Nhà văn Jack London
Chân Dung Kẻ Sĩ: CĂN NHÀ CỦA MAPUHI được xem là truyện ngắn hay nhất trong tuyển tập truyện ngắn Truyện Biển Nam của nhà văn Jack London, xuất bản năm 1911. Ông khuyên một người bạn muốn viết văn: “Trong óc anh chưa có gì đáng kể lại đâu. Đi nhiều đi và học trong đời như tôi đã học. Bất kì ai cũng có thể viết đúng ngữ pháp được nhưng điều cốt yếu là phải biết diễn tả linh động (…) Tôi cam đoan với anh rằng tôi không khi nào thiếu đề tài để viết (…). Những cảnh đời ta đã trải, dù ghê tởm đến đâu cũng có cái đẹp của nó”. Ở đây, CĂN NHÀ CỦA MAPUHI, nhà văn đã cho độc giả thấy một cảnh tượng đúng như lời ông nói bên trên. Câu chuyện, mô tả thứ mà các nước thực dân đem đến cho những người bản địa ở nơi mà họ đem "ánh sáng" tới, thực chất là ngoài giới hạn chịu đựng của con người.
***
Mặc dầu chở những thứ lỉnh kỉnh, nặng nề nhưng chiếc Aorai vẫn đi dễ dàng trong làn gió nhẹ. Vị thuyền trưởng chỉ huy thật giỏi trước khi lượn nó vào đúng vị trí phía ngoài bờ đá san hô để tránh những làn sóng dội.
Hòn đảo Hikukeru nằm nhô lên không cao lắm phía trên mặt nước. Nó được bao bọc bởi một lươn cát san hô hình vành khăn có bề ngang khoảng một trăm yards, cao hơn mực nước biển từ một mét tới một mét rưỡi. Như thế, từ lươn cát tới hòn đảo là một vòng nước mặn hình vành khăn bao bọc chung quanh đảo; phía ngoài là lươn cát rồi tới biển. Dưới đáy nước tĩnh lặng như mặt gương này có nhiều trai ngọc. Trên boong tàu từ đằng xa người ta có thể nhìn thấy những người thợ mò ngọc đang làm việc.
Nhưng tàu buôn không thể vào trong hồ. Chỉ những thuyền nhỏ một buồm thích hợp mới luồn lách qua một con kênh ngoắt ngoéo mới đi qua được. Các tàu thường đậu bên ngoài rồi đưa thuyền nhỏ của họ vào. Chiếc Aorai thả xuống nước một chiếc xuồng sang trọng, khoảng năm hay sáu người làm công, nước da mầu nâu bóng, mình trần trùi trụi, chỉ đóng những chiếc khố màu đỏ, leo lên xuồng. Họ chèo xuồng bằng bơi chèo. Trong khi đó, một thanh niên đứng phía đằng mũi. Cậu tên Alexandre Raoul, con trai út bà Mari Raoul, một nhà buôn lớn có khoảng sáu chiếc tàu biển tương tự với chiếc Aorai.
Qua khỏi xoáy nước ở cửa con kênh, chiếc xuồng len lỏi đi vào trong hồ rồi cập hòn đảo. Cậu thanh niên chờ xuồng dừng lại xong mới nhảy lên bãi cát và vẫy một thổ dân cao lớn đang lai vãng chờ đợi ở đấy. Người này ngực nở, vai rộng nhưng cụt một cánh tay. Quá khỏi chỗ thịt phía dưới bả vai, cái đầu xương cụt nhô ra, màu trắng, nay đã lành lặn. Ngày trước anh ta bị một con cá mập tấn công. Anh đương đầu với nó, mất một cánh tay, từ đấy thôi không còn làm nghề mò ngọc được nữa và sự nghèo đói đã biến anh ta thành một kẻ bợ đỡ, luôn luôn nghĩ các mẹo vặt để kiếm ăn chút đỉnh nhờ các đặc ân nhỏ nhoi của người khác, sống cho qua ngày.
- Cậu đã nghe tin gì chưa, cậu Anex (Alexandre)?
Anh ta thì thầm:
- Mapuhi mới mò được một viên ngọc, xứng đáng là một viên ngọc. Chưa từng có một viên nào như thế ở đảo Hikukeru này. Chưa từng có ở cả vùng Pomotus mà cũng chưa từng có trên khắp thế giới. Hắn mới mò được hiện còn đang giữ, cậu đến mua ngay đi. Nhưng nhớ là tôi báo tin cho cậu trước tiên đấy nhá. Mapuhi là một thằng ngốc, cậu sẽ mua được thật rẻ. Cậu có tí thuốc sợi nào không?
Raoul từ dưới bãi đi lên phía chiếc chòi nằm dưới bóng một cây dứa dại. Cậu ta là người quản lý tàu buôn của bà mẹ, và việc kinh doanh của hãng trải rộng khắp vùng Pomotus do các tài nguyên như dừa khô, ngọc trai, ngọc, sò biển..vv.. mà người ta sản xuất được. Cậu là người quản lý non trẻ, mới tới đây lần này là lần thứ hai và trong lòng vẫn thầm áy náy về sự thiếu kinh nghiệm trong việc xét đoán ngọc của mình.
Nhưng khi Mapuhi đưa ra viên ngọc thì cậu cố nén sự kinh ngạc. Nó to bằng cái trứng chim bồ câu, trắng tinh và tròn vành vạnh, phản chiếu ánh sáng lóng lánh, tia ra đủ thứ màu sắc trông thật sống động.
Lúc Mapuhi bỏ vào lòng bàn tay Raoul thì chàng ngạc nhiên về sức nặng của nó. Chàng quan sát thật gần mắt rồi thận trọng móc trong túi ra một chiếc kính lúp. Không hề có một chút chất bẩn hòa tan. Độ tinh khiết của viên ngọc dường như phân bố đều trên khắp khối cầu. Đưa vào chỗ tối thì nó là một khối chiếu sáng nhè nhẹ với thứ ánh sáng dịu dàng như trên mặt trăng. Nó trong suốt đến nỗi khi chàng thử thả vào một ly nước, nó chìm theo một đường thẳng, không bị sức đẩy của nước làm cho sai lệch sang chỗ khác. Như vậy chàng hiểu sức nặng của nó hết sức tuyệt diệu.
- Rồi, bây giờ chú tính thế nào? – Chàng hỏi với vẻ dửng dưng, cố làm ra bộ uể oải.
- Tôi muốn....- Mapuhi bắt đầu nói, và, phía đằng sau, phù hợp với cái mặt đen bóng của anh ta là ba cái mặt cũng đen bóng khác của hai phụ nữ và một đứa trẻ con gái. Họ ngồi bên trong nhưng đầu luôn luôn gật gật phụ họa với những điều mà anh ta muốn nói. Họ rất nôn nóng nhưng cố nín nhịn theo thói quen. Những cặp mắt trắng dã của họ ánh lên các tia sáng e ngại, chỉ sợ Mapuhi nói hớ. Họ muốn nói thay cho Mapuhi.
- Tôi muốn một cái nhà - Mapuhi tiếp tục. Nó phải có cái mái, trên mái có cây sắt có thể thu được sấm sét. Một cái đồng hồ tám cạnh treo trên tường. Căn nhà phải dài sáu sải với một hàng rào chung quanh. (Sải: fathom, dang rộng hai cánh tay là một sải, khoảng 2 mét.- ĐD). Một cái phòng ở chính giữa. Có bốn buồng ngủ. Mỗi buồng có một chiếc giường sắt, hai cái ghế và một cái bồn tắm. Đằng sau nhà có một cái bếp. Cái bếp có nồi niêu xoong chảo và một cái lò để đun nấu. Cậu phải xây căn nhà đó trên đảo của chúng tôi - đảo Fakarava - không phải ở đây.
- Bấy nhiêu điều kiện? - Raoul hỏi lại một cách nghi hoặc.
- Phải có một cái máy khâu. - Têfara, vợ của Mapuhi thêm vào.
- Đừng quên cái đồng hồ tám cạnh. - Nauri, mẹ của Mapuhi nhắc lại.
