cô ta cười phá lên vang khắp khu nhà:

- Ha-ha-ha!

Cái tiếng cười âm vang, lảnh lót “ha-ha-ha” đó đã chấm dứt tất cả: chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời của Byelikov. Hắn không còn nghe thấy Varinka nói gì, không còn nhìn thấy gì nữa. Trở về đến nhà, việc đầu tiên là hắn cất tấm ảnh để trên bàn đi, sau đó lên giường nằm và không bao giờ dậy nữa.

Khoảng ba ngày sau lão Afanasy đến nhà tôi hỏi liệu có cần mời bác sĩ đến không vì như lão nói rằng ông chủ bị làm sao ấy. Tôi sang nhà Byelikov. Hắn nằm trong màn, đắp chăn kín và im lặng. Hỏi thì hắn chỉ đáp “không” hay “có” thôi, không nói thêm điều gì. Hắn thì nằm đấy, còn lão Afanasy thì đi đi lại lại trong phòng, mặt mày hầm hầm, cau có, thở dài thườn thượt, mùi rượu nặng xộc lên như trong quán rượu.

Một tháng sau, Byelikov chết. Tất cả chúng tôi đều đi chôn hắn, nghĩa là cả hai trường trung học và chủng viện. Bấy giờ, khi hắn nằm trong quan tài, vẻ mặt hắn trông hiền lành, dễ chịu, thậm chí còn có vẻ tươi tỉnh nữa, cứ hệt như hắn mừng rằng cuối cùng hắn đã được chui vào cái bao mà từ đó không bao giờ hắn phải thoát ra nữa. Phải rồi, thế là hắn đã đạt được mục đích cuộc đời! Y như thể mặc niệm hắn, khi đám ma cử hành, trời mưa dầm âm u, tất cả chúng tôi đều đi giày mưa và mang ô. Varinka cũng dự đám ma, và khi người ta hạ quan tài xuống huyệt, cô ta bỗng òa lên khóc. Tôi đã để ý thấy là đám đàn bà Tiểu Nga (**) thường chỉ gào khóc hoặc cười phá lên, họ chẳng bao giờ rơi vào trạng thái lưng chừng.

Thú thật là chôn cất những kẻ như Byelikov quả là một điều thích thú. Từ nghĩa địa quay về, mặt mày chúng tôi ai cũng có vẻ nhũn nhặn, rầu rĩ; không ai muốn để lộ ra cảm giác khoan khoái - giống như cái cảm giác mà chúng ta đều đã trải qua từ rất lâu, rất lâu thời thơ ấu, khi người lớn đi vắng và chúng ta tha hồ chạy chơi trong vườn hàng giờ đồng hồ liền, vui đùa tự do, thỏa thích. Ô, tự do, tự do! Chỉ cần thoáng nghĩ đến nó, chỉ cần hy vọng mong manh đến khả năng có thể có của nó là đã đủ làm cho chúng ta như được chắp thêm đôi cánh, có phải thế không?

Từ nghĩa địa trở về, lòng chúng tôi đều cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng chưa đầy một tuần sau, cuộc sống đã lại diễn ra như cũ, nặng nề, mệt nhọc, vô vị, một cuộc sống chẳng bị chỉ thị nào cấm đoán nhưng cũng chẳng được tự do hoàn toàn, chẳng tốt đẹp gì hơn trước. Trên thực tế, Byelikov đã chầu âm phủ nhưng hiện còn bao nhiêu là người trong bao, trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu kẻ như thế nữa!

- Đó, chính đây mới là điều đáng nói, - Ivan Ivanovitch nói, và rít một hơi thuốc.

- Và sẽ còn bao nhiêu kẻ như thế nữa, - Burkin nhắc lại

Người giáo viên bước ra khỏi nhà kho. Đó là một người không cao nhưng to béo, đầu hói hết, có bộ râu đen dài quá ngực, hai con chó ra theo sau ông.

- À, có trăng, có trăng! - ông ta ngước nhìn lên trời và nói.

