
Nhà văn Đào Trinh Nhất (1900-1951)
Chân Dung Kẻ Sĩ: Năm 1926, Đào Trinh Nhất (quê Thái Bình) được tuyển chọn sang theo học tại Khoa Báo chí, Trường Đại học Sorbonne (Pháp) và trở thành người Việt Nam đầu tiên có bằng cử nhân báo chí.
Yêu nước giống như cha mình, nhà chí sĩ Đào Nguyên Phổ, một trong những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục, Đào Trinh Nhất mặc dù được Pháp đào tạo nhưng vẫn hướng về dân tộc bằng các tác phẩm của mình. Trước bộ máy kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân Pháp, ông đã khéo léo ca ngợi các chí sĩ yêu nước như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu và các tấm gương yêu nước khác, nhằm thức tỉnh và cổ súy lòng yêu nước của nhân dân. Tuy vậy, thực dân Pháp, đương nhiên vẫn nhận ra và đã khẩn cấp trục xuất và giải ông về Bắc vào giữa năm 1939.
Dưới ngòi bút của Đào Trinh Nhất, tác phẩm Cô Tư Hồng, nói về một nhân vật có thật, một đối tượng đả kích trong bài hát Chầu văn đương thời “Đĩ Cầu Nôm” của cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, một nữ lưu từng khuynh đảo đất Bắc với những di tích vẫn còn cho đến ngày nay xung quanh Hồ Gươm, người đã phá thành Hà Nội… đã khiến các độc giả của Trung Bắc Chủ Nhật xưa kia nô nức đón đọc hàng tuần.

Chân dung Cô Tư Hồng. Trong chuyến thăm Paris, Pháp, nhà sử học Dương Trung Quốc đã thấy một bức ảnh tư liệu chụp cô Tư Hồng lưu giữ tại Bảo tàng Albert Kahn (thuộc bộ ảnh màu chụp ở Việt Nam năm 1915 - 1918). Ông Dương Trung Quốc xác nhận bức ảnh có chú giải rõ ràng là chụp chân dung cô Tư Hồng tại ngôi nhà cạnh ngõ Hội Vũ.
Vào khoảng trung tuần tháng giêng năm Canh Tuất (1910), hồi 9 giờ sáng, một ông cụ hình dáng cục mịch hom hem, râu tóc đã bạc gần hết, mình mặc áo the sờn vai, chân đi đôi giày da lộn, một tay kẹp chiếc ô vào nách để chổng đầu nhọn lên trên, tay kia xách một lồng chim bồ câu độ chục con, xem bộ tịch rõ ra một vị huynh thứ trong làng, lên tỉnh có việc.
Không ai biết cụ từ đâu đến, chỉ biết khi xuống xe hỏa ở ga Hàng Cỏ, cụ lần mò hỏi thăm người ta đường lối về ngõ Hội Vũ.
Ngõ này ở Hà Thành ta ba chục năm trước hẹp nhỏ, đường đi còn rải gạch non phủ cát, hai bên cỏ mọc làm bờ, phía trong còn nhiều đất để hoang chưa làm nhà; quang cảnh đó đâu sửa sang vui vẻ và cửa nhà tấp nập được như bây giờ.
Tuy vậy, lúc đó ai mới ở ngoài bước vào đầu ngõ, cũng trông thấy ngay một tòa lâu đài sừng sững, kiến trúc xen lẫn hai kiểu Tây Tàu, nhưng đại thể kiểu mới nhiều hơn: nguy nga, đột ngột, rộng rãi, có vẻ như một chốn phủ đệ thâm nghiêm, đài các. Chỉ cái ngoại quan đủ tỏ cho những người trông vào phải đoán ngay chủ nhân tất là một bực phong lưu, quý hiển.
Thì xem tết Nguyên đán đã đi qua khỏi hơn nửa tháng rồi mà từ ngoài cổng vào đến trước thềm, hai hàng chậu cúc vàng, cúc trắng vẫn còn khoe hết vẻ đẹp, chưa tàn. Những xác pháo nghinh xuân đỏ ối hãy còn tơi bời ngổn ngang mặt đất, như dán mình dưới lằn bánh xe chéo chồng lên nhau. Đó chính là dấu vết phô bày cho người ta biết nhà này rất mực hào hoa, trong mấy hôm đón rước xuân về, đã có bao nhiêu khách y quan xa mã lui tới.
Tội nghiệp ông cụ thôn lão ban nãy tìm đến ngõ Hội Vũ là cốt vào nhà này, nhưng khi đến nơi, trước cảnh tráng lệ đồ sộ bất ngờ, cụ cứ đứng ngấp nghé thập thò ngoài cửa, không biết tính thế nào, cũng không dám gọi ai.
Trời lạnh tuổi già, mấy tiếng ho húng hắng không thể cầm nổi; ba bốn con chó Tây kếch xù ở trong nhà thính tai nghe động, cùng ồ ra một lúc, vừa sủa vừa chồm lên song sắt, như mắng mỏ và muốn nhai ông lão nhà quê. Ông lão giật mình hoảng sợ, lùi bắn ra mấy bước. Cũng may cổng đóng then gài không thì tấm áo the cũ kĩ của con nhà nghèo đã bị lũ chó nhà giàu xé rách, cả đến da thịt cũng có thể liên lụy mà chẳng biết thưa kiện ai được.
Một cậu bồi, mặc áo cổ là, thắt lưng nhiễu đỏ ba múi, ứng theo tiếng chó sủa, vội vàng chạy ra:
- Ông lão đi đâu đấy, không biết kéo chuông gọi cửa, cứ thập thò, thập thọt cho lũ chó cắn rầm lên, muốn nghe bà lớn quở cho mất mặt phải không?
Ông cụ nhỏ nhẻ lễ phép nói:
- Lão xin lỗi cậu, cho lão hỏi thăm điều này khí không phải, đây có phải là nhà Bà lớn Án, quê dưới Hà Nam không? Bà lớn đã dậy chưa?
- Chính phải đây. Bà lớn dậy từ lúc nãy.
- Phiền cậu làm ơn bẩm giùm có Phó cựu ở làng lên hầu Bà lớn có chút việc.
Cụ Phó cựu theo cậu bồi dẫn vào, vừa đến bực thềm, cụ trụt đôi giày da lộn để lại đó với chiếc ô, tay xách lồng chim rón rén bước lên. Cậu bồi nói nhỏ:
- Cụ chịu khó đứng đợi đây một lát, tôi sẽ bẩm cho, vì hiện giờ Bà lớn còn mắc tiếp chuyện bà Chánh tòa và bà tuần Lạng ở nhà trong.
Chỗ cụ Phó ta khúm núm đứng chờ có thể dòm xiên vào trong khách phòng chính giữa, rộng lớn mênh mông. Cụ dòm ngó sửng sốt, không rời. Bên trong, đầy những vàng ngọc ánh lộn, khiến cụ phải ngây người choáng mắt. Bao nhiêu vật trần thiết lộng lẫy riêng một khu đó, đời cụ mới được trông thấy là lần thứ nhất. Cụ nhớ có lần được vào trong dinh cụ Tuần bản tỉnh, nhưng sánh lại cảnh sắc hai đàng xa nhau một trời, một vực.
Cụ để ý nhất và tấm tắc khen thầm bức hoành phi sơn son thếp vàng, chạy nền gấm, treo chính giữa nhà, bốn chữ vàng “樂捐義婦, Lạc quyên nghĩa phụ” nổi bật lên. Dưới đó một cái hương án cao, chạm lưỡng long triều nguyệt, cũng sơn son thếp vàng bóng lộn; trên mặt bày một cái hộp đỏ dài, chân quỳ. Cụ Phó đoán chắc đấy là hòm sắc, vì cụ nhớ hòm sắc Thành hoàng làng mình cũng thế. Trước mặt hương án, kê chiếc sập bằng cẩm lai khảm xà cừ, trên giải nệm gấm xanh. Cách một bộ bàn ghế kiểu Tàu, mặt đá, chùi đánh bóng nhoáng, tới cái giá để hai chiếc ngà voi to tướng và bộ đỉnh bằng đồng đen nạm vàng. Hai bên kê hai cái tủ lồng kính ba mặt, cao gần đến trần nhà, bên trong bày toàn đồ vật pha lê, ngọc thạch, mã não. Thế rồi cụ Phó ta rối tít cả hai mắt với những đôn, những chậu, những đồ cổ, những đoản kiếm, những quạt lông, những câu đối sơn thếp, bày la liệt trong phòng, treo tứ tung trên tường, mà thứ nào cũng là huy hoàng đoạt mục hết thảy.