- Đúng, tất cả bấy nhiêu. - Mapuhi kết luận.
Raoul cười. Trong khi cười, đầu óc chàng nhẩm tính thật nhanh xem các điều kiện đó như thế nào. Chàng chưa từng xây nhà bao giờ cả, bây giờ phải xây thì phiền phức lắm. Phải mua nguyên vật liệu tại Tahiti rồi chuyên chở từ Tahiti tới Fakarava, tiền công bốc xếp và tiền xây cất... Khoảng chừng hai mươi ngàn quan Pháp. Có thể được lắm. Nhưng vấn đề chính là chàng không xác định được giá trị của viên ngọc. Hai mươi ngàn franc là một số tiền lớn và nó là tiền của mẹ chàng.
- Mapuhi.- chàng kêu lên. Chú là thằng đại ngốc, hãy nói giá bằng tiền đi.
Nhưng Mapuhi lắc đầu, lập tức ba cái đầu ở bên trong cũng lắc theo:
- Tôi muốn cái nhà. Nó phải dài sáu sải với một cái hàng rào chung quanh...
- Đúng, đúng, tôi hiểu điều kiện của chú nhưng tôi rất bận, xây cất ngại lắm. Tôi trả chú một ngàn đô la Chi Lê.
Bốn cái đầu lại nhất trí im lặng một cách phủ định.
- Thêm một trăm đô la Chi Lê bằng hàng hóa, tổng cộng là ngàn mốt đô la.
- Tôi muốn cái nhà...
Raoul vặn lại:
- Tại sao chú cứ thích xây nhà? Chỉ một trận cuồng phong trên đảo là nó sẽ quét sạch không còn vết tích. Ông thuyền trưởng Raffy của chúng tôi nói dường như sắp có cuồng phong xảy ra đâu đây .
-Không có cuồng phong trên đảo Fakarava. Đất trên ấy cao hơn ở đây. Tôi sẽ có nhà ở Fakarava. Nó dài sáu sải, có hàng rào chung quanh và một cái cửa...
Raoul lại phải lắng nghe câu chuyện cái nhà. Chàng đã phí cả tiếng đồng hồ để đẩy cái nhà ra khỏi đầu óc Mapuhi nhưng mẹ, vợ và đứa con gái tên N’gakura của hắn cứ thúc đẩy cho cái nhà đeo cứng lấy đầu óc hắn.
Khi Raoul đã nghe tới lần thứ hai mươi những chi tiết về cái nhà thì chàng nhìn thấy chiếc xuồng thứ hai từ tàu của chàng đang vội vàng cập vào bãi cát. Thủy thủ trao đổi với người cụt tay một điều gì đó rồi lập tức chạy lên bãi đi kiếm Raoul. Trời tự nhiên sầm lại. Một đám mây đen che kín vầng thái dương. Qua mặt hồ, Raoul nhìn thấy có những vệt mây trắng sáng giống như báo hiệu điềm gở ở nơi chân trời.
- Thuyền trưởng Raffy nói cậu phải rời khỏi đây ngay. Nếu có sò thì cũng bỏ đó, cứ đi, phải đề phòng nguy hiểm trước đã rồi sẽ tính sau. Phong vũ biểu đã xuống tới hai mươi chín bảy mươi.
Những cơn gió lớn làm đổ dạt ngọn cây dứa dại trên đầu, cuồn cuộn thổi qua các tàu lá cọ dưới bãi, quăng khoảng một chục trái dừa còn nguyên cả chùm xuống dưới đất, tiếng nghe cái bịch rất nặng nề và lăn lông lốc. Rồi thì mưa bắt đầu ồ ạt kéo tới từ ngoài khơi, ào ào theo tiếng gầm của những ngọn gió làm cho mặt hồ dường như bốc khói.
Raoul đứng dậy khi nước trên mái lá lợp chòi bắt đầu chảy xối xả:
- Một ngàn đô la Chi Lê tiền mặt cộng trên hai trăm đô la Chi Lê tiền hàng là một ngàn hai trăm đô la, được chưa?
- Tôi muốn cái nhà...
Raoul bước ra ngoài mưa, dừng lại hét lớn nhưng chỉ một mình chàng nghe tiếng:
-Mapuhi, chú là đồ ngốc!
Chàng đi thật nhanh bên cạnh người thủy thủ báo tin, tìm cách xuống bãi. Họ không thể nhìn thấy chiếc xuồng. Mưa miền nhiệt đới dày đặc đến nỗi làm họ vuốt mặt không kịp. Bãi cát dưới chân đang bị những làn sóng nhỏ từ mặt hồ trào lên xâm lấn. Một bóng người đi tới trong cơn hồng thủy toàn trời với nước mù mịt. Đó là Huruhuru, người đàn ông cụt tay vẫn kiên nhẫn đợi chờ:
- Cậu có mua được viên ngọc không? - Huruhuru hét lớn vào tai Raoul.
- Mapuhi là một thằng ngốc. - Raoul hét lại trả lời và sau đó họ không để ý tới nhau nữa, mỗi người đi theo một lối.
Thế rồi một lúc lâu sau, đứng trong cơn mưa, Huruhuru mờ mờ thấy hai chiếc xuồng đang được trục lên tàu và chiếc Aorai bắt đầu quay mũi ra biển. Gần với nó, lại một chiếc khác đi tới. Họ bắt đầu hạ một chiếc xuồng xuống nước.
Chiếc thứ hai này thì Huruhuru biết rất rõ. Nó là chiếc Orohena, người chủ là Toriki, một tay doanh thương hạng nhì, tự mình đứng ra quản lý và buôn bán lấy. Huruhuru chậc lưỡi. Anh ta biết Mapuhi còn nợ Toriki tiền hàng hóa đã nhận từ năm trước, chưa mò được ngọc trả thay vào đó.
Mưa đã tạnh. Mặt trời nóng lại chiếu rọi, bắt đầu hun đốt và mặt hồ lại trở lại hiền lành, êm ả như một tấm gương. Nhưng không khí đặc quánh, oi nồng đến khó thở.
- Ông đã nghe tin gì chưa, ông Toriki?
Huruhuru khúm núm:
- Mapuhi mới mò được một viên ngọc. Chưa từng có một viên nào như thế tại đảo Hikueru này. Chưa từng có tại vùng Pomotus hoặc bất cứ nơi nào trên thế giới. Mapuhi là một thằng ngốc. Hơn nữa hắn còn nợ ông. Xin nhớ tôi báo tin trước nhất đấy nhá. Ông có tí thuốc sợi nào không?
Lập tức Toriki đến thẳng ngay chòi của Mapuhi. Ông ta là một ông chủ, ít khi xử đẹp với những thằng ngốc. Nhìn sơ viên ngọc xong- nhìn sơ thôi, không cần quan sát kỹ - ông ta bỏ tọt ngay vào túi áo:
- Anh may mắn lắm. Đó là một viên ngọc khá đẹp. Tôi sẽ cho anh tiền bằng tín phiếu ghi trong sổ.
-Tôi muốn một cái nhà.- Mapuhi ấp úng. - Nó phải dài sáu sải...
-Sáu sải cái con bà nhà anh. Cái mà anh cần làm là trừ hết nợ. Anh nợ tôi một ngàn hai trăm đô la Chi Lê. Đúng vậy, đừng ngạc nhiên. Anh nợ tôi bốn trăm đô la lâu rồi, con số đó phải tăng lên theo bình phương. Bốn bốn mười sáu, lẽ ra anh nợ tôi một ngàn sáu trăm đô la nhưng tôi chỉ tính một ngàn hai trăm. Ngoài ra tôi sẽ cho anh thêm hai trăm đô la bằng tín phiếu ghi trong sổ. Nếu về Tahiti, giá sò ngọc cao tôi sẽ cho anh thêm một trăm nữa, vậy là ba trăm đô la. Nhưng nhớ nếu giá sò ngọc cao đấy nhé. Còn nếu tôi bị lỗ thì anh chẳng được một xu nào hết.