Đã nửa đêm. Phía bên phải hiện ra cả làng mạc, một con đường chạy dài có dễ đến năm cây số. Vạn vật đều chìm trong giấc ngủ im lìm, tĩnh mịch; không một vật nào di động, không một âm thanh nào vang ra. Thật khó mà tin rằng tạo hóa lại có thể lặng yên đến thế. Vào đêm trăng, khi nhìn thấy con đường quê khoáng đãng với những ngôi nhà nhỏ, những đồng cỏ khô, những hàng cây liễu rủ, lòng ta bỗng thấy thanh thản; và trong vẻ bình yên ẩn náu giữa bóng đêm xa cách những chuyện làm ăn tất bật, những buồn phiền, lo âu, tâm hồn ta bỗng trở nên dịu dàng, nhè nhẹ buồn và tốt đẹp. Có cảm giác rằng đến cả những vì sao cũng soi xuống tâm hồn ta với vẻ đầy thương cảm và trìu mến, rằng cái ác đã bị loại bỏ trên mặt đất này và vạn sự đều êm đẹp, yên lành. Phía bên trái, từ rìa làng là cánh đồng trải rộng dưới ánh trăng mênh mông đến tận chân trời, ở đây cũng không một âm thanh, không một vật nào động đậy.

- Đó, vấn đề là ở chỗ đó, - Ivan Ivanovitch nhắc lại. - Chúng ta sống chui rúc ở thành phố này trong không khí ngột ngạt, chúng ta viết những thứ giấy tờ vô dụng, đánh bài đánh bạc - những cái đó há không phải là một thứ bao sao? Chúng ta sống cả đời bên những kẻ vô công rồi nghề, những kẻ xui nguyên giục bị, những mụ đàn bà nhàn rỗi ngu si, chúng ta nói và nghe đủ thứ chuyện nhảm nhí, vô nghĩa - đó chẳng phải là một thứ bao sao? Nếu anh muốn nghe, tôi xin kể cho anh một chuyện bổ ích nữa.

- Thôi khuya rồi, đi ngủ thôi, - Burkin nói. - Để ngày mai vậy.

Cả hai người đi vào nhà kho và nằm trên đống cỏ khô. Hai người đã trùm chăn và thiu thiu ngủ thì bỗng nghe thấy tiếng chân bước nhè nhẹ. Có ai đó đang đi gần nơi nhà kho, đi một lúc rồi dừng lại, một phút sau lại nghe tiếng chân bước tiếp. Có tiếng chó sủa vang.

- Đấy là bà Mavra đi đấy, - Burkin nói.

Tiếng chân bước xa dần.

- Nhìn thấy và nghe thấy mọi người nói dối, - Ivan Ivanovitch vừa nói vừa trở mình, - và để cho thiên hạ bảo anh là ngu xuẩn chỉ vì anh đã nghe lời dối trá ấy, nhẫn nhục chịu đựng những sự lăng mạ, khinh miệt, không dám nói thẳng rằng anh đứng về phía những người trung thực, yêu tự do; và chính anh cũng nói dối, cũng nhăn nhở cười, chỉ cốt kiếm được miếng ăn, chỉ cốt được ấm vào thân, chỉ vì một chức tước hèn mọn nào đó chỉ đáng giá mấy đồng xu - không, không thể sống như thế mãi được!

- Ồ, đó lại sang chuyện khác rồi, anh Ivan Ivanovitch ạ, - người giáo viên nói. - Thôi, ta ngủ thôi.

Chừng mười phút sau, Burkin đã ngủ. Còn Ivan Ivanovitch thì cứ thở dài và trở mình luôn luôn, sau đó ông dậy rồi lại đi ra ngoài, ngồi xuống bên cửa, lấy thuốc ra hút.

***

Người dịch Phan Hồng Giang

 

Chú thích:

1. Con người (tiếng Hy Lạp).

2. Ivan S. Turgenev (1818-1883) và Shchedrin (tên thật là Mikhail Y. Saltykov, 1826-1889)  - hai trong số những nhà văn vĩ đại của nước Nga, được coi là các tác giả đề cao sự tự do và khai sáng trong những năm 1850-1860.