Nãy giờ cụ Phó ta mải nhìn sững đâu đâu, không thấy góc buồng bên trái, ngay cửa chính bước vào, một chú hổ cực to, ngồi phục vị trên một tấm thảm bằng nhung. Nhỡn quan của cụ đảo quanh tứ phía, chợt đưa tới đó, thấy rõ ràng chú hổ ngồi ngửa mặt nhe răng, hai mắt tròn xoe, ngó ngay vào mặt cụ một cách lẫm liệt, dữ dội, đầy rẫy sát khí. Cụ mất cả hồn vía. Chỉ thiếu một li nữa là cụ kêu rú lên, bỏ phăng cả lồng chim mà chạy lấy thân. Nhưng rồi trí thông minh sau chót của một bác nhà quê đã có tuổi, đánh thức cụ sực tỉnh ngay: chắc là con cọp nhồi trấu, chứ cọp thật ai mà dám thả lỏng như thế.
- Cái Lan làng ta – cụ Phó nghĩ thầm trong bụng – sang trọng đến thế là cùng, bắt cả ông Ba mươi về nhà bày cảnh mà chơi.
Giữa lúc ấy, cánh cửa buồng sau thông với phòng khách có tiếng kẹt mở, ba người thiếu phụ từ trong đi ra. Cụ Phó vội chỉnh lại dung mạo, chắp tay sẵn sàng, chờ cho người thiếu phụ đi sau hết, bước gần tới bên mình, bấy giờ cụ cúi đầu vái chào rất cung kính:
- Bẩm Bà lớn ạ!
Bà lớn, chính là chủ nhân dinh cơ tráng lệ này, cụ Phó ta đợi chờ bái yết nãy giờ.
Tác người vạm vỡ, khỏe mạnh, nét mặt tròn trặn, trông vẻ hào hoa có gương phúc hậu, miệng nói cười rất có duyên, nhất là cặp mắt ngó sắc sảo, tinh anh, ai mới trông thấy, không cần phải tài năng thầy tướng, cũng biết ngay là con người thông minh, khôn khéo, lại có cái dáng trầm mặc, hiên ngang. Khác hẳn với hai bà khách trang điểm ngọc vàng vóc nhiễu từ đầu đến chân, chủ nhân lúc ấy mới bốn mươi tuổi, không phải là không có nhan sắc, nhưng y phục rất nhã nhặn, như hạng đàn bà buôn bán, chứ không ưa trang sức, khoe của.
Tiễn chân hai bà khách tỉnh ra tận ngoài cổng, chủ nhân mới trở vào tiếp vị khách quê:
- À, bác Phó lên chơi. Đi vào nhà trong uống nước.
Cụ Phó xách lồng chim theo gót Bà lớn vào nhà trong, đặt xuống và chắp tay nói:
- Gọi là có chút vi thiềng đem lên biếu Bà lớn.
- Bác khéo bày vẽ làm gì cho tốn tiền.
- Bẩm, chim nhà chúng tôi nuôi ạ.
Bà lớn gọi bồi đem ngay lồng chim xuống bếp, vì sợ để lâu, nó bậy lên trên những viên gạch hoa đánh bóng, có thể soi gương. Rồi quay lại hỏi bác Phó:
- Làng ta có chuyện gì lạ không? Cụ cố nhà tôi có nhắn gì không? Tôi mới gửi về biếu cụ mấy trăm đồng bạc cao nhung, chẳng biết cụ đã bắt đầu dùng chưa? Còn bác, lên có công chuyện gì đó?
- Bẩm chúng tôi lên hầu Bà lớn vì việc ruộng.
- Ruộng ở đâu?
- Bẩm, khu ruộng ba chục mẫu Bà lớn tậu năm xưa ở giáp hạt Kim Bảng, chia ra năm bảy người lĩnh canh, nghe nói họ làm lụng không tận lực, thành ra vụ nào đong lúa cũng không đủ. Vậy để hết vụ chiêm này, Bà lớn cho một mình chúng tôi lĩnh canh, lệ luật đối với người ta ra sao thì chúng tôi cũng xin chịu như thế.
- Việc ấy, sao bác không bẩm ngay Cụ cố có tiện không? Tôi ở Hà Nội mắc lo những việc buôn bán lớn lao, giao thiệp với các quan khách tới lui tấp nập suốt ngày, không còn thời giờ nào để tâm đến chuyện ruộng đất ở nhà quê. Chuyện ấy đã có Cụ cố. Bác cứ về bẩm với Cụ. Hễ cụ cho là được. Chỗ làng xóm bà con với nhau, tôi không nề hà gì. Để tôi viết thư nói giùm bác với Cụ, cho bác lĩnh canh nhớ!…
Bà lớn bấm chuông bảo bồi đi gọi thầy thư kí riêng vào. Cụ Phó tưởng là vì việc ruộng cho cụ, nhưng lại nghe Bà lớn nói:
- À, thầy thư kí, thầy đánh máy lập tức một bức thư cho nhà hàng Mê-tô-bôn, bảo họ tối mai nhà mình có tiệc 50 quan khách, mình chỉ đặt họ cho người vào nấu và bồi hầu hạ, còn các vật liệu và đồ dùng, nhà mình có đủ hết rồi, không cần gì của họ.
Thầy thư kí dạ một tiếng, vừa lui trở ra, Bà lớn gọi giật lại:
- Thầy đã gửi thiếp mời đủ hết mọi nơi chưa?
- Dạ, đã gởi hết từ ngày hôm qua.
- Cả vợ chồng quan tư Chœffet, quan năm Bonifacy, ông Thông Thu, ông Bạch Thái Bưởi, cụ đốc Trần Tán Bình?
- Vâng.
- Thế còn một việc này nữa. Chiều nay thầy xuống Thái Hà – chỗ thầy đi khuya về sớm mãi, chắc không lạ đường – tìm anh quản ca hiếng mắt dòm trời đó, dặn anh ta lựa chọn 12 cô đào thật xinh, tối mai lên đây hát và múa bài bông cho các quan khách xem nhớ. Còn việc gửi mấy toa gạo vào Nghệ, thôi để ngày mai sẽ tính.
Bà lớn quay lại ông khách nhà quê:
- Đấy bác xem một tay đàn bà như tôi, mỗi ngày biết bao công việc; một người đàn ông, chưa chắc đã kham nổi. Giờ, bác xuống nhà dưới mà nghỉ ngơi, sẵn dịp ở chơi đến tối mai, xem bữa tiệc trọng thể nhà này, cho biết cảnh phồn hoa bực nhất Hà thành, kẻo ở nhà quê đến chết cũng không được thấy.
Cụ Phó trở ra ngoài thềm, lấy đôi giày da lộn và chiếc ô, rồi lủi thủi đi xuống nhà dưới, trong óc lại suy nghĩ thầm vụng vẩn vơ:
- Ai ngờ cái Lan làng mình mà tây đến thế; chẳng bù lúc xắn váy quai cồng, vớt bèo nấu cám cho lợn ăn, cả mấy bố con nghèo cực khổ sở, có hơn gì mình đâu chứ!
Nếu quả có cái máy đo tâm lí như bên Hoa Kỳ đã phát minh, mà nhà này có mua một chiếc về làm cảnh chơi, thì chắc nó đã chụp được những tư tưởng thầm vụng kín đáo ở trong tâm não cụ Phó:
- Chú đã hai lần nghĩ thầm về bà chủ ta.
Thật thế, cụ đã suy thầm nghĩ vụng đến cái Lan hai lần.
Cái Lan là ai?
Chính là Bà lớn, mà cụ Phó đánh đường từ Hà Nam lên để cầu lụy về việc lĩnh canh, thưa bẩm một cách cung kính, và được thấy tận mắt bao nhiêu lớp sơn vinh hoa phú quý đã che lấp mất cái dĩ vãng của con bé nhà nghèo mấy chục năm về trước.
Bà lớn là ai?
Chính là người thiếu phụ, làm chủ cái dinh cơ đồ sộ ở ngõ Hội Vũ và bao nhiêu ruộng đất, bạc tiền, nhà cửa khác nữa, má hồng nổi tiếng, tay trắng làm nên, đã có nhất thời oanh liệt vang động xứ Bắc: cô Tư Hồng.
Ngày nay, người đã lên xe thiên cổ, nhà còn trơ dấu tang thương; những ai sẵn lòng hoài cảm, đi qua trước tòa lâu đài ở ngõ Hội Vũ, không khỏi ngậm ngùi chạnh nhớ đến hai câu cổ thi:
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm nọ còn cười gió đông.
