chan_dung-ke_si

CON TRÂU – Truyện dài Trần Tiêu - Phần 1

23-02-2025

Lượt xem 1926

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Trần Tiêu

CON TRÂU – Truyện dài Trần Tiêu - Phần 1

Nhà văn Trần Tiêu (1900-1954)

Chân Dung Kẻ Sĩ: Dưới sự khuyến khích của anh trai là nhà văn Khái Hưng (Trần Khánh Giư), nhà văn Trần Tiêu viết văn khi đã 36 tuổi. Ông có quan hệ mật thiết với Tự Lực Văn Đoàn của Khái Hưng, nhưng chỉ chuyên viết về đời sống nông thôn Việt Nam. Con Trâu là truyện dài kỳ đăng trên báo Ngày nay bắt đầu từ số 140 ra ngày 10/12/1938, sau đó NXB Đời nay in thành sách năm 1940, trở thành một trong những tiểu thuyết sớm nhất viết về đề tài nông thôn Việt Nam.

Nhà văn Trần Tiêu còn là cha của giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Bảng và là ông nội của diễn viên, đạo diễn Trần Lực.

 

MỤC ĐỒNG

- Nghé ơ ơ… ơ ơ nghé… nghé!

Thằng Tửu ngồi trên mình trâu gọi nghé. Con trâu mẹ kêu mấy tiếng “nghé ọ!”, và chân vẫn thản nhiên, đều đều bước một trên con đường đất gồ ghề.

Xa xa, cánh đồng cỏ nhấp nhô những mả. Một con nghé đứng sững, cất đầu ngơ ngác nhìn, đen sẫm in lên nền trời đỏ.

Bỗng nó nhảy quẫng mấy cái rồi vừa chạy vừa nhảy như một đứa trẻ nghịch ngợm, nó đến theo sau mẹ nó, thỉnh thoảng lại kêu mấy tiếng “nghé ọ” còn non nớt.

Ánh đỏ dịu dần, đã đổi sang màu tím và tím nhạt… Một ngôi sao lấp lánh trên màn trời lam tối. Vài con chim bay. Chuông chùa thong thả buông rơi từng giọt buồn vào trong khoảng yên lặng, một thứ yên lặng thiêng liêng của cảnh hoàng hôn nơi thôn dã.

Bọn mục đồng về sớm đã rẽ vào con đường làng lát gạch. Ngồi uể oải trên mình trâu, chúng nó bàn soạn công việc tế đức Vua ngày mai, đức Vua của chúng nó, đức Vua “Cuốn chiếu”.

Tục truyền Vua “Cuốn chiếu” là một ông lão nghèo khổ. Mùa đông, tháng giá, ông thường khoác manh chiếu làm áo tơi, đi co ro trên bờ đầm, bờ sông câu cá.

Một hôm, rét quá, chịu không nổi, ông nằm chết co quắp ở cạnh cái quán ngói thuộc về làng Tiên. Rồi ông linh thiêng báo mộng cho dân làng ấy biết rằng ông đã được Ngọc Hoàng ban cho tước Vương và bắt dân lập đền thờ, nếu không thờ sẽ động. Ho không biết danh hiệu ông là gì, chỉ thấy ông chết cuộn tròn trong chiếc chiếu rách nên đặt tên ông là Vua “Cuốn chiếu”.

Đền ông làm ngay trên đê, quay mặt ra sông Hóa. Trẻ mục đồng thường qua lại đấy chăn trâu dưới bãi. Chúng thấy đền Vua “Cuốn chiếu” linh thiêng, bèn họp nhau đóng tiền tế mỗi năm một lần vào ngày mười hai tháng tám để Vua phù hộ cho trâu, cho người khỏe mạnh. Từ đấy có cái lệ đóng góp của bọn mục đồng.

Thằng Tý cất tiếng hỏi:

- Này, năm nay đứa nào làm trùm, chúng mày?

Thằng Tín vừa giựt dây thừng xỏ qua mũi trâu để trâu khỏi đứng lại ăn cỏ ở vệ đường, vừa nói:

- Lại thằng Đục chứ còn ai!

Thằng Mùi nằm sấp trên mình trâu, bỗng ngồi nhổm dậy:

- Này, chúng bay! Sao chúng mình không bầu lần lượt mỗi năm một thằng?

Tý cãi:

- Mày nói dở lắm. Thằng Đục nó chăn trâu đã mười năm nay, trước hết cả bọn mình thì cố nhiên nó lên làm trùm. Lệ bao giờ chả thế!

Thằng Còn đi đầu, ngồi xoay ngược lại nói:

- Chúng mày lôi thôi lắm. Trùm với chẳng trùm thì được thêm cái “đếch” gì… Với lại, trừ nó ra thì thằng cóc nào biết làm đại bái. - Nó vừa nói vừa cười chế nhạo cả bọn.

Thằng Chắt, đứa trẻ nghịch ngợm nhất, đứng trên mình trâu nhìn trước nhìn sau, có ý tìm thằng Tửu. Vì Tửu hát hay có tiếng trong làng. Giọng nó trong như giọng con gái. Thường thường, về chiều yên lặng, nó cất tiếng hát. Cả bọn đều lắng tai nghe. Có nhiều đứa khẽ hát theo để học.

Nghe thấy thằng Còn nói thế, thằng Chắt ngồi xuống nắm tay đấm mạnh lên mình trâu làm con vật sợ, rảo bước.

- Mẹ kiếp! Thử để ông làm trùm xem ông có học được làm đại bái không? Khó chó gì. Cứ việc lên chiếu trên, xuống chiếu dưới, rồi lễ, rồi quỵ, theo lời thông xướng…

Thằng Còn cười:

- Mày nói như đấm vào họng người ta ấy. Nếu cứ dễ như mày tưởng thì quan vơn nhiều ông đã chẳng bị những cái thẻ vào trong tay áo*.

Thẻ bắt lỗi.

Thằng Mùi:

- Thôi chúng mày hãy xếp việc ấy lại. Bây giờ ta hãy bàn đến chuyện tiền nong đã…

Thằng Tý ngắt lời:

- Thế hôm qua họp ở đền nhà Vua, mày không có đấy à?

- Không. Hôm qua tao bận xay lúa vì chị tao phải theo bà tao đi đong thóc ở trên Hu.

- Chúng tao đã bàn đi bàn lại rồi. Năm nay cứ nhà nào một trâu thì đóng ba hào, nhà hai trâu thì đóng năm hào. Từ con thứ ba trở đi, mỗi con đóng thêm một hào, chứ không như mọi năm nhà ông cán Thận ba trâu mà cũng chỉ đóng có ba hào như mọi người.

Thằng Mùi vỗ tay nói:

- Thế thì cỗ năm nay hẳn to, chúng mày nhỉ? À, năm nay nhà nào “đăng cai” hở chúng mày? Bọn chúng nó ở cõi Hùng, ở khu trong đã biết chưa?

- Hôm qua chúng nó cũng đến họp cả ở nhà Vua. Năm nay đến lượt ông Lý Quỳnh đăng cai. Nhà ông ấy rộng, lại có sân gạch. Xem ý ông ta bằng lòng lắm. Ông ta muốn dành ra hai mâm để mời bảy ông bạn đến đánh chén.

- Cứ kể ra thì lệ nhà “đăng cai” chỉ được một mâm với nửa chai rượu… À này, chúng mày, còn biếu xén các nhà có trâu ra làm sao? Cũng như mọi năm chứ?

- Ừ, cũng như mọi năm, mỗi người một phẩm oản, một quả chuối. Còn miếng thịt thì liệu xem con lợn to nhỏ thế nào đã. Nếu to thì ta cắt dầy thêm một tý.

- Lợn năm nay thì hẳn là to, vì thêm ra bao nhiêu tiền!

- Mày đã chắc à? Tao thấy nói lợn năm nay đắt lắm cơ. Rồi tối nay hỏi thằng trùm sẽ biết. Chác nó đã nhờ ông Lý Quỳnh mua hộ rồi.

Qua nhà xã Nháu bán hàng nước, một con trâu, con trâu của thằng Tín đứng lại bậy ra đấy. Vợ xã Nháu ở trong nhà bước ra chửi rủa om sòm.

Cả bọn vừa cười vừa nói:

- Rồi chúng tôi hót, làm gì mà nhặng lên thế!

Chúng nói thế nhưng rồi chẳng đứa nào hót. Vì thế mà mỗi khi đàn trâu đi qua, ít ra cũng có một vài bãi phân trâu trên con đường lát gạch của làng.

Thằng Chắt không quên thằng Tửu, hỏi:

- Quái! Thằng Tửu đâu ấy, chúng mày nhỉ?

Không thấy bọn kia trả lời, nó nói tiếp:

- Đã lâu nay, ít khi nó về cùng với chúng mình. Thằng cha đọc chúc thì hay lạ! Cụ Lý Hiểu đọc đã vị tất bằng nó, chúng mày nhỉ?

Hai, ba đứa cùng đáp:

- Giọng nó như thế thì ai bì được!

Thằng Chắt vẫn băn khoăn về cái chức đại bái. Không phải vì nó thích danh giá nhưng vì nó có tính tò mò, nghịch ngợm:

- Hay chúng mày cứ bầu tao làm đại bái, có lỗi tao chịu.

Thằng Còn cười, nói:

- Mày thì để khi nào có đánh nhau với bọn mục đồng bên Hạc Ngang như độ nọ, chúng tao sẽ bầu lên làm tướng. Và khi nào phải bơi qua sông, lẻn vào chùa Bến nẩy trộm mít…

Tiếng cười ồ. Thằng Chắt cũng cười theo và nói thêm:

- Cái đó đã hẳn! Nhưng ông lại còn muốn làm đại bái nữa cơ.

Cả bọn nhao nhao:

- Cái đó thì xin ông tướng hãy xếp lại.

Thằng Mịch, bé và hiền lành nhất trong bọn từ nãy vẫn ngồi yên trên mình trâu, tỉ mỉ xếp cái long đình bằng những cuống rạ tươi, nói xen:

- Anh Chắt ạ, anh chớ nghịch thế, lỡ gặp phải đức Ông thiêng như đức Ông chùa Bến thì chết.

Thằng Tý cười nói:

- Mầy cho ông tướng mục đồng là bé à? Sử Đồng Tử giáng sinh đấy!

Thằng Chắt đứng sừng sững trên mình trâu, hai tay chống cạnh sườn, phồng má, trợn mắt ra oai.

Thằng Tín chỉ thằng Chắt, nói:

- Mịch! Mày trông ông tướng kia kìa. Oai không?

Thằng Mịch giọng thực thà:

- Oai gì chẳng biết. Tôi chỉ biết bu tôi kể chuyện: ngày xưa có một thằng bé chăn trâu ăn trộm bưởi ở vườn chùa Bến, bị đức Ông ngài trói vào gốc cau suốt một ngày trời. Bố mẹ phải đem trầu cau, vàng hương đến khấn xin ngài, mãi ngài mới tha cho. Anh Chắt thử đến đấy mà lấy trộm xem?

Thằng Tý cười, nói ghẹo:

- Đã thế, chúng mình bắt thằng Mịch vào chùa Bến ăn trộm bưởi.

Cả bọn vỗ tay reo:

- A a… phải đấy! Phải đấy!

Thằng Mịch tưởng thật ngồi khóc.

Đàn trâu không để ý đến những tiếng cười reo của đàn trẻ. Con nào con nấy thủng thỉnh bước một. Đôi mắt to và lờ đờ như nghĩ ngợi gì. Hai tai phe phẩy chậm chạp, đuôi đập sườn bên này sang sườn bên kia đuổi muỗi.

*

*   *

Thằng Tửu đã rẽ vào cõi Hùng từ ban nãy để được gặp cái Mít đi bán dầu hỏa và kim chỉ ở cõi Ba về.

Thoạt nhìn thấy từ đằng xa cái bóng đen đi lại, nó đã cất giọng hát câu “đường trường”. Vì nó biết Mít thích nghe câu ấy lắm.

Mít năm nay mười sáu mà trông cao lớn bằng đứa mười tám đôi mươi. Mặt kháu khỉnh. Miệng lúc nào cũng cười, không phải để khoe hàm răng đen láy với đôi má lúm đồng tiền, nó cười luôn chỉ vì tính nó hay cười.

Nghe thấy tiếng Tửu hát, Mít đặt gánh xuống vệ đường khẽ khép lại tà áo, vuốt lại dải lưng xanh, sửa lại vành khăn cho ngay ngắn rồi tủm tỉm cười, đứng đợi.

Con trâu và con nghé theo sau dừng lại, ăn cỏ.

- Anh Tửu đấy à?

- Chị Mít đấy, phải không?

- Ừ, tôi đây. Sao anh lại đi đường này? Có xa thêm ra không? - Mít vừa nói vừa cười ranh mãnh.

Tửu đỏ mặt nói gượng:

- Tôi thích đi đường này vì nó vắng dễ đi.

Mít vẫn nụ cười ranh mãnh:

- À ra thế cơ đấy! Tôi lại cứ tưởng… À này, đến rằm tháng tám anh lại đi hát đúm ở làng Tiên đấy chứ?

- Có, Mít có đi không?

- Tôi đi để chúng nó ghẹo như năm ngoái ấy à? Tôi chả dám đi.

- Cứ đi, Mít ạ, lần này tôi kéo thằng Chắt, chúng nó không dám ghẹo nữa.

- Nếu thế thì tôi… chả đi.

Nói xong, Mít đặt gánh lên vai vừa đi vừa cười khúc khích. Nhưng được vài bước, Mít quay lại nói to:

- Đùa đấy! Thế nào rồi tôi cũng đi với anh. Tửu trả lời bằng một câu hát. Tiếng hát lanh lảnh rót vào tai Mít, Mít lẩm bẩm: “Mình mà có cái giọng như giọng Tửu…” Mít bỗng tự ngượng, cười một mình.

Mít về đến cổng đã thấy ba đứa trẻ, đứa nào cũng chỉ mặc một manh áo cộc nâu, không có quần, chạy lại reo: “Quà đâu chị Mít?”

Mít mở cái bồ con lấy ba củ khoai lim đưa cho mỗi đứa một củ. Nó đã khéo chọn ba củ bằng nhau để các em khỏi tranh giành. Được quà, chúng sung sướng thi nhau chạy khắp sân. Mấy con dơi bay ngoắt ngoéo để bắt muỗi như cũng nô đùa với lũ trẻ.

Bác Chính gái ngồi ở thềm với chồng, đứng dậy, hai tay phủi đũng váy rồi đi lại chỗ con:

- Buôn bán lời lãi gì mà hoang thế? Hôm nào cũng quà, hết tiền lấy gì mà ăn?

Mít cười, nói:

- Có gì mà bu bảo hoang? Một chinh ba củ, chúng nó ăn thì lại đỡ tốn cơm chứ sao!

Ngừng một lát, Mít nói tiếp:

- Bu ạ, hôm nay đắt hàng, con bán được hai chai dầu với sáu xu chỉ. Vị chi là ba hào tám… Này, bu ạ, dầu tây chú Sửu bảo kỳ này sắp đắt, bu mua lấy một thùng để bán dần.

Bác gái hớn hở:

- Ừ, bây giờ mới có hai đồng. Để rồi tao bán mấy tấm vải bù vào là đủ.

Bác quay lại phía chồng nói tiếp:

- Thầy nó ạ, con bé thế mà đảm đáo để! Mới từ trưa đến giờ, nó đã bán được những ba hào tám. Thầy nó không bằng nó đấy. Cả ngày hôm nay làm được mỗi một cái hào.

Chính ngồi thừ trên thềm, nói gắt:

- Thế còn vốn, bu mày không tính à?… Còn bu mày thì đảm… Cả ngày không dệt xong tấm vải.

Anh chàng hình như đương tức bực điều gì. Khác hẳn mọi chiều, chiều nay anh về không đùa với thằng cu con. Vợ tức cũng định gắt lại, nhưng thấy chồng buồn, bèn đến ghé tai nói thầm: “Người ta khen cho con bé nó thích chứ ai trách gì mình!”

Trăng mồng mười đã lên cao tuy trời vừa mới xẩm tối. Cái sân đất nện trước cửa nhà, sạch sẽ và sáng sủa như một cái chiếu đậu rộng. Bác Chính không dám trồng cây, sợ rợp sân, mất cả chỗ phơi thóc.

Muốn hà tiện ít dầu, bác gái bưng cơm ra sân. Vợ chồng, con cái tất cả sáu người ngồi quây quần chung quanh chiếc mâm tróc sơn, trên có một đĩa rau muống luộc, một đĩa vừng rang với một chén nước mắm cáy. Không phải vì túng bấn quá: vợ chồng bác còn có thể ăn sang hơn nữa. Nhưng hai bác muốn dành dụm để tậu một con trâu cái. Con trâu cái, đối với vợ chồng nhà bác, có lợi nhiều lắm. Với nó, bác trai có thể kiếm ít ra ngày ba hào. Đến khi nó đẻ, hai bác lại còn có nghé bán, hai bác tính chỉ độ vài năm là sẽ kéo lại được vốn. Còn chăn dắt đã có thằng cu Chốc năm nay lên mười tuổi.

Nồi cơm hẩm vừa bắc ra đã hết dóc. Ba thằng bé tuy đã điểm tâm mỗi đứa một củ khoai lớn mà vẫn ăn khỏe như thường. Hai bác phải nhịn mỗi người một bát để các con được no. Không nói ra mà hai vợ chồng cùng một ý, và nhìn nhau tủm tỉm cười.

Ăn xong, vợ chồng ngồi xỉa răng trên thềm. Mỗi người một bát nước chè nóng để bên. Trước mặt chồng, một cái điếu sành, một cái đèn chai ngọn li ti.

Mít thu dọn bát đĩa vào trong rổ. Rồi một tay xách mâm, một tay cắp rổ đi ra ao làng.