Toriki đi xong, Mapuhi ngồi lặng thinh, khoanh tay cúi đầu buồn thảm. Anh ta đã bị cướp mất viên ngọc. Thay vì ngôi nhà thì phải trả nợ, chẳng còn gì để đưa ra với khách hàng nữa.
- Mày là thằng ngu . - Mẹ anh ta la.
- Anh là thằng ngu! - Vợ anh ta la.- Tại sao lại đưa viên ngọc vào tay thằng cha đó?
Mapuhi giải thích yếu ớt:
- Tôi làm thế nào được? Tôi nợ ông ta tiền. Ông ta biết tôi mò được viên ngọc. Ông ta bảo đưa cho ông ta coi. Tôi thề là không tự mình cho ông ta biết, chắc người khác nói. Tôi còn nợ tiền ông ta.
- Mapuhi là đồ ngu! - N’gakura, đứa con gái mười hai tuổi của Mapuhi bắt chước mẹ và bà nội, chỉ trích bố.
Mapuhi đang đau khổ bèn hả giận bằng cách vớ lấy cái hộp đựng viên ngọc ném vào mặt nó rồi nhào tới nắm hai tai. Hai người đàn bà xông vô, vừa khóc ỏm tỏi vừa ôm lấy Mapuhi, đè xuống đất, cứ mặt mà tát, cứ mớ tóc xoăn của Mapuhi mà giật nhưng lại kêu khóc như bị người khác đánh, theo cách riêng của phụ nữ.
Trong khi đó thì Huruhuru, người đàn ông cụt tay vẫn kiên nhẫn đứng ngóng trên bãi cát. Anh ta thấy một con tàu thứ ba đậu lại và đang hạ xuồng xuống nước. Đó là chiếc Hira của lão nhà buôn người Đức gốc Do Thái Levy, tay buôn ngọc. Hira là tên thánh quan thầy của nghề đánh cá và nghề trộm cắp ở đảo.
-Ông đã nghe tin gì chưa, ông Levy?
Levy người mập ú, nặng nề như một khối thịt, dừng lại lắng nghe.
- Mapuhi mới mò được một viên ngọc. Chưa bao giờ có một viên như thế tại đảo Hikueru này. Chưa từng có trong vùng Pomotus. Chưa từng có trên thế giới. Mapuhi là một thằng ngu. Nó mới bán cho ông Toriki với giá một ngàn bốn trăm đô la Chi Lê - tôi núp bên ngoài nghe rõ. Toriki là tay xoàng, ngài có thể mua lại của ông ta với giá rẻ. Nhưng nhớ tôi báo tin cho ngài đầu tiên đấy nhá. Ngài có tí thuốc sợi nào không?
- Toriki bây giờ ở đâu? ‘
- Đến nhà ông thuyền trưởng Lynch, đang uống rượu bạc hà. Ông ta ở đấy một tiếng đồng hồ rồi.
Và khi nhà buôn Đức gốc Do Thái Levy uống rượu bạc hà với Toriki để bàn về chuyện viên ngọc thì Huruhuru nghe trộm, biết họ đồng ý với nhau cái giá hai mươi lăm ngàn quan Pháp.
Đó cũng là lúc cả hai chiếc, Orohena của Toriki và Hira của Levy, bắt đầu bắn súng báo hiệu rút lui. Ba người đàn ông bước ra ngoài. Họ thấy hai chiếc tàu đang vội vã đánh vòng, quay mũi ra khơi, hạ hết buồm chính, chỉ còn lại các buồm phụ để chuẩn bị chạy. Gió lớn làm chúng nghiêng về một bên, bọt sóng trắng xóa. Rồi thì mưa bắt đầu đổ xuống.
- Lát tạnh mưa nó sẽ quay lại. Nhưng có lẽ mình nên rời nơi đây càng sớm càng tốt.
- Tôi phải coi lại cái kính xem tình hình ra sao. - Thuyền trưởng Lynch nói. Ông là đại úy hàng hải, râu bạc, đã quá già không còn theo nghề được nữa. Do đi đó đi đây nhiều, biết đảo Hikueru phù hợp với bệnh suyễn của ông nên ông xây nhà và ở lại đó.
Ông vào bên trong coi phong vũ biểu:
- Ôi, chúa ơi!
Hai người nghe tiếng kêu bèn chạy vội vào, nhìn lên mặt kính: Hai mươi chín hai mươi!
Họ lưỡng lự quay trở ra. Gió đã ngừng nhưng bầu trời vẫn u ám. Hai chiếc tàu của họ và một chiếc khác đang trở lại. Nhưng sự đổi hướng của gió khiến chúng dường như uể oải, chậm chạp. Bỗng thình lình một cơn gió ngược chiều làm chúng khựng lại. Mọi người trên bờ thấy rõ chúng bị đụng chạm ở đằng sau đuôi, trờ tới, nhảy nhổm. Âm thanh của sóng ầm ì đầy đe dọa. Một lằn chớp khủng khiếp lóe rực trước mắt họ, chiếu sáng ban ngày u tối, và một tiếng sét giáng xuống, cuồn cuộn, vang rền đinh tai nhức óc.
Toriki và Levy không thiết gì nữa, cuống quýt chạy đi tìm xuồng của mình. Cái khối thịt Đức-Do Thái ỳ ạch như con hà mã, tuy vội nhưng không sao bước nhanh hơn được.
Đúng lúc hai chiếc xuồng của họ vừa ra đến ngoài thì họ gặp xuồng của chiếc Aorai đang đi vô. Ở phía đằng mũi, Raoul đang khuyến khích các thủy thủ. Không thể quên được viên ngọc, chàng trở lại chấp nhận mọi điều kiện của Mapuhi về việc xây cất ngôi nhà.
Raoul nhảy lên bãi giữa những tiếng sấm sét vang rền và gió thổi mạnh đến nỗi người chàng muốn xô vào Huruhuru trước khi kịp hỏi thăm tin tức.
- Quá muộn rồi. - Huruhuru lắc đầu trong những làn chớp sáng lóe .- Mapuhi đã bán cho Toriki một ngàn bốn trăm đô la Chi Lê. Toriki bán lại cho Levy hai mươi lăm ngàn franc. Đem về Pháp thế nào Levy cũng được hơn hai mươi lăm ngàn franc. Cậu có mang theo tí thuốc sợi nào không?
Raoul tiếc thì tiếc thật nhưng cảm thấy nhẹ nhõm. Sự lo lắng về giá cả của viên ngọc không còn nữa. Hai mươi lăm ngàn franc? Levy là tay keo kiệt mà dám mua tới con số hai mươi lăm ngàn franc? Chàng không tin lắm nên quyết định tới hỏi thuyền trưởng Lynch.
Ông già đang dán mắt vào chiếc phong vũ biểu, đứng xích ra nhường chỗ cho Raoul:
- Cậu đọc thấy bao nhiêu?
- Hai mươi chín mười. Cháu chưa từng thấy thấp như vậy bao giờ.
Ông già lau mục kỉnh xong, ghé mắt vô nhìn, nét mặt đăm chiêu:
- Tôi không thể nói được điều gì sẽ xảy ra. Suốt năm mươi năm sống trên mặt biển...Coi kìa, cậu thử lắng tai!
Tiếng sóng ầm ỳ rung chuyển ngôi nhà. Họ chạy ra ngoài. Chiếc Aorai đang nằm tê liệt cách bờ khoảng chừng một dặm, bị đầy đọa bởi thứ mặt biển độc ác, điên cuồng. Gió thổi theo hướng đông bắc, như giận dữ chỉ muốn bứt nó khỏi các dây neo, ném nó tan tành vào các bờ đá san hô. Một trong các thủy thủ trên xuồng giơ tay ra hiệu cho Raoul và chỉ vào miệng chiếc kênh hẹp, lối ra vô của các xuồng. Họ nhắm mắt, lắc đầu cho thấy sự thất vọng. Chàng nhìn thấy những lớp bọt trắng xóa, cuồn cuộn, hỗn loạn đổ từ ngoài vào.