3. Buckle (1821-1862) - nhà sử học và xã hội học người Anh.

4. Bài hát nổi tiếng của nhân dân Tiểu Nga.

5. Quán rượu (tiếng Nga).

6. Cãi lộn lớn (tiếng Ðức).

7. Vở kịch của nhà viết kịch và diễn viên người Tiểu Nga là Marko Kropyvnytskyi (1840-1910).

Chân Dung Kẻ Sĩ chú thích thêm:

(*). Tiểu bộ ba (The Little Trilogy) - Anton Chekhov đã viết ba truyện ngắn có liên quan với nhau, được gọi là "The Little Trilogy". Ba truyện đó là: "The Man in a Case", "Gooseberries" và "About Love". Những câu chuyện riêng lẻ này được yêu thích theo cách riêng của chúng, nhưng khi đọc/nghe cùng nhau, chúng sẽ tiết lộ sự liên quan của những nhân vật và chủ đề tái xuất hiện.

(**). Tiểu Nga (Tiếng Nga: Малая Россия, Tiếng Ukraine: Мала Русь; Tiếng Anh: Little Russian) là cách người Nga gọi một vùng đất - con người thuộc Ukraine ngày nay. Khi đế quốc Nga của các Sa hoàng sụp đổ, từ Tiểu Nga dần dần ít được sử dụng.

(***). Chân Dung Kẻ Sĩ giải thích thêm để bạn đọc tham khảo:

Nguyên văn trong bản Tiếng Nga tên của vở kịch là: «Глитай, абож паук».

Theo "Từ điển các từ khó và bị lãng quên trong các tác phẩm văn học Nga thế kỷ 18-19":

Глитай tiếng Ukraine ngoài nghĩa là nhện thì còn có nghĩa là "мироед" trong tiếng Nga, bloodeater trong tiếng Anh: nghĩa đen là "kẻ hút máu", nghĩa bóng là về một người sống nhờ vào sức lao động của kẻ khác.

"Kẻ hút máu" là một trong những tên gọi đáng xấu hổ nhất ở Nga (vào thời điểm nhà văn Chekhov sống), và cái tên này không chỉ để gọi một số trưởng bối, mà còn cho bất kỳ tá điền nào trở nên mập ú nhờ vào mồ hôi của người khác.

Bài liên quan
  • QUÁI VẬT TRÊN KHÔNG – Truyện ngắn Oe Kenzaburo

    QUÁI VẬT TRÊN KHÔNG – Truyện ngắn Oe Kenzaburo

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Oe Kenzaburo (1935 - 2023) là nhà văn người Nhật thắng giải thưởng Nobel văn chương cao quý của Viện hàn lâm Thụy Điển vào năm 1994. Chiến thắng của ông, cùng với chiến thắng của nhà văn Kawabata Yasunari năm 1968, đã giúp Nhật trở thành nước duy nhất ở Châu Á có hai nhà văn thắng giải Nobel văn chương*. Là một trong những nhà văn lớn nhất của Nhật, ông đã có hơn 60 tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài.
  • TRẠI LAO CẢI – Truyện ngắn Franz Kafka

    TRẠI LAO CẢI – Truyện ngắn Franz Kafka

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Franz Kafka là nhà văn người Bohemia gốc Do Thái, nay là Cộng hòa Séc. Ngày nay, mặc dù Franz Kafka được xem là một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất thế giới, thậm chỉ còn có riêng một tính từ mang tên ông kafkaesque, tức "kiểu Kafka", nhưng khi còn sống, chỉ vài tác phẩm của ông được xuất bản. Phần lớn các tác phẩm của Franz Kafka được xuất bản sau khi ông chết, do bạn ông là Max Brod thực hiện, bất chấp di nguyện của ông là phải tiêu hủy tất cả các bản thảo.
  • MỘT ĐÁM MÂY NHỎ - Truyện ngắn James Joyce