“Có đời phi thường mới sinh ra người phi thường.
“Có người phi thường mới làm được việc phi thường”.
Các ngài cứ xem những câu chuyện lần lượt kể ra sau đây, sẽ nghiệm thấy hai câu của Trần Lâm mở đầu bài hịch đánh Tào là đúng.
Thiết tưởng không phải nói quá đáng: Con người đóng vai chính ở trong những trang giấy này tức là một kẻ phi thường, sinh ra đời phi thường, đã làm được việc phi thường.
Truy tầm gốc tích tổ tiên 800 năm trước, đã thấy có sự phi thường rồi.
Hồi đó, chắc là vận số nhà Lý đến lúc suy vi, thiên mạng đến lúc cần phải dời đổi, cho nên xui khiến ngôi báu không truyền cho một người tôn thất nào lớn khôn, lại đặt vào trong tay Chiêu Hoàng, một cô bé mới có tám tuổi. Cô bé hỉ mũi chưa sạch, không chừng đêm nằm còn đái dầm mê mê, biết quái gì là ngôi vua việc nước mà người ta vội đặt lên ghế chí tôn và trao cho cái gánh trách nhiệm quá lớn. Nhất là bên mình không có những bực lão thần, tận trung phò tá. Một đời phi thường.
Trần Thủ Độ, người làng Tức Mặc tỉnh Nam Định, lúc bấy giờ làm Thái sư trong triều, tức là một vị trọng thần phụ chánh của Lý Chiêu Hoàng. Vốn người cơ mưu, giảo quyệt, lại đang ở địa vị trọng yếu nhất nước, oai quyền hiển hách giữa chốn miếu đường, nếu Thủ Độ muốn thừa thời cướp ngôi nhà Lý cho mình, chắc là được ngay. Nhưng có lẽ còn sợ nhân tâm bất phục hay hậu thế chê cười sao đó, Thủ Độ khôn ngoan, tính đi nước cờ cao tay hơn: bắt chước cái cố chí của Tào Tháo để ngôi nhà Hán lại cho con là Tào Phi, vừa không mất cái danh vị tôn vinh mà bản thân lại tránh được miệng tiếng thoán đoạt đối với thiên hạ hậu thế.
Song, lúc ấy hoặc giả Thủ Độ chưa có con trai, hay là có rồi, mà cậu ấm ta xấu xí ngu đần, không đủ tư cách đóng nổi vai tuồng mình sẽ đặt cho. Không con thì cháu, cũng là lọt sàng xuống nia, có mất mát đi đâu mà sợ. Sẵn có cậu cháu Trần Cảnh, mới chín mười tuổi, tính nết lanh lẹ, khôn khéo, lại được cái bộ mặt khôi ngô, Thủ Độ lợi dụng oai quyền của mình, tiến dẫn ngay cậu cháu Cảnh vào ở trong cung cấm, phục dịch chung quanh ngài ngự; tiếng phổ thông ta gọi là thằng nhỏ hầu cận, nhưng vua chúa đặt cho cái tên sang trọng là nội thị.
Nước ta thuở ấy, hẳn chưa có lệ bắt buộc mấy chú đàn ông con trai vào hầu nội cung tất phải là hoạn quan, cho nên Thủ Độ mới đem cậu cháu Trần Cảnh nguyên lành vào ở bên Chiêu Hoàng được như thế. Hay người ta nghĩ hai đàng còn là tí nhau cả, chưa có gì phải lo.
Trần Cảnh tinh ranh, khéo hầu hạ vừa lòng nhà vua ra sao không biết; một sáng kia, theo như lệ thường, cậu bưng thau nước dâng lên ngài ngự rửa mặt, lần này Chiêu Hoàng lại nô đùa trẻ con – vì còn đang tuổi bé bỏng chơi nghịch, mặc dầu làm vua – lấy tay múc nước, tạt vào mình cậu.
Trò chơi vô tình của Chiêu Hoàng trúng ngay vào chỗ đợi chờ hữu ý của Thủ Độ.
Chỉ có thế thôi, mà Thủ Độ được dịp trịnh trọng tuyên bố giữa triều đình rằng hoàng thượng đã kén chồng, và cái cử chỉ tạt nước tức là có ý giao cả nước non lại cho Trần Cảnh.
Thế là ngôi vua trải qua một cuộc đổi triều, thay họ rất êm thấm, dễ dàng, nhờ một đám cưới.
Từ đó cận thị Trần Cảnh trở nên Thái tôn hoàng đế, vua sáng tạo nhà Trần.
Đoạn lịch sử dị thường và thú vị ấy hẳn các ngài đều nhớ.
Tự nhiên Thủ Độ có công gây dựng đế nghiệp, trong lúc vua cháu còn nhỏ, quốc gia quyền bính thao túng trong tay. Sau, Thủ Độ già yếu về hưu, nhà vua ghi nhớ công ơn to tát ấy, phong cho ông làng ở gần bên Tức Mặc quý hương để làm thực ấp.
Tương truyền làng này là nơi văn vật tối cổ, nhà địa lí nói có nhiều kiểu đất tuyệt đẹp. Thủ Độ về dựng hưu đình ở trên một khu vũ rộng rãi, ngó ra trước mặt có những hình đất giống như võng lọng, cờ quạt, voi ngựa trống chiêng, như nghi vệ thiên nhiên của một vị tể tướng vậy.
Thực ấp ngày xưa của Thủ Độ chính là làng Thành Thị thuộc về tỉnh Hà Nam ngày nay. Tại đây, hiện còn dấu tích và lăng mộ Thủ Độ; con cháu trải mấy chục đời sinh tụ, biệt lập một chi họ Trần.
Đến lúc cha con Hồ Quý Ly đoạt ngôi nhà Trần con cháu ở làng Tức Mặc sợ họa, nhiều người chạy sang thực ấp Thủ Độ nương náu rồi cũng sinh cơ lập nghiệp luôn ở đó, truyền dõi hết đời nọ sang đời kia. Thành ra làng Thành Thị ở Hà Nam bây giờ tuy có hai chi họ Trần, nhưng kì thật là cùng một gốc ở làng Tức Mặc bên Nam Định.
Cô Tư Hồng – nhiều người gọi là bà Án Hồng – chính danh Trần Thị Lan, người làng Thành Thị, tỉnh Hà Nam, dòng dõi của chi họ Trần ở Tức Mặc, cô là dòng dõi vua chúa nhà Trần nước ta vậy.
Đứng về gia tộc mà nói, từ Thủ Độ đến cô, ra cô cũng là một người phi thường, gặp đời phi thường, làm việc phi thường nữa; cố nhiên, mỗi người có một phương diện khác nhau.
Tôi đố ai muốn kiếm tìm nguyên lai phát đạt của một gia tộc, một nhân vật nào trong xã hội ta, mà trước không thấy đất.
Đời có thiếu gì khách tài hoa. Nhưng không phải cứ tài hoa đều được thanh nhàn, phú quý. Chẳng thấy những hạng như Manon hay Dupleissis, kẻ thì chết vì nghèo khổ, người thì chết vì ho lao. Cô Tư Hồng “tay trắng làm nên cơ nghiệp lớn, má hồng trang điểm phấn son vua” hình như có một số phận đặc biệt. Nhất là nhà cô, luôn bao nhiêu đời tổ phụ nghèo khó, bùng phát ra một người đàn bà “có tàn, có tán, có hương án thờ vua, được sắc phong cho cụ”, nếu quả nhờ hòn đất, thì hòn đất ấy cũng kì.
Chắc độc giả không ngại gì câu chuyện dông dài.
Vùng Thành Thị còn có ông già, bà cả nhớ chuyện hơn trăm năm nay, ông tổ tứ đại của cô Tư Hồng làm chánh tổng, có tiếng hiền lành, phúc đức được dân cả vùng mến yêu, gọi là cụ tổng Bụt.
Lúc đó về đời Lê mạt, hai triều Tây, Nguyễn đang tranh nhau thiên hạ nhuốm máu giang sơn suốt cả nam bắc.
Sau khi thâu phục được cả Gia Định, Phú Xuân rồi, đức Cao Hoàng đem quân ra bình định Bắc Hà, nơi còn có dư đảng Tây Sơn nhiễu nhương cát cứ.
Tương truyền một hôm về chiều, long thuyền ngự đến khúc sông làng Thành Thị thì nghẽn mất lối đi. Tình thế của đức Cao Hoàng lúc ấy rất nguy, bởi tứ phía hình như đều có quân Tây Sơn truy tung khẩn cấp, thành ra xa giá không dám đổ bộ, chỉ còn một nước làm sao thông ra sông cái mới thoát được.