- Cháu e đêm này phải ở lại đây ngủ nhờ thuyền trưởng quá!
- Tôi cũng mong mọi người qua một giấc ngủ bình an.
Trước khi trở lại với thuyền trưởng, chàng ghé xuống bãi bảo người thủy thủ kéo xuồng lên bãi, tìm chỗ trú ẩn cho chính anh ta và cho các bạn.
- Hai mươi chín đúng!- Thuyền trưởng trở vô coi lại phong vũ biểu rồi xách ra ngoài hai chiếc ghế.
Họ ngồi trước cửa nhà, lo ngại nhìn quang cảnh mặt biển. Mặt trời đã ra khỏi đám mây, làm gia tăng sự oi nồng của ngày nhiệt đới, nhưng cái tĩnh lặng chết chóc vẫn lẩn khuất và biển mỗi lúc một thêm vẻ nghiêm trọng.
Raoul bồn chồn, lo ngại:
- Cái gì đến với biển thì cũng là đến với cháu. Gia tài, cơ nghiệp! Bác thấy đấy, trời không có gió, lúc mưa lúc tạnh thật kỳ lạ!
Từ nhiều dặm xa ngoài khơi, một tiếng rền vang giống như động đất mang theo hàng chục ngàn tấn sức nặng đụng vào bờ cát san hô mong manh che chắn hòn đảo. Thân hình ông già bật lên, nhảy nhổm rồi lại té ngồi xuống ghế:
- Chúa nhân lành! Chuyện gì vậy?
Raoul cũng té xuống ghế. Chàng ngạc nhiên:
- Cháu không hiểu. Trời không có gió...
Rồi chàng giải thích:
- Nếu gió thì có thể đó là sóng...
Ông già thở dài, nhăn mặt lắc đầu:
- Đừng vội, lát nữa thể nào cũng có gió đủ để cho cậu phải lo ngại.
Họ ngồi im lặng. Mồ hôi đọng trên mặt trước còn là vô vàn những giọt li ti, sau to dần, kết hợp với nhau thành những giọt lớn và rơi xuống đất. Bầu không khí nghẹt ngụa, khó thở. Nhất là ông già, vốn bị bệnh suyễn, mọi cố gắng của ông chỉ là để thở một cách khó nhọc.
Sóng thần đã xóa bỏ được cái bờ đê cao hơn đảo không còn vết tích. Bây giờ nước biển ào lên, rất nhanh. Nó tràn chung quanh các thân cây dừa và hướng về phía hai người.
- Con đường này cao hơn mực nước. Tôi đã ở đây mười một năm nay...
Ông coi đồng hồ:
- Ba giờ chiều.
Một người đàn ông, một người đàn bà, dưới chân họ lắt nhắt nào là con nít, nào là chó lớn chó con và các đồ đạc, lếch thếch đi lên. Họ tới khoảng đất trống ở phía hiên nhà, sau khi lưỡng lự bèn ngồi xuống cát. Ít phút sau, lại một gia đình khác kéo đến từ phía đối diện, đàn ông, đàn bà mang theo các thứ hỗn tạp. Và chẳng bao lâu hàng mấy trăm người đủ mọi lứa tuổi bồng bế con nít lếch thếch đi tới. Họ gọi nhau ơi ới, kiếm chỗ ngồi trên hàng hiên hoặc bất cứ chỗ nào còn rộng chung quanh căn nhà. Một chị ẵm đứa con mới sanh trên tay, trả lời với người khác rằng cái chòi nhà chị đã bị sóng quét xuống hồ. Lúc ấy đang là cao điểm trong mùa mò ngọc, thổ dân từ các đảo chung quanh, ngay cả đảo xa như Tahiti cũng tới sinh sống. Mặc dầu ngôi nhà của vị thuyền trưởng là nơi cao nhất trong mấy dặm gần đấy nhưng biển đã phá vỡ phòng tuyến thiên nhiên là cái lươn cát che chắn bên ngoài, tình trạng rất đáng lo ngại.
- Có một ngàn hai trăm người gồm đàn ông, đàn bà kể cả trẻ con ở đây. Tôi tự hỏi đến sáng ngày mai thì con số đó còn lại được bao nhiêu.
- Nhưng tại sao lại không có gió? Theo cháu nghĩ, phải có gió thì mới có sóng và nước mới trào lên nguy hiểm như vậy.
- Đừng nóng, chàng trẻ tuổi, đừng nóng, trong chốc lát cả cậu lẫn tôi và mọi người sẽ khốn khổ chẳng biết có toàn mạng được hay không, không lâu đâu.
Giữa lúc vị thuyền trưởng đang nói thì một khối nước lớn cuồn cuộn dội vào đảo. Lập tức mực nước tóe lên, đẩy lớp nước cũ ngập tới chân ghế khoảng hơn một tấc. Những người đàn bà than vãn, lo âu, ánh mắt ai oán. Nhiều đứa trẻ con nhìn thấy mặt nước mênh mông, bám chặt lấy mẹ, sợ hãi khóc ré. Gà và mèo chạy loạn xạ. Theo bản năng riêng, chúng bay hoặc tìm cách leo lên mái nhà của vị thuyền trưởng để tránh tai nạn. Một thổ dân gốc Pomotan tay ôm một cái thúng đựng ổ chó con mới đẻ, tay kia bám, cố leo lên ngọn cây dừa cao hơn sáu mét. Con chó mẹ lúng túng trong nước ở phía dưới gốc và kêu ăng ẳng.
Mặt trời lại chiếu sáng và sự tĩnh lặng chết chóc vẫn tiếp tục. Vị thuyền trưởng nhìn thấy chiếc Aorai nhấp nhô trên mặt biển điên cuồng, lúc trồi lúc sụt chống cự với sóng. Những quả núi nước lù lù đi tới hướng về phía đảo. Ông lấy tay che mặt, không muốn trông thấy gì thêm, đứng ngẩn ngơ suy nghĩ rồi đi vào trong nhà.
Lúc trở ra, ông nói một mình:
- Hai mươi tám sáu mươi.
Trong tay ông là một cuộn dây thừng loại nhỏ sợi. Ông cắt ra, cứ hai sải một sợi, đưa cho Raoul một sợi, giữ cho mình một sợi còn thì chia cho mọi người và dặn họ cách sử dụng để leo lên cây.
Một luồng không khí nhẹ bắt đầu thổi theo hướng đông bắc, quạt mát hiu hiu trên má làm cho Raoul phấn chấn hơn. Chàng trông thấy đuôi chiếc Aorai quay vào phía trong và đang cố gắng ra khơi. Chàng ân hận mình không có mặt trên đó bởi vì biết nó sẽ tìm mọi cách lánh nạn với bất cứ giá nào. Nhưng hòn đảo...
Một luồng nước biển xô tới quét ngập dưới chân. Chàng ngó một thân cây cao định lội tới, song chợt nhớ tới chiếc phong vũ biểu nên bèn quay trở lại, gặp thuyền trưởng Lynch cũng đang lội và cả hai cùng đi vào.
- Hai mươi tám hai mươi. - thuyền trưởng lo lắng. Đúng là một địa ngục - tiếng gì vậy?
Không khí dường như căng phồng với sự cuồng nộ của cái gì đó. Ngôi nhà chuyển động, rung lên răng rắc. Những cánh cửa sổ bật tung, vô số miếng kính văng ra, vỡ nát. Một luồng gió ào tới xô mạnh, xoáy cuộn khiến họ lảo đảo. Chiếc cửa lớn ở phía đối diện gập lại đánh rầm, vỡ tan từng mảnh. Quả đấm sứ rơi xuống sàn. Các bức tường dường như không chịu nổi sức ép, thi nhau nứt toác. Thuyền trưởng đưa mắt nhìn đồng hồ. Bốn giờ đúng. Ông mặc chiếc áo hoa tiêu lên mình, gỡ chiếc phong vũ biểu bỏ vào trong túi. Gió vẫn tiếp tục gầm rú, ngôi nhà xiêu vẹo rồi sụm xuống, một đầu nằm trên tường, một đầu nằm dưới đất làm thành một góc mười độ, lỏng chỏng.