    MỘT ĐÁM MÂY NHỎ - Truyện ngắn James Joyce

    Chân Dung Kẻ Sĩ: James Joyce là nhà văn người Ireland, tác giả của tiểu thuyết Ulysses xuất bản năm 1922. Ông được coi là một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20, còn Ulysses được xem như một kiệt tác, đến nỗi người ta còn lập ra một lễ tưởng niệm thường niên vào ngày 16 tháng 6 (Bloomsday), là ngày diễn ra các các sự kiện trong tiểu thuyết Ulysses của ông.
  • BÁM ĐẾN CÙNG – Truyện ngắn Graham Greene

    BÁM ĐẾN CÙNG – Truyện ngắn Graham Greene

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Graham Greene là nhà văn người Anh, tác giả của Người Mỹ trầm lặng, cuốn tiểu thuyết rất ăn khách trên thế giới về Việt Nam, đặc biệt là tại Anh. Tuy nhiên, khi tiểu thuyết lần đầu tiên được xuất bản tại Mỹ vào năm 1956, nó đã khiến độc giả Mỹ bị sốc do tác phẩm của nhà văn người Anh đã mô tả người Mỹ là những kẻ giết người, một sự thật mà người Mỹ khó có thể chấp nhận. Cuốn sách của ông đã giúp độc giả thế giới nói chung và độc giả phương tây nói riêng, hiểu được tính chính nghĩa của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống lại Mỹ, những kẻ xâm lược với đội quân hùng mạnh nhất hành tinh tới từ bên kia đại dương.
  • CHIẾC ÁO KHOÁC - Truyện ngắn Nikolai Vasilyevich Gogol

    CHIẾC ÁO KHOÁC - Truyện ngắn Nikolai Vasilyevich Gogol

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nikolai Vasilyevich Gogol là một nhà văn xuất chúng của Đế quốc Nga gốc Ukraine, người đã có nhiều sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực phê phán, mà ở đấy, lần lượt những thân phận thấp cổ bé họng trong xã hội Nga đã được lên tiếng. Nhiều nhà văn và nhà phê bình đã công nhận ảnh hưởng to lớn của Gogol đối với nền văn học Nga, Ukraine và thế giới. Theo xu hướng của những nhận xét này, có thể xem "Chiếc áo choàng" (tiếng Nga: Шине́ль -1842) là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Nikolai Gogol, khi nó thể hiện thể hiện đầy đủ những gì tốt nhất trong viết lách của Gogol, mà nếu muốn tóm gọn lại, thì không ai nói chính xác hơn nhà ngoại giao, phê bình văn học người Pháp Eugène-Melchior de Vogüé (1848-1910). Ông nói (thường bị nhầm lẫn là do Fyodor Dostoevsky nói) : "Tất cả chúng ta đều chui ra từ Chiếc áo khoác của Gogol".
  • NGƯỜI ĐÀN BÀ VÀ CON CHÓ NHỎ - Truyện ngắn Anton Chekhov

