Nhà văn Đỗ Phước Tiến
Chân Dung Kẻ Sĩ: Một trích đoạn cũ là truyện ngắn đăng trên Tuổi Trẻ Chủ Nhật năm 1996, bốn năm sau khi tác phẩm Đảo của dân ngụ cư của nhà văn gốc Đà Nẵng gây sự chú ý trên văn đàn.
Cũng may cho Đắc Kỷ, đó là ngọn đèn cuối cùng còn lại trong hậu đài, bởi vì cái kiểu ngồi lửng lơ trên nắp thùng gỗ đựng đồ hoá trang mà khóc của cô trông rất quái dị. Trong bóng tối, nỗi lòng của mỹ nhân mặc sức tuôn tràn dưới chiếc áo choàng cũ còn để lại một góc bên bậc cửa. Đã hai lần tôi bắt gặp Đắc Kỷ khóc. Một lần dưới ánh sáng và một lần trong bóng tối. Lần nào cũng đang ngồi trên nắp thùng gỗ, cứ như là chính ở đó cô sẽ tìm thấy nước mắt của mình. Tôi chưa thấy ai khóc như Đắc Kỷ bao giờ, vừa quái dị lại vừa dữ, trách gì ngọn đèn đã lụn bấc. Tôi làm bộ rít lên : tránh ra cho người ta dọn dẹp. Góc áo choàng thụt vào : đồ ngu. Y hệt lần trước, khi vần u còn chưa kịp đi hết chiều dài bậc cửa, tôi đã bước một chân ra ngoài, và cười. Từ nay mỹ nhân muốn khóc cứ khóc, chẳng còn ngọn đèn nào nữa, chỗ tốt nhất để khóc sẽ mãi mãi ở trong bóng tối.
Trên sàn gỗ, thầy Lá đang cuốn tấm màn lớn để đón gió từ đầm nước thổi vào. Đầm nước ngay trước mặt, dài và hẹp, bờ bên kia là thị trấn với những ngôi nhà thấp, lặng gắt và xanh biếc dưới ánh trăng. Lâu lâu thầy Lá lại cuốn tấm màn lên một lần, để đón gió và để đuổi kiến trên sàn gỗ. Lâu lâu thôi, và trong bóng tối mờ mịt, khi đêm diễn đã tàn. Sáng ngày mai những người đi gỡ lưới trên đầm nước đã thấy tấm màn buông xuống như cũ. Tấm màn như chiếc áo choàng của Đắc Kỷ, môi lần cuộn lên là bụi bay mù mịt. Bụi sẽ bay trên lưng thầy Lá, bay trên những mẩu xương vai cong cong, nơi có xăm hình một con quạ đã bị nhổ trụi lông. Rồi bụi sẽ bay luẩn quẩn trên những cái ghế người ta bỏ lại để chiếm chỗ cho đêm diễn ngày mai. Những cái ghế bằng gỗ vụn, cao cao thấp thấp. Ban đầu nó được xếp kín đáo trong đám cỏ dại. Đắc Kỷ diễn càng lâu, mấy cái ghế càng tiến gần lại sàn gỗ, từng đêm chiếm dần những chỗ tốt nhất. Những đêm mệt mỏi tôi hay thơ thẩn tới gần thị trấn, đem theo mấy cái ghế rồi quăng thật xa ra giữa đầm nước. Chờ một lát để nghe động tĩnh, rồi tôi quay về, ngủ một giấc đầy sầu muộn. Chỉ một đêm thôi, chiều hôm sau những cái ghế đã kịp khô ráo, tự nhiên xếp thành hàng ngang trước sàn gỗ như chưa bao giờ ngủ qua đêm với mấy con rắn nước, với những con cá trắng vẩy xanh lấp lánh và nhưng con chuột đồng dài thượt, lông vàng như những trái xoài tượng. Trong hậu đài, thầy Lá vừa bôi sáp lên mặt vừa đếm mấy cái ghế qua khe hở tấm màn: uổng công mày. Rồi một đêm dằng dặc bắt đầu khi sàn gỗ đã giãn hết các thớ thịt, và kêu lên cót két trong lúc nhận thêm lớp bụi mới từ mặt Đắc Kỷ theo mồ hôi rớt xuống. Mồ hôi lòng ròng gói kín những hạt bụi rơi chầm chậm trong lúc thêm lớp bụi mới từ mặt Đắc Kỷ theo mồ hôi rớt xuống. Mồ hôi lòng ròng gói kín những hạt bụi rơi chầm chậm trong lúc cô run rẩy trong chiếc áo choàng: ôi, gió đâu thổi lạnh ghê người. Bụi bắn tung tóe khi thầy Lá vừa nhảy tưng tưng vừa nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống Đắc Kỷ. Bên dưới những cái ghế nghiêng qua ngả lại. Ghế cao ngửa ra sau: cảnh này hồ ly phải cong đuôi lên chớ, tối qua có cong mà. Ghế thấp chồm tới trước: Đắc Kỷ bụng to quá rồi, to quá rồi. Tất cả âm thanh chói lói đó được gói kín trong khoảng không im vắng của đầm nước, bị dồn cục dưới hai ngọn đèn treo tít trên đỉnh tấm màn. Hai ngọn đèn cuối cùng cho tất cả mọi người, một vàng như lông chuột đồng và một xanh biếc như ánh trăng.