Raoul ra trước. Gió cuốn lấy chàng làm chàng lảo đảo và kéo chàng đi. Chàng biết nó lôi mình về phía đông nên cúi gập người xuống, quỳ phục, hai tay mò xuống dưới nước bấu lấy mặt cát, cố gắng chống cự. Thuyền trưởng Lynch già cả, bị nó lôi như một bó rơm, ngã sấp nằm trên mình chàng và cố bám chặt lấy chàng. Hai thủy thủ của chiếc Aorai rời thân cây dừa mà họ đã leo, tụt xuống, bò trên mặt nước tới cứu. Ông già gân cốt yếu không leo lên được. Họ dùng dây thừng cột ông vào lưng họ. Người phía trên bám, người phía dưới nay, cứ thế họ nhích từng đoạn và kéo ông lên trên ngọn cây dừa cao mười lăm mét.
Raoul choàng sợi dây của mình vào gốc một cây phụ cận, hai đầu dây cột trên bụng rồi đứng nhìn lên. Gió rít dễ sợ. Chưa bao giờ chàng nghĩ nó có thể thổi mạnh đến thế. Sóng biển xô lên đảo, ngập tới đầu gối trước khi rút xuống hồ. Mặt trời đã lặn, hoàng hôn màu chì rùng rợn. Một ít hột mưa bay ngang, đập vào mặt chàng giống như những viên đạn nhỏ. Hàng bao nhiêu người leo lên các ngọn cây, chĩu chịt như¬ những chùm dừa. Và rồi thì, vốn sinh ra ở Tahiti, chàng cũng leo theo cách leo của thổ dân không mấy khó khăn. Trên ngọn cây đã có một người đàn ông, hai người đàn bà và hai đứa trẻ . Đứa con gái nhỏ tay ôm con mèo.
Từ chỗ lánh nạn Raoul vẫy vị thuyền trưởng. Ông cũng vẫy lại ra hiệu. Bầu trời xuống thấp gần như sát đầu, lúc trước màu chì, bây giờ màu đen. Nhiều người còn ở dưới đất không leo lên được. Họ tụ tập tại các gốc cây và bám lấy nhau cho gió khỏi cuốn, vừa kêu khóc vừa cầu nguyện. Tiếng kinh cầu của đạo Mormon trong hoàn cảnh này nghe rất thê thảm.
Gió vẫn tiếp tục gầm rú mỗi lúc càng thêm điên cuồng. Một thân cây trốc gốc đổ rạp đem theo chùm người. Những lớp sóng chồm lên cuốn họ xuống hồ, chàng chỉ trông thấy thấp thoáng vài mảng da nâu, vài cái đầu màu đen chới với, giẫy giụa. Nhiều cây khác cũng đổ hoặc bị gió đánh gãy, trên cây có những chùm người. Cây của chàng nghiêng ngả, rạp hẳn xuống rồi lại bật lên, đầu lá chạm tới mặt nước. Hai người đàn bà khóc; một người ôm chặt đứa con gái còn nó thì vẫn giữ chặt con mèo.
Người đàn ông ôm đứa con trai khẽ bấm Raoul, chỉ tay về phía trước mặt. Chàng nhìn theo. Ngôi nhà thờ Mormon bị bứt khỏi nền, cứ thế bị gió đem đi, lôi về phía biển. Những làn sóng chồm tới, nó nghiêng ngả, đụng vào các thân cây dừa trên đó chi chít những chùm người, họ rụng xuống, lóp ngóp và bị chôn vùi như những con kiến trên mặt nước. Không phải là sự sợ hãi nữa mà là kinh hoàng. Những làn sóng khổng lồ cứ xô đẩy làm ngôi nhà thờ vần lăn, nhô lên thụp xuống cho đến khi bị vùi xuống biển.
Chàng nhìn về phía ngôi nhà của vị thuyền trưởng. Nó cũng đã biến mất. Chàng bất ngờ nhìn sang chỗ thuyền trưởng Lynch đúng lúc sự việc xẩy ra. Thân cây gãy đôi, tan vụn ở chỗ bị bẻ không có tiếng động. Phần ngọn với ba thuỷ thủ của chiếc Aorai và vị thuyền trưởng già bay về phía hồ. Nó không rơi xuống đất mà bị cuốn trong không khí giống như chiếc diều. Chàng dõi theo con đường nó bay, khoảng một trăm mét trước khi rơi xuống mặt sóng. Chàng nhìn trân trối và có cảm giác lúc gặp tai nạn, vị thuyền trưởng già giơ tay giã biệt.
Raoul không còn trông đợi vào điều gì nữa. Chàng đụng vào người thổ dân ra hiệu trụt xuống đất. Người đàn ông muốn xuống, nhưng hai người vợ hoàn toàn tê liệt vì quá khiếp đảm. Anh ta từ chối, ở lại với họ. Raoul choàng sợi dây chung quanh thân cây, trụt xuống. Chân chưa đụng đất, lập tức một đợt sóng nước mặn trùm lên đầu chàng. Chàng nhắm mắt, ngậm miệng và hai tay bám chắc sợi dây một cách tuyệt vọng. Làn sóng qua đi, chàng ngoi lên để thở và cột lại sợi dây kỹ hơn, một đầu vào thân cây, một đầu vào bụng. Lại một làn sóng khác xô tới dìm hàng xuống. Một trong hai người đàn bà cũng xuống, bám vào sợi dây của chàng; người đàn ông ở lại với người đàn bà kia cùng hai đứa nhỏ và con mèo. Raoul đã để ý tại sao những nhóm bám ở gốc cây đằng kia lại cứ mất bớt người đi. Phải níu thật chặt và đủ sức chịu đựng.. Đằng này chàng may mắn có sợi dây nhưng về sức khỏe, đã mệt lắm rồi, cả người đàn bà cũng mệt vì bị dìm lên dìm xuống. Mỗi lần trồi lên chàng lại ngạc nhiên thấy mình vẫn còn đấy, và, tiếp theo, ngạc nhiên thấy người đàn bà vẫn còn đấy, bám được sợi dây. Nhưng cuối cùng, khi chàng trồi lên thì chỉ thấy có một mình mình đơn độc. Chàng nhìn lên. ngọn cây đã gãy và bay đi mất. Nửa thân cây còn lại bị cụt, rung động. Chàng chưa chết. Cây vẫn bám vừng. Chàng vỡ lẽ ra rằng cây cụt ít bị gió đánh mạnh bằng cây có ngọn. Vậy là chàng bắt đầu trèo lên. Chàng yếu đến nỗi leo từng khoảng một rất chậm, sóng đánh vào lưng chàng, muốn lôi chàng xuống nhưng chàng đã có sợi dây và từ vô thức, chàng ôm rất chắc.
Khi đã leo được lên trên, chàng dùng sợi dây quấn mình vào thân cây và cột thật chặt. Xong, thân thể chàng cứng ngắc và đầu óc chàng rũ liệt, hai tay ôm phần cây gẫy, gục trên cánh tay, chàng rơi vào trạng thái u mê rồi không biết gì nữa.
*
Cao điểm của trận cuồng phong kéo dài từ mười một giờ đêm tới ba giờ sáng. Gia đình Mapuhi núp trên ngọn cây dứa dại (Pandanus, giống với cây cọ nhưng thuộc họ Dứa- Pandanaceae.-ND). Nó bị gió đánh gãy ngay lúc mười một giờ và bị nước cuốn. Mapuhi trồi trên mặt hồ, tay vẫn nắm chặt con bé N’gakura. Chỉ dân các đảo Nam Mỹ chuyên nghề mò ngọc mới sống nổi trong tình trạng bị dìm dưới nước như thế. Cây dứa dại nơi hắn cột mình bị xoáy cuộn trong các lớp sóng, trở ngang trở dọc, chìm tới chìm lui. Cứ lúc nó chìm xuống thì hắn buông tay, nổi lên và giữ cho cái đầu hắn với đầu con bé N’gakura ở trên mặt nước để thở. Lúc nó nổi lên, hắn bám thật nhanh chỉ một tay thôi, tay kia phải nắm con bé. Nhưng thở rất khó, không khí toàn hơi nước và bọt nước mặn của các lớp sóng, lại mưa nữa, mưa chéo góc bắn vào mặt hắn.