Ông tổng Bụt lập tức chiêu tập những dân phu đinh tráng trong tổng được hơn ba ngàn người, ai nấy đều dự bị cuốc xẻng, tức tốc đào một con sông nhỏ. Nhờ lúc bình tố được lòng dân kính phục, thành ra khi hữu sự, ai cũng tận lực. Chỉ có một đêm, mấy ngàn cánh tay lực điền ấy đào xong một con sông nhỏ từ làng Thành Thị qua ba làng nữa thông ra đến sông Bồ Đề. Giữa canh năm, cả đạo ngự thuyền và quan quân hộ giá đã có lối chảy ra sông Vị Hoàng.
Đến lúc Cao Hoàng định xong việc Bắc Hà, trở về Phú Xuân, thì ông tổng Bụt đã qua đời rồi. Ngài không quên cái công lao đào sông cứu giá, truy phong tước Triều Nghiêm bá cho ông.
Tuy ông làm chánh tổng 35 năm và có danh vọng như thế, nhưng cảnh nhà rất là thanh bạch; có thể nói là nghèo đói cũng được. Đến nỗi khi chết, chẳng để lại cho vợ góa con côi được vật gì khác hơn là hai bàn tay trắng. Người con trai ông trước có theo đòi ít nhiều bút nghiên, giờ cảnh nhà ông bắt buộc phải xếp lại để đi tìm ăn nuôi mẹ.
Sẵn có viên chánh tổng mới ở làng Ngô Xá đang cần dùng một anh nho thay mình lo liệu giấy tờ việc quan, cậu con ông tổng Bụt sang xin làm chức ấy. Con chánh tổng cũ trở nên bác nho, tức là thủ hạ của chánh tổng mới.
Mặc dầu mưa nắng đường xa, ngày nào bác nho cũng sáng đi tối về, cho được phụng sự mẹ già, không hề sơ sót. Chánh tổng Ngô Xá trông thấy thế, sinh lòng cảm động, ngoài ra sự tư giúp càng ngày càng tin cậy mến yêu, coi như một người thủ hạ thân tín.
Nhà viên chánh tổng này vốn giàu có nhất vùng. Lại có tính hay cầu phúc hiếu danh, tin sự mồ mả, cho nên thường nuôi thầy địa lí Tàu cao tay ở trong nhà hàng tháng hàng năm, không ngại tốn kém. Mỗi ngày thầy địa lí Tàu tha hồ chè chén no say, chỉ có việc xách túi la kính địa bàn đi tróc long tầm hổ, rồi lại cất ngôi mộ này, để ngôi mộ kia cho nhà cụ tổng.
Khi có thầy Tàu đến ở, làm việc đất đai mồ mả nhà mình như thế, chánh tổng Ngô Xá đều phú thác cho tên thủ hạ thân tín là bác nho, giao tiếp thù tạc và hướng dẫn đường lối.
Người quanh vùng ấy, ngày nào cũng thấy hai người, một khách một ta, theo nhau như hình với bóng, lững thững đi hết gò này sang bãi kia, nay lần mò ở làng này mai lặn lội vào xóm khác.
Cặp kè với nhau lâu ngày, tự nhiên quen hơi bén tiếng. Bước đường khập khễnh buồn tình, thế nào cho khỏi thốt ra một hai câu chuyện tâm sự. Chú khách rõ biết anh chàng đồng hành với mình, vốn là con nhà gia thế, nhưng giờ sa sút khó khăn, một nách mẹ già, hai bàn tay trắng, tình cảnh rất là khốn đốn. Bác nho ta than thân buồn phận thì có, nhưng chắc trong chí không có cái mộng tưởng thay đổi mồ mả đất đai. Muốn được đất trước hết phải có tiền. Bác tự biết thân kiết xác như vậy lấy gì mà mua đất!
Một hôm về mùa hè, giữa lúc chính ngọ, ngọn lửa của mặt trời rọi xuống như thiêu như nấu, hai người phải vào ngồi nghỉ mát trước thềm một tòa cổ miếu thờ bà chúa Liễu ở bên cạnh đường. Trong khi bác nho ngồi trầm ngâm suy nghĩ đâu đâu, thầy địa lí Tàu cũng lẳng lặng ngó nhìn ra phía trước giây lâu, rồi lại ngắm nghía tướng mạo bác nho một cách chăm chú. Bác chỉ thấy tay ông cầm quạt phành phạch, miệng nói những tiếng líu lo líu lường gì mà bác nghe không hiểu. Một lát, ông tươi cười vỗ vai bác và nói với bác bằng tiếng An Nam rõ ràng, không chút ngượng nghịu, đủ tỏ ra ông đã lấy nghề địa lí ăn cơm ố nàm, khoét hồ bao ố nàm, không phải là ít:
- Tôi trông diện mạo anh cũng có phúc tướng lắm đấy, không lẽ nghèo khổ mãi; chỉ vì còn thiếu âm chất đó thôi. Bởi vậy tôi đã lưu tâm tìm kiếm, để dành cho anh một kiểu đất rất hay…
Như được nghe chiếu chỉ thiên tử, mặt bác bỗng dưng đổi sắc, nét mừng nổi bật lên.
Thầy địa lí Tàu bảo bác đưa mắt đi theo ngón tay ông chỉ ra đám bãi tha ma ở trước mặt và nói:
- Kìa! Chính là kiểu đất tôi để phần cho nhà anh đó. Nhưng tất phải đến đời cháu chắt của anh thì mới thấy đất ấy phát. Tính ra cũng phải một trăm năm sau. Thế, anh có ưng ý không?
- Thưa cụ, trời cho con cháu được hiển dương phát phúc thì ông bà cũng được thơm lây. Ai sống ở đời chẳng muốn lo xa cho con cháu hơn là bản thân.
Bác nho cảm động quá chỉ nói được mấy câu như thế rồi sụp xuống đất lạy ông thầy địa lí hai lạy gọi là tạ trước cái thâm ân cho đất. Nhưng rồi chợt nhớ đến cảnh nghèo mà ngao ngán, bác vừa nói vừa sụt sùi khóc lóc.
- Khốn nhưng cảnh nhà tôi nghèo khổ quá biết làm thế nào?
Thầy địa lí ôn tồn an ủi:
- Tôi há không biết cảnh nhà anh nghèo ra thế nào? Nhưng anh đừng lo, để mặc tôi toan liệu cách sao cho ông cụ nhà anh được có mồ yên mả đẹp thì thôi mà.
Tối hôm ấy, thầy Tàu ngồi đánh chén với cụ chánh Ngô Xá. Trước bầu rượu, đĩa nem, không ai biết thầy đã khéo điều đình tán tỉnh ra sao, mà lúc bôi bàn còn đang lang tạ, cụ chánh gọi bác nho kiết lên, nói một cách trịnh trọng:
- Ta cho phép anh ngày mai đem di hài ông cụ nhà anh tới cải táng ở miếng đất non Ngô mà ông thầy địa lí đây đã có hảo tâm làm phúc cho anh. Công việc di táng ấy phí tổn bao nhiêu ta sẽ chu cấp cho anh đủ hết, miễn được êm đẹp là quý; không cần gì phải cỗ lớn ma to mới là có hiếu, nghe chưa?
Thế là, một mặt nhờ thầy Tàu cho đất, một mặt chánh tổng Ngô Xá giúp tiền, bộ xương khô của ông tổng Bụt qua ngày hôm sau được cải táng ở kiểu đất mới một cách chu đáo.
Cả đất ấy, mộ ấy, ngày nay vẫn còn di tích y nhiên.
Nó là một bãi rộng chừng bốn năm mẫu, cao hơn bình địa xấp xỉ một thước ta, hình tượng trông rõ ra con voi đưa vòi vơ lấy đám cỏ ở trước mặt. Thầy địa lí Tàu điểm huyệt cho mộ ông tổng Bụt táng ngay vào giữa ức con voi ấy.
Người ta thuật lại rằng giữa hồi bấy giờ, ở trên đám cỏ nằm trước mặt voi, đã có ngôi tổ mộ của nhà Bộ Định táng ở đó, con cháu đang phát giàu có thịnh vượng nhất nhì trong vùng. Nhưng quái thay! Từ khi có bộ xương ông tổng Bụt đem về kí tại ức voi, thì con cháu nhà kia bỗng hóa suy vi, sa sút, đến nỗi họ tức mình phải dời tổ mộ đi nơi khác.