Từ ngày dọn về diễn bên cạnh đầm nước, tôi chưa bao giờ thấy thầy Lá và Đắc Kỷ tập vở. Lớp hồ ly nhập xác Đắc Kỷ trên đường tới chỗ vua Trụ hai người diễn như cháo chảy, không cần tập nữa. Đêm diễn đầu tiên, cảnh Đắc Kỷ nằm vắt trên vai thầy Lá để cho ông chạy lòng vòng quanh sàn gỗ làm cho người ta khoái ghê gớm. Lần này người ta chỉ để ý tới chi tiết, diễn lâu dần lại thấy nhợn. Cái bụng mới đầu còn lép xẹp của Đắc Kỷ co giãn trên những mẩu xương vai của thầy Lá, nơi có xăm hình con quạ, co giãn miệt mài. Cảnh đó gọi là phép đổi hồn, đêm nào cũng đổi hồn. Mỗi lần ông bầu từ thị trấn ghé qua, thầy Lá lại bóng gió xa xôi. Rằng ông già rồi đâu có thể vác Đắc Kỷ chạy hoài được. Ông bầu ậm ừ, ngó qua một lượt, rồi đi. Có lẽ tôi là người cuối cùng ông bầu kiếm được chuyện để nói. Sao mà mấy cái bấc đèn mau lụn quá vậy ? Đi mà đóng lại cái sàn cho chắc, nó kêu to vậy mà nghe được à? Sao mà bột hóa trang mau hết quá vậy ? Ông hỏi đâu quên đó, chẳng ngó đâu tới hai lần, hết hỏi rồi đi, dẫn theo Đắc Kỷ. Bao giờ cũng vậy, Đắc Kỷ đi một lát rồi về, có khi đi tới sáng. Đi lặng lẽ về cũng lặng lẽ, hơi thở nặng hơn bước chân. Nhiều khi Đắc Kỷ quay về, vừa thở phì phì vữa xỉa răng. Rõ ràng trong chuyện này ông bầu là đồ ngớ ngẩn. Không biết bao nhiêu lần tôi nhìn thấy Đắc Kỷ chà rửa hàm răng giả của cô bên đầm nước, vào những buổi chiều rực hàm răng giả của cô bên đầm nước, vào những buổi chiều rực sáng lấp lánh bởi những con cá trắng vẩy xanh nổi lên mặt nước tìm mồi. Chỉ có thây Lá là người giận dữ nhiều nhất trong chuyện này. Ông đi lại chậm chạp trên sàn gỗ, tới nửa đêm thì cuốn tấm màn lên, rồi bắt đầu đuổi kiến.