Mười dặm ngang qua mặt hồ là vòng cát san hô. Ở đấy nhấp nhô các thân cây, xác xuồng, xác nhà; mười người sống sót trên mặt hồ thì đến chín người bị đập vào những thứ hỗn tạp đó mà chết. Nhưng Mapuhi gặp may. Sự may mắn của hắn thuộc một trong mười phần, chỉ con bé N’gakura bị thương, gãy cánh tay trái, các ngón tay mặt bị nghiền, mặt và trán toác tới tận xương. Hắn bám được một cây cụt hãy còn đứng và trèo lên, mang theo đứa con gái, cột mình vào đó trong khi nước hồ tràn tới đầu gối, lúc cao thì tới ngang bụng.
Đến ba giờ sáng thì cơn cuồng phong dịu bớt. Năm giờ sáng chỉ còn những cơn gió nhẹ. Sáu giờ sáng hoàn toàn yên lặng và mặt trời ló dạng. Biển đã rút. Từ trên bờ còn lại của hồ nước mặn, Mapuhi nhìn thấy xác chết cùng khắp. Không nghi ngờ gì nữa, chắc chắc Tefara vợ hắn và Nauri mẹ hắn có trong số đó. Hắn đi dọc bờ biển tìm kiếm và thấy vợ hắn nửa nằm trên cát, nửa nằm dưới nước. Hắn ngồi xuống, đấm ngực, vò đầu bứt tai khóc ồ ồ như tiếng rống của một con vật thời nguyên thủy. Vợ hắn mở mắt một cách khó nhọc và chép chép miệng than vãn. Hắn nhìn kỹ hơn. Chẳng những vợ hắn sống sót mà còn không có một tí thương tích. Nàng ngủ giấc ngủ hiếm có. Và, nàng cũng thuộc số một phần mười may mắn.
*
Cùng lúc ấy, Nauri, người đã bị trận cuồng phong tách khỏi gia đình và bị quét đi, đang phiêu lưu một cuộc phiêu lưu lạ lùng trong đời mụ. Bám được mảnh gỗ thô đã đụng vào mụ và làm mụ bị thương, khắp người trầy sứt, mụ bị đẩy khỏi hồ rồi trôi ra biển. Ở đấy, những quả núi nước làm mụ tuột mất miếng ván. Mụ đã gần sáu mươi tuổi. Nhưng mụ là dân Pomotus và chưa bao giờ rời khỏi biển. Vậy thì mụ bơi tay không, bơi trong đêm tối, nghẹt thở vì tuổi già, nghẹt thở vì không khí đẫm hơi nước, chống cự với sóng, với bão. Bỗng, vai mụ đụng phải một quả dừa còn nguyên cả cành. Đầu óc mụ chợt nẩy ra một kế hoạch, mụ nắm lấy nó. Trong giờ sau mụ tóm thêm được bảy trái nữa, túm chúng lại với nhau kẹp hai bên nách làm thành chiếc phao bơi. Mụ là một bà già mập, xoay trở nặng nề hơn bà già ốm. Nhưng mụ có kinh nghiệm về biển. Và, trong khi vừa bơi vừa cầu nguyện thần cá mập của mụ che chở mụ khỏi gặp những con cá mập thì mụ cũng cầu mong cho cơn bão tan đi.
Nhưng đến gần ba giờ sáng, bão vẫn chưa tan làm mụ mệt nhoài, gần như rơi vào trạng thái hôn mê. Gần sáu giờ sáng, cơn bão ngừng, mặt trời đã mọc. Mụ bị sốc, ý thức trở lại khi đụng bãi cát. Mụ bấu cả tay cả chân xuống cát ướt để cố bò lên vì sợ nước lại lôi mụ xuống nữa.
Mụ biết mụ đang ở đâu. Cái đảo bé tí teo này không gì khác hơn là đảo Takokota. Nó chẳng có vũng biển và cũng chẳng có ai sống trên đó. Nó cách đảo Hikueru khoảng mười lăm dặm. Mụ không thể nhìn thấy đảo Hikueru nhưng mụ biết nó nằm ở phía nam.
Nhiều ngày trôi qua. Mụ sống nhờ những trái dừa đã vớ được trong lúc trôi giạt. Nhưng mụ không dám ăn đầy đủ như ý mụ muốn. Mụ không dám uống đầy đủ như ý mụ muốn. Việc cứu nạn là một vấn đề. Mụ nhìn thấy khói của những chiếc tàu cứu nạn ở nơi chân trời, nhưng làm sao người ta có thể nghĩ mụ đang ở đây, trên hòn đảo Takokota bé tí không người ở này?
Từ đầu mụ đã khốn khổ vì các xác chết. Biển nhất định ném chúng lên bãi cát bé tí của mụ. Mụ nhất định đẩy chúng trở ra. Ở đây, hàng đàn cá mập tha hồ đánh chén no nê. Nhưng mụ đẩy riết cũng mệt, không còn sức nữa mà nay cũng không kịp. Xác chết giăng mắc la liệt tới mức độ khủng khiếp. Mụ bèn rút lui vào trong, nhưng đâu có xa được bao nhiêu, hòn đảo quá nhỏ.
Đến ngày thứ mười thì dừa cũng hết. Người mụ tóp đi vì khát. Mụ lang thang trên bãi tìm dừa. Một điều lạ là xác chết thì nhiều nhưng lại không có dừa. Chắc chắn dừa phải nhiều hơn người chết chứ! Cuối cùng mụ chán nản bèn ngồi xuống thở vì kiệt quệ. Thế là hết, không còn cách chi ngoài việc chờ chết.
Bỗng, mụ để ý thấy cái đầu của một xác chết đang dập dình ở dưới mép nước. Mái tóc màu hung hung đỏ giống với màu cát trông rất quen. Cái xác nằm ngửa, không có mặt. Nhưng mụ đang chờ chết, xác người đàn ông đó là ai đối với mụ cũng chẳng quan trọng.
Một lúc sau, mụ uể oải đứng dậy, tự nhiên bước tới nhìn kỹ hơn. Đúng, mụ nghĩ đúng, cái xác tóc đỏ ấy không thể thuộc về dân Pomotus tóc đen. Đó là Levy, lão nhà buôn người Đức gốc Do Thái mập ú đã mua lại viên ngọc và đem đi trên chiếc Hira. Ồ, vậy thì đã rõ: chiếc Hira đã tiêu tùng, vị thánh quan thầy nghề đánh cá và nghề trộm cắp đã quay mặt đi với lão.
Mụ cúi xuống xác chết. Chiếc áo sơ mi rách nát nên mụ trông thấy sợi dây nịt to bản bằng da có các ngăn đựng tiền của lão thắt ở trên bụng. Mụ bịt mũi lại, cố nín thở và tháo cái khóa ở đầu sợi dây. Nó mở dễ dàng hơn mụ trông đợi. Và mụ mau mau rời khỏi cái xác đã trương phình, bước vội lên bãi, kéo lê sợi dây nịt ở đằng sau. Từng ngăn một, mụ mở nút bấm, sục sạo, chỉ thấy tiền chứ không thấy "nó". Vậy "nó" ở đâu? Mãi tới ngăn cuối cùng mụ mới thấy nó, một cục, gói ghém cẩn thận: viên ngọc đầu tiên và duy nhất mà lão đã mua trong cuộc hành trình.