Hai đứa trẻ hàng xóm vừa sang họp với lũ con bác Chính chơi “dung dăng dung dẻ”. Chúng nắm tay nhau đi đi, lại lại khắp dọc sân, vừa đi vừa hát. Mỗi lần hát đến câu cuối cùng “cho gà bới bếp, cúc cu cu”, chúng nó lại ngồi xổm xuống đều phăng phắc, rồi lại đi, lại hát. Hết trò này chúng đổi sang chơi “ba ba, thuồng luồng” và chạy reo ầm ỹ. Bác gái quát luôn mồm: “Chạy vừa vừa chứ! Rồi lại kêu đói! Cu con, khéo ngã dập mồm, dập mũi ra đấy!” Bác trai nhìn thằng cu Chốc nghĩ thầm: “Bao giờ mình có trâu, nó sẽ thành mục đồng”. Nghĩ vậy, bác sung sướng lộ ra nét mặt.

 

GẶT

Lúa chiêm năm nay được mùa.

Chung quanh làng, cánh đồng vàng hoe. Xa xa, ẩn dưới cây đa cỗi, một quán ngói cũ nhô lên khỏi mặt lúa. Xa nữa, các lũy tre làng lân cận liên tiếp nhau thành một dải xanh rì.

Trời lam biếc. Những đám mây trắng đuổi nhau không ngừng. Mỗi khi một đám mây bay ngang qua mặt trời, một khoảng bóng rợp lướt trên đồng lúa như một chiếc màng mỏng.

Khác hẳn mọi ngày, làng Cầm bỗng trở nên ồn ào tấp nập như một ngày hội. Trên các đường gạch, trong các ngõ hẻm, kẻ đi người lại, cười nói vui vẻ. Phần nhiều là những đàn bà con gái đội thúng, cắp rổ sắm sửa thức ăn cho thợ gặt.

Bác Chính gái, bu cái Mít, hôm ấy mua được lưng rổ cá mòi, vài bó rau muống với một chai nước mắm. Trông bác hớn hở như ngày bác đi sắm tết. Vì năm nay, ngoài bảy sào của bác và hai sào ruộng quan, chồng bác còn thuê thêm được của bà Chánh Bá hai mẫu nữa.

Nhưng nếu bác nhớ rằng mỗi năm bác phải nộp bà Chánh hai mươi bốn phương* thóc, nếu bác biết rằng chồng bác chỉ là một anh làm công không cho bà Chánh và chẳng may mà phải một năm mất mùa hay mùa màng kém xấu thì chồng bác sẽ không khỏi là một đứa nô lệ của bà Chánh; nếu bác nghĩ thế thì còn đâu vẻ hớn hở trên nét mặt mộc mạc, thì bác đã chẳng kể lể những công đức quý hóa của bà Chánh với hết thảy mọi người quen thuộc. Biết đâu rồi bác lại chẳng giống bác khán Na bị vùi dập dưới cái nợ vạn đại của bà Hàn Năm mà bác ta vẫn yên trí là ân nhân của mình.

Phương: dụng cụ đong thóc gạo, đỗ… dung tích khoảng ba lít.

Khắp làng, từ giàu cho chí nghèo, nhà nào cũng bận rộn dọn dẹp chỗ chứa thóc. Họ chăm chú vào công việc ấy như thể mấy anh đương thứ chăm chú vào việc đón rước quan.

Nhà bác Chính hẹp quá. Bác phải thu gọn bàn thờ, ống hương, ống hoa, đèn nến, bát nhang vào một nơi để nhường chỗ cho vựa thóc, và phủ mấy chiếc chiếu cũ rách lên trên để che cho khỏi bụi. Xưa nay, đối với ông bà, ông vải, bác vẫn một lòng kính cẩn, không bao giờ dám sao lãng, không bao giờ dám để một thức gì uế tạp lên trên bàn thờ.

Cái Mít hôm nay cũng phải bỏ cả buổi hàng, ở nhà xay thóc, giã gạo để nấu cơm cho thợ gặt ăn. Chú nó, một anh canh điền vạm vỡ, ngồi chẻ lạt ở ngoài thềm. Còn thằng Chốc thì nhập bọn với lũ trẻ khác đi ra đồng mót lúa. Nó khôn khéo đem cả ấm nước, điếu cầy và “bùi nhùi” đi đổi đồng. Lỡ gặp phải nhà chủ nào kiệt quá nó sẽ bị đuổi lên bờ và không được dự vào bữa cơm thợ. Nhưng điều đó ít khi xảy ra. Và mỗi năm, hết mùa gặt, nhà bác Chính thế nào cũng kiếm được vài ba thúng thóc mót.

Trâu đã có rơm ăn thừa thãi nên bọn mục đồng không phải đi chăn nữa. Chúng họp nhau thành phường đi gặt thuê. Bè đảng chúng mạnh lắm vì ở chỗ nào chúng cũng giữ số đông. Nhờ có chúng, các chủ ruộng không thể bắt chẹt hạ công xuống quá được. Mấy năm nay nhiều thợ gặt đã nhập phường với chúng. Trong ấy có cả bác Chính.

Vì thế, năm nay bác cấy ba mẫu mà chẳng phải mượn một ai. Đã có phường của bác. Nếu mười lăm người trong phường đến gặt giúp bác thì rồi bác lại phải gặt giúp lại mười lăm người ấy. Hết mười lăm người, bác sẽ theo họ đi gặt các nơi, không còn sợ bỡ ngỡ và chắc là được công cao vì đi đến đâu cũng sẵn có cánh mục đồng ủng hộ, thợ gặt ngoài không dám xen vào phá giá.

Kể ra thì ít ai như bác Chính, một người đã cấy ngót ba mẫu ruộng mà còn chịu đi gặt thuê, không sợ mất thể diện. Bác nhịn nhục được đến thế cũng chỉ vì con trâu cái, con trâu cái mà hằng ngày bác mơ tưởng như các vị công chức mơ tưởng một nếp nhà Hà Nội. Bác gái chịu khó cho chồng đi làm thuê làm mướn cũng chỉ vì một lẽ ấy. Hữu chí cánh thành. Chả biết rồi cái mong ước tậu một con trâu cái có thành không?

Hiện giờ chỉ biết: mấy năm trước vì kinh tế khủng hoảng, thóc hơn công rẻ, vợ chồng cấy chẳng đủ tiền nộp thuế, công chẳng đủ mấy miệng ăn, phải vay mượn mỗi chỗ một ít, đến nay vẫn chưa trả sạch nợ.

Tuy vậy mà bác Chính vẫn vui vẻ, vẫn ra công làm việc, vẫn mong ước, vẫn chắc chắn sẽ có một con trâu cái. Rồi con trâu cái sẽ giúp bác kiếm ra tiền. Rồi mỗi năm bác sẽ tậu thêm được một vài sào. Rồi bác sẽ giàu có. Rồi bác cũng sẽ ra làm hương làm lý như hương Kha, trước kia chỉ là một tên mục đồng nghèo khó hơn bác. Nghĩ vậy, bác sung sướng quá thốt ra những tiếng hát nghêu ngao vang nhà.

Bác gái đi chợ về đặt rổ xuống thềm, ngửng lên bảo chồng:

- Điên hay sao mà hát hổng ầm lên thế?

- Thích chí thì hát chơi chứ điên với cuồng gì!

- Thầy nó trông, có bốn hào mà lưng rổ cá mòi, rẻ quá.

Vợ vừa nói vừa cúi xuống nhặt những bó rau muống và chè tươi sang cái vỉ, để lộ ra những con cá con, mình trắng sáng như bạc. Không thấy chồng trả lời, vợ nói tiếp:

- Thầy nó ạ, hôm nay tôi gặp cô ả Liên, con bà Hàn. Gớm! sao họ kiệt thế được! Nhà cấy hàng hai ba mươi mẫu mà chỉ mua toàn cá khô. Ý chừng để người làm ăn cho đỡ tốn.

- Sao bu mày không mua cá khô?

Chồng hỏi thế là vì đương băn khoăn về ý định làm giàu.

- Đắt hơn một tí nhưng được ăn ngon lành. Với lại, người ta đến làm giúp, mình cũng nên xử cho tử tế. Người ta có ăn hàng năm hàng đời nhà mình đâu mà sợ tốn!

- Cứ nghĩ như bu mày thì còn bao giờ dành dụm được. Tích tiểu thành đại, cứ một tí một tí mà rồi chả thành nhiều à!

Không muốn đôi co với chồng, bác gái quay xuống bếp, gọi:

- Mít a! Hãy để đấy. Mày đem mấy bó rau ra ao rửa cho tao đã.

Mít đang ngồi xổm sàng gạo trong bếp, đứng dậy, chạy lại chỗ mẹ, cúi xuống rổ cá:

- Ồ! Cá rói.

- Mòi chứ rói à, mắt! Bốn hào đấy.

- Rẻ đấy bu ạ, hôm nọ bà tổng mua năm hào mà cũng chỉ bằng ngần này thôi.

Rồi Mít cắp rổ rau, chè ra ao làng. Còn bác Chính gái ra ngồi ở sân làm cá trên cái thớt cáu đen những mùn.

Vài ba con gà con kiếm ăn quanh quẩn đấy. Mỗi lần bác vứt miếng ruột cá xuống đất, chúng nó sấn lại tranh nhau mổ. Một con vớ được, chạy. Những con khác đuổi theo làm con kia cuống quít. Bỗng một con chó mực ở đâu chạy đến, sán lăn vào rổ cá. Bác Chính gái lấy sống dao nện mạnh vào lưng con vật, mồm lẩm bẩm chửi rủa. Nó đau quá, vừa chạy vừa kêu ăng ẳng. Bác Chính trai đã dọn dẹp quét tước xong, đến ngồi chẻ lạt với em. Hai người vừa làm việc vừa chuyện trò, thỉnh thoảng đắc chí cười ha hả.

Tờ mờ sáng hôm sau, Mít và mẹ đã thức dậy, xuống bếp thổi cơm nấu nước cho người làm.

Mít rải ít rơm làm chiếu trước ba đầu rau, một tay khẽ đẩy những sợi rơm, một tay cầm chiếc que giẽ, chốc chốc lại gạt tro tàn sang hai bên. Lửa bốc lên ngùn ngụt, chiếu sáng cả một gian bếp. Khí nóng làm cho hai má Mít đỏ bừng. Một lát, nghe có tiếng thằng Chắt gọi ở ngoài ngõ, Mít vội đứng dậy, nói:

- Bu trông hộ con ấm nước.

Mít đã thổi được hai nồi cơm, hiện còn ủ dưới tro nóng. Nồi cá thì đã kho từ chiều hôm qua. Chỉ còn luộc rau, rang vừng nữa là xong. Mít đưa que giẽ cho mẹ, rồi vừa đi ra cổng, vừa lấy mấy ngón tay chải lại mớ tóc ở hai bên đường ngôi và đưa vạt áo lên lau mồ hôi đọng trên trán.

Hai cánh cổng tre mở. Một bọn thợ gặt hầu toàn những mục đồng ước chừng hai mươi người đi vào. Mỗi người cầm một cái đòn càn, hai đầu nhọn với một cái hái buộc vào một đầu. Sợi dây lạt thắt ngang lưng ra ngoài chiếc áo cộc nâu. Quần nâu xắn lên tận đầu gối. Bên cạnh sườn, người nào cũng đeo một cái ống tre dài độ hơn một gang, trong đựng vôi để phòng đỉa.

Cái sân con nhà bác Chính bỗng chật ních những người và ồn ào như một xưởng thợ.

Thằng Chắt vốn hay bông đùa và nghịch ngợm. Nó biết Tửu thầm yêu Mít và hình như Mít cũng không ghét Tửu nên mỗi khi có hai đứa là nó chòng ghẹo.

- Mặt chị Mít sao mà đỏ ửng lên thế kia? Ý chừng trông thấy anh Tửu, chị xấu hổ, phải không?

- Đích thị rồi!

Một vài đứa trong bọn mục đồng nói đùa theo và cười ầm ỹ.

Mít cãi:

- Bao giờ nào! Người ta ở trong bếp ra lị.

- Thì lúc nào chị trông thấy anh ấy chị chẳng đỏ mặt!

Hai vợ chồng bác Chính vừa bưng cơm ra sân. Bác Chính gái sợ mất thì giờ, liền giục:

- Thôi thôi, mời các anh ăn quàng đi rồi ra đồng kẻo muộn. Mít! Con vào bếp bắc nốt nồi cơm nữa ra.

Mọi người ngồi xếp hàng hai bên mâm, suốt dọc sân. Cơm đỏ xới ra bát, hơi thơm bốc lên nghi ngút. Họ nhai, trông rất ngon lành. Mỗi bát chỉ và độ ba, bốn miếng là hết. Trong khoảnh khắc, đĩa nào đĩa ấy sạch sẽ như chùi. Ăn xong, họ dùng luôn bát ăn để uống nước, chẳng rửa ráy gì cả.

Sau khi nhai bỏm bẻm một miếng trầu và bỏ thêm vài miếng vào túi, các anh thủng thỉnh vác đồ lề ra ruộng.

Đến nơi, mặt trời vẫn chưa mọc. Phương đông một dải mây hồng nhạt. Những chùa, quán, những lũy tre làng, những cây đa mập mờ trong làn sương.

Yên lặng bọn thợ gặt bước ùa xuống ruộng lầy. Những bông lúa chín bắt đầu bị cắt dưới lưỡi hái, tiếng kêu sột soạt; vài ba con cò bợ thấy động, nặng nề cất cánh, duỗi chân, rướn cổ, vừa kêu vừa bay, lẩn vào trong sương…

Dải mây hồng dần dần lan rộng và mỗi lúc một đổi màu, từ màu hồng đến màu đỏ, màu da cam. Rồi, bỗng vụt hiện, sau những đám mây tím viền vàng chói, những tia sáng rực rỡ tỏa ra thành hình rẻ quạt.

Làn sương tan dần. Cảnh vật trở nên trong sáng như sau một trận mưa, rực rỡ những màu tươi thắm, vang động những tiếng chim muông cùng những tiếng cười reo của bọn thợ. Tửu tự nhiên thấy khoan khoái, cất cao giọng hát.

- Phải đấy, hát cho thật hay rồi tớ gả Mít cho.

- Anh Chắt! Mã anh gả được tôi?

Mít đã mang nước ra đồng từ ban nãy mà không ai biết, nó ngồi trên bãi cỏ nói xuống. Tửu im hát, quay lên nhìn Mít, tay vẫn gặt đều. Bác Chính đang sung sướng vì những cây lúa đầy bông chín vàng, đâm ra dễ dãi nói đùa theo:

- Chắc nó không gả được thì hẳn thầy gả được. Vậy con bằng lòng chứ?

Mít đỏ mặt, nũng nịu:

- Thầy cứ nói!

Bọn thợ thích chí cười vang, rồi mỗi người nói đùa một câu.

Mít xấu hổ, cúi gầm mặt nhưng vẫn ngồi nghe họ chế nhạo, tay tỉ tê rứt những ngọn cỏ xanh.

- Thôi đừng đùa quá. Chắt, chị ấy sắp khóc kia kìa.

Mít ngửng lên cười gượng:

- Rõ khéo, việc gì tôi khóc?

Thằng Chốc tất tả ở đâu chạy đến, kêu:

- Chị Mít! Về, bu đương réo lên gọi chị đấy.

- Thế bu không vừa bảo chị mang nước ra à?

- Tôi biết đâu đấy.

Thằng Chốc nói, giọng gắt gỏng. Hai mắt nó còn đỏ hoe và ướt những nước mắt. Nó vừa đánh ngã thằng cu con giập mồm và bị mẹ vụt mấy roi vào mông. Nó ngồi phịch xuống cỏ, hai tay khoanh lấy hai đầu gối, mặt thừ ra, trông buồn thỉu.

Mít đoán biết em vừa bị đòn, đứng ngay dậy, rảo bước về nhà. Nhưng qua chợ nó cũng dừng lại mua mấy củ khoai cho thằng cu con, vì nó biết chẳng gì dễ dỗ trẻ bằng quà.

Gần đến cổng, nó đã nghe thấy tiếng gọi réo. Nó vội chạy về, ẵm lấy thằng bé trong tay mẹ, mặc dầu mẹ nó đương hầm hầm nổi giận.

Được chị ấn củ khoai vào tay, thằng bé nín bặt. Thế là mẹ nó hết giận.

Ở ngoài đồng, thằng Chốc cũng hết buồn. Nó đi ven bờ ruộng ngắt những cuống rạ tươi, kết thành hình con rết.

*

*   *

Một hồi chuông nhà thờ Hạ Am. Mười hai giờ. Giờ mang cơm cho thợ làm. Mít bới tro, bắc ra nồi mười lăm cơm hẩm đặt vào một bên quang, còn một bên quang nó đặt một cái thúng trong đựng đĩa, bát, đũa và một nồi cá kho, một bát vừng rang mặn, lại úp lên trên bốn cái sàng làm mâm. Rồi tất tả nó gánh ra đồng. Nó hớn hở lại sắp được nói chuyện với bọn thợ gặt, nhất là sắp được gần Tửu. Chính nó cũng không hiểu tại sao nó yêu thằng Tửu hơn thằng Chắt, thằng Mộc, thằng Mùi. Kể đẹp thì thằng Chắt, thằng Mùi đẹp hơn nhiều. Tửu không những không đẹp mà lại còn rỗ hoa nữa.

Mít gánh đến đồng thì đã thấy bọn thợ ngồi bệt trên cỏ, đợi. Anh nào trông cũng có vẻ mệt. Dưới bóng rợp của chiếc nón mê, mặt họ đỏ sẫm như say rượu. Chiếc áo cánh nâu đẫm mồ hôi, dính sát vào lưng; quần ngắn còn xắn lên tận bẹn để phô những cặp đùi rắn, đỏ tía vì hằng ngày phơi nắng.

Ăn uống xong, nghỉ ngơi chuyện vãn một lúc, bọn thợ lại bắt đầu gặt. Sợ tối, họ mải miết cho chóng xong công việc, dù trời nóng quá. Ngoài những tiếng sột soạt của lúa bị cắt, không còn một tiếng gì khác. Chung quanh, bát ngát những lúa chín vàng chói dưới ánh nắng gay gắt tháng năm. Thằng Chắt, thằng Tửu, thằng Mùi thôi gặt, để đi ôm những lượm lúa đặt ngang trên các mô rạ, đem vào bờ, xếp lại bày lượm thành một bó. Rồi, một đầu gối tì mạnh xuống, nó hết sức rít sợi dây lạt cho thật chặt. Xong bó này, nó bó bó khác. Tuy mồ hôi rỏ từng giọt trên trán xuống, chúng nó vẫn vui vẻ làm việc.