Thầy Lá có bộ dạng của thằng ăn trộm, những lúc nào cũng xử sự như kẻ bị mất cắp. Ông nổi giận đùng đùng khi buổi sáng thức dậy thấy tôi hay Đắc Kỷ ngồi dật dờ trên sàn gỗ. Rồi ông lại cười hắc hắc như một con vượn khi thấy tôi đang ngấu nghiến cái gì đó, mồ hôi ròng ròng trong khi bên ngoài đang lắc rắc giọt mưa ngâu. Đắc Kỷ giải thích là nghề nó tạo ra người. Tôi không tin lắm. Lẽ nào con người ta chỉ làm mỗi một nghề cho tới già, tới chết? Vậy thì chán lắm. Nhưng mà cứ thay đổi hình dạng liên miên, đến nỗi mình cũng không nhớ mình từng là cái gì thì còn tệ hơn là không làm gì hết. Đồ ngu, mỹ nhân lại rủa. Cũng được, đi là phải tới nơi, hoặc là đừng có đi. Hồi xưa, thầy Lá từng làm nghề thủy thủ, đi nhiều nơi lắm. Thời đó dầu còn nhiều lắm, chưa có khan hiếm như bây giờ. Tàu chở dầu của thầy Lá chạy rất xa, tới tận cái nơi mà nước biển còn mặn hơn cả muối. Nơi đó người ta làm nhà ở cũng thấp, nhưng trổ bao nhiêu là cửa, làm một lần ở tới mấy đời người. Nơi đó đàn ông ria thì vểnh lên còn đàn bà vừa mập vừa đen, không giống một chút nào với Đặc Kỷ vừa ốm vừa trắng. Những người đàn bà vừa mập vừa đen sống rất đầy đủ, những cái bấc đèn của họ không bao giờ lụn vi cạn dầu. Họ nấu nướng cung bằng dầu, đuối kiến cũng bằng dầu. Món ăn thường xuyên của họ là thịt quạ. Những con quạ mập ú vì được nuôi nấng tử tế. Chúng ngủ trên bậc cửa, trên ống khói và trên đầu giường của những ông râu vểnh. Buổi sáng thức dậy, họ cứ chụp đại một con quạ nào đứng gần đó rồi nhổ từ từ từng cái lông một cho tới khi cái con vật bạc phước đó kiệt sức vì gào thét và tím tái cả người vì khủng khiếp. Những con quạ bị nhổ hết lông rồi được thả đi lăng quăng trong nhà cho tới chiều tối, trong lúc chủ của nó lo chuẩn bị sữa và ớt. Trong những quán ăn gần bến tàu, thầy Lá vẫn hay bắt gặp những con quạ bị nhổ trụi lông như vậy, nó đứng xo ro vì lạnh, ngơ ngẩn nhìn mấy con quạ lông đen nhánh đang đứng oai vệ trên bậc cửa. Thầy Lá giải thích người ta làm vậy vì hai lý do. Một là để thịt quạ hết mùi hôi, hai là để khi ăn, họ không phải áy náy. Không bay được thì đâu còn là con quạ, đâu còn là thứ sinh vật quen thuộc vẫn từng ngủ chung giường với mình. Thịt quạ và ca hát, đó là hai thứ đam mê của những người đàn ông râu vểnh, đam mê vô tận. Họ ca hát quanh năm suốt tháng thay vì đi ra biển lấy muối. Họ hát nhiều đến nỗi phải thường xuyên thay đây đàn để giữ giọng. Những dây đàn không ngân nữa được treo gọn gàng trong bếp, dành để siết cổ những con quạ đã bị nhổ trụi lông vào lúc chiều tối. Sau đó những con quạ sạch sẽ được thả vào nồi trong tư thế không có đầu. Dù sao nếu ăn thử vài lần nhất định phải ghiền, thầy Lá nói vậy, sườn quạ hầm nhừ với sữa, vừa ngọt vừa cay, ăn no rồi nhưng nhìn những con quạ khác còn đứng trên ống khói vẫn cứ chảy nước miếng. Ăn một tô thôi, người đã thấy bừng bừng, chỉ muốn kiếm cớ sờ mó nhưng người đàn bà có cái hông mặn mà như biển, những người đàn bà vừa mập vừa đen, ở cạnh biển cả đời mà chẳng biết biển là cái gì. Cung được, thầy Lá tắc lưỡi, rồi cũng qua hết đêm dài, rồi cũng trôi hết một đời trai. Tôi thở dài, và thắt cả ruột. Nhưng dù sao tôi cũng không thích ăn thịt quạ. Thầy Lá cười tươi rói: đâu có ai tự nhiên thích ăn, cốt là cho hết đói, chớ khi mày vật con Đắc Kỷ ra, mày có thích không?