Tuy vậy, nhà họ Trần cũng chưa thấy phát gì, truyền nhau ba đời, vẫn nghèo xơ, nghèo xác. Họ trông mong mãi, chẳng thấy sinh được một chú đàn ông nào tài năng, có máu mặt, hầu được ứng nghiệm với kiểu đất.
Thì ra ông thầy Tàu tiên đoán một trăm năm sau kiểu đất con voi ấy mới phát.
Mà chắc con voi này là con voi cái, cho nên về sau mới phát ra một thị mẹt có đủ cả “tàn, tán, hương án, hàn độc, tủ sắt, nhà lầu”.
Một thầy tử vi ở miền Nam, ngày nay đã già nói chuyện với tôi rằng bốn chục năm trước ông đã có xem số tử vi của Trần Thị Lan, còn nhớ rõ nàng sinh ra giờ ngọ, mùng 7 tháng 2 năm Kỉ Tị, dương lịch 1869. Giữa lúc ấy xứ Bắc đang bị giặc Cờ đen, Cờ vàng quấy nhiễu và bắt đầu đa sự.
Thân phụ nàng – nhờ hơi con mà trở nên Cụ cố với hàm Hàn lâm thị độc sau này – lúc đó đang làm một bác phó lí kiết cáu trong làng, mới ngoài ba mươi tuổi. Tuy vậy trước nhà cũng có vườn cảnh; trong vườn cảnh có một vài chậu lan. Ấy là cái mốt đương thời của những nhà khoa hoạn nho y và mấy nhà hào lí đàn anh chốn hương thôn, thường khi cót thóc trong buồng không dính một hột, nhưng thế nào ngoài sân cũng có chiếc bể cạn với hòn non bộ mốc rêu.
Chính ngày hôm cô ả vừa cất tiếng oe oe chào đời phi thường, hai chậu lan bạch ngọc trổ được mấy giò hoa, ông Phó lí đặt ngay tên nàng là Lan, gọi thế là để kỉ niệm mùi hương vương giả.
Đời nàng được nếm những mùi đắng cay lưu lạc ngay từ lúc còn bé bỏng trở đi.
Hồi mới ba tuổi đã mồ côi mẹ. Bà này chỉ sinh hạ hai con gái: một chị đầu lòng, tới nàng là thứ hai. Cả hai đang còn thơ bé cần có hơi mẹ, thì bà trút gánh lại cho anh chồng nghèo để đi tìm cực lạc thế giới. Bác Phó đóng vai gà sống nuôi con được ít lâu, tình thế buộc phải tục huyền. Cái cảnh “bánh đúc không xương” ở xã hội ta chẳng phải nói thì ai đoán ra cũng biết. Còn may đôi chút, người vợ kế là cháu gọi bằng cô của đời vợ trước; sợi dây huyết thống ấy tuy mỏng manh, nhưng nó cũng không nỡ đánh chặt thòng lọng vào cổ hai con bé mồ côi mẹ kia, thành ra chúng nó cũng bớt khổ nhiều ít.
Song, đến cảnh khổ vật chất thì bao trùm cả chúng nó lẫn cha ruột, dì ghẻ. Trước khi mãn lệ, bác Phó đành phải từ dịch. Bởi việc dân, việc làng chiếm mất nhiều thời giờ nên bác cần phải làm mướn làm thuê để nuôi con thơ, vợ dại. Một gia đình như thế, có vài ba sào ruộng thì ăn muối cũng không đủ. Lại thêm mấy năm mất mùa thông luôn; suốt cả vùng Nam giặc cướp như ong, đói khát đầy nội. Bác Phó cựu ta liệu bề quyến luyến gia hương mãi thì phải chết đói; ở nhà chịu chết, thà đánh liều đi cầu sống tha phương còn hơn.
Thế là vợ chồng con cái phải dắt díu nhau bỏ làng ra đi.
Trên con đường gồ ghề, khấp khểnh, từ Nam sang Đông, một anh đàn ông lực lưỡng, quần áo tả tơi, đầu đội nón rách, gánh đôi quang gánh hăng hái đi trước, trong mỗi chiếc thúng có một đứa bé con ngồi chễm chệ, lơ láo; còn chị đàn bà hai vai đeo khăn gói tay nải, lếch thếch đi sau. Đó là cả gia đình giang sơn của bác Phó cựu làng Thành Thị đưa nhau sang tỉnh Đông để tìm sinh kế.
Lúc ấy Trần Thị Lan lên năm tuổi.
Thời buổi đó chưa có nhà Đoan, dân được nấu rượu tự do. Vợ chồng bác Phó cựu có nghề nấu rượu rất khéo. Với nghề sở trường ấy, bác đem ra đổi lấy cơm áo ở chốn giang hồ.
Nhưng trời còn bắt phong trần phải phong trần, khiến gia đình bác Phó tới đâu cũng không thể lạc nghiệp an cư, cơm no áo ấm, mặc dầu rượu bác nấu ngon! Thành ra đến vùng này chỉ ở được ít lâu, lại phải dắt vợ gánh con kĩu kịt hai vai, tìm đi xứ khác. Bước lưu lạc bê tha nay đông mai bắc, có khi vào mãi trong Thanh, trong Nghệ, tha phương cầu thực luôn một hơi đến hai mươi hai năm trường, mà con ma nghèo đói vẫn theo riết bên mình không buông.
Hình như thuở nhỏ bác có được học nhiều ít; có người nói lúc bác 21 tuổi đã thi đỗ khóa sinh, rồi sau vì cha mẹ mất sớm, nhà nghèo, không được học thêm nữa. Bấy giờ phong trần lưu lạc, đến nỗi xúc cảm mạnh quá, bác mở cái túi cỏn con đựng được một mớ chữ nghĩa góp nhặt hồi trước, chấp chểnh nên thơ, gọi là tiêu sầu khiển hứng. Người ta nhận ra mỗi khi trong rá hết gạo, hay là lúc nỗi buồn chan chứa tâm can là mỗi khi bác ngâm nga bốn câu thơ tự tác như vầy:
“Nước chảy hoa trôi sóng rập rềnh,
“Ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh.
“Lòng giời có biết thương hoa nữa,
“Cứu vớt cho hoa lại bén cành.”
Trần Thị Lan lần lần trưởng thành giữa cái cảnh huống cha khó, nhà nghèo, gia đình lưu lạc ấy.
Từ lúc 15 đến 18 tuổi, nàng trở nên người phụ tá lớn khôn trong nhà, vì người chị đã bị giặc khách bắt đem đi đâu mất tích. Trong khi cha mẹ đi bán rượu, nàng ở nhà phải xách nước, thổi cơm, hái rau, kiếm củi, vớt bèo, nấu cám cho lợn ăn, suốt ngày vất vả.
Thật thế, giặc Cờ đen lúc ấy ngang tàng nhũng nhiễu xứ Bắc ta lắm. Ngoài sự bắt buộc dân làng cung đốn lương thực và phục dịch khổ sở, chúng thấy nhà nào có vợ đẹp, con xinh cứ tự do dâm hãm, bắt hiếp, hay là đem đi bán cho tụi buôn người mua về bên Tàu. Thì nhà bác Phó đã mất đứa con gái lớn vì giặc khách. Còn Thị Lan, bác sợ để thò mặt ra cho lũ giặc kia trông thấy, đố khỏi chúng không bắt đi mất.
Thành ra bác phải giấu nàng rất kín ở trong một gian phòng, nằm trên cót thóc. Nào phải là tiểu thư đài các cấm cung, nhưng tình thế bắt buộc, Thị Lan phải làm thân tù giam lỏng trong nhà hơn một năm giời, về sau nàng giàu có tiếng tăm, chú khách Mạch Văn Điền xem số tử vi, có câu quyết đoán:
- Hồi bà 18, 19 tuổi, nhà có sự gì lo sợ nguy hiểm mà thân bà phải bị giam hãm một nơi, thế là thân bà mới toàn, nhà bà có phúc lắm. Nếu không thì đã bị trầm hà lạc thủy từ năm ấy rồi, đâu còn đến ngày nay.
Thì ra vận số con người về sau được thoa phấn trắng, lĩnh sắc vàng, mấy chú Cờ đen không làm quái gì được.
Hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải do tay một nhà nho kinh tế là cụ Nguyễn Công Trứ đã khai thác dưới triều Minh Mạng, như đá nam châm, đã hút bao nhiêu gia đình ở những miền dân cư đông đặc kéo nhau cả bầu đoàn thê tử đến đất mới ấy để sinh cơ lập nghiệp.
Cuộc di dân tự động ấy, lần hồi nhưng liên tiếp, bồi đắp cho hai huyện mới lập không đầy ba bốn chục năm đã trở nên một địa phương phồn thịnh, số người càng ngày càng đông đảo, ruộng mở càng ngày càng nhiều thêm.