Mít xếp dọn đũa bát vào thúng ngồi rốn lại một lúc mới về để sửa soạn bữa cơm tối.

 

CÔNG NỢ

Bĩ cực thái lai, bác Chính xem chừng đã đến vận đỏ.

Mọi năm cấy có dăm bảy sào. Năm nay cấy ngót ba mẫu thì vừa gặp năm phong đăng hòa cốc.

Cái sân đất tí hon không đủ chứa thóc, bác phải khẩn khoản nói mãi với ông từ mới mượn được sân đình để phơi phóng. Suốt mấy ngày, vợ chồng con cái làm lụng đầu tắt mặt tối, sáng đội thóc đi, tối đội thóc về.

Dưới ánh nắng chang chang, hai bu con cái Mít mặt đỏ tía tai, ôm những bó rơm ra đường gạch phơi cùng với họ hàng làng xóm. Mỗi người cầm một cái “nạng”* gẩy những sợi rơm tung lên cho chóng nỏ.

Dụng cụ gẩy rơm cỏ, là một thanh tre hơi cong, một đầu vót nhọn và chẻ ra làm đôi như hai chiếc ngà voi.

Tuy đã giao cho thằng Chốc vừa trông em vừa trông thóc, bác Chính vẫn thấp thỏm chạy đi chạy lại luôn. Thỉnh thoảng bác lại đến bừa thóc theo bề ngang, bề dọc sân đình. Bác vừa đi vừa cúi nhìn những hạt thóc rẽ ra hai bên bàn chân, óng ánh như những hột vàng. Ròng rã năm sáu tháng trời, bao nhiêu vốn liếng, nào tiền lãi hàng của cái Mít, nào tiền lãi vải của mình, nào tiền công mướn của chồng, đều đổ cả vào gốc lúa. Đến nay mới thấy kết quả thì mỗi hột thóc của bác là một hột vàng cũng đáng.

Một người đàn bà đi chợ, rướn cổ qua ngọn tường đình, gọi to:

- Bác Chính đấy phải không?

Bác Chính ngửng lên tủm tỉm cười:

- Vâng, bà lý đi chợ “sắng”* đồ nhắm cho ông lý hẳn thôi?

“Sắng”: sắm.

- Của đâu mà “sắng” mãi cho ông ấy nhắm để ông ấy say rồi ông ấy “chưởi” tam bành tổ họ nhà tôi lên ấy à.

Nói vậy mà chẳng ngày nào bà lý Chỉ không mua đồ nhắm cho ông lý. Hoặc khúc cá dưa, hoặc khúc cá thủ, cá vược về làm gỏi, hoặc mớ cá khoai, mớ tôm rảo về nấu canh. Không có thì ít ra cũng miếng thịt ba rọi. Bà rất đỗi chiều chồng lại vớ phải ông chồng quá tệ. Động say vào là thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh chưởi vợ. Mà dễ thường không mấy ngày là ông lý không say khướt cò bợ. Làng xóm, nhất bọn đàn ông, vẫn khen bà là người vợ hiền, nên bà cũng được mát mặt đôi chút. Hôm nay bà đi chợ hơi muộn song bà cũng đứng rốn lại nói nịnh bác Chính một câu:

- Năm nay bác Chính tiền dư thóc mục, tha hồ mà làm giàu. Giúp bà con với nhé!

Bác Chính nói nhũn:

- Thưa bà, của người ta cả đấy ạ.

Mà thật thế. Của người cả, của bác chẳng còn mấy hột, sau khi trang trải công nợ.

Thóc phơi xong, chưa kịp đổ vựa, bác sẽ phải trả ngay cái nợ của bà khán Thỗn. Vì tháng mười năm ngoái bác có vay của bà ta hai thúng thóc, lãi thành ba, hẹn đến hăm bảy, hăm tám, tháng chạp là cùng, mà mãi ba mươi tết bác vẫn chưa đào đâu ra được tiền.

Người ta vui mừng về tết bao nhiêu thì bác lo lắng khổ sở bấy nhiêu. Bác nhớ chiều ba mươi chợt nghe ngoài cổng có tiếng the thé của bà khán, hai vợ chồng bác giật nẩy mình, cùng nhau chạy trốn sang nhà hàng xóm, vì đã biết bà kia có tiếng nặc nô.

Bác còn như văng vẳng nghe thấy những lời nguyền rủa dữ dội mà bà khán kéo dài mãi đến tối.

Đêm hôm ấy gần giao thừa, vợ chồng mới dám lóp ngóp về. Thấy mất cái bát hương, mà bà khán đã bắt nợ bỏ vào thúng mang đi, bác trai ứa hai hàng nước mắt, sụt sùi khấn trước bàn thờ, xin ông bà ông vải đại xá, chỉ vì nghèo túng mà đến nỗi để phạm đến danh dự gia tiên. Khấn xong bác xuống bếp chọn lấy một cái bát xích yêu lành lặn đem lên thay vào. Thế mà từ mồng một trở đi, hai vợ chồng cũng giữ được nét mặt tươi tỉnh, cười nói chúc mừng bà con như không hề có việc gì xảy ra. Song, mỗi lần bác trai quỳ khấn trước bàn thờ, trông bác có vẻ buồn vô hạn. Mấy hôm tết, hai vợ chồng không dám đi đâu, chỉ sợ gặp bà khán. Bà ấy mà “chưởi” thì rông cả năm.

Nhưng cũng may, ở đời có người ác thì lại có người thiện.

Người thiện ấy là bà khán Bột ở liền xóm với bác. Bà góa từ năm mười tám tuổi, được mỗi mụn con gái gả cho lý Cúc, con ông Chánh cựu. Nhà lý Cúc ba đời hào dịch, thực là tiếng tăm lừng lẫy trong thôn ổ. Chỉ hiềm một nỗi lý Cúc chơi bời quá quắt. Cô đầu, rượu chè, thuốc sái, cờ bạc, đủ thứ. Bao nhiêu ruộng ông cha để lại, một tay lý Cúc nướng sạch, nướng lây đến cả của mẹ vợ. Nhưng chẳng hề chi. Trong làng cốt có danh vọng là đủ, sau này nhờ trời, con cái ông nối được nghiệp bố thì bốn đời hào dịch rồi đấy. Tiền của nào bằng!

Bà khán không giàu lắm, nhưng mỗi năm cũng có dăm bảy nghìn thuốc lào, một cây thóc cao. Nếu không bị người trong họ xúc siểm vào hội Phật giáo, bầu hậu, bầu trùm, cúng vào đền này chùa nọ thì bà đã có thể giàu nhất nhì trong làng. Hiện giờ, họ đương khuyên bà bỏ tiền ra chạy lấy bốn chữ “tiết hạnh khả phong”. Song bà còn lưỡng lự.

Bà thương hại nhà bác Chính lắm. Tuy không cùng họ mà cùng xóm, bác thường đi lại nhờ vả. Ngày rằm, mồng một, bà hay gọi lũ trẻ sang ăn xôi chè. Lúc về, bà lại cho mỗi đứa một phẩm oản hay quả chuối. Có khi chúng ở lì cả ngày bên ấy.

Những món lặt vặt như thỉnh thoảng một rá gạo hay vài hào thì không kể làm gì, bà sẵn lòng cho không. Nhưng còn nhiều bận bác sang nhờ hàng đồng trở lên tính ra có đến ngót chục. Số tiền ấy, bà Khán đã cho vay không lời lãi, chẳng lẽ có thóc hẳn hoi mà không đem trả thì còn mặt mũi nào!

Ngoài hai món nợ bà khán Thỗn và bà khán Bột, bác còn thiếu chỗ một thùng, chỗ hai thùng, chỗ một đồng, chỗ dăm bảy hào…

Nhưng giá chỉ có thế thì, trừ cả mười hai phương thóc nộp về vụ chiêm cho bà Chánh Bá đi rồi, cũng còn đủ ăn cho đến vụ mùa. Khốn nỗi nào chỉ có thế. Lại còn tiền sưu thuế sắp sửa phải đóng, tiền mua phân bón ruộng vụ mùa, tiền quần áo cho mình, cho vợ con. Quần áo người nào cũng đã nát quá, không sao vá được nữa. Không lẽ rách rồi cởi trần!

Cách đó mấy hôm, bác Chính gái nhìn đống thóc vơi di, thở dài nói với chồng:

- Còn ít lắm nhỉ! Hay là thầy nó thử sang khất lại bà Chánh sáu phương.

- Ừ phải đấy. Nhưng mà khó lắm, mình ạ.

- Thì hãy cứ cố nài xem. Không có, bốn phương cũng được.

- “Ừ, thế tôi đi nhá”. Chồng vừa nói vừa vào buồng mặc cái áo lương đã bạc vai, sờn khuỷu và chụp cái khăn gián nhấm lên đầu rồi cắp cái ô tã đi thẳng ra cổng.

Chồng đi được một lát, vợ đã thấp thỏm chốc chốc lại ra ngõ ngóng đợi…

- “Không xong rồi, phải không?” Vợ nhác thấy chồng về đã hỏi thế, vì trông thấy mặt chồng buồn thỉu.

Chồng nhếch một bên mép cười như mếu và nói:

- Chỉ tại cái Ngẩn nhà bá Rụt. Ra ngõ gặp gái, súi thật!

- Tại mình không khéo nói chứ gì.

- Nào người ta đã nói được câu quái gì mà bảo khéo với chẳng khéo. Vừa trông thấy mặt mình họ đã mắng như tát nước… Mà sao họ biết mình đã trả những người kia rồi? Lạ thật!

Chồng đi lủi thủi vào trong nhà. Vợ theo liền hai tay chắp sau lưng, vẻ mặt tư lự. Bỗng bác đứng thẳng người lên nói bằng một giọng quả quyết:

- Được rồi. Để tôi đi.

Bác Chính gái vừa nghĩ ra: Cậu Thanh, con một bà Chánh Bá thích đệ nhất chim bồ câu tây. Cậu đã đi chợ Hạ Am nhiều lần, lùng mãi mà không thấy. Cậu lại khẩn khoản nói với ông quản Sâm để cho một đôi, đắt mấy cũng mua, nhưng ông này ương ngạnh, cậu càng vật nài ông càng nhất định không bán. Bây giờ bác chỉ việc đến nhà ông, nói rõ đầu đuôi ông nghe, tất ông sẽ thương tình, để lại cho.

Nghĩ vậy, bác vội đi ngay. Chồng ngạc nhiên hỏi:

- Mình đi thật đấy à?

- Ừ, tôi đi đây. Hễ Mít nó về, mình bảo nó luộc rau ăn trước đi. Tôi ăn sau.

Bác gái đi rồi, bác trai thất vọng thơ thẩn đến nằm xoài trên chiếc chõng kê ở thềm, hai cánh tay khuỳnh dưới gáy làm gối. Bác thở dài yên lặng nhìn lên mái hiên một lúc rồi lẩm bẩm nói một mình:

- Ừ, mà mình rõ lẩn thẩn. Năm ngoái, năm kia, năm kìa, năm kĩa, nợ đìa như chúa Chổm thì sao? Năm nay trả được sạch nợ lại còn thừa ít đỉnh! Còn mong thế nào nữa? Việc gì mà phải khất với khứa lôi thôi. Hừ! Mình rõ lẩn thẩn.

Bác chồm dậy, vội chạy ra cổng định gọi giựt vợ lại. Nhưng bác gái đã đi xa quá rồi. Bác đứng vơ vẩn nhìn ra đường, nghĩ thầm: “Nó có đi cũng vô ích. Mà không được cũng chẳng cần”. Thế là bác hết băn khoăn, hết buồn.

*

*   *

Bác Chính gái vào đến sân, thấy ông quản đương đứng ngắm nghía con họa mi nhảy nhót trong chiếc lồng son. Ông vừa đi thăm một người ốm về, vì ông làm quản xã kiêm thầy lang. Ông vốn thâm nho, đã đỗ khóa sinh, thi trường Nam mấy khóa đều bị trượt: số ông thế, biết làm thế nào? Ông xoay ngang ra học thuốc, mua những pho Lãn Ông, Hải Thượng và Phùng Thị về nghiên cứu. Chẳng cử, tú thì ông làm ông lang vậy. Ngoài việc thăm bệnh cho thuốc, sở thích độc nhất của ông là chơi chim. Nhà ông nuôi đủ thứ chim: nào họa mi, thanh ca, bách thanh, khướu mun, khướu bạc má, sáo, yểng. Ông chuyên dạy sáo nói. Có con ông bán tới mười lăm đồng. Ấy là ông khoe thế. Thực ra thì ông chưa bán cho ai được con nào. Ông có tính ương ngạnh với những kẻ giàu sang và hay thương kẻ nghèo khó.

Nghe thấy tiếng chào, ông ngoảnh ra sân:

- Kìa! chị Chính, có việc gì cần mà trông bộ vội vàng thế? Anh ấy cảm phỏng?

- Bẩm nhà cháu có tí việc, chỉ có cụ mới giúp được. Bác vừa nói vừa ngồi xuống thềm, hai tay khoanh trên đầu gối.

- Cụ với kiếc gì. Ô hay! Sao lại ngồi đây, vào trong này chứ?

- Bẩm nhà cháu không dám ạ.

Rồi bác kể lể…

Ông quản chưa nghe hết câu chuyện đã hiểu. Liền gọi con bắt lấy đôi chim mới ra ràng bỏ vào chiếc lồng đan bằng nứa, đưa cho bác Chính.

Bác đỡ lấy đứng dậy:

- Nói khí không phải, bẩm cụ dạy cho bao nhiêu tiền để nhà cháu xin nộp cụ.

- Đã bảo đừng gọi tôi bằng cụ mà lị. Giá nó thì vô kể. Nhưng mà tôi biếu không chị đấy.

- Ôi chao! Thế thì quý hóa quá. Cụ thương cháu quá. Thôi thế bây giờ xin lạy cụ ạ.

- Ấy đấy lại cụ. Thì cứ gọi tôi là ông có được không?

- Ấy chết, cháu đâu dám thế. Lạy cụ ạ.

Bác Chính chào lại lượt nữa rồi khúm núm xách lồng ra cửa.

Ông quản chau mày nói lẩm bẩm một mình:

- “Sao mà lắm người ngớ ngẩn thực thà, cổ lỗ đến thế? Chả trách được!” rồi ông đi ngắm các lồng treo dưới mái hiên, không bận gì đến việc người nữa.

*

*   *

Bác Chính gái hớn hở xách lồng chim đến nhà bà Chánh Bá. Tới cổng, bác ngó xem cậu Thanh có nhà không thì vừa may gặp cậu đương cho chim ăn thóc ở sân. Bác cất tiếng gọi. Cậu chạy ra.

- “Lạy cậu ạ, cháu có đôi chim tây đem đến tết cụ”. Bác vừa nói vừa giơ cái lồng ra trước mặt Thanh.

- Ồ! Đôi chim tây trắng đẹp nhỉ. Chị mua ở đâu đấy? Tôi đi lùng mãi mà không được.

Cậu sung sướng cầm lấy lồng đi trước, mắt nhìn chòng chọc vào đôi chim.

Mấy con chó xồ ra sủa.

Bác Chính hoảng hốt, bíu chặt lấy tay Thanh:

- Cậu coi chó cho cháu với. Khôn… khôn!… Kìa cậu, nó mà cắn cháu thì thật khổ cháu.

Bác vừa nói vừa kéo cậu giật lùi.

- Cộc chạy! Mực! Liệu hồn! Xuống bếp! (Cậu miệng quát, chân đá). Được! Đã có tôi, chị cứ đi.

Mấy con chó trước khi lủi xuống bếp, còn gừ gầm, nhe bộ răng trắng nhọn, giương đôi mắt dữ tợn nhìn bác Chính.

Bà Chánh đương ngồi têm trầu trên phản đứng dậy đi ra thềm.

- Cái gì thế, con? Kìa, con mẹ Chính! Lại đến khất bà phỏng? Không được đâu!

Thanh sợ mẹ không nhận lễ, bèn khẩn khoản:

- Thôi mẹ ạ, mẹ cho chị ấy khất. Đôi chim tây của chị ấy đẹp quá. Con đi lùng khắp nơi mà không mua được đấy, mẹ ạ.

Thanh đăm đăm nhìn đôi chim bằng con mắt đầy thèm muốn. Bà Chánh vốn chiều con thấy thế cũng dịu giọng:

- Mụ định thế nào? Liệu mà trả tôi chứ. Trong khi Thanh nhấc lồng lên ngắm, lại đặt lồng xuống, mồm nấc nỏm khen, thì bác Chính đứng gãi đầu gãi tai:

- Bẩm cụ, nhà cháu đã đến xin khất lại cụ một nửa đến vụ mùa xin trả, không dám để lâu.

- Hắn có nói gì với tôi đâu? Không được, khất thì không được.

- Lạy cụ thương cho. Chúng cháu vì công nợ mấy năm dồn lại, phải trang trải nên mới dám đem đầu đến khất cụ.

- Sao mụ không khất họ mà trả tôi trước đi, có được không. Phải sòng phẳng, mùa nào dứt mùa ấy thì rồi mới hòng về sau được chứ. Chưa chi mụ đã lừa bửa như thế thì hỏng. Tôi lại đến phải lấy ruộng về thôi.

- Bẩm lạy cụ, thật quả họ đòi rát quá, mà chúng cháu nợ họ cũng đã lâu lắm rồi… Vả lại cụ giàu có, thiếu gì. Cụ cho khất cũng như cụ cứu giúp chúng cháu. Sau này nhờ trời, chúng cháu khá lên cũng là nhờ hồng phúc cụ.

Bà Chánh đứng lưỡng lự. Thanh vật nài mẹ: “Thôi, mẹ cứ cho chị ấy khất, nhà mình thiếu gì!”