Thầy Lá đã từng đi nhiều nơi, và từng đi rất xa. Rồi khi quay về, ông lại càng giống chính mình hơn cả lúc chưa đi. Bới vì có những thứ không cần giữ vẫn còn, còn mãi mãi. Bởi vì ông nội và cha thầy Lá không từng đi đâu hết. Mỗi sáng họ chỉ đi từ nhà ra cánh đồng, miệt mài, xong việc rồi về. Thầy Lá kể vậy.
Tôi với Đắc Kỷ thì khác. Chúng tôi ở gần nhau từ nhỏ, quen mùi nhau rất nhanh mà ghét nhau cũng quá là tàn tệ. Nhưng đó là chuyện bây giờ. Cái thời thầy Lá còn rong ruổi trên mấy cái tàu dầu, tôi với Đắc Kỷ mới là hai đứa con nít. Chẳng biết làm gì, và để khỏi vướng chân người lớn, hai đứa chui rúc suốt ngày ở một góc hậu đài, vật lộn túi bụi cho phỉ sức. Hồi đó trong cái góc của chúng tôi còn có một ô cửa tròn nằm tít trên cao. Đối với hai đứa con nít, ô cửa quá cao mà chỉ vào những đêm trời thật xanh ánh trăng mới ghé vào được một lát. Một lát thôi, rồi trăng lại chậm rãi chui ra khỏi ô cửa, rồi đi, dù đang là một đêm mưa. Trời mưa càng lâu, càng mát, tôi với Đắc Kỷ vật nhau càng dữ tợn, vì còn phải biết làm gì. Tạnh mưa, hai đứa thay phiên cõng nhau nhìn qua ô cửa. Những lúc đó bên ngoài rất đẹp, đẹp hơn cả lúc chưa có mưa. Một khoảng không xanh nhạt, mát lạnh, không có nơi bắt đầu và cũng chẳng có điểm kết thúc. Bao giờ tới phiên Đắc Kỷ cõng tôi là y như rằng sẽ có hai cha con người đàn ông đi gỡ lưới từ dầm nước trở về ngang qua ô cửa. Ngày ấy đầm nước còn ở tít tận nơi xa và hai cha con người đàn ông phải đi rất xa, rất lâu, khi trận mưa mới tới hồi kịch liệt nhất. Ấy vậy mà có khi mưa lại không đủ sức đánh thức mấy con cá trắng vẩy xanh, có khi họ trở về với tấm lưới không. Họ đi rầu rĩ giữa khoảng không màu xanh nhạt vô hồn vô thanh, trên vai thằng nhỏ vác một cái bao lớn nhốt những con chuột đồng mà họ đã bắt dọc đường trở về để thế mạng cho mấy con cá trắng lười biếng. Hai cha con người đàn ông cũng đi ngang qua ô cửa, và cũng đi chậm như ánh trăng. Rồi họ sẽ đi về hướng ngược lại với ô cửa của tôi, của Đắc Kỷ, tôi đoán vậy. Bởi vì phía đó là rừng, là nơi những hàng cây thấp thấp cao cao đang chờ họ về, chất ngất âu sầu khi trời đã tạnh mưa. Ở đó họ sẽ nướng mấy con chuột đồng trên một gốc cây đang cháy, trong khi những túm lông vàng bay ngơ ngẩn quanh những gốc cây khác. Thằng nhỏ không thích ăn mấy con chuột còn quá nhỏ, lông chưa kịp đổi màu. Dọc đường trở về, thằng nhỏ lẳng lặng thả mấy con chuột nhỏ nhất trong bao ra bằng cách cho nó bò theo cánh tay. Mừng rỡ vì thoát chết, mấy con chuột lông màu đất bé xíu nhảy lưng tưng chung quanh thằng nhỏ, làm người đàn ông giật mình. Ông ta giận dữ giật cái bao trên vai thằng nhỏ, thọc trọn cái đầu già khú của mình vào miệng bao và đếm. Trong khi ngọ nguậy cái đầu trong bao cùng lũ chuột, một tay người đàn ông rờ rẫm trên đầu thằng nhỏ, và dừng ở đỉnh đầu nó. Phát hiện thiếu bao nhiêu chuột, mấy đốt xương tay của người đàn ông cắm chừng ấy lần xuống đỉnh đầu thằng nhỏ, đều đặn và hình như rất mạnh. Qua ô cửa, tôi thấy thằng nhỏ đang le lưỡi, và cười. Còn mấy cái cú trừng trị của người đàn ông thì lại làm cho khoảng không xanh nhạt phía sau dợn sóng từng hồi. Tới phiên tôi cõng Đắc Kỷ, cứ nhớ lại cảnh đó phía dưới ngực của tôi lại đau thắt, chân tay bủn rủn. Cuối cùng hai đứa lăn đùng ra, đau đớn thêm một lần nữa vì va đập xuống nên đất. Đắc Kỷ vữa xoa trán vừa nhìn tôi trừng trừng, gần như là không hiểu: mày, đồ ngu.