Mụ đi xa ra để tránh mùi xú uế từ sợi dây nịt và miếng khăn gói, đem rửa sạch rồi cân nhắc nặng nhẹ trên tay. Đó chính là viên ngọc Mapuhi đã mò được và bị lão Toriki tước đoạt. Mụ cứ ngắm nghía, ve vuốt nó mãi, quên cả đói khát. Từ viên ngọc ấy, mụ không thấy đẹp nhưng thấy ngôi nhà mà mụ, thằng Mapuhi và Tefara đã từng bàn tính với nhau, xây trong trí óc rất cẩn thận không thiếu một chi tiết nào tại đảo Fakarava. Cứ nhìn ngắm nó mụ lại thấy hiện rõ chiếc đồng hồ tám cạnh thật đẹp treo trên tường, bên dưới có cục tròn tròn lắc qua lắc lại. Đời thật đáng sống.
Mụ xé một dải vải từ chiếc ahu và cột viên ngọc thật cẩn thận quanh cổ. Bây giờ thì mụ hăng hái lắm. Mụ đi khắp đảo tìm dừa. Mụ thấy một trái, và, nhìn chung quanh, mụ lại thấy thêm một trái nữa. Mụ đập một trái, uống nước. Nó đã có mùi chua nhưng vẫn tốt chán. Mụ ăn cơm dừa. Tự nhiên mụ mạnh mẽ hẳn lên. Chỉ một lát sau mụ tìm thấy một chiếc xuồng hỏng. Chân thuyền [1] giữ thăng bằng của nó đã mất nhưng mụ vẫn hy vọng. Quả nhiên đến chiều thì mụ tìm thấy cái chân thuyền. Những vật đó khiến mụ tăng thêm phấn khởi. Viên ngọc thật đúng là lá bùa hộ mệnh.
Hôm sau mụ trông thấy một chiếc thùng gỗ mấp mé mặt nước. Kéo lên thấy bên trong còn sót mười hộp cá mòi. Mụ mở một hộp bằng cách đập lên thành xuồng. Hộp móp méo, chảy nước. Mụ hút lấy thứ nước béo ngậy đối với mụ là cao lương mỹ vị ấy. Mụ dùng hàng tiếng đồng hồ để mở rộng lỗ thủng, moi từng chút cá một cách kiên nhẫn .
Tám ngày dài mụ mong có sự cứu giúp. Nhưng tám ngày đó mụ không ngồi yên. Mụ bện dây thừng bằng xơ dừa, kể cả phần còn lại của chiếc ahu, dùng để cột chiếc chân thuyền mụ đã tìm được vào xuồng. Một vài chỗ nứt trên xuồng thì mụ chịu thua. Mụ nhét đỡ bằng xơ dừa và đem theo một gáo dừa để tát nước khi cần. Khó nhất là làm mái chèo. Mụ dùng một mảnh lon cắt tóc đến tận sát da đầu. Mụ dùng tóc bện một sợi dây; rồi dùng nó cột một đoạn cán dài ba foot vào một mảnh ván của hộp đựng cá hồi.
Mụ dùng răng gặm những mảnh gỗ thành những cái nêm và dùng chúng nêm vào dây cột mái chèo.
Vào ngày thứ mười tám, nửa đêm, mụ "hạ thủy" chiếc xuồng, bắt đầu trở lại đảo Hikueru với lương thực gồm hai hộp cá mòi còn lại. Mụ là một bà già gần sáu mươi tuổi. Sự cực nhọc đã lấy hết mỡ của mụ chỉ để lại da bọc xương, nhăn nhúm như con ma đói. Chiếc xuồng quá lớn, đáng lẽ ít nhất phải ba người đàn ông khỏe mạnh chèo, bây giờ mụ chỉ có một thân một mình với chiếc mái chèo ngắn ngủn tự chế tạo lấy. Xuồng lại rò rỉ một cách tệ hại nên một phần ba thời gian mụ phải dùng để tát nước. Vậy mà đến sáng mụ đã lờ mờ nhìn thấy đảo Hikueru. Mặt trời thiêu đốt thân thể hoàn toàn trần trụi của mụ, ép khô hết nước. Hai hộp cá mòi để đấy lâu lâu mụ chỉ nhấm nháp bởi vì không có thì giờ moi cá. Dòng nước chảy về phía tây, mụ xuôi theo phía tây, xem có cách nào đến được phía nam không.
Vào khoảng xế chiều, mụ đứng thẳng người trong xuồng nhìn Hikueru. Cảnh xum xuê của những cây dừa cây bây giờ không còn nữa. Đây đó, rải rác những thân cây cụt hoặc bị đổ gãy nằm hỗn độn, thê lương, tàn tạ. Cả đảo không còn lấy một ngôi nhà hoặc một chiếc chòi nguyên vẹn, chỉ có những chỗ người ta đào cát, khum lên, che đỡ một miếng gì đó ở tạm. Dù sao hòn đảo thân yêu cũng làm mụ phấn khởi, mụ thấy mình đã gần với nó hơn so với dự đoán. Nhưng dòng nước cứ tiếp tục chảy xuôi về phía tây trong khi đảo ở phía nam. Mụ vội vã chèo. Mảnh gỗ làm chèo xộc xệch rồi bị tuột ra. Mụ mất thì giờ cột lại nhưng nó vẫn xộc xệch, chèo được vài nhát lại tuột. Một trong ba tiếng đồng hồ mụ phải ngừng tay để sửa bơi chèo, lo việc tát nước. Suốt thời gian đó xuồng tiếp tục bị đưa về tây. Đến nhá nhem tối, mụ thấy Hikueru đã cách mình khoảng ba dặm về phía đông nam, vậy là mụ đã bị đưa xuống phía dưới, càng lúc càng xa với đảo. Trăng mọc. Mụ xa thêm hai dặm nữa.
Mụ cố gắng chống cự nhưng vô ích, nước vào quá nhiều, mụ lo tát nước thì chiếc xuồng chỉ càng bị đưa về phía tây hơn nữa mà thôi. Không còn cách nào khác, mụ cầu nguyện thần cá mập che chở cho mụ rồi bỏ xuồng, trụt xuống nước và bắt đầu bơi ngược lại, chênh chếch về hướng đông nam. Thân thể mụ mát mẻ. Mụ mau chóng bỏ xa chiếc xuồng. Sau một tiếng đồng hồ, hòn đảo đến gần trông thấy. Nhưng bỗng mụ sợ hãi tột độ: ngay trước mặt mụ, cách khoảng năm sáu thước, vây một con cá mập lù lù xuất hiện, nhô trên mặt nước. Mụ lại đang bơi về phía nó mới chết. Nó cắt ngang qua trước mặt mụ một cách chậm chạp, đánh một vòng rộng và từ từ lượn chung quanh mụ. Lúc cái vây hình tam giác trầm xuống, mụ úp mặt dưới nước mở mắt ngó trộm nhưng chẳng trông thấy gì hết. Lúc nó nổi lên ở phía sau, mụ ra sức bơi nhanh hơn. Con quái vật này lười- mụ thấy rõ điều đó. Chắc nó đã no nê xác chết trên biển do trận cuồng phong gây ra. Nếu đói, nó đã không lưỡng lự gì mà không nhào vào mụ. Nó dài ít nhất năm thước, mụ hiểu chỉ một cái tợp của nó, thân thể mụ sẽ đứt đôi ngay lập tức. Nhưng mụ không có cách nào chọn lựa. Nếu không cố gắng bơi tiếp, nước sẽ kéo mụ lại – cũng thế cả thôi.
Sau khoảng nửa tiếng đồng hồ quan sát, không thấy động tĩnh gì, con quái vật trở thành bạo dạn. Nó tiến lại gần mụ và lượn thành vòng hẹp hơn. Nếu cứ để như vậy đằng nào cũng chết, nó sẽ "đớp chơi" mụ dù bụng đã no. Mụ phải ra tay trước. Đó là một hành động liều lĩnh mà mụ đã suy nghĩ rất kỹ. Mụ đã già, một mình ở trên mặt biển, kiệt sức vì đói khát và quá cực khổ; giờ đây, trong cơn nguy hiểm, đối diện với con quái vật, mắt nó đang tho lỏ nhìn mụ, lưỡng lự, thay vì nó xông vào mụ thì mụ sẽ xông vào nó trước. Nó cách mụ khoảng hai mét. Mụ bơi vòng vòng hơi xích về phía đuôi nó thật nhanh và làm ầm ầm giả bộ tấn công rồi liều mạng giơ bàn tay của một bà già, nắm tay đấm vào phía sau gần lưng nó một cái. Con quái vật giật mình, quẫy đuôi, cứ thế lặn xuống, chuồn thẳng, lát sau biến mất. Cái đuôi như giấy nhám của nó quất mạnh đến nỗi làm mụ đau rát. Từ chỗ khuỷu tay tới bả vai mụ bị tuột da, lòi thịt.