- Phải, cứ nghe cậu thì rồi đổ thóc giống ra mà ăn. Bà quay sang bảo bác Chính gái:

- Thôi thế này: tôi cho vợ chồng nhà mụ khất lại bốn phương lãi chục sáu. Người ta thì chục tám hay nhất bội nhị kia đấy.

- Lạy cụ, cụ thiếu gì. Thôi thì xin cụ chục ba. Chúng cháu làm ăn nó cũng chật vật lắm cơ. Chị vừa nói vừa bẻ mấy ngón tay kêu răng rắc.

- Thôi thế cứ nhất định bốn phương thành sáu. Tôi cho thế là nhẹ lắm rồi. Người ta thì không khi nào được như mụ.

Bác Chính gái chẳng biết tính ra sao nhưng cũng cố nài xin bớt. Bà Chánh phát gắt. Bác Chính sợ, xin vâng và hẹn sáng mai gánh đến nộp tám phương. Trước khi trở về, bác gãi tai nói:

- Bẩm, chúng cháu gọi là có đôi chim vi thiềng cụ.

- Cứ bầy vẽ ra làm gì. Thôi mụ đã cho, tôi cám ơn.

Bác Chính gái đi rồi, Thanh chạy vội đi lấy thóc cho chim ăn.

Bà Chánh thấy con hớn hở vì đôi chim, cũng không tiếc cái số lãi mình hạ nhẹ xuống nữa. Nhưng bà nói mấy câu để tỏ cho con biết rằng vì yêu con mà bà chịu thiệt mất ít lãi.

*

*   *

Bác Chính gái về nhà, chưa bước qua ngưỡng cửa đã khoe cái chước khôn khéo của mình. Chồng sửng sốt hỏi:

- Chết chửa! Thế đôi chim mình đã mặc cả với ông ấy chưa? Chim tây hiếm và đắt lắm đấy, chả như chim thường đâu. Tôi nghe người ta nói có tới đồng rưỡi hai đồng một đôi kia đấy.

- Ông ấy cho không.

Chồng ngạc nhiên:

- Cho không? Khéo ỡm ờ lắm!

- Thật đấy mà. Tôi nói dối mình làm gì?

- Thế họ cho khất bao nhiêu?

- Bốn phương lãi thành sáu. Trước họ đòi chục sáu, tôi vật nài mãi mới được ngần nấy. Thế thì thành chục mấy nhỉ, mình nhỉ?

- Thế thì thành chục… (Chồng nhẩm tính) chục tư, à à chục năm…

- Những thế cơ à mình, tôi cứ yên trí là chục hai. Họ gớm thật!

Bác gái buồn rầu nhắc đi nhắc lại mãi câu: họ gớm thật.

Bác trai đã sẵn có ý tưởng ban nãy nên cứ thản nhiên như thường. Bác có băn khoăn thì cũng chỉ băn khoăn về con trâu cái bác sẽ tậu sau vụ này.

 

TẾT! TẾT!

Từ đầu làng đến cuối làng, chỗ nào cũng nhao lên về tết, tuy mới vào khoảng hai mươi, hăm mốt tháng chạp. Các bà đi chợ về, bà chánh, bà lý, bà khán, bà xã, bà nào cũng đội cái thúng trong để một “ông mũ” lấp lánh những mặt gương và tráng kim, vài trăm vàng, một bó hương đen và một nải chuối còn xanh ngắt.

Bác xã Chính gái hôm ấy cũng đi chợ mua vàng mũ về cúng thổ công. Bác lên chức xã* là vì chồng bác vừa mới bầu xã* được hơn tháng nay, sau vụ mới rồi.

Chức vị trong làng xã, thường do nộp tiền mua.

Bầu xã (tiếng địa phương): mua chức xã.

Sao bác trai chịu bỏ ra hăm lăm đồng bầu xã mà lại không để tiền tậu ngay con trâu cái, con trâu cái mà bác hằng mơ tưởng, bấy lâu? Đó cũng là sự vạn bất đắc dĩ. Bác năm nay hơn bốn mươi tuổi đầu mà động có rước là bác đã phải ra cầm tán hay khiêng kiệu với bọn mục đồng; động có quan về là bác đã phải thân ra dọn đường, rẫy cỏ dưới con mắt hỗn xược của một anh quản xã chỉ lớn bằng chạc con bác. Động có việc gì nặng nhọc là đến tay bác. Trăm nghìn sự thiệt thòi đổ dồn cả xuống đầu bác, và đầu những kẻ bạch đinh như bác.

Lại còn một lẽ nữa: bác đi đến đâu cũng bị người ta chế giễu, khinh bỉ. Họ cho bác là keo kiệt, coi đồng tiền hơn phẩm giá. Bác động mở mồm là họ đã chặn họng: “Còn danh giá gì cái thằng bạch đinh mà cũng ăn với nói!”. Cái khổ tâm của bác là thế, nên bác bắt buộc phải nhắm mắt, vuốt bụng mà chạy cho xong cái xã nhưng. Thực ra, bác có thiết gì nắm xôi, miếng thịt trong làng!

Đã lên ông xã thì ai chẳng muốn trang hoàng cửa nhà cho ra vẻ nhà ông xã, trừ khi không tiền. Bởi thế phiên chợ Hạ Am vừa rồi bác đã sắm được bốn bức tranh tố nữ và tám bức tranh con gái Tàu về treo hai bên bức vách. Phiên chợ giáp tết, bác lại mua được một quả phật thủ, hai quả bòng với một chục cam sành về bày ngũ quả và đôi cành hoa giấy về cắm ống sơn. Bác phí phạm được thế cũng là nhờ mùa mới rồi.

Bác gái phí phạm chẳng kém gì bác trai. Bác sắm nào hài, nào mũ, nào vàng hàng muôn để đi lễ các đền, chùa. Bác mua hẳn một thúng hành về nén, mua cá về kho, mua thịt, gạo nếp về gói bánh.

Bác còn sắm cho Mít một cái váy lụa, cạp xanh, một chiếc dây lưng thiên lý, một chiếc áo tứ thân vải màu nâu non và một chiếc yếm trúc bâu trắng nõn. Thằng Chốc, thằng cu Nhớn, thằng cu Con, mỗi đứa được một chiếc áo chùng nâu sẫm và một chiếc quần vải thô. Còn về phần bác, bác chỉ may mỗi một cái váy bằng vải ruộm vỏ xó, ngả bùn dầy cộp như mo nang. Người ta có kêu thì bác trả lời gọn lỏn: “Ôi chao! làm lụng vất vả suốt năm, là lượt lắm cũng phí đi thôi!”

Cái Mít có vốn riêng, nên ngoài các thức mẹ sắm cho, nó còn sắm thêm một chiếc khăn sa tanh, một cái gương con bỏ túi và một hộp sáp “Cô Ba”. Nó giấu kín, đợi sáng mồng một mới đem ra trang điểm để tránh khỏi những câu mắng mỏ của mẹ.

Khác mọi năm, chỉ một con sào, trên buộc cành xương rồng, dưới treo “ông mũ ngô”, năm nay bác trai dựng ngay trước nhà một cây lồng đèn cao ngất, có những túm lông mã gà trên ngọn, có cờ vải tây điều bay phấp phới, có bầu rượu bện bằng rơm, có con rồng uốn khúc làm bằng mấy cành vạn tuế, có con cá nằm ngang để xỏ dây treo đèn.

Dựng xong, bác đứng giữa sân, tay vắt sau lưng, ngửng mặt lên ngắm:

- Trông có được không, mình?

Vợ đương cắt rễ hành với cái Mít ở thềm, ngoảnh ra nhìn:

- Thầy nó làm khéo đấy. Con rồng đẹp hơn con rồng bên cụ cán.

Vừa gặp ông cán ở bên cạnh sang chơi. Vợ nhìn thấy trước cất tiếng chào. Bác Chính trai vui vẻ chạy ra đón.

- Bác đứng ngắm cây nêu đấy à? Năm nay cây nêu nhà bác cao thế kia thì hẳn có thịt mỡ, bánh chưng xanh. Ông cán vừa nói vừa ngước mắt nhìn cây nêu.

- Không dám ạ. Thưa cụ, nhân tiện cháu mua cây bương về làm máng, cháu đem dựng trong mấy ngày tết. Thật không định mà được một công đôi việc. Hì!

Bác nói dối thế. Kỳ thực, hai vợ chồng đã bàn nhau từ mấy hôm trước mua cây bương về dựng lồng đèn rồi xong tết sẽ bổ ra làm máng cho khỏi phí.

- Rước cụ vào trong nhà xơi nước. Chúng cháu vừa nấu được ấm nước chè ngon đáo để. Mít, con đứng dậy xuống bếp bắc ấm nước lên đây nhé.

Hai người cùng vào. Ông cán đi trước, bác xã theo sau.

Ông đưa mắt nhìn khắp nhà, khen:

- Ồ! Lắm tranh đẹp nhỉ! Lại hoa hiếc nữa. Mua đâu thế?

- Dạ, bẩm cụ, cháu mua hôm phiên chợ Hạ Am vừa rồi. Có hào rưỡi một đôi.

- “Rẻ đấy!” Nói đoạn, ông đi lại ngồi xếp bằng trên chiếc phản kê ở trước bàn thờ để tết đến những người họ hàng quen thuộc đến lễ ông vải. Bác xã ngồi ghé vào một bên mép phản tiếp khách.

Bác gái vào buồng, têm trầu bày lên đĩa bưng ra.

- Rước cụ xơi trầu ạ.

- Được, mặc tôi, bác cứ để đấy, đi làm nốt mớ hành rồi chốc nữa hai bác với cháu Mít sang gói giúp chúng tôi ít bánh nhé?

- Vâng, chúng cháu cũng định chốc nữa sang làm giúp cụ đấy. Nhà cháu có mươi mười lăm chiếc định đem sang luộc nhờ cụ, có được không ạ?

- Sao lại chẳng được! Ừ, mà tết nhất cũng nên bày cho vui. Có nêu cao, phải có pháo nổ, bánh chưng xanh chứ lị.

Ông cán vừa nói vừa rung đùi ra vẻ đắc chí.

- “Dạ”. Bác gái cười tủm tỉm, trong lòng bác hoan hỉ lắm.

Bác ra ngoài hiên làm nốt mớ hành với cái Mít, để hai người đàn ông bàn bạc về tết.

Bác xã hỏi:

- Bẩm cụ xem lịch năm nay có tốt không ạ?

- Tôi cũng chưa xem nhưng thấy họ nói năm nay những mười ba con rồng lấy nước. Chắc là lụt to.

- Chết! Chết! Thế thì xấu lắm cụ nhỉ!

- Đâu lại còn ôn dịch và lắm bệnh nguy hiểm nữa.

- Chết! Chết! Thế thì xấu lắm cụ nhỉ!

- Ấy, còn tùy xem chân giò đầu năm thánh dạy thế nào đã chứ. Có khi thiên hạ loạn mà làng ta yên cũng nên.

- Vâng, bẩm cụ dạy chí phải. Thôi thì nhờ trời, nhờ phật, nhờ thánh tổ, làng ta yên là phúc, có phải không cụ nhỉ?

Ông cán Bích đã làm ba bát nước chè nóng. Ông cầm miếng trầu không, tháo ra xem vôi mặn hay nhạt rồi cuốn lại kèm với miếng cau tươi bỏ vào nhai giòn rau ráu. Ông đã sáu mươi ba tuổi, nhưng còn mạnh khỏe, chưa rụng cái răng nào.

Bác Chính nghĩ một lát rồi bỗng hỏi:

- À này, thưa cụ, mồng một năm nay xuất hành vào giờ nào thì tốt ạ?

- Tôi cũng chưa xem, nhưng thấy người ta bảo: nên xuất hành vào giờ dần; đi về chính nam thì gặp tài thần, về đông nam thì gặp hỉ thần, về đông bắc thì gặp quí thần.

- Chết chửa, cổng nhà cháu lại quay ra tây bắc. Biết làm thế nào hở cụ.

Bác nói và trông bác có vẻ bối rối.

- Rầy thật đấy nhỉ?

- Vâng, rầy thật! Làm thế nào hở cụ?

Bác vừa nói vừa ngơ ngác nhìn ông cán, mong ông nghĩ ra được kế gì hay hay.

Ông cán với cái điếu hút. Ông há hốc mồm cho khói đặc cuồn cuộn tuôn ra. Nửa chừng, ông ngậm mồm nuốt rồi thở mạnh ra đằng mũi…

- À, tôi nghĩ ra rồi.

- Ồ, thế thì hay quá! Quý hóa quá!

- Thế này, ngõ sau nhà bác chả là hướng nam à. Vậy thì sáng sớm ngày ra là giờ dần, bác đi ngõ sau sang xông nhà cho tôi, rồi chúng ta cùng đi ra ngõ nhà tôi quay về đông nam. Cứ thế chúng ta tiến thẳng đến miếu Hai lễ thánh. Đấy có cả đa lẫn xương rồng. Tha hồ mà nẩy lộc.

- Vâng, nhưng cháu xông nhà liệu có được không?

- Sao lại chẳng được. Bác dễ dãi, con cái nhiều, làm ăn may mắn, còn đâu bằng!

Ông cán đứng dậy, nói tiếp:

- Vậy, cứ thế nhé?

- Vâng, mời cụ xơi trầu.

- Đã, tôi đã ăn rồi.

- Cụ xơi miếng nữa.

Ông cán nể lời cầm lấy. Ra đến cổng, ông nhắc lại việc gói bánh. Cả hai vợ chồng bác Chính đi tiễn sau, cùng nói:

- Vâng ạ, thế nào chúng cháu cũng phải sang làm giúp cụ.

Vợ nói thêm:

- Thế cụ cho cháu luộc nhờ mươi chiếc nhé?

- Được!

Hai vợ chồng trở vào. Vợ vừa ngồi xuống cắt vài củ hành, chồng vừa đem được ấm nước xuống bếp, ông cán đã lại sang:

- Này bác, tôi, tôi hỏi cái này tí.

Bác Chính trai hấp tấp chạy ra ngõ:

- Việc gì thế, cụ?

- Bác có chung không?

- Chung gì cơ, cụ?

- Chung bò. Bác có chung thì để tôi bảo quản Sang tậu con to một tí.

Vợ nghe thấy, và sợ chồng nhận lời, chạy vội ra nói:

- Bẩm cụ, nhà cháu làm gì sẵn tiền mà dám chung.

- Một đồng cũng được. Bỏ ra một đồng mà được tái bò, xào xáo trong mấy hôm tết lại chả hay lắm ru?

- Vẫn biết thế, nhưng nhà cháu quả thật không có tiền. Cụ tính không công nợ là may cho chúng cháu lắm rồi.

Chồng thấy vợ viện lẽ để từ chối, cũng nói thêm:

- Thưa cụ, nhà cháu cũng đã chung lợn với bà Rụt, bà Nhiêu rồi ạ.

- Cái đó thì đã hẳn. Tôi muốn hai bác có lợn lại có bò cho thể tất nữa cơ chứ. Thôi thế chào hai bác.

Ông cán đi khỏi rồi, hai vợ chồng thì thầm:

- Ông lão sung sướng thật!

Chẳng biết ông lão có sung sướng không, nhưng ông có hai ông con cùng ra làm lý thôn đã mãn khóa. Hiện nay cũng có cửa hàng bán thuốc lào trên Phùng và cùng khá cả.

Thời còn trai trẻ ông đã từng đi lại trên ấy buôn bán. Bao nhiêu khách hàng của hai con đều là khách hàng của ông khi trước.

Từ ngày lo xong công việc lão sáu mươi, ông ở hẳn nhà để mặc hai con bôn tẩu.

Ông nghiện rượu. Ông uống không mấy, mỗi ngày độ nửa chai bố thôi. Nhưng cơm không có rượu, ông không sao nuốt đi được. Ông thường nói vậy nhưng cũng chưa bữa nào ông thiếu rượu để ông có thể chứng thực được lời nói của ông.

Không như ông Lý Chỉ, động say vào là đánh vợ, ông say chỉ hay nói chuyện địa lý và làm thơ.

Môn địa lý, ông cho là rất dễ, không học cũng biết. Còn thơ thì ông mới sính làm trong hai năm nay, từ ngày ông đâm ra lẩn thẩn.

Một lần ông ngồi nhắm rượu thịt chó với ông khóa Ngoạn. Lúc ngà ngà say, ông cao hứng rung đùi đọc một câu thơ mà ông cho là có hậu lắm:

Còn nước, còn non, vẫn còn còn,

Có cây, có lá, sẵn sàng sàng.

Đọc xong, ông hỏi ông khóa nghe có được không? Ông khóa tủm tỉm cười khen cho ông lão sướng. Song lời khen của ông khóa không khỏi ngụ vẻ nhạo báng:

- Thơ cụ thì thế nào mà chả hay. Dẫu có thất luật thất niêm cũng chẳng hề gì. Nhàn nhã như cụ thỉnh thoảng cũng nên thơ thẩn cho nó đỡ buồn. Chả hơn những cụ khác, động say vào là đi tìm thú xóc đĩa, có phải không cụ?

Những câu thơ hay ho như trên ông tuôn ra rông rỗng mỗi khi tửu nhập, rồi ông bắt thằng cháu chép vào những tờ giấy dán la liệt trên tường hoa.

Thế mà ông vẫn tự cho ông là học dốt. Ông kể chuyện ngày xưa ông học cụ cử. Đến sách Hán, ông chịu, không sao nhai được nữa, phải bỏ về đi buôn vậy. Ông nói chẳng ngày nào là ngày ông không phải đòn về không thuộc. Có lần thầy đánh rồi, ông còn xin thêm mấy roi nữa để trừ vào ngày hôm sau, vì ông biết trước: hôm sau ông lại không thuộc. Thì ra thơ không cần phải thông minh, chữ nghĩa khá mới làm nổi. Chỉ cần có khiếu như ông là đủ.

*

*   *

Đêm ba mươi có khác. Trời, đất một màu đen sẫm đến nỗi hai người đi sát cạnh mà không nhìn thấy nhau.

Trên các đường làng, trong các ngõ xóm, những ngọn đèn đỏ nhấp nháy như ma trơi. Ấy là đèn chai của những chủ và khách nợ đi lại đòi, khất.