Từ nhỏ, tôi với Đắc Kỷ đã không có điều gì chung để chia sẻ. Từ khi có thầy Lá, mọi sự còn rắc rối thêm. Thầy Lá dạy cho tôi đủ thứ, dạy tất cả những gì không thuộc về tôi. Vì vậy, chỉ có mình tôi kêu ông bằng thầy. Còn Đắc Kỷ thấy tôi phải học nhiều quá lại càng tin chắc rằng tôi rất ngu. Tôi căm ghét Đắc Kỷ và cô cũng vậy, điều này cả hai đứa đều biết. Chỉ có điều này một minh tôi biết, rằng tôi thèm muốn Đắc Kỷ ghê gớm, và chưa bao giờ nguôi. Tôi giữ gìn được điều này rất lâu, kể cả với Đắc Kỷ, bởi vì tôi sinh ra sau tấm màn ngăn sàn gỗ với đầm nước, với thị trấn và với mấy cái ghế cao cao thấp thấp kia. Đó là cái duy nhất thuộc về tôi, và thầy Lá không cần phải dạy. Mỗi buổi tối trước khi bước ra sàn gỗ, Đắc Kỷ phải ngồi im rất lâu cho tôi đắp bột hóa trang lên những vết rỗ trên mặt cô. Sau đó là một lớp bột khác, màu đỏ đã được làm lạt bớt bằng nước lạnh. Một ít mực trên chân mày và một ít sáp quanh miệng, vậy là mỹ nhân còn lộng lẫy hơn cả ban ngày. Công việc này kích thích tôi mỗi ngày. Lòng căm ghét và dục vọng giống như mấy cái cú của người đàn ông bị mất miếng ăn cứ giáng lên đầu tôi mỗi ngày, còn tôi lại chỉ có một mình giữa khoảng không màu xanh nhạt, cố gắng cười khi bị đau. Sau khi được bôi tất cả các thứ cần bôi lên mặt, Đắc Kỷ vẫn là Đắc Kỷ, chỉ có tôi là thay đổi. Những con người ngồi chờ tấm màn cuốn lên mỗi đêm trên mấy cái ghế can cao thấp thấp, đàn ông chẳng ra đàn ông, đàn bà chẳng ra đàn bà, làm sao biết được trên mặt Đắc Kỷ có bao nhiêu vết rỗ. Còn tôi thì biết. Họ gào lên vì nhận ra bụng Đắc Kỷ to lên mỗi ngày, tưởng đó chính là điều bí mật ly kỳ. Còn tôi lại chẳng muốn thấy, chẳng muốn biết Đắc Kỷ đã làm gì tới nông nỗi vậy. Cái bụng lép kẹp của Đắc Kỷ chà xát trên vai thầy Lá trong những cảnh đổi hồn trước kia mới là cái đáng lẽ thuộc về tôi, nhưng tôi đã không giữ được. Thầy Lá giỏi hơn tôi nhiều.