Đến sau quốc gia đa sự, khắp xứ loạn ly đói kém, người ở giữa chỗ chiến trường cơ cẩn, còn đâu dung thân cho họ tốt hơn là Kim Sơn, Tiền Hải; một là có mưu sống yên thân, hai là xa tránh được cái họa Cờ đen và bọn thổ phỉ, cường hào thừa cơ quấy nhiễu.
Trong đám lưu dân lúc ấy, gia đình bác Phó cựu Thành Thị là một.
Sau mười mấy năm kiếm chác đủ nghề, lưu lạc nhiều xứ, mà nghèo khổ vẫn hoàn nghèo khổ, bác Phó nghe người ta mách bảo, dắt vợ gánh con đến ở Kim Sơn.
Lúc này đứa con gái lớn bị giặc bắt đi mất rồi, nhưng có Thị Lan đã khôn lớn. Bà kế thất lại cho ra đời một cái đĩ, một thằng cu nữa. Gia đình lớn bé cả thảy năm miệng ăn.
Bác Phó khéo xoay xở, thuê được vài miếng đất, dựng lên ngôi nhà cột tre lợp rạ, một gian hai chái, bên này làm buồng, bên kia nấu bếp. Đằng trước không có cổng ngõ; phía sau ba bước sân, đến chuồng lợn nho nhỏ, vài khóm chuối lơ thơ bên cạnh, thế là hết đất. Giang sơn, sự nghiệp chỉ có thế thôi. Đồ vật trong nhà chỉ có nồi, chõ, ống rấm là khí cụ nấu rượu, thêm một vài cái hũ, một đôi quang gánh là quý hóa nhất. Những món ấy đối với bác, như mấy bộ máy của nhà đại công nghệ, chứ không phải vừa. Bởi nhờ nó mà cả nhà bác sống.
Thị Lan mỗi ngày một lớn, tuy có duyên, có sắc ít nhiều, mặc dầu áo xống váy đụp, nhưng cũng bị bao nhiêu phong trần của cái nghèo nó che lấp mà làm cho tối đi. Nếu phải là con nhà giàu ăn trắng, mặc trơn, thì đã thiếu gì kẻ muốn đào cả người lẫn của. Khốn nhưng nàng là con nhà có địa vị dở dang – chẳng gì cũng là một ông phó lí cựu, còn thêm dòng dõi tiền triều – lại không có lấy tấc đất cắm dùi, thành ra cao không tới, thấp không thông.
Vợ chồng bác phó mong mỏi băn khoăn mãi về việc nhân duyên của Thị Lan. Ước gì có ai rước nó đi cho để kiếm dăm ba chục quan tiền làm vốn cũng phúc. Chẳng những bớt được một miệng ăn cho gia đình bác lại còn lấy được một số tiền về.
Nhưng cô ả có tính hợm đời và đỏng đảnh làm kiêu đáo để. Nghèo khổ mặc kệ, trong túi cũng có chiếc gương Tư mã, ngày đôi ba dạo mở ra soi hình ngắm dáng, hình như có ý tự phụ:
- “Ta thế này lại đi lấy chồng quê mùa cục mịch sao?”
Quả thật, có mấy đám trong làng, trong xóm mối manh dạm hỏi, bác Phó khấp khởi mừng thầm nhưng cô ả cứ khăng khăng từ chối.
Một đám, con một bác nông phu trong làng, bị nàng chê là bé bỏng (kém nàng tới năm tuổi) lại còn vẩu răng, lấy về để đêm hôm nó khóc, mình dỗ không được, nó còn cắn mình đau chết. Một đám khác là anh khóa con một ông nhị trường, đang tập văn ở trường Huấn bản huyện, nàng cũng chê “học trò dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” không chịu.
Bác phó ta cáu:
- Con gái đã lớn, bổn phận cha mẹ phải kén nơi định chỗ cho mà nhờ tấm thân. Ai mày cũng chê bủng chê hôi cả, dễ thường mày định ở vậy già đời chăng?
- Thưa thầy, con muốn lấy chồng để nhẹ bớt gánh lo cho thầy và có thể giúp đỡ cho nhà ta; nhưng…
Bác phó nói mát:
- Thế bực người thế nào thì cô mới chịu lấy cơ? Cô muốn làm thứ phi hay mệnh phụ chắc?
- Chẳng gì thì hãy thong thả, nào đã vội gì. Thầy cứ để con theo đòi chị em đi buôn thúng bán mủng, để kiếm thêm đồng cà, đồng muối đỡ đần cho thầy với dì con, xin thầy đừng lo.
- Mày tưởng thời buổi này buôn bán dễ lắm hay sao? Nhất là con gái mới chừng ấy tuổi…
- Thưa thầy, con vẫn biết không dễ đâu. Nhưng công việc nhà ta chẳng có bao lăm, bây giờ chẳng lẽ con cứ ăn không ngồi rồi mãi. Việc đời trước lạ sau quen, người ta cứ chịu khó để ý, rồi cũng buôn bán được, thầy ạ.
Dầu sao, trong gia đình bác phó, Thị Lan vẫn đứng một địa vị quan hệ. Trước, nàng đã đóng những mấy vai: con trưởng trong nhà, chị vú giữ em, đứa ở không công; giờ nàng lại sắp đóng thêm một vai nữa: cô hàng bán rượu.
Hôm sau, gà mới gáy một dạo, Thị Lan vội vàng thức dậy, sửa soạn quang gánh; mỗi bên thúng để một hũ rượu, đút nút bằng lá chuối khô, chung quanh chèn rơm cho chắc, phễu thiếc, giuộc tre thì treo lủng lẳng trên đầu gióng. Hàng hóa nàng sắp đi chợ bán chỉ có thế. Lần này, nàng mới xuất thân đi bán rượu là lần thứ nhất. Bác phó thương con, cũng thức dậy xem lại gồng gánh tử tế, rồi nói một cách nửa đùa nửa bỡn, nửa âu yếm:
- Tôi chúc cô đi buôn may bán đắt nhá!
Bà dì nghe tiếng tỉnh giấc, nói giọng the thé:
- Trong chạn còn bát cơm nguội với ít tép rang lấy mà ăn rồi hãy đi, con ạ.
Tưởng là việc gì chứ việc ấy thì Lan nhớ từ lúc nãy kia rồi. Lại còn nhờ thổi một nồi cơm, nắm một nắm tương, gói vào mo nang đem theo nữa.
Chưa tờ mờ đất, Lan đã cất gánh khởi hành nhập bọn với năm sáu chị em quen biết trong xóm, cùng nhau đi chợ, chỉ độ ba bốn cây số, nào có phải xa; nhưng ai còn lạ gì thuở xưa đường sá nhà quê còn quá hẹp hòi, khuất khúc, phần nhiều đường đi chỉ là bờ ruộng. Lại gặp tiết trời vào hồi một chạp, gió rét mưa dầm, các cô thiếu nữ gánh nặng đường trơn, hết sức vất vả. Mỗi bước chân, phải bám ghì năm đầu ngón xuống đất thật chặt, sợ ngã thì đổ vỡ hết cả sự nghiệp giang sơn. Thành ra đường gần hóa xa, trời sáng rõ một lúc, các cô mới dẫn xác đến chợ.
Các ngài chớ tưởng tượng chợ búa thôn quê hồi cuối thế kỉ 19, cũng chỉnh đốn sạch sẽ được như bây giờ. Chợ búa thuở ấy chỉ là nơi tụ họp tự nhiên của những người cần dùng mua bán, hoặc trên miếng ruộng, hoặc trước sân đình mà không có ai ước thúc, cũng chẳng ai sắp đặt trông nom. Quán lều chẳng thành hàng ngũ và cái nào cái nấy lụp xụp, dơ dáy, chỉ một cơn gió to đủ bay hết cả chợ. Vì nó là một tấm phên đặt trên bốn cái cọc bằng nứa bé nhỏ, phần nhiều đến ngày phiên chợ người ta mới dựng lên, gặp đâu cắm đó, rồi tan chợ lại dỡ đi. Những người không có lều quán thì ngồi lộ thiên. Phiên chợ nào cũng thấy bùn lầy ướt át, trừ ra mùa thật nắng ráo. Ngay đến sở tại phủ huyện, ví dụ như Kim Sơn, tình cảnh chợ búa cũng lôi thôi như thế, họa chăng có khác là khu vực họp rộng và người mua kẻ bán có phần đông hơn.