Trong yên lặng, thỉnh thoảng vang lên những tiếng nguyền rủa, những tiếng cãi cọ lẫn những tiếng chó sủa. Từng hồi tù và inh ỏi tiếp sau những tiếng trống cầm canh. Thực là khác thường, một đêm can hệ nhất trong tháng củ mật, một đêm khốn khổ cho những nhà có nợ, một đêm lo sợ cho những nhà có máu mặt. Quân gian thường nhân dịp các cụ ra đình đánh chén, lẻn vào nhà trộm cướp. Lắm người khánh kiệt vì thế. Có khi cả nồi bánh chưng cũng bị chúng cuỗm mất.

Đêm khuya, các tiếng thưa dần rồi im bặt… Một hồi trống tế giao thừa vừa rung lên, vang động cả khu xóm. Bác xã Chính vội vã ra đình lễ thánh rồi ăn cỗ. Bác không phải ra đình từ trước, vì làm lễ chưa đến thứ bác. Đã có các cụ ở trên.

Bác sung sướng, hớn hở như mở cờ trong lòng. Không bạch đinh, không công nợ, không lo lắng sự gì khác, bác chỉ việc để bụng vào bữa chén. Bác chén mãi đến tang tảng sáng mới về.

Cả nhà cũng đã dậy. Thằng Chốc, thằng cu Nhớn, thằng cu Con hí hửng trong bộ quần áo mới, đi đứng nghiêm chỉnh như các cụ lý sắp ra đình họp việc giáp.

Cái Mít trang điểm rõ ra phết một cô gái quê đỏm dáng: chiếc khăn sa tanh vấn ngay ngắn trên mớ tóc bóng mượt và thơm hắc những mùi sáp “Cô Ba”. Hai vạt áo tứ thân buộc lỏng ra ngoài chiếc dây lưng thiên lý, chiếc yếm trúc bâu trắng nõn căng trên bộ ngực nở nang. Chiếc váy lụa đen mềm bay về phía sau, in hẳn cặp đùi mập mạp mỗi khi Mít chạy lên chạy xuống dọn cỗ.

Bác xã hơi men chếnh choáng, bông đùa luôn miệng, quên cả kiêng. Bác nói lắm câu dớ dẩn làm vợ phát ghét. Muốn chồng đi khỏi trong lúc say, bác gái nhắc tới việc xông nhà ông cán và việc xuất hành đầu năm.

- Mình sang đi thôi kẻo muộn rồi.

- Ờ nhỉ, bà nó không nhắc thì ông nó quên đấy, bộ tịch đâu? Sao lại ăn mặc như nái sề thế kia? Trông con nó làm đỏm đẹp như cô tiên non bồng thế kia cơ mà. Họ hàng sắp sửa được chén rồi!

Mít xấu hổ đỏ mặt, chạy xuống bếp.

Vợ gắt:

- Năm mới, khéo ỡm ờ lắm! Hễ cứ say vào là thế.

- Mẹ mày bảo tao say à? Tao say…

- Thôi xin ông sang xông nhà cho người ta đi.

Vợ vừa nói vừa ẩy lưng chồng ra cửa. Chồng ngất ngưởng qua cổng cái. Vợ đứng trên thềm réo to:

- Ô hay! Cụ cán bảo đi cổng sau kia mà!

- Ờ nhỉ, tớ quên, xuất hành về đông nam lại chực đi về tây bắc. Say thì sao nhớ được rành rọt thế?

Vợ lẩm bẩm:

- Động say vào là chẳng biết trời đất gì cả.

Bên kia cụ cán cũng vừa ở đình về và cũng say chẳng kém bác xã. Cụ đương ngồi rung đùi ngâm thơ. Thấy xã Chính sang, cụ vồn vã:

- Ấy kìa, bác xã sang xông nhà cho lão đấy, phỏng?

- Vâng ạ, cháu sang xông nhà cho cụ đây ạ. Cháu mà xông nhà thì hẳn cụ làm ăn may mắn, con cái, cháu chắt đầy đàn.

- Thế thì tốt lắm. Năm mới lão cũng chúc bác làm ăn phát tài bằng năm bằng mười năm ngoái. Lý ơi! Đem pháo ra đốt đi mày!

Tràng pháo nổ ran, khói xanh bay vào trong nhà, quyện với khói hương. Cụ cán đọc hàng tràng thơ. Bác xã say, quên cả phép tắc, ngồi rung đùi khen phứa.

Cụ cán cao hứng:

- Đem mâm cỗ cúng thổ công ra đây tao, mày! Để tao ăn mừng năm mới. Xã còn uống rượu được chứ?

- Dạ, được ạ. Cháu thì bao nhiêu cũng vừa.

- Gớm nhỉ, thế thì ngồi đây tiếp lão.

Cụ cán bà ra can:

- Thôi, ông vừa uống rượu ngoài đình về. Mà bác xã cũng đã say mềm rồi đấy nhé.

Bác xã cãi lại:

- Thưa cụ, chả có, cháu chả bao giờ say.

Cụ cán ông nói gắt:

- Thì uống rồi lại uống nữa, không được à? Mấy khi, năm mới, bà cụ cứ hay lôi thôi.

Cả nhà, từ bà cụ cho đến con cái, cháu, chắt đều sợ ông cụ. Thế là mâm cỗ bưng lên, chai rượu “Văn Điển” để cạnh. Hai người ngồi chén tì tì. Ông cán cứ việc ngâm, bác xã cứ việc khen cho đến khi hai người cùng say khướt. Ông cán nói lảm nhảm một lúc rồi gục ngay xuống ngủ. Bác xã thất thểu trở về quên cả xuất hành xuất hiếc. Bác làm một mạch cho đến xế chiều mới dậy. Bác gái tủm tỉm cười nói mỉa:

- Thế nào, thầy nó xuất hành những đâu?

Bác trai hơi ngượng nói chữa:

- Xuất hành thế cũng đủ rồi. Còn hơn cụ cán chẳng xuất hành được tí nào.

Bỗng bác hốt hoảng: “Chết chửa, mình chưa đi lễ đâu cả!”

- Thế thì còn ngồi đây làm gì? Người ta đến lễ nhà mình đông rồi đấy.

Bác xã ra bể múc nước rửa mặt quàng qué rồi vội vã ra cổng.

Ngoài đường kẻ đi người lại nhộn nhịp. Người nào cũng quần chùng áo dài mới mẻ, sạch sẽ. Họ chào nhau, chúc nhau. Chốc chốc lại một tràng pháo nổ mừng xuân.

Bác xã cắm đầu đi. Gặp ai, bác cũng chỉ chúc qua loa mấy câu, rồi bác rảo bước tiếp luôn: “Xin phép ông, tôi chưa đi lễ đâu cả”. May cho bác, đến nhà nào, họ cũng đi vắng, chỉ có bà chủ ra tiếp. Bác vội vàng lễ bốn lễ, có khi ba cũng nên, đoạn, bác vừa cầm lấy miếng trầu trong cái đĩa của bà chủ bưng ra mời, vừa nói: “Xin lỗi bà, tôi còn phải lễ nhiều nơi lắm”.

Bác lại tất tả sang nhà khác. Mãi tối mịt bác mới về. Tính ra, bác còn phải đi lễ dăm sáu chục nhà nữa. Đành để hôm mồng hai vậy. Chỉ để được đến hôm mồng hai thôi, vì mồng ba đã là ngày cúng cơm, hóa vàng. Cũng như hôm ba mươi, ngày ấy dành riêng cho những họ đương gần gũi.

 

CỖ MỪNG THÔN

Từ xưa đến giờ, hôm mồng hai tết vẫn là hôm dành riêng cho ông thủ chỉ thôn làm cỗ mừng thôn.

Hôm ấy, ba gian đình, cửa mở rộng.

Ông hội Thanh Cát, được bầu lên làm đại bái. Ông ngồi xếp bằng trên chiếc sập bên đông đình. Tiếp đến các ông chánh phó lý cựu. Các ông cán, ông xã ngồi bên tây đình.

Tuy đã có lệnh mười hai giờ trưa bắt đầu họp, ông đại cũng cho mõ rao khắp các xóm trong thôn để các ông xã không còn trách móc rằng thôn có họp mà mình không biết. Từ ông khán trở lên mới có đương thứ đến mời tận nhà.

Hình như “quan vơn” hàng xã nhưng, họ giữ kẽ không dám hấp tấp đến ngay, sợ các ông bên đông đình cho là háu ăn. Mỗi khi có việc họp để đi đám giỗ hoặc đám mừng, họ hết sức kéo dài thời giờ.

Hôm nay cũng vậy, đã gần một giờ rồi mà xem chừng các ông xã còn lẻ tẻ lắm. Ông đại muốn cho đông đủ để làm tăng giá trị mình. Nhưng trong hàng lý dịch có nhiều ông nóng ruột, hết ngồi xuống lại đứng lên, đi ra đi vào, mắt luôn nhìn ra đường. Nóng ruột nhất có ông lý Cúc. Ông thở dài lẩm bẩm:

- Cánh xã nhưng đến khó chịu! Mõ rao thế mà họ chẳng buồn đến cho. Bằng giờ chưa đến thì thịt thà thiu thối còn gì.

Ông đại bái cự lại:

- Ông ăn nói hay nhỉ. Thế nào cũng còn thể thôn nữa chứ!

Chẳng biết thể thôn ra làm sao? Nhưng ông hay dùng tiếng ấy lắm. Lý Cúc chẳng vừa. Tuy rằng ông đại bái trong thôn, quyền hành to tát chẳng kém gì một ông nguyên soái ở nơi biên thùy mà ông cũng gân cổ cãi lại:

- Xin phép các “quan vơn”, ông đại tôi có nói đến thể thôn. Nhưng thể thôn là chúng tôi chứ còn ai. Không có cánh lý dịch chúng tôi thì lấy đâu làm thể thôn.

Mọi người xúm lại can: “Thôi, cụ cựu, cụ cũng nên nể lời cụ đại chúng ta một tý”. Họ còn muốn nói: “Ông làm thế thì còn có thể thống gì nữa”. Nhưng họ lại sợ cái tính đầu bò đầu bướu của lý Cúc.

Ông đại bái tức quá, nói gắt:

- Ông muốn đi trước thì cứ việc đi, ai ngăn cấm.

Lý Cúc cũng tức, đứng phắt dậy đi thẳng ra sân, không thèm chào ai lấy nửa lời. Ông vừa đi vừa nói một mình: “Chẳng ăn thì đừng. Không có cỗ thì dễ chết cả đấy!”

Giữa đường, ông gặp xã Chính. Bác xã chắp tay vái chào và tươi tỉnh hỏi: “Cụ đi đâu mà vội vàng thế?”

- “Tôi đi đâu mặc bố tôi”. Lý Cúc nói gắt, chân vẫn bước rảo, hai tay thọc trong túi áo.

Rồi ông trịnh trọng, thong thả đặt từng bước một. Đi trước ông, thằng mõ đội cái mâm đồng trên để một buồng cau, một bánh pháo và hai chai rượu “Văn Điển”. Nó không đi chậm quen nên thỉnh thoảng phải dừng lại đợi các cụ.

Chính tuy đã nhiều tuổi nhưng vì vừa mới bầu xã nhưng được hơn một tháng, nên đi sau cùng lẫn với đám xã tý nhau. Bọn này giữ lễ không dám nói to, chỉ thì thầm ghé tai nhau bàn tán.

Đi trên họ là những ông lý, khán non, chuyện trò cười nói đã có vẻ dõng dạc. Họ bàn bạc toàn những chuyện ăn chơi. Một anh nói:

- Canh bạc hôm qua, ông lý Cúc ta thua là vì về sau bạc nhảy. Ai lại đương ngửa tư nó chuyền sang sấp một, đương…

Anh khác ngắt lời:

- Phải đấy, nếu cứ rền như trước thì ông ta còn được. Ông ta phải cái tội hay khát nước, canh nào mà bạc hay chuyền thì có bao nhiêu cũng hết.

Rồi họ kể đến các canh bạc ở tổng nọ, ở làng kia…

Đi trên nữa là bọn lý chánh cựu, các ông hương, ông khán già có con ra làm việc đã mãn khóa. Đi liền sau ông đại là những ông lý chánh cựu hoặc đã vào lão rồi, hoặc đã trình hạng, hoặc vào bậc dòng dõi hào dịch như lý Cúc chẳng hạn.

Những câu chuyện của bọn này có phần quan hệ, trịnh trọng hơn. Họ tiếc thời xưa, phàn nàn buổi dở dang này. Họ nói: thời họ còn làm việc, làng có nhiều mỹ tục. Thí dụ như đời bố mà không bầu xã, bầu nhiêu thì con dẫu có thiên ức vạn tải cũng chẳng cất đầu lên được. “Thời nay thì, úi chao! Động có của là lý nọ khán kia rối xòe, chẳng cần đếm xỉa đến dòng dõi ông cha. Con thằng bạch đinh mà có tiền, cũng có thể nhảy lên làm ông lý. Như - đến đây các cụ hạ giọng, nói rất khẽ - lão cán Cẩn với con hắn. Rồi chẳng khỏi đến cháu đến chắt nhà hắn. Thế mà khi xưa ông cha chẳng bầu bán gì cả, suốt đời chỉ đi gồng, đi gánh, chẳng hơn gì thằng mõ!”.

Thực ra thì các cụ ghen tị mà nói thế thôi, chứ thời này cũng không khác thời xưa mấy. Cán Cẩn và con hắn ngóc đầu lên được cũng vì các cụ, vì các cụ muốn có tiền bỏ túi lại muốn có cỗ, có phần. Vả lại tuy hắn, con hắn có ngôi thứ hẳn hoi, các cụ vẫn rẻ rúng, vẫn xúm nhau lại mà bắt nạt.

Những câu chuyện đương nồng nàn từ trên chí dưới bỗng im bặt và mặt ông nào ông nấy bỗng hiện vẻ nghiêm trang và bước đi của ông đại bỗng trở lại chậm chạp, trịnh trọng, dõng dạc như lúc mới ở đình bước ra. Vì các ông trong thể thôn đã tới cổng nhà ông Thủ chỉ*, vì ở đấy có ông lý Vũ, anh họ ông Thủ chỉ, đứng đón tiếp - Năm nay cũng như mọi năm, ông Thủ chỉ bận việc quan vắng, nên ông anh họ ra thay mặt.

Thủ chỉ: tức tiên chỉ, người đứng đầu ngôi thứ trong làng.

Ông lý Vũ chắp tay cúi đầu vái lia lịa như chầy máy. Ông đại sẽ gật đầu nhưng mắt vẫn nhìn thẳng. Mọi ngày ông thường đánh tổ tôm với ông lý, thường vay giật nhau từng đồng, thường chè chén, nói chuyện gàn bát sách với nhau. Nhưng, hôm nay ông là ông đại bái, là người đứng đầu hàng thôn, cho nên vì thể thôn ông phải như thế.

Trong khoảnh khắc, cái nhà thờ năm gian hai chái đã chật ních những người.

Thằng mõ đặt mâm lễ trên nhang án rồi cúi đầu lui ra. Ông đại vào lễ trước. Ông lễ rất thong thả. Một anh đương thứ cầm bánh pháo ra sân đốt. Tiếng pháo nổ ran, khói pháo xanh nhợt bay tỏa ra như sương mù. Mấy anh xã tí nhau đứng ngoài sân, lộ vẻ sung sướng. Giá ở nhà thì các anh đã chạy ra tìm những chiếc pháo ngòi sót lại bỏ túi thỉnh thoảng đốt chơi.

Rồi theo thứ tự trên dưới, hai ông một vào lễ, tuy chiếc chiếu hoa trải trước bàn thờ có thể chứa đủ bốn ông. Cứ thế mãi, hết hai ông này ra đến hai ông khác vào…, thời giờ xem chừng đã thấy kéo dài.

Một ông bên trên nóng ruột nói: “Xin phép quan đại để hàng xã nhưng vào “lỡi”* bốn một cho… tiện”. Ông định nói cho chóng theo như ý nghĩ thầm của ông, nhưng đến cuối câu, ông tìm ngay ra được chữ tiện để khỏi bại lộ chân tướng.

“Lỡi”: lễ

Ông đại hiểu ý và cũng muốn vậy nên thuận ngay.

Hàng xã nhưng được thể chen nhau mà vào lễ hàng bốn, hàng năm, có khi hàng sáu. Các quan vơn lúc này dễ tính không bắt bẻ. Ông đại quay lại bàn thờ để khỏi chướng mắt và nhất là để khỏi phạm đến thể thôn.

Ông lý Vũ từ nãy vẫn khúm núm đứng đáp lễ bên nhang án; ông chạy ra, một tay vịn vào chiếc ghế bành mây, một tay gãi tai, nói: “Xin rước cụ đại an tọa”. Ông đại xua tay, đáp: “Không dám, chỗ này là chỗ cụ tiên chỉ. Người đi vắng cũng như người có nhà. Thế nào chúng tôi cũng còn phải trọng thể thôn chứ!”

Ông đi lại ngồi xếp bằng trên chiếc sập bên đông, kê tận trong cùng. Rồi một tay xòe ra, ông mời ba ông cao nhất ngồi với ông và, tay vẫn xòe đưa ra dẫy sập kê liền đấy, ông mời các ông khác. Sau cùng, ông rướn cổ nhìn sang bên kia nói to, giọng đàn anh: “Các quan vơn* kỳ hào đã ngồi đâu vào đấy rồi, bây giờ thì các ông các xã chia nhau mà ngồi cho có trật tự, nghe chưa?”

“Quan vơn”: Quan viên, người có chút địa vị trong làng, được miễn phu phen tạp dịch; phân biệt với bạch đinh (dân đen).

Bốn, năm tiếng dạ ran, rồi lộn xộn, ông nọ đùn ông kia ngồi trên, ông kia đùn ông nọ ngồi trên, dằng dai một hồi lâu. Xã Chính biết phận, ngồi hàng dưới cùng với lũ xã tí nhau. Mấy ông bên trên thấy thế thương hại đến kéo lên ngồi với hàng xã lớn tuổi. Xã Chính sợ mất “thể thôn”, từ chối. Mãi sau ông đại cho phép mới dám nhích lên mâm trên. Bác cẩn thận thế cũng phải, nếu không chốc nữa rượu vào lời ra, các ông “hoạnh” thì biết đường nào mà nói.