Ngày ông bầu dẫn Đắc Kỷ ra thị trấn sinh, trời rất sáng và lắc rắc giọt mưa ngâu. Tôi giúp thầy Lá tháo tấm màn xuống, rồi đem ra giũ rất lâu trên đầm nước. Không cần thiết, đã tới lúc thay màn mới rồi. Nhưng phải làm một cái gì đó, còn hơn ngồi không và chờ đợi. Tôi đóng đi đóng lại mấy cây đinh trên sàn gỗ chán rồi lại sửa soạn cho mấy ngọn đèn. Rốt cuộc cả buổi chiều tôi chẳng còn gì để làm. Tôi ngồi lì trên sàn gỗ một mình bởi vì thầy Lá cũng đi ra thị trấn mất rồi, cố gắng hãm bớt mấy cái hắt hơi vô duyên và ngóng cổ nhìn ra đầm nước. Có thể Đắc Kỷ bất ngờ trở về, với cái bụng lép kẹp, biết đâu Tôi mong cô về ghê gớm, dù với bộ mặt phởn phơ như trước kia mỗi lần ra thị trấn với ông bầu. Cô sẽ về với hai con mắt sáng quắc, miệng thở phì phì trong khi vẫn ngậm ve vẩy cây tăm. Rồi mỹ nhân sẽ nhìn tôi đang ủ rũ trên sàn gỗ, cười chế giễu: đồ ngu. Đó sẽ là điềm lành. Và mọi thứ đâu sẽ vào đó.
Buổi tối nhìn ra thị trấn chỉ thấy lờ mờ những đường kẻ ngang dọc, đứt đoạn và lỗ chỗ. Đó là những ngôi nhà thấp đang tự phát sáng trên cái nền trời xanh thẫm mỏng manh mà chỉ một giọt mưa cũng đủ làm nó dợn sóng. Tôi mò mẫm tới gần thị trấn đem theo hết số ghế còn để lại. Một buổi chiều mệt mỏi nhất đã đi qua. Tôi đứng chờ rất lâu, cố đoán thử Đắc Kỷ đang ở đâu giữa cái nền xanh thẫm mỏng manh kia. Không đoán nổi. Tôi cởi áo và làm luôn công việc cuối cùng trong ngày. Lần này tôi lội một đoạn ra giữa đầm nước, rồi lấy hết sức lực quăng mấy cái ghế đi. Trong thinh không, chẳng có động tĩnh gì ngoài tiếng rít của tôi vọng lại từng hồi: cút mẹ tụi mày đi.
Khi tôi trở về đã quá nửa khuya. Tôi đi thẳng ra sau hậu đài. Chắc chắn Đắc Kỷ đang ở đó. Không còn ngọn đèn nào nữa và tôi đang nghe những giọt nước mắt rơi lộp bộp trên nắp thùng gỗ. Nghe quen lắm. Từ ngày những ngọn đèn thay nhau lụn bấc, tôi đã quen nghe mọi thứ chung quanh bằng cảm giác. Cũng dễ thôi, những thứ chung quanh một đời người có nhiều lắm đâu. Tự nhiên cái mất đi lại là cái chưa bao giờ được nghe, được thấy, và được nhận. Và tôi lại hớn
hở như lần đầu tiên bắt gặp Đắc Kỷ khóc: tránh ra cho người ta dọn dẹp. Những giọt nước mắt ngừng rơi. Không có áo choàng để thụt vào, chỉ có tiếng thầy Lá run run trên nắp thùng gỗ. Nghĩa là ông đã ngồi ở đó từ lâu rồi, và dĩ nhiên đang đợi tôi: một thằng cu, mày ơi, một thằng cu mà, trời ơi là trói !
x
Khi liệm thằng nhỏ, người ta chặn chung quanh nó bao nhiêu là giấy. Rồi đắp thêm bao nhiêu nữa ở trên. Mùa mưa sắp tới rồi và ai cũng nghĩ thằng nhỏ sẽ khó chịu được hơi ẩm của đầm nước. Thầy Lá quyết định rất nhanh. Ông dựng luôn một cái chòi cho hai người, ông và thằng nhỏ, ở bờ bên kia của đầm nước. Dĩ nhiên là thầy Lá bỏ nghề luôn. Tôi tập mãi cũng không vào được vai hồ ly tinh, vậy là lớp đổi hồn Đắc Kỷ phải bỏ. Cũng không sao, ông bầu đã có vở mới. Ông còn thay cả tấm màn và bấc đèn. Một tháng chờ cho Đắc Kỷ lại người, tôi khởi sự vai diễn đầu tiên của mình với một cái áo vàng dài lượt thượt có đính những vảy xanh to như vảy cá. Lớp Đắc Kỷ, Trụ Vương không phải tập nhiều lần, vì tôi với Đắc Kỷ đã sắm vai này từ nhỏ, chỉ tiếc không còn cái ghế nào cho Trụ vương làm ngai vàng.
TTCN, 15-9-1996
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com