    NGƯỜI ĐÀN BÀ VÀ CON CHÓ NHỎ - Truyện ngắn Anton Chekhov

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Anton Chekhov được xem là một trong những nhà văn chuyên thể loại truyện ngắn vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Dù ban đầu, Chekhov theo học ngành y tại Đại học y khoa Moscow và trở thành một bác sĩ, nhưng cuối cùng ông lại là một nhà văn xuất chúng, với những sáng tạo đã làm thay đổi tiến trình phát triển của truyện ngắn hiện đại.
    Nhà văn Mỹ gốc Nga Vladimir Nabokov (1899-1977), tác giả của cuốn tiểu thuyết Lolita in năm 1955, xếp thứ tư trong danh sách 100 cuốn sách hay nhất thế kỷ 20 vào năm 2007 của nhà xuất bản Mỹ Modern Library, đã chê tác phẩm của Chekhov nhưng cũng khen nức nở rằng, "nhưng tác phẩm của ông ấy là thứ tôi sẽ mang theo nếu phải đi tới hành tinh khác". Ông còn gọi truyện Người đàn bà và con chó nhỏ là "một trong những truyện ngắn vĩ đại nhất từng được viết nên".
    Bản dịch dưới đây, để bạn đọc tiện tra cứu, Chân Dung Kẻ Sĩ đã hiệu chỉnh các tên riêng theo bản dịch từ tiếng Nga sang tiếng Anh của dịch giả người Anh Constance Garnett (1861-1946). Bà là dịch giả người Anh đầu tiên dịch nhiều tác phẩm của Anton Chekhov sang tiếng Anh. Tổng cộng, bà đã dịch 71 tập văn học Nga, bao gồm các tác phẩm của các nhà văn Nga nổi tiếng như Ivan Turgenev, Leo Tolstoy, Nikolai Gogol, Ivan Goncharov, Alexander Ostrovsky và Alexander Herzen. Nhiều tập trong số đó vẫn còn được in cho đến ngày nay.
  • NGƯỜI ĐÀN ÔNG CHƠI DAO – Truyện ngắn Heinrich Böll

    NGƯỜI ĐÀN ÔNG CHƠI DAO – Truyện ngắn Heinrich Böll

    Chân Dung Kẻ Sĩ: NGƯỜI ĐÀN ÔNG CHƠI DAO là truyện ngắn trong tập truyện ngắn Trẻ em cũng là thường dân (Children Are Civilians Too) của nhà văn người Đức thắng Giải Nobel Văn chương năm 1972 Heinrich Böll. Tập truyện minh họa cho cách kể chuyện tinh tế và sắc thái của Heinrich Boll ở mức tuyệt vời nhất, vẽ ra những bức chân dung tuyệt đẹp về những con người bình thường trong những năm tháng đen tối ở nước Đức sau chiến tranh.
  • ẢO HÓA – Truyện ngắn Hermann Hesse 

    ẢO HÓA – Truyện ngắn Hermann Hesse 

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ảo Hóa là một câu chuyện trong tiểu thuyết Trò chơi ngọc pha lê (The Glass Bead Game) tác phẩm lớn cuối cùng của nhà văn, nhà thơ Đức thắng giải Nobel Văn chương năm 1946 Hermann Hesse. Với tư tưởng chống phát xít, từ nửa cuối thập niên 1930, không một nhà xuất bản hay tờ báo nào ở Đức dám đăng các tác phẩm của Hermann Hesse nữa. Và vì thế ông đã viết Trò chơi ngọc pha lê giữa những tin tức khủng khiếp của Chiến tranh thế giới Thứ Hai và xuất bản tác phẩm ở Thụy Sĩ năm 1943.
  • ÐỐT LỬA -  Truyện ngắn JACK  LONDON

    ÐỐT LỬA -  Truyện ngắn JACK  LONDON

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Đốt Lửa của nhà văn Jack London có hai phiên bản được xuất bản ở hai thời điểm khác nhau, một ở năm 1902 và bản còn lại ở năm 1908. Mặc dù có cấu trúc và cốt truyện gần tương tự nhau, nhưng phiên bản năm 1908 khủng khiếp hơn nhiều, và vì thế, nó trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của nhà văn người Mỹ, thường xuyên có mặt trong các tuyển tập văn chương.
  • LỊCH SỬ TỰ NHIÊN CỦA CÁI CHẾT – Truyện ngắn Ernest Hemingway

    LỊCH SỬ TỰ NHIÊN CỦA CÁI CHẾT – Truyện ngắn Ernest Hemingway

    Chân Dung Kẻ Sĩ:  Nhà văn người Mỹ Ernest Hemingway với "Nguyên lý tảng băng trôi", là tác giả của những tác phẩm nổi tiếng khắp thế giới như Giã từ vũ khí (1929); Chuông nguyện hồn ai (1940); Ông già và biển cả (1952). Năm 1954 ông thắng Giải Nobel Văn Chương và để lại nhiều tác phẩm được coi là kinh điển của văn học Mỹ.