Bên đông, bên tây đã ngồi đâu vào đấy rồi, ấm chén sắp sửa bưng ra để các ông làm một tiệc nước thì ông đại bỗng đứng dậy. Mọi người đứng dậy theo ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu.

Ông đại nói: “Chết chửa! Tôi quên bẵng đi mất. Anh em chúng mình chưa chào cụ cố”. Rồi ông gọi: “Ông lý cựu đâu? Ông đưa quan vơn hàng thôn lên chào cố đã”.

Bên kia, hàng cán, xã nhao nhao, hỗn độn như đám bạc bị bắt.

Ông lý Vũ chạy ra đứng trước mặt ông đại gãi tai nói:

- Thưa cụ đại và các cụ, cụ cố chúng tôi mệt, nằm dưới nhà. Cụ cố chúng tôi xin có lời cảm ơn các cụ và xin các cụ miễn cho.

Ông đại xua tay, lắc đầu:

- Chúng tôi thế này cũng là không phải lắm. Vậy ông cứ để chúng tôi xuống chào và mừng tuổi cố.

Ông lý van lơn:

- Xin các cụ miễn cho. Cụ cố chúng tôi mệt không ra tiếp các cụ được.

Ông đại bẻ lại:

- Ông chớ nói thế. Chúng tôi đâu dám để cố ra tiếp. Chúng tôi chỉ xin xuống chào và chúc mừng cố.

Vừa nói, ông vừa đi xuống nhà. Các ông trong “thể thôn” theo sau. Ông lý Vũ chạy vội xuống bẩm trước. Cụ cố đương nằm nghỉ trong màn vừa thở dài, tốc chăn ngồi dậy thì ông đại đã đứng cửa nói vào:

- Lạy cố ạ, quan vơn thôn có lời chào cố và chúc cố bách niên trường thọ.

- Không dám ạ. Cụ chực thò đầu bước xuống thì ông đại đã nhanh mồm, nói:

- Cố mệt, xin cố cứ nằm nghỉ.

- Phải, tôi trong mình cũng không được khỏe. Vậy xin các ông tha lỗi cho nhé.

- Không dám ạ. Rồi ông đại quay ra nói với hàng thôn:

- Bây giờ xin các quan vơn lại lên nhà và xin ông nào ông ấy cứ ngồi yên chỗ cũ cho có trật tự.

Một vài ông khó chịu thì thầm với nhau: “Ông đại ta đến nhiễu sự”. Một vài ông khác khen to tiếng để ông đại nghe thấy: “Ông đại người cẩn thận chu đáo thật”.

Lần này, các ông nhớ chỗ, ngồi đâu vào đấy ngay. Ông đại rung đùi đắc chí, nói tự phụ: “Các cụ xem tôi mà không nhớ ra thì còn gì là thể thôn!”

Chỗ này trả lời, chỗ kia trả lời, ồn ào như buổi phiên chợ.

Người nhà ông thủ chỉ sợ ôi cơm, ôi thịt, bảo bỏ tiệc nước mà bưng ngay cỗ lên. Một người đi từng mâm bắt đầu từ mâm ông đại, cầm chai rượu mở nút và rót các chén.

Ông lý Vũ cùng mấy ông trong họ lần lượt đến bên từng mâm, nhắc đi nhắc lại câu: “Gọi là có chén rượu nhạt, xin mời các cụ chiếu cố”.

Các cụ nhắm nháp khề khà. Cỗ bưng lên từ lúc hai giờ, mãi đến năm giờ mới ăn uống xong.

Ông đại và hàng thôn xuống cáo từ cụ cố. Một tràng pháo của ông thủ chỉ đốt tiễn.

Ông đại lại trịnh trọng bước một đi đầu. Ông lý Vũ lại ra đứng cạnh cổng vái lia vái lịa như chày máy.

Ra đến đường, hàng thôn giải tán. Người nào về nhà người ấy. Ông đại đã làm đầy đủ chức vụ.

Bây giờ ông cứ việc lu bù cho đến mồng mười tháng hai là ngày đông đám.

Xã Chính vốn thích rượu mà không dám uống nhiều, sợ say nói nhảm, sẽ bị quan vơn bắt lỗi, có khi bị truất ngôi trừ ngoại cũng chưa biết chừng. Nghĩ làm cái thân anh xã cũng rầy thật!

Hàng thôn giải tán rồi, bác cắm đầu cắm cổ đi rẽ về phía khu trong. Bác còn phải đến lễ mươi mười lăm nhà nữa. May mà sáng sớm ngày ra, bác đã lễ được vài chục nhà rồi.

Không có thì làm sao cho kịp với cái thời giờ ít ỏi? Không được đủ thì thật là hối hận trong cả một năm.

 

HỘI QUAN LÃO

Mồng sáu tháng giêng, ngày hội “quan lão”, là một ngày vui vẻ, sầm uất, náo nhiệt nhất làng Cầm.

Ngày ấy, văn chỉ* thờ đức Khổng bỗng thành một nơi tụ họp cả bốn thôn: Thượng, Trung, Tiền, Hạ, chỗ hẹn hò của đủ hạng người: già, trẻ, trai, gái, trên từ hàng lý, phó, dưới tới hàng cán, xã cho chí bạch đinh. Trong các ngõ xóm, trên các đường hẻm, đường cái, từng lũ nối đuôi nhau đi cả về một phía như các dòng sông chảy ra biển. Trong văn chỉ, ngoài sân văn chỉ, chung quanh văn chỉ, người đi lại đông như kiến.

Miếu (đền) thờ Khổng Tử ở các làng.

Họ xem gì? Họ chưa thấy gì để xem, ngoài mươi lá cờ xanh đỏ, vàng tím phất phới trên đầu họ.

Nhưng nét mặt người nào cũng lộ vẻ náo nức. Họ náo nức vì quanh năm làm ăn vất vả, họ chỉ chờ mong ngày hội, bất cứ hội gì để giải trí. Nếu chỉ xem có thế thôi rồi về, họ cũng không oán thán.

Không bao giờ Mít sung sướng bằng hôm nay. Mít dậy thực sớm, xuống bếp vội làm vài lưng cơm với mấy con tôm rang mặn, vội đun ấm nước trà tươi để chốc nữa thầy dậy uống, rồi tất tả lên nhà trang điểm. Mít thắng xong bộ cánh, vuốt đi vuốt lại dải lưng thiên lý, ngắm trước ngắm sau chiếc váy lụa mềm, rồi móc ở túi áo cộc trắng lộ trong chiếc áo tứ thân màu nâu non, một cái gương nhỏ. Mít cầm gương lọt trong lòng bàn tay giơ ra soi, cúi đầu xuống, ngửng đầu lên, quay đầu sang bên này, bên kia ngắm từ cái cổ cái tai cho chí các nét tỉ mỉ trên mặt. Mít thấy mình đẹp và khẽ nhếch một nụ cười sung sướng. Rồi Mít tự ngượng, và tự hỏi không biết cái Cúc, cái Khuy, cái Cài, cái Hĩm, chúng nó có làm đỏm, làm dáng như mình không.

Từ thuở bé, Mít vẫn thấy người ta chế giễu người làm đỏm, nên Mít cho cái tính của mình là một tính xấu. Xấu thì xấu, Mít cũng không sao chừa được. Không dám làm đỏm trước mặt mọi người thì Mít làm đỏm ngầm kín vậy, Mít không thể rời được cái gương với cái hộp sáp. Mít khổ sở khi thấy đầu không bóng mượt, vành khăn không tròn trĩnh hay yếm không trắng bong. Dù bố mẹ có mắng vì cái tội làm đỏm, Mít cũng không sao để đầu bù tóc rối, quần áo xuề xòa như mẹ được.

Mấy hôm tết, Mít làm đỏm để thỏa riêng lòng sở thích, vì Mít chỉ luẩn quẩn hết nhà trên đến nhà dưới. Một đôi khi, có sang bên hàng xóm hay đến các nhà trong họ, Mít cũng chỉ để đỏ mặt lên một chút mà nghe những lời khen quá đáng của ông chú bà bác và những lời giễu cợt của mấy người anh em họ.

Hôm nay là một dịp tốt để Mít so sánh sắc đẹp với chị em. Nhất là để gặp Tửu, Tửu mà ít lâu nay Mít không thấy bóng đâu cả, khiến Mít nhớ quá. Có lần Mít đã định đến chơi với Gái để được giáp mặt Tửu, nhưng nửa chừng Mít sinh ngượng rẽ vào xóm Lũy đến chơi nhà chú.

“Chị Mít ơi, chị Mít có nhà không đấy, hay đã lẻn đi trước chị em rồi”, đó là tiếng Cúc cùng đi với Cài, Khuy, Mậm đến rủ Mít.

Mít vội bỏ cái gương vào túi, chạy ra sân đón.

Khuy chế giễu:

- Úi chào làm đỏm nhỉ!

Mít cười nói:

- Các chị thì nữa không.

Mậm cãi:

- Tôi thì có gì đẹp mà chị vơ đũa cả nắm.

Mít cầm lấy bộ xà tích Mậm đeo lủng lẳng bên đùi, và nói:

- Thế thì cái gì ở dây lưng lụa ngà của chị đây?

Mậm khẽ ẩy Mít và cười trừ.

Cài muốn giục đi ngay, nói:

- Thôi thôi, tôi xin các chị đừng chế lẫn nhau. Chị nào cũng làm đỏm cả… tôi cũng vậy.

Nói rồi, Cài khoác vai Mít và Mậm lôi đi.

Thấy chị nào cũng bỏm bẻm miếng trầu, Mít gỡ tay Cài, chạy vào trong nhà, vừa chạy vừa nói:

- Để tôi lấy miếng trầu, không có nhạt mồm lắm.

Mít không nhạt mồm. Mít đoán chắc môi mình không được cắn chỉ vì thiếu miếng trầu. Lúc nãy Mít soi gương, quên không để ý đến cặp môi. Mít lẻn vào buồng mẹ lấy trộm miếng trầu bỏ miệng rồi lấy thêm vài miếng nữa bỏ túi. Các chị kia thừa hiểu, tủm tỉm cười một cách ý nhị.

Gần đến văn chỉ, Mít ngại ngùng nói:

- Đông lắm chúng mình ạ. Vị tất cánh mình đã chen được.

Cúc, giọng quả quyết, cãi lại:

- Trông xa thì thế, chứ cũng không đông lắm như chị tưởng đâu. Rồi chị xem.

Tới gần mới biết lời Cúc là đúng. Người qua lại tuy đông thật, nhưng cũng còn có lối đi, không đến nỗi phải chen vai, thích cánh.

Chị em Mít sợ lạc, dắt nhau đi như rồng rắn, vừa đi vừa cười đùa, nghịch ngợm.

Một bà lão trông thấy, nói nửa cợt nửa trách:

- Các cô đi kén chồng hay sao mà làm đỏm làm dáng thế?

Mít nhanh nhảu đáp lại:

- Vâng, chúng cháu đi kén chồng đây.

Các chị bỡ ngỡ. Một chị hỏi:

- Ta đi đâu bây giờ?

Mít dẫn đầu nói:

- Cứ chỗ nào đông thì vào.

Nhưng mỗi lần qua được một bọn người là một lần chị em thất vọng. Chỗ thì thấy dăm bảy ông kỳ mục ngồi chuyện vãn chung quanh mâm cau, mâm cam, để “mừng quan lão” của con cháu các ông “vào lão” năm nay. Chỗ thì thấy mấy anh đương thứ bày những cỗ mũ lên trên án thư sơn son thiếp vàng kê thành bực. Chỗ thì thấy hai đứa trẻ cãi nhau, đấm đá, vật lộn nhau và một lũ vừa trẻ con vừa người lớn đứng vòng trong vòng ngoài hò reo rầm rĩ.

Mít băn khoăn, vì từ nãy vẫn có ý tìm Tửu mà chẳng thấy đâu.

Bỗng đằng xa có tiếng trống rước, trống cái, trống khẩu. Tù và rúc từng hồi, và thỉnh thoảng một tràng tiếng loa kéo dài giục: “Cờ tiền, trống hậu rải ra cho đều”. Những tiếng ấy làm náo động cả đám đông. Bao nhiêu người chạy ùa ra đường cái, mạnh như thác chảy. Tiếng reo tiếng chửi, tiếng khóc loạn xạ.

Chị em Mít biết lúc này là lúc nguy hiểm, bèn nắm chặt lấy tay nhau, đứng nép vào tường hoa, đợi cho ngớt người mới dám dắt díu nhau đi. Đến nơi các chị đã thấy hai bên vệ đường người đứng chen chúc nhau thành hai dẫy tường dầy. Mít cao nhất bọn, rướn mãi cổ lên nhìn mà cũng chỉ thấy lố nhố những đầu. Mậm hăm hở lấy tay, lấy vai lách mãi… Một người đàn bà quay lại mắng: “Con gái con ghiếc gì mà táo tợn thế, không sợ người ta…” Tiếng loa vang lên làm lấp mất đoạn cuối. Cài nhanh trí, kéo Mậm ra và bảo chị em:

- Chúng mình mau mau đến chực sẵn dưới gốc cây xoan tàu.

- Phải đấy!

Rồi mấy chị không lưỡng lự cùng theo Cài đi. Vì dưới gốc cây ấy, người ta đã xây cạp vòng tròn, cao hơn sân một thước ta. Đứng đấy, các chị có thể nhìn thẳng vào giải võ là chỗ mà năm nào dân làng cũng bày biện để đón tiếp ông thủ chỉ làng. Các chị lại còn nhìn được khắp sân, từ cổng trở vào, tuy hơi xa một chút.

Một lát sau, chị em sung sướng nhìn thấy hiện ra lá cờ đầu bằng vóc đỏ cạp các thứ vóc xanh, vàng, tím và mép viền trắng. Trên nền vóc đỏ thêu bốn chữ kim tuyến: “Lão thần trí sĩ”. Tiếp đến mười lá cờ nỉ của làng hầu hết đã cũ. Trên nền nhiều lá những lỗ gián nhấm lấp lánh như sao, mỗi khi cờ phất phới bay trước gió.

Những người cầm cờ mặc toàn áo nậu đỏ và quấn xà cạp đỏ. Mắt họ nhìn bà con đi xem, lộ vẻ hãnh diện, nhất là anh cầm cờ đầu. Rồi đến bốn anh phường trống cà rùng đứng đôi một đối diện nhau. Chúng đều mặc áo lụa đỏ, thắt lưng lụa xanh ra ngoài. Mỗi anh đeo một cái trống ngay giữa bụng và ưỡn người, khuỳnh tay ra đánh. Tiếp đến tám anh phường bát âm, một anh cầm trống khẩu, tám anh cầm bát bửu, hai anh cầm kiếm. Họ mặc một loạt áo lương đen, thắt lưng điều.

Mít bỗng nóng mặt. Mít vừa nhận thấy Tửu trong bọn cầm bát bửu. Tửu cũng đã trông thấy bọn Mít và đỏ mặt, đăm đăm nhìn về phía gốc cây xoan tủm tỉm cười.

Mấy anh tuần phu mặc áo cộc trắng ngoài thắt dây lưng da, chân quấn xà cạp tím. Mỗi anh cầm cây tay thước sơn then vừa gạt những đám đông vừa hô to cho công chúng biết: “Dãn ra! Dãn ra! Võng cụ lớn đến!” Bao nhiêu mắt đổ dồn vào đấy. Mít quên cả Tửu và chị em, trố mắt nhìn ra phía cổng. Một ông quan, râu bạc phơ, mặc triều phục, đội mũ cánh chuồn, cầm hốt ngà, ngồi xếp bằng tròn trên chiếc võng điều. Hai anh nông phu lực lưỡng mặc áo nậu đỏ đặt trên vai chiếc đòn đầu rồng đuôi tôm sơn son thiếp vàng, giữa cong lên như cánh cung. Hai bên, bốn chiếc lọng xanh chúc đầu vào nhau để che, tuy trời râm mát. Theo sau, mấy ông đội mũ tế, mặc áo thụng xanh có bối tử. Chừng đó đều là những ông cử, ông tú, ông hàn. Kế đến một lũ “tiểu mũ” đội hòm mũ áo và đi đoạn hậu một tràng dài người.

Cờ, lọng cắm ngổn ngang ngoài sân. Còn bát bửu thì cắm vào giá trong văn chỉ.

Ông thủ chỉ, một ông tuần* đã về hưu, ở võng bước xuống đi vào cái sập gạch trải chiếu cạp điều xây giữa giải võ, cao hơn hai sập dài ở hai bên. Những câu “lạy cụ lớn” trong những tiếng ồn ào hò reo của lũ trẻ.

Tuần: tuần phủ, quan chức Nam triều đứng đầu tỉnh nhỏ.

Ông tuần ngồi đĩnh đạc, rõ ra một vị đường quan; các ông cử, tú, hàn ngồi thành hàng dẫy trên cái sập ngoài cũng xây ở gian giữa nhưng thấp hơn. Còn các ông chánh phó hội, các ông chánh phó lý cựu, các ông hương, cán, xã theo thứ tự ngồi ở hai chiếc sập hai bên.

Được dự vào đấy thật là một sự hãnh diện với làng với xóm. Xã Chính và bọn xã tí nhau không được có cái hãnh diện ấy. Bọn kia vì còn ít tuổi quá, còn xã Chính thì vừa mới bầu.

Bọn chị em Mít tuy đứng ra ngoài vòng người, nhưng nhìn vào rõ mồn một.

Mít thì thầm vào tai Cúc:

- Này chị, trông cụ tuần như ông tượng ấy nhỉ.

Cúc cãi lại:

- Không rồi! Như đức ông chứ lị!

Khuy cũng nói chêm vào:

- Ừ ừ, như ông vua.

- Trong rạp chèo.