Nhưng có một mối tệ chung cả, là chợ nào cũng có bọn hủi quấy nhiễu. Đời ấy, hủi chưa bị nhốt riêng một nơi, còn được tự do thông hành khắp cả thành thị hương thôn. Đời ấy, chợ chưa có thuế quan, nhưng phải có thuế hủi. Người ta mới dọn hàng quán xong hay là vừa đặt quang gánh xuống đất, khách mua chưa thấy đâu, đã thấy một tên hủi lù lù tiến đến, đưa cái bàn tay năm ngón quặp vào, ghẻ lở nhầy nhụa, miệng tuy nói là xin tiền, nhưng kì thực là nó đánh thuế. Cái bàn tay ghẻ lở ấy là khí giới đe dọa dữ tợn. Người bán hàng biết điều, mau mau thí bỏ một vài đồng kẽm, như cách tống ôn, để nó xéo đi nơi khác. Không thế thì nó cứ đứng ngoẹo đầu, ngửa tay mà nói lải nhải mãi, hoặc không kiêng nể, thò tay rờ rẫm vào hàng hóa của mình, thử hỏi khách nào trông thấy mà còn dám mua?
Có đứa ghẻ chốc qua loa, dám cào xát thân thể cho ghẻ chốc nhiều và bôi dơ trát bẩn, càng lắm ruồi nhặng đậu vào chừng nào càng tốt. Làm thế để thêm phần hôi tanh bẩn thỉu mà dọa người ta. Nào phải có ít, cả chợ đến năm mười đứa không chừng, vừa hủi thật, vừa hủi giả. Người bán hàng thường phải bố thí khắp lượt mới được yên thân. Có người không cho, chúng dám nói hỗn, đến nước kéo bè quấy nhiễu tan hoang cả chợ. Theo lời các bậc phụ lão, thì “hủi phá chợ” là một tấn hoạt kịch thường diễn ra luôn.
Thị Lan, buổi đầu làm cô hàng bán rượu ở chợ Kim Sơn, gặp ngay một sự bực tức vì hủi.
Nàng mới đến chợ, đặt quang gánh xuống, ngồi né mình dựa sau lều gianh một hàng xén cho đỡ gió, rồi mở gói trầu cau ra lấy một miếng ăn để bồi lại sức nóng trong mình, chống với giá rét. Trong óc đang vẩn vơ lo ngại chiều trời thế này, chẳng biết buổi chợ có bán chác gì được không; nhất là buổi chợ ban đầu của mình cần phải lấy may. Chưa nhai dập bã trầu, đã thấy cái bàn tay cụt ghẻ lở hôi tanh của một mụ hủi, đang như giúi vào gần sát mặt nàng để thúc thuế:
- Làm phúc làm đức, cô!
Tởm quá, nàng tránh mặt sang một bên và nói một cách gắt gỏng:
- Cái bác này mới hay chứ, bàn tay hôi tanh bỏ mẹ thế mà xỉa xói vào tận mũi người ta. Muốn xin thì để chốc nữa, cho người ta bán mở hàng đã, bây giờ nửa đồng kẽm cũng không có. Thôi đi đi, gớm chết!
Mắt chọi mắt, răng chọi răng, con mẹ hủi không chịu nhịn:
- Chưa cho thì thôi, làm gì mà quai cái mỏ ra, sỉ mắng ai đấy?
- Sỉ mắng bác không biết điều chứ còn sỉ mắng ai!
- Ừ, có giỏi sỉ mắng nữa đi xem, đây cho biết tay. Con bé mới nứt mắt ra đã lên mặt gớm chưa kìa…
Lũ hủi kiếm ăn chợ búa ngày xưa, ỷ mình không ai dám động đến – vì động đến thì chúng nằm ăn vạ hay tìm cách phá thối – cho nên hay có những ngôn ngữ hỗn láo với người ta như thế.
Tấn kịch nãy giờ có một người chứng kiến rồi can thiệp.
Người ấy, trạc ngoài bốn mươi tuổi, đội nón lông quai lụa bạch, mặc áo bông nhiễu tam giang, móng tay để dài, sau lưng lại có một tên gia đinh theo hầu, ngó ra phết một bực trưởng giả hay thầy đề, thầy thông gì đó. Câu chuyện cãi vã xảy ra ở giữa cô hàng rượu và con mẹ hủi ra sao, người ấy vừa đi đến nơi, đứng chăm chỉ nghe rõ, thấy hết đầu đuôi. Có lẽ phải nói chăm chỉ nhìn vào mặt Thị Lan thì đúng hơn. Tới khi con mẹ hủi nói câu hỗn láo sau chót, khiến cho Thị Lan nóng tiết, vừa sừng sộ đứng dậy, chưa kịp trả lời, thì ông trưởng giả kia cất tiếng khuyên can:
- Thôi, cô ơi! Đừng thèm cãi nhau với thứ người phế khí ấy làm gì cho uổng nhời.
Rồi trừng mắt lên, chỉ tay vào người hủi ra nói cách oai nghiêm, dõng dạc:
- Con mẹ kia xéo đi lập tức, nghe không?
Như đã nhận biết là ai, mụ này có vẻ sợ hãi, nói một câu rất lễ phép, phục tòng, rồi lủi thủi đi mất:
- Bẩm cụ, con không dám ạ.
Hai thầy trò vị trưởng giả cũng bỏ đi ngay.
Thị Lan tươi cười hí hửng với mấy chị em ngồi cạnh mình:
- Ông nào tử tế đấy nhỉ?
Một cô trong bọn nói:
- Chị không biết à? Ấy là cụ Bá tổng ta, hôm qua xuống làng dưới ăn mừng đám lên lão, rồi chắc cụ ở lại nghe hát nhà tơ cả đêm, bây giờ về sớm đấy.
Trời vẫn còn mưa lâm râm, cảnh vẫn u ám, chưa thấy có vẻ gì tạnh ráo hửng nắng lên được. Những bước chân, nghe tiếng láp nháp, càng như cày bùn lên bẩn thỉu lầy lội thêm. Tuy vậy, số người đi chợ cũng đông. Các bà nhiêu, thím lí mua sắm đồ ăn thức dùng rồi, phần nhiều không quên tìm đến mấy gánh bán rượu để mua năm ba tiền một quan về cho bố đĩ nó ở nhà. Nhưng họ tìm mua ở mấy gánh rượu quen biết xưa nay; không ai để ý tới một cô hàng rượu mới nhập tịch mà có lẽ rượu còn ngon hơn không chừng.
Thành ra Thị Lan chỉ ngồi suông; cặp mắt đầy vẻ lo nghĩ, lúc thì trông lên thấy thiên hạ qua lại mua bán tấp nập, lúc thì trông xuống để phòng bị kẻ cắp và thấy hai hũ rượu của mình vẫn còn đầy nguyên. Một quán bán thịt chó cách chỗ nàng ngồi mấy bước, vài cụ lí già với một cậu nho trong huyện đang ngồi khề khà đánh chén và bàn bạc về lá đơn sắp sửa vào hầu quan buổi chiều. Trong lúc gật gù chén chú chén anh, họ đảo nhãn trông thấy con bé bán rượu có dáng hay hay bèn gọi mua nếm vài nậm để họ đưa cay cho hết đĩa dồi chó. Ấy, từ sáng sớm đến giờ, nàng mới bán được có thế thôi, trong khi các gánh rượu kia đã sắp lật đít hũ chổng lên quẩy gánh ra về.
Nàng lo quá, không khéo đến phải nguyên gánh trở về, làm sao có tiền để đong gạo và mua mớ rau, mớ tép đem về, theo lời ông bố căn dặn lúc ra đi. Nhất là buổi đầu buôn bán chẳng may, nàng nghe như tinh thần không được khoan khoái.
Bỗng, tên gia đinh theo hầu vị trưởng giả ban nãy mà nàng còn phảng phất nhớ mặt, đội nón lá, khoác áo tơi, như có vẻ tất tả vội vàng đến trước mặt nàng, vừa thở vừa nói:
- Cụ… cụ Bá bảo… bảo tôi ra chợ gọi cô gánh rượu vào trong nhà mà bán. Tôi sợ cô về đâu mất rồi, tôi chạy bán sống bán chết.
- Nhà cụ Bá ở tận đâu kia, bác?
- Ở ngay trong làng này. Đứng đây trông thấy cổng gạch ở đầu làng kia kìa.
- Thế bác dẫn đường giùm tôi nhá.
Nói xong, nàng đứng phắt dậy, đặt gánh lên vai, đi theo tên người nhà ấy. Chưa biết vào đây sẽ bán được bao nhiêu, nhưng nàng nghĩ ngồi suông ngoài chợ vô ích, chẳng thà gánh vào trong làng bán rong may ra được nhẹ bớt gánh mà về sớm cũng tốt.