*
Trong cái hũng đào dưới cát, bên trên che vài miếng gỗ và thiếc đã nhặt nhạnh được, Mapuhi và Tefara đang nằm cãi cọ. Họ gây với nhau lần này là lần thứ một ngàn rồi.
- Nếu làm như lời tôi nói thì đâu đến nỗi. Tôi đã bảo phải giấu viên ngọc đừng cho ai biết. Nếu giữ kín bây giờ hãy còn.
- Nhưng Huruhuru nó rình mò khi tôi mở sò. Nó rình mò tất cả mọi người khi họ mở sò, tôi đã chẳng nói vậy nhiều lần, rất nhiều lần rồi sao.
- Bây giờ thì không có nhà, không có máy khâu, không có đồng hồ, không có gì cả. Sáng nay Raoul mới bảo tôi nếu đừng bán viên ngọc cho Toriki...
- Tôi không bán. Toriki ăn cướp của tôi.
- Raoul bảo nếu còn viên ngọc, cậu ấy có thể mua với giá năm ngàn đồng tiền vàng Pháp, tức mười ngàn đô la Chi Lê.
- Tại vì cậu ấy đã về bảo với mẹ cậu ấy. Mẹ cậu ấy bảo cậu ấy có thể mua viên ngọc với giá đó. Bà ấy muốn mua...
- Bây giờ nó mất . .
- Nhưng tôi đã trả nợ được cho Toriki, nó là một ngàn hai trăm và hai trăm tiền tín phiếu, cộng một trăm tiền cho thêm.
- Toriki đã chết. Không ai nghe nói gì về tàu của ông ta. Nó đã mất cùng với chiếc Aorai và chiếc Hira. Toriki có trả cho anh ba trăm đô la tín phiếu như lời nói không? Không, bởi vì Toriki đã chết. Nếu anh không có viên ngọc, anh có phải trả nợ cho Toriki không? Không, bởi vì Toriki đã chết. Anh không phải trả nợ cho một người đã chết.
- Nhưng Levy chưa trả tiền Toriki. Ông ta viết cho Toriki một miếng giấy. Miếng giấy đó tốt ở Papitty vì có thể lãnh được tiền, mà không tốt ở Hikueru vì không lãnh được tiền. Miếng giấy ấy đã mất theo Toriki, và viên ngọc mất theo Levy.
-Mình nói rất đúng, Tefara. Tôi mất viên ngọc mà chả được gì cả. Bây giờ hãy để yên cho tôi ngủ.
Bỗng Mapuhi lắng tai nghe ngóng. Có tiếng người thở nặng nề và tiếng rên rỉ đau đớn. Một bàn tay quờ quạng sờ lên tấm thảm che tạm làm cửa. Bàn tay đó gầy guộc, run rẩy khiến anh sợ hãi:
- Ai đó?
- Nauri. Tiếng trả lời. Cậu có thể nói tôi biết Mapuhi, con trai tôi đâu không?
Tefara co rúm người lại, bám chặt lấy chồng, khe khẽ thì thầm nói không ra tiếng:
- Ma! Tefara lập cập, Một con ma.
Mapuhi mặt vàng ệch, cũng run lập cập ôm lấy vợ.
- Này bà người tốt, anh nói ấp úng, cố gắng giấu giọng nói thật của mình. Tôi biết con trai của bà mà. Cậu ta ở phía đông vũng biển ấy…
Bên ngoài có tiếng thở dài. Mapuhi bắt đầu cảm thấy phấn chấn. Anh đã lừa được hồn ma.
“Nhưng bà từ đâu đến vậy, bà già?” anh hỏi.
“Từ biển,” tiếng trả lời chán nản.
"Biết ngay mà! Biết ngay mà!" Tefara hét lên, lẩy bẩy.
“Từ khi nào Tefara lại ngủ trong một ngôi nhà xa lạ vậy?” giọng nói của Nauri xuyên qua tấm thảm che cửa.
Mapuhi nhìn vợ vừa sợ hãi vừa trách móc. Chính giọng nói của cô đã khiến họ bại lộ.
“Và từ khi nào Mapuhi, con trai mẹ, lại chối bỏ mẹ già của nó?” giọng nói tiếp tục.
"Không, không, tôi không có--Mapuhi không từ chối bà," anh kêu lên. "Tôi không phải Mapuhi.
Tôi đã nói với bà rồi mà, cậu ta đang ở mỏm đông của vũng biển.”
Ngakura ngồi dậy trên giường và bắt đầu khóc. Tấm thảm bắt đầu động đậy.
"Bà đang làm gì thế?" Mapuhi gặng hỏi.
“Mẹ đang vào đây,” tiếng Nauri trả lời.
"Linh hồn" vạch tấm thảm lết vào, trên mình ướt nước và không có lấy cả chiếc ahu nữa. Tefara chúi chặt người vào chồng, nhắm nghiền hai mắt, còn con bé N’gakura thì trùm kín chiếc mền mỏng lên đầu. Nó sợ quá nên khóc.
- Con đuổi mẹ đi nhưng ít nhất cũng phải cho mẹ già của con một miếng nước. Mẹ khát khô cổ họng...
Tefara run rẩy giục chồng:
- Lấy cho linh hồn miếng nước.
Mapuhi giục con bé N’gukura:
- Lấy cho linh hồn miếng nước.
Cả hai vợ chồng bèn giựt chiếc mền, đẩy con bé N’gakura ra ngoài.
Một lát sau, con bé N’gukura quay mặt đi, tay đưa gáo nước. "Linh hồn" uống lấy uống để nhưng vẫn còn khát. Mapuhi lấy thêm rồi đánh bạo sờ vào cánh tay "linh hồn" thì quả thấy có da bọc xương thật.
Đến lúc bà già kể lại chuyện phiêu lưu ở biển, gặp cái xác Levy và tìm thấy viên ngọc thì cả hai người cứ sát lại mà nghe, không còn sợ ma nữa. Bà cởi viên ngọc đeo trên cổ, bỏ vào trong tay Tefara, chị thấy bà đúng là bà Nauri, mẹ chồng của chị.
- Sáng hôm nay Raoul nói sẽ mua với giá năm ngàn đồng tiền vàng Pháp.
Bà Nauri ngạc nhiên:
- Thế còn cái nhà?
- Raoul bằng lòng xây nhà. Raoul bảo nó giá bốn ngàn tiền vàng, còn lại một ngàn cậu ấy sẽ trả bằng tín phiếu, đưa hàng trừ dần.
- Và cái nhà sẽ dài sáu sải?
- Đúng thế, sáu sải. - Mapuhi trả lời thay vợ.
- Trên tường có cái đồng hồ tám cạnh?
- Đúng thế, đồng hồ tám cạnh. Giữa phòng có chiếc bàn tròn.
Người con dâu nói thêm:
- Tất nhiên có cái máy khâu và đủ thứ hết, cộng thêm một ngàn đồng vàng tín phiếu.
Bà già kết luận:
- Bây giờ thì kiếm gì cho mẹ ăn cái đã, mẹ đói lắm. Mai sẽ nói tiếp suốt ngày về cái nhà. Nhưng tốt nhất là lấy một ngàn đồng vàng Pháp tức hai ngàn đồng Chi Lê bằng tiền mặt. Tiền mặt tốt hơn tín phiếu vì có thể mua mọi thứ của các tàu buôn. Họ thích được trả bằng tiền mặt.
[1] Chân thuyền (tiếng Anh: outrigger, giống như chân chống của thuyền, giúp thuyền không bị lật.
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com