Nghe rõ tiếng đàn ông nói tiếp, Khuy quay lại, Mít cũng quay lại, rồi lần lượt, Cúc, Cài, Mậm, chị nào chị ấy đỏ mặt đứng im. Vì mấy anh đứng sau là mấy chàng trẻ tuổi, mặt láu lỉnh, hoặc vận Tây, hoặc vận Nam, khăn lượt, áo xa tanh, trông rõ ra những người ở tỉnh về. Không bao lâu các chị đã quên bẵng mấy chàng trẻ tuổi đứng sau để mê mải ngắm nghía cái kiều vàng và mấy bông hoa vàng dát mặt đá lóng lánh như kim cương trên chiếc mũ cánh chuồn, những con rồng, con phượng thêu rực rỡ trên nền xa tanh huyền chiếc áo đại trào.

Bỗng Mậm đỏ bừng mặt, nắm tay Mít kéo đi chỗ khác, các chị kia không hiểu sao cũng bước theo.

Cài bực mình hỏi:

- Các chị hay nhỉ! Chọn được chỗ tốt lại bỏ đi… thế đi đâu bây giờ?

Mậm mặt chưa hết đỏ, nói gắt:

- Khốn nhưng họ nghịch gớm di được! Mít hiểu rồi nhưng còn muốn trêu chơi, vừa cười ranh mãnh vừa hỏi:

- Họ nào?

Mậm:

- Họ ở sau chúng mình chứ họ nào nữa.

Mít vẫn một nụ cười ranh mãnh:

- Nhưng họ nghịch thế nào mới được chứ?

Mậm mặt càng đỏ hơn, nói nũng nịu:

- Lại còn thế nào nữa. Chị Mít rõ khéo ỡm ờ!

- Sao họ nghịch khỉ thế nhỉ?

Mít nhìn lại. Bọn trai cũng đã bỏ chỗ cũ để đi nơi khác. Mít tự nhiên thấy tiêng tiếc. Mít thoáng nhớ nét mặt một chàng trạc tuổi Mít và thấy chàng nhu mì đáng yêu quá. Giá Mít được… Mít cảm thấy địa vị thấp hèn của mình không thể sánh với địa vị cao quý của chàng ta và thở mạnh để xua đuổi cái mơ tưởng vô lý ấy đi. Nhưng nếu Mít biết rằng chàng kia lúc nãy đã tha thiết nhìn Mít trong lúc Mít mải ngắm ông tuần…

Cài tiếc rẻ, kéo chị em trở lại xem. May sao nơi bực gạch chưa bị ai chiếm mất.

Ông tuần đã bỏ mũ, đội thay vào chiếc khăn lượt xếp và cởi áo trào để phô chiếc áo gấm thất thể. Mấy ông bên dưới cũng bỏ mũ mặc thường phục.

“Dãn ra các người. Có các cụ lớn đến!”. Một anh tuần phu vừa thét vừa cầm tay thước giơ lên dọa. Đám người đứng ngáng lối, xô đẩy nhau dãn ra hai bên.

Ba ông, đầu tóc bạc phơ, bệ vệ bước vào. Hai ông đi trước là hai ông huyện, thụng thịnh trong chiếc áo vóc huyền như các cụ đồ nho khi xưa. Ông đi sau tuy đã ngoài bảy mươi mà bước đi vẫn chắc chắn, mạnh mẽ, mực thước như bước đi của nhà binh. Trên bộ ngực nở nang của ông, một dẫy huy chương treo rủ xuống suốt từ bên tả sang bên hữu, cái cuống xanh, cái cuống đỏ, cái cuống vàng, cái cuống tím, đủ mọi sắc. Ba ông tiến lên thềm giải võ, cúi chào ông tuần. Các ông cử, ông tú, ông hàn và các kỳ hào đứng cả dậy chắp tay vái.

Ông tuần bỏ một chân xuống thành sập và giơ tay xòe ra mời. Thấy Vệ úy tướng quân có vẻ ngạo nghễ với bộ ngực đầy những huy chương, ông chỉ lên chiếu trên và nói:

- Ấy kìa, bác Vệ, mời bác ngồi lên đây với tôi.

Các cụ thâm nho vẫn hay có tính nói chọc, nói kháy, mỗi khi các cụ vớ được dịp tốt.

Kể họ, ông Vệ úy còn là anh ông tuần. Vậy ông dùng tiếng bác là phải không ai dám bẻ. Nhưng ông lại cố ý bỏ tiếng “úy”, gọi một tiếng “vệ” cộc lốc để cho nó ra vẻ chú lính tập.

Ông Vệ úy chậm xét, không hiểu là một câu nói mát, chắp tay, đáp lại bằng một giọng kính cẩn:

- Dạ, bẩm cụ lớn, chúng tôi đâu dám thế.

Rồi ông ngồi cùng hàng với hai ông huyện. Các ông cử, tú chịu nhường chỗ, nhưng đều quay ra nói chuyện với nhau và chỉ để ý trả lời những câu của ông tuần với hai ông huyện. Họ vẫn khinh thường “quan vơn lính tập”, dù người lính ấy đã trở nên ông, nên cụ.

Bọn chị em Mít đứng ngắm suông mãi đâm chán, bèn rủ nhau đi nhởn khắp nơi. Thấy chỗ nào đông cũng len vào nhìn một tí rồi lại đi chỗ khác. Chị em đi vơ vẩn, đến chợ lúc nào không biết. Một giọng hát quen làm cho lòng ham mê cờ bạc của Khuy bỗng nổi dậy. Khuy vội kéo chị em lại chỗ có tiếng hát.

Một thằng bài tây, quấn khăn đầu rìu, ngồi xổm, hai đầu gối nhô lên khỏi cằm. Bằng ngón tay trỏ với ngón tay cái, nó cầm hai đầu ba cây bài tam cúc chập lại, một cây đỏ, hai cây đen, ngửa ra cho mọi người xem, rồi vừa hát vừa vất sấp xuống chiếu. Song, nó lấy ngón tay dí vào một quân, mồm liến thoắng: “Nó đây! Nó đây!” Ngồi cạnh, một thằng cò mồi, tay cầm một gang tiền chinh. Nó đánh đâu được đấy.

Khuy ngồi xuống với lũ trẻ xúm xít chung quanh.

Chị em giục Khuy đứng dậy. Nhưng thua mấy ván liền, Khuy đã nóng mặt, Cài phát cáu, nói gắt:

“Đã thế, mặc thây hắn, cánh mình chẳng hoài hơi”. Rồi quàng vai Mít và Cúc rẽ vào quán đá, đi lại chỗ đám đông quây quần ở góc quán bên kia. Mậm cũng bỏ đi nốt để mặc Khuy với quân bịp.

Bác xã Rậu say bí tỉ, ngồi xếp bằng xóc cái. Chiếc khăn lượt quấn cổ, tóc bù lên như người mới ngủ dậy. Mùi người lẫn mùi rượu xông lên nồng nặc. Những tiếng “bán chẵn, bán lẻ”, những tiếng hò reo mỗi khi bát mở, những tiếng cãi cọ om xòm.

Mít nhìn khắp vòng người để tìm Tửu và thấy Tửu đang ngồi kề vai, kề đùi với Chắt và Mùi.

Đứng một lát không thấy ai ngửng đầu lên, Mít gọi: “Anh Chắt! Anh Chắt!”. Mít không dám gọi Tửu, sợ ngượng.

Tửu nghe rõ tiếng Mít nhìn lên. Mít trang điểm đẹp hơn mọi ngày. Tửu ngồi ngây người ra, cặp mắt sáng ngời như muốn thu cả linh hồn Mít vào trong. Rồi đập vào vai Chắt:

- Này Chắt, Mít, Cài, Cúc đứng cả kia.

Chắt ngửng đầu lên, nói: “Các chị đấy à”, rồi lại cúi xuống chăm chú vào bàn xóc đĩa. Mùi đang cay gỡ, chẳng nghe thấy gì cả.

Cúc có tình ý với Chắt và không muốn Chắt ngồi lì mãi đấy, giục:

- Thôi, Chắt ạ, đừng đánh nữa, ra đây chúng tớ hỏi cái này.

Cài, Mậm cũng muốn họp bạn với bọn trai, liền vào hùa với Cúc đi lại lôi kéo Chắt.

Nghe chừng thấy bác xã Rậu gần thua sạch, Chắt không cưỡng, đứng dậy ngay. Tửu ngồi xem, đứng lên theo. Tín ngồi bên kia cũng bỏ đi nốt. Rồi dần dần tản mát để mặc xã Rậu ngồi trơ với lũ trẻ ranh.

Biết bao lần như thế. Động say vào là xã Rậu đi tìm thú xóc đĩa. Và chẳng lần nào là lần bác mang về được một đồng xu nhỏ.

Thế mà bác có sẵn tiền sẵn của gì cho cam. Điền vô nhất thốn*. Một túp lều tranh, một đàn con dại. Vợ làm hàng xáo, cả ngày đầu tắt mặt tối.

Điền vô nhất thốn: đất không một tấc.

Lúc tỉnh, chồng còn đỡ đần, xay lúa, giã gạo. Nhưng đến lúc say thì liệu có cái mâm cái nồi cất đi cho kín. Nếu không, ông chồng sẽ đem đi cầm lấy tiền nướng hết. Cả đến dăm hào, một đồng buộc dải yếm, bác cũng lần cho kỳ được. Không được thì bác đập phá tan hoang.

Một lần, vào dạo gần tết, bác đi kinh lý các ông chú, bà bác được bốn năm đồng và chiếc áo tây dạ tím. Bác định đem tiền về đưa cho vợ làm vốn. Bất đồ về qua tổng Đoài, gặp mấy người quen rủ vào đánh đụng thịt chó. Bác say giở luôn xóc đĩa ra đánh, bị chúng vét sạch. Còn chiếc áo tây, bác giữ dai dẳng được một tháng rồi cũng mất gió.

Bác gái, một hôm, nghĩ xót xa, tủi nhục cho duyên kiếp mình, ngồi khóc hu hu trên ngưỡng cửa.

Một vài bà đi chợ qua, đặt thúng xuống, ngồi cạnh dỗ. Bác gái kể lể. Mấy bà kia lắng tai nghe rồi an ủi: “Thôi bác ạ, chẳng qua cũng là số kiếp mình nó thế”. Bác gái lấy vạt áo lau nước mắt: “Vâng, tôi cũng biết thế, nhưng mà khốn nạn, cái thân tôi cực nhục lắm cơ.” Rồi bác lại y ỷ khóc.

Đã thế, mà bác vẫn thương chồng. Thường lúc thấy chàng ủ rũ lại mua rượu và khoanh giò hay khúc cá về cho chồng nhắm để chồng say rồi chồng làm khổ.

Bọn Mít và bọn Tửu đi đến hàng nước quay mặt vào quán đá.

Cúc, mỗi lần có đông chị em cùng đi với, trở nên quá bạo, vỗ vai Chắt:

- Anh được phỏng?

Chắt ngạc nhiên, hỏi:

- Sao chị biết?

Cúc cười, liếc nhìn Chắt:

- Tôi trông thấy mặt anh hớn hở.

Chắt đắc trí cười:

- Thế thì thánh thật! Nhưng mà được có vài hào thôi.

Mậm hay cả thẹn nhất trong bọn, thấy họ vui đùa lả lơi, cũng đánh bạo:

- Này anh Chắt, anh phải thết bọn chúng tôi trầu nước chứ.

Chắt hăng hái:

- Được! Cô nào muốn ăn bún riêu, anh em chúng tôi cũng thết.

Mít hớn hở:

- Ái chà, hoang nhỉ!

Và nhìn Tửu cười, Tửu sung sướng quá, reo lên:

- Thích nhỉ. Thế thì mời quan vơn hai họ ngồi cả xuống đây.

Chị nọ chen chị kia, cười khúc khích.

Tín thua nên không được vui lắm. Thấy Chắt nhảy múa như đứa trẻ, nó phì cười, quên cả tiếc rồi nói nửa bỡn nửa thật:

- Tao đói lắm mà thua hết cả tiền rồi. Mày có thết tao bún riêu không hay chỉ thết chị em lũ thị mẹt kia thôi?

Chắt không giận ai bao giờ, nói:

- Mày cứ việc chén cho vỡ bố cái bụng ra thì thôi.

Mậm mỗi lúc một dạn dần, bắt bẻ:

- Anh Chắt! Anh Chắt! Bụng nó làm gì có bố.

Chắt cười:

- Thế thì mẹ, vỡ mẹ cái bụng ra.

Mít cười ngặt nghẹo:

- Thưa ông tướng (Chắt vẫn tự xưng là ông tướng mục đồng) nó cũng chẳng có mẹ.

Chắt lại cười:

- Thế thì vỡ bụng ra thôi vậy, các chị bẻ nữa đi.

Mọi người thích chí thi nhau cười.

Bà lão mừng được dịp đắt hàng, cũng cười góp. Bà xưa nay vốn khó tính, trai gái đùa nhau ở hàng bà, thường bị bà cự.

Tửu nhanh nhảu lật ngửa năm, sáu cái bát úp trên mặt chõng:

- Cụ rót đầy cho chúng tôi. Hôm nay nước chè có ngon không, cụ?

- Hôm nay thì tất thị phải ngon rồi.

Bà vừa nói vừa cầm gáo dừa, miệng bịt lỗ cáo nhỏ để cho bã chè khỏi lẫn vào nước. Bà mở nắp gỗ, vục gáo vào chiếc nồi chân để trong cái thúng có rơm ủ, rồi rót ra các bát.

Uống xong, Tín nói trước:

- Thế thì cụ bán cho tôi bát bún riêu. Tiền đã có ông tướng này trả (vừa nói vừa trỏ vào Chắt).

- Tôi một bát với.

- Tôi nữa.

- Tôi nữa.

Tiếng gọi nhao nhao.

Chắt, giọng quả quyết:

- Được, bà cụ cứ múc phứa ra. Của là của trời cả.

Chắt quay ra hỏi tiếp:

- Có phải không chúng mày?

Mít bẻ:

- Anh Chắt! Trước mặt chị em, anh xưng mày tao, bất nhã lắm. Chắt chắp tay vái dài và phép tắc nói:

- Vậy tôi xin các chị và xin chị Mít đừng đỏ mặt mỗi lúc gặp anh Tửu ạ.

Mọi người cùng cười. Mít xấu hổ, nói nũng nịu:

- Rõ khéo nhà anh này, việc gì tôi đỏ mặt.

Tửu tự nhiên cũng đỏ mặt nốt.

Một hồi trống tế trong văn chỉ rung ầm lên. Tửu có dịp nói lảng:

- Sắp tế rồi, các anh ạ.

Mọi người đứng dậy. Chắt móc túi lấy tiền trả:

- Bao nhiêu, bà hàng?

Bà lão nhìn những bát để ngổn ngang, tính:

- Năm bát bún một hào, mười hai bát nước sáu xu, tám miếng trầu… Thôi, lão tính rẻ cho các người là hai hào.

Chắt bỏ hai hào vào đĩa trầu và tươi cười nói:

- Hãy còn được hai hào nữa kia chúng… mình ạ.

Tín cười nói:

- Thế thì để chốc đói lại làm tiệc nữa.

- Mày thì chỉ bàn chuyện ăn là nhậy.

Tín cười:

- Chuyện, dĩ thực vi tiên, bao giờ chả vậy.

Bọn chị em đã đi lên trước, lại chỗ bài tây tìm Khuy. Đến nơi, chị em chẳng thấy quân bài tây và Khuy đâu cả. Tửu và Tín đứng đợi Chắt trả tiền xong, cũng rảo bước để kịp bọn kia.

*

*   *

Xã Chính thức dậy, thấy Mít và mấy đứa trẻ đi xem hội cả rồi. Bác không gắt, cầm điếu sành xuống bếp và lấy cái bát úp trong rổ phơi ngoài sân vào rót nước chè nóng uống. Bác uống luôn ba bát, hút luôn ba điếu thuốc. Bác say lử, ngồi gật gù trước mặt ba ông đầu rau. Một lát đã thấy tỉnh, bác lên dặn vợ coi nhà và mặc áo, cắp ô đi thẳng đến nhà ông Hoạch, người chú họ bác.

Ông Hoạch được lên thủ chỉ lão từ hôm nay. Từ thượng cổ, họ bác mới có ông thủ chỉ lão này là một. Thật là vinh hạnh cho cả họ. Ngoài ra, họ lại còn hai ông vào lão sáu mươi. Hai ông này là chức dịch lại giàu, tất làm to.

Bác vừa đi vừa nghĩ, thấm thoát đã đến nhà ông Hoạch. Bác tưởng bác đến sớm nhất. Thế mà trông vào đã thấy gần chật sân.

Ông Hoạch nghèo, nghèo quá. Cả nhà lẫn đất hợp lại không bằng nửa cái sân gạch nhà giàu.

Nhà trên ba gian bằng tre, lợp cỏ. Gian giữa bị bàn thờ chiếm mất già nửa. Chỉ còn đủ một cái phản con cho ông thủ chỉ lão ngồi. Hai gian cạnh hẹp quá. Mỗi gian chỉ đủ kê ba chiếc phản ghép liền nhau.

Cái sân bằng đất nện, chiều dài độ mười bước và chiều ngang độ ba bước.

Nhà dưới là một túp lều, thấp lè tè, ra vào phải cúi đầu. Một người tầm thước có thể đứng chạm nóc.

Nhà cửa như thế chứa sao đủ cả họ ước tới bảy, tám chục người?

Ấy thế mà tùng tiệm vẫn đủ. Trong nhà hơn ba mươi người ngồi chen chúc nhau. Ngoài sân những hạng thấp hèn như xã Chính và kém xã Chính. Nhà dưới, các bà lý, bà khán ngồi la liệt cả xuống chiếu trải liền trên đất, chỉ để chừa mấy cái đầu rau. Thậm chí cả đến ngoài cổng, ngoài ngõ, ngoài đường cũng là chỗ tụ họp của quan viên họ.

Ngay góc nhà dưới, một vại nước chè tươi để sẵn. Ai muốn uống, vào mà uống, trừ mấy ông bên trên. Hàng chục cái bát vục xuống. Có người uống còn thừa lại tiếc rẻ đổ vào. Họ cho như thế là thường nên không một ai trách móc.

Trên chiếc phản con, ngay trước bàn, một mình ông Hoạch ngồi bó gối. Ông ngồi thế đã quen từ thuở nhỏ. Người ta có nhắc, ông ngồi xếp bằng được một chốc rồi đâu lại vào đấy. Một vài người biết tướng, bảo vì thế mà suốt đời ông vất vả.

Ông năm nay tám mươi sáu mà vẫn ăn khỏe, uống khỏe, đi khỏe chẳng kém gì hạng lực điền.

Thời ông năm, sáu mươi tuổi thì không nói làm gì. Thời ấy, có lần ông đã đi bộ tới hàng trăm cây số. Nhưng hiện giờ, ba mươi cây, ông chỉ làm hai “thôi”. Mặt ông lúc nào cũng hồng hào, thân thể ông, nếu trần truồng, trông chẳng khác một pho tượng đồng mắt cua. Nhưng về phần thông minh, ông còn kém đứa trẻ lên mười. Ông suốt đời vô tư lự. Và câu chuyện của ông, ngoài việc ăn uống, chẳng có gì khác. Cặp mắt ông tinh tường vì sức khỏe, nhưng ngớ ngẩn, dại nghếch như cặp mắt một anh mọi trên rừng sâu núi thẳm.

Ông ích kỷ một cách rất thực thà. Một hôm, ở nhà ông thủ chỉ lão ra, ông gặp một người trong họ. Người ấy chưa kịp hỏi, ông đã vội nói: “Này bác ạ, ông lão sắp chết đến nơi rồi. Năm nay đánh chết tôi cũng được thủ chỉ lão.” Và mặt ông lộ hẳn vẻ sung sướng, vì cái thủ lợn mừng quan lão, ông nắm chắc trong tay.

Nhưng nếu không may ông kia vẫn sống, ông cũng chẳng buồn, chẳng tức, vì ông không hay nghĩ ngợi, chỉ biết sống được ăn nhiều, uống nhiều, là thích.

Lẽ ra ông được làm thủ chỉ lão trước ông kia mới phải. Ông sinh trước ba tháng, lại vào làng trước một năm. Ông không được, chỉ vì ông nghèo quá, không có tiền bầu xã nhưng.

Hôm việc làng, cữ trong năm, suýt nữa họ truất ông đi để đem ông khác lên. May nhờ có ông lý Cúc giở lý sự ra cãi. Ông cãi rất cứng. Ông đứng dậy nói: “Thưa trên có các quan, các cụ rồi đến các ông tổng lý, chúng tôi xin thưa: chức thủ chỉ làng, thủ chỉ thôn vẫn dành riêng cho những cụ nào cao chức nhất trong làng, trong thôn. Sự ấy đã dĩ nhiên. Còn chức thủ chỉ lão, tôi thiết tưởng là một của quý để tặng cho các cụ nào cao tuổi nhất, mặc dầu cụ ấy không bầu bán gì cả. Người ta thường nói: “Kính lão đắc thọ”. Vậy các quan, các cụ kính lão, tất phải đặt người cao tuổi nhất lên chứ. Vả lại, cứ kể chức mà cho lên trên thì, xin phép các quan, các cụ có lẽ sau này ông sáu mươi sẽ lên thủ chỉ lão. (Chỗ này, ông nói khích ông hàn sắp vào lão sáu mươi). Thưa các quan, các cụ, tôi nói đây không phải vì tôi là người trong họ mà thiên vị. Dẫu sao đi nữa cũng phải có lý mới được.”

Ông diễn thuyết một tràng dài, nói rất to, chẳng kiêng nể ai cả. Chả thế mà bao nhiêu người vẫn cho ông là người ăn nói có gang thép và sợ ông một vành.

Làng, nói mấy cụ trong làng thì phải hơn, nghe chừng đuối lý, ưng thuận, nhưng cũng bắt ông Hoạch bỏ ra sáu đồng bầu trùm.

Ông lý Cúc vừa ngồi xuống đã chực đứng lên cãi nữa. Ông lý Hạt, anh ruột ông, vội nắm áo kéo xuống và đứng lên nói: “Thưa các quan, thưa các cụ đã dạy thế, chúng tôi xin vâng. Nếu ông Hoạch không có tiền bầu, họ chúng tôi sẽ gom góp nhau, mỗi người một ít.”

Lúc trở về, ông lý Cúc hậm hực, trách anh:

- Bác nhu nhược quá, việc gì phải chịu thế. Nếu tự nhiên họ mình đem ông Hoạch ra bầu thì nó đi một lẽ… Thật, không có bác, tôi nhất định không chịu.

Vì ông lý Cúc có công với họ như thế nên xã Chính vừa mới đến đã để ý tìm ông. Xã Chính băn khoăn, nói một mình:

“Bây giờ mà cụ cựu chưa đến, để mặc cụ chỉ lão thì cụ biết xoay sở ra sao? Hỏng bét!”

Một người nghe rõ, hỏi:

- Cụ cựu nào thế hử bác?

- Cụ cựu họ ta, chứ còn cụ cựu nào. Bằng giờ cụ chưa đến, để mặc cụ chỉ lão thì cụ biết xoay sở ra sao? Hỏng bét.

Từ hôm việc làng, bác phục ông lý Cúc lắm, phục quá đến nỗi không bao giờ dám đọc rõ tên ông. Và bác tưởng cứ nói đến cụ cựu thì ai cũng hiểu là ông lý Cúc. Bác có biết đâu rằng trong họ nhà bác có hàng vài chục cụ cựu.

Xem chừng ông chỉ lão cùng một ý nghĩ như bác. Ông tự thủa nhỏ vốn là bạch đinh, bỗng dưng nhảy tót lên địa vị cao quý. Ông lo lắng sợ hãi, không biết thế nào cho phải phép. Ông luôn luôn ra phía cổng ngóng đợi ông lý Cúc, mong ông đến để có chỗ dựa.

Mặt trời lên cao, lý Cúc mới lần đến. Cặp mắt ông đỏ hoe, mặt ông tái nhợt vì luôn bốn, năm đêm thức khuya đánh bạc.

Xã Chính mừng rỡ, chạy ra đón:

- Lạy cụ ạ, cả họ mong cụ đấy.

- Không dám, bác Chính đấy à.

Kể họ, bác Chính vào ngành trên, nhưng kể chức thì bác còn xa lắm mới với tới ông cựu.

Lý Cúc rẽ đám đông, đi thẳng vào chỗ ông Hoạch. Mọi người đứng dậy chào. Ông ngồi xuống cái phản bên cạnh, quay mặt vào ông Hoạch, hỏi:

- Ngoài văn chỉ, đương thứ đã đem cỗ yến của làng vào biếu cụ chưa?

Ông Hoạch ngơ ngác:

- Cỗ yến nào cơ, ông cựu?

Ông lý Cúc ngạc nhiên:

- Ô hay! Thế họ quên à? Quên thế nào được, cỗ đầu tay may xưa của người ta… Chúng nó bậy thật! Hừ! việc này phải hỏi cho ra lẽ…

Mọi người châu vào nói:

- Vâng, phải hỏi cho ra lẽ, không có thì sái cụ đấy ạ.

Ông lý quay ra sân, gọi to:

- Bác Chính đâu? Bác ra gọi mấy anh đương thứ đến đây cho tôi. Bậy thật! Thế thì bậy thật!

Xã Chính được cụ cựu của mình để ý đến dạ một tiếng to, rồi hấp tấp chạy đi gọi.

Một lát, bốn anh đương thứ đến.

Ông lý chống nạnh hỏi:

- Cỗ yến lão của cụ chỉ lão đâu?

Bốn anh cùng gãi tai, nói khẽ:

- Bẩm cụ, chúng con trót quên mất.

Ông lý gắt:

- Quên, việc quan hệ, to tát như thế mà các anh còn quên được thì việc gì các anh mới nhớ? Các anh có biết: các anh đã làm sái cụ chỉ lão của họ chúng tôi không? Việc này thế nào họ chúng tôi cũng phải đem ra làng để các cụ phân xử. Rồi các anh sẽ liệu cho cái ngôi thứ của các anh.

Bốn anh đương thứ tái mặt. Một anh ghé gần nói nhỏ:

- Bẩm cụ tha lỗi cho chúng con, rồi chúng con xin hậu tạ.

Nghe thấy tiếng “hậu tạ”, ông lý bớt hẳn giận nói:

- Lần này tôi tha cho. Lần sau mà còn thế tôi quyết phải trị.

Bốn anh đương thứ cúi rạp xuống chào, rồi lủi thủi đi ra.

Lý Cúc lại quay sang phía ông Hoạch nói chuyện; ông dặn ông Hoạch cặn kẽ:

- Chốc nữa, làng có đến rước, cụ cứ ngồi ung dung, đừng hấp tấp đứng dậy vội, để tôi soát xem có thiếu thức gì không đã. Nếu thiếu mà mình không biết đường bẻ là họ khinh cả họ chúng mình đấy, cụ đừng tưởng.

Một hồi tù và văng vẳng tận đằng xa. Bao nhiêu người yên lặng nghe. Xã Chính cảm động sung sướng như thể làng sắp đến rước mình vậy.

Lý Cúc vội giục:

- Kìa, mũ ni với áo vóc đỏ của họ hàng mừng cụ đâu? Không mặc lúc này thì còn mặc lúc nào. Ngồi xếp bằng lại chứ. Sao cụ cứ ngồi thu hình bó gối thế kia?

Ông Hoạch vừa cảm động vừa sợ hãi vẩn vơ. Tứ chi ông run lẩy bẩy. Cặp mắt lơ láo nhìn hết người này người nọ như muốn cầu cứu.

Lý Cúc thấy thế bật cười, nói:

- Cụ cứ ngồi thản nhiên, chẳng việc gì mà sợ, đã có chúng tôi đi kèm.

Ông Hoạch hết sợ, cười một cách ngây ngô, đần độn.

Một lát, năm lá cờ đi vào. Một cái trông cái hai người khiêng, rồi đến phường bát âm, sau cùng, một cái võng tím không đẹp được bằng cái võng điều đón ông thủ chỉ làng và một chiếc lọng xanh đã cũ. Trước khi ngồi lên võng ông Hoạch đưa mắt nhìn lý Cúc để dò ý.

Võng vừa ra khỏi ngõ đã thấy bao nhiêu người đứng chen chúc hai bên vệ đường để xem. Mọi ngày không ai để ý đến ông, coi ông như một người rất tầm thường trong bọn khố rách. Hôm nay họ nhìn chòng chọc vào ông như nhìn một người lạ ở đâu đến.

Người thì khen:

- Ông có cái tai to và dầy như tai Phật. Chả trách ông sống lâu được đến thế.

Người thì khen:

- Tướng ông là tướng ngũ đoản, chỉ phải cái trán hẹp và cặp môi mỏng quá.

Nhiều ông già thấy ông Hoạch sung sướng mà thèm và thầm ước ao có ngày được hiển vinh như ông.

Mấy anh tuần đi dẹp đường trông không được hống hách như khi rước ông thủ chỉ làng. Đó cũng vì địa vị của hai ông khác nhau.

Đến nhà hội đồng là chỗ các cụ lão tụ họp để tế thiên địa, ông Hoạch bước xuống võng, đi vào. Ông quên cả gậy trúc, một chiếc gậy mà ông lão bảy mươi họ Nguyễn đã khẩn khoản mua lại tới năm đồng. Không phải vì cái gậy ấy đẹp, nhưng chỉ vì nó là cái gậy của ông Hoạch, ông lão tám sáu. Ông cốt mua về để lấy khước, nhưng cả họ nhà ông Hoạch nhất định không cho ông bán.

Ông lý Hạt cầm gậy chạy vội lên:

- Gậy cụ.

Ông Hoạch nhớ lời lý Cúc dặn, chống gậy lom khom cho ra vẻ một ông tiên chỉ lão.

Các ông lão, từ ông tám mươi trở xuống đứng dậy một loạt chào. Ông Hoạch ngồi riêng hẳn ra một cái sập mà năm ngoái năm kia, ông thủ chỉ trước đã từng ngồi.

Ông im lặng nín thin thít, không động đậy như… một ông tiên sư trong lão làng.

Ở văn chỉ, cụ tuần và các cụ cử, tú là chân khoa mục (chỉ có chân khoa mục mới được dự) bắt đầu tế đức Khổng Tử. Hôm nay, các cụ bày ra tế ngoại tán, nghĩa là tế ngoài sân để cho làng nước xem thỏa thích, nhất là được xem cụ tuần mặc đại trào đứng chủ tế dưới bốn chiếc lọng xanh do bốn anh mặc áo nậu đỏ cầm che.

Mỗi khi chước tửu, phường trống nghỉ, phường bát âm nổi lên. Bốn chị ả đào nhà quê ở hai bên giải võ, đi lại múa nhạc sau lưng cụ tuần. Mặt chị nào chị ấy thưỡn ra như cán tàn. Hai cánh tay giơ ra ngang phè, bàn tay xòe đủ năm ngón như tay ếch. Thân cứng đờ xoay đi xoay lại một chỗ như chiếc trục.

Ấy thế mà, thiếu các chị, buổi tế sẽ mất vẻ long trọng. Và phần nhiều người đi xem đều chú mục vào các chị hơn các cụ. Họ nhìn các cụ mãi cũng đâm chán, nếu không có bọn “nhà tơ” đến làm vui mắt họ.

Xong ba tuần rượu, các cụ lễ tạ. Một tràng pháo dài một thước tây treo từ cành xoan tàu rủ xuống nổ ran. Trẻ con xúm xít tranh nhau vồ. Chúng nó xô đẩy nhau để cướp một vài chiếc pháo ngòi về đốt ở đình của chúng. Các cụ có đình của các cụ thì chúng cũng có đình của chúng. Đình của các cụ xây gạch, lợp ngói, có những hàng cột to vừa người ôm. Đình của chúng bằng dăm bảy viên gạch chồng lên nhau. Chúng cũng có tượng, có mâm bồng, bát hương, đồ thất sự, tàn quạt, cờ lọng, đủ cả. Các cụ rước chúng cũng rước. Không có trống, có bát âm, có pháo thì chúng dùng mồm thay vào vậy. Sau này chúng lớn lên sẽ nhường đình cho con để nhập bọn với các cụ.

Tràng pháo nổ vừa dứt tiếng thì nhà hội đồng bên này nổi trống. Các cụ lão tế thiên địa một cách giản dị. Cụ tiên chỉ lễ trước, rồi theo tuổi cao thấp đến lượt các cụ lão khác.

Lễ xong, các cụ lại đến ngồi chỗ cũ. Hàng chục mâm cam, mâm cau bày suốt dọc từ sập cụ tiên chỉ trở xuống, trông như hàng hoa quả bán ở chợ. Những con cháu các ông vào lão năm nay chen nhau ra lễ các cụ để cầu được trường thọ như các cụ.

Chiều, hội tan, các cụ lão bỏ cau, cam vào khăn gói mang về.

 

Phần 2

Bài liên quan
  • TRI KỶ - Truyện ngắn Thanh Châu

    TRI KỶ - Truyện ngắn Thanh Châu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Tri kỷ là truyện ngắn hóm hỉnh, hơi khác so với các tác phẩm trữ tình lãng mạn vốn xuyên suốt các tác phẩm của nhà văn Thanh Châu. Truyện, góp phần tạo ra một Thanh Châu đa dạng, tài năng, không hẳn chỉ là "một con dế chuyên kể đẹp chuyện đêm khuya” như nhà văn tự nhận.
  • NHẬT KÝ Ở RỪNG – Nam Cao

    NHẬT KÝ Ở RỪNG – Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: “Sống đã rồi hãy viết… góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn…” là một tuyên ngôn về văn chương trích từ Đường Vô Nam và Nhật ký Ở rừng, được khắc trên trang sách bên phải bằng đá tại khu lưu niệm về nhà văn Nam Cao tại làng Đại Hoàng, Hà Nam. Nhật ký Ở rừng cũng là một trong các tác phẩm xuất sắc của ông được Nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.
  • CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: CHUYỆN Ở BẢN PIÁT là một trong chùm ba truyện ngắn của nhà văn Tuyên Quang “viết văn phải có văn” Vũ Xuân Tửu, thắng Giải Nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2005-2006.
  • MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Một bữa no là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 480, ngày 25 tháng Chín năm 1943. Tác phẩm, là một tiếng kêu cứu về nhân cách của người dân Nước Nam đang bị sự bần cùng, cái đói, cái rét, do thực dân Pháp tạo ra, hủy diệt.
  • NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nắng trong vườn là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Thạch Lam, Đời Nay xuất bản năm 1938.
  • HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai hào là truyện ngắn trong tập truyện đầu tay Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích của nhà văn Lê Văn Trương, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934.
  • TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trẻ con không được ăn thịt chó là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao, in lần đầu trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 444, 19 Tháng Mười Hai 1942.
  • CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chim khách kêu là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Kiên, được trao giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 và giải thưởng Văn học Đông Nam Á (Thái Lan) năm 2002.
  • ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Đôi mắt là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao in lần đầu trên Văn Nghệ số 2 năm 1948. Đây là một trong những tác phẩm giá trị nhất của nhà văn Nam Cao. Năm 1996, ông đã được nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I cho truyện ngắn nói trên cùng với các tác phẩm Nhật ký Ở rừng, Chí Phèo và Sống mòn.
  • TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trước cảnh hoang tàn đế thiên đế thích là truyện ngắn in trong tập truyện ngắn đầu tay cùng tên của nhà văn Lê Văn Trương, gồm 11 tác phẩm, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934. Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964) được xem là nhà văn có số lượng tác phẩm lớn nhất Việt Nam với 200 tác phẩm đã in và 40 tác phẩm chưa in bao gồm truyện ngắn và tiểu thuyết. Lê Văn Trương là thành thành viên quan trọng hàng đầu của nhà xuất bản Tân Dân, cùng với các nhà văn nổi tiếng như Tản Đà, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Lan Khai, Thanh Châu, Ngọc Giao, Tchya Đái Đức Tuấn, Trần Huyền Trân, Nam Cao, Bùi Hiển…