Nàng đi ra khỏi chợ rồi, không được nghe thấy mấy chị em bạn trong chợ ngồi nói chuyện gẫu và cười khúc khích với nhau:
- Tôi đố chị biết đấy, chị Cong.
- Biết cái gì? Ơ, cái Tý sao hôm nay hí hửng tệ; mày ngồi phải cọc rồi đấy, phải không?
- Cụ Bá gọi cái Lan đem rượu vào tận trong nhà bán chẳng phải là sự vô tâm đâu. Ban nãy tôi thấy lão ta đứng mà mắt nhìn vào mặt cái Lan chòng chọc không chớp. Giờ lại sai chú trương tuần ra gọi. Lại đây xem lại cho gần, phỏng tin được một vài phần hay không? Ý hẳn thế đấy, chị ạ.
- Gớm! Cô lại Kiều lẩy. Rõ thấy người ta gọi cái Lan chứ không gọi mình, thì lồng ngay lên.
- Thôi, chị ơi! Em chả có phúc làm vợ bé Chánh tổng đâu.
Hai cô cùng cười và trông theo Thị Lan thì nàng đi khuất đã xa rồi.
Phải, người trưởng giả đã can thiệp vào việc con mẹ hủi nói hỗn với cô hàng rượu và bây giờ gọi cô vào tận nhà để mua rượu, chính là ông Chánh tổng bá hộ ở tổng sở tại Kim Sơn. Ông góa vợ vài ba năm nay, con cái đã phương trưởng, nhà giàu có nhất nhì trong vùng, nhưng được cái tính khí hiền lành, khiêm tốn, nguyên là nhà nho mấy khoa đạp phải vỏ chuối rồi phá ngang, thành ra không có cử chỉ hống hách như các bác cường hào chính hiệu.
Thị Lan theo chú trương tuần dẫn vào tới trước cửa nhà ngang; ông chánh đang ngồi trên góc bộ ngựa giải chiếu cạp đỏ, điếu tráp để bên cạnh; một tên người nhà vừa bưng mâm cơm lên đặt vào chính giữa. Thấy cô hàng rượu vừa đặt gánh xuống, ông vui vẻ hỏi ngay:
- Nào, rượu của nhà cô nấu có ngon không? Cam đoan nguyên chất chưa pha tí nào đấy chứ?
Ý chừng ông thầm nghĩ câu hỏi “nguyên chất” của mình có ý vị hóm hỉnh, ranh mãnh và lấy làm thích chí cho nên thấy ông vuốt mấy sợi râu mép rồi nghiêng cặp mắt cá ngão vừa nhìn cô hàng rượu vừa cười một cách có hơi khả ố.
Nàng quê mùa chất phác, vừa mới nhớn lên đâu đã hiểu nổi những tiếng ngân ở ngoài sợi dây đàn là gì; mặc ai bóng gió, nàng cứ thật thà có sao nói thế:
- Bẩm cụ, rượu nhà cháu bao giờ cũng nguyên chất, cụ thử xơi một chén thì biết ngay.
- Thế cô cho tôi “thử” tí xem nào!
Nàng múc rượu đổ đầy trong một chiếc nậm long ám do tên người nhà đem ra; ông chánh rót vào một chén hột mít, cong môi uống cạn một hơi rồi gật gù nói:
- À, rượu cô ngon thật.
- Đấy, cụ xem cháu có dám nói sai đâu. Các cụ ở tổng dưới, hôm nào cũng cho người nhà lên tận nhà cháu để mua.
- Tôi mua cả gánh, cô có bán không?
- Cả gánh là thế nào cơ?
- Nghĩa là rượu trong hai hũ kia còn lại bao nhiêu, tôi mua hết cho.
- Vâng, cháu xin để hầu cụ hết.
- Thế bao nhiêu tiền cả thảy?
- Nãy ở ngoài chợ, cháu mới bán có một ít thì cụ sai gọi; đây còn đến tám quan sáu tiền, bẩm cụ lấy hết cho nhà cháu hay thế nào?
- Phải, đến mấy chừng ấy nữa cũng được.
Tức khắc ông bảo người nhà đếm đủ tám quan sáu tiền trả cho nàng rồi nói ân cần:
- Rượu ngon thế này tôi thích lắm, lại được người bán rượu là cô, thành ra lưỡng toàn cả người lẫn rượu. Từ nay, mỗi bận ở nhà bắc nồi rượu lên, cô phải nhớ đến phần tôi nhớ. À, mà nhà cô ở đâu ta nhỉ?
- Bẩm cụ, nhà cháu ở xa lắm.
- Tôi dặn cô từ sau trở đi, mỗi lần có gánh rượu đi chợ Kim Sơn thế nào cũng phải rẽ vào nhà tôi cho tôi mua trước đã nghe.
- Vâng ạ.
Thị Lan trở ra vừa tới ngã ba đầu làng thì gặp cái Tý và ba bốn chị em nữa ở chợ ra về. Chị em lại nhập bọn đi về cùng đường với nhau.
Tý vồn vã hỏi Lan:
- Cụ Bá mời mày ở lại ăn cơm hay làm trò trống gì mà lâu quá thế. Tao có ý đợi mãi ngoài chợ không thấy mày ra nên tao đành quảy gánh về đây.
Lan đáp:
- Người ta mua cả gánh, còn rượu đâu mà trở ra chợ.
- Úi chà! Rồi họ mua cả người nữa kia đấy. Lão Bá này đa tình có tiếng, đã cưới hai ba cô vợ lẽ mà chẳng thấy cô nào ở được lâu. Mỗi cô chỉ ở được dăm ba tháng lại bước. À mà tao hỏi câu này mày nói thật nhá: lão có dò la hỏi thăm nhà cửa mày ở đâu không?
- Điều ấy thì có, nhưng tao chỉ nói tao ở xa.
- Thế thì tao đoán giỏi thật. Lão trông thấy mày xinh xinh, lại định tòm tem cưới mày về làm nàng hầu cho mà xem.
Lan nhoẻn miệng cười, toan nói gì đó nhưng chưa kịp nói thì một người trong bọn đã xen vào câu chuyện:
- Nhân tiện nói đến nàng hầu vợ lẽ, tao nhớ chị cả con bà cô ruột tao, hồi đó có một ông Lý cựu ở tổng trên, nhà cấy hàng trăm mẫu, chịu dẫn hai trăm quan tiền, một đôi lợn, mười gánh gạo nếp để cưới chị về làm hầu nhưng chị nhất quyết không chịu. Chị ta bảo thà lấy thằng cu, bố đĩ mà chồng một vợ một còn sướng hơn làm nàng hầu vợ lẽ nhà giàu, chỉ như đứa ở không công, mà lũ cô chiêu, cậu ấm bên chồng hành hạ cũng đủ khổ. Thế rồi chị ta nói dối ở nhà gánh vải lên tỉnh bán, đi tuốt ra ngoài Phòng, loay hoay thế nào vớ được chú khách chủ hiệu, sung sướng đáo để. Độ nọ mới về thăm nhà, tao thấy mặc áo nhiễu đi dép cong, vấn tóc đuôi gà, trẻ đẹp khác hẳn lúc trước. Tao nghĩ hay là ở chốn tỉnh thành dễ làm ăn và dễ kiếm chồng hay sao không biết?
Cái Tý chắt lưỡi:
- Điều đó chắc phải nhờ phúc đức và sự khôn ngoan của từng người. Các cô trẻ ở vùng ta xuôi Nam, ra Phòng thiếu gì, hỏi ra phần nhiều đi ở nhà thổ hay là vú bõ, nhiều ả lúc về chẳng có lấy hai manh áo. Tao tưởng cứ ở đâu quen đấy, buôn bán tần tảo mà sống vô tai, vô tiếng còn hơn.
Mặc kệ chị em bạn cãi vã với nhau hết chuyện này sang chuyện kia, Thị Lan cứ lủi thủi đi từ đấy cho về đến nhà không xen vào nửa lời nào hết. Nhưng biết đâu câu chuyện phất phơ của chị em chẳng là những cái móng sắc đã in vào trong khối óc nàng còn đang non và mềm như miếng sáp ong; biết đâu nó chẳng lung lay đánh thức một ý nghĩ gì bấy lâu nằm ngủ ở trong đáy lòng mà sau này sẽ có ảnh hưởng nhiều đến đời sống của nàng?
Phiên chợ mở hàng, bố chúc cho con buôn may bán đắt, thì ra được buôn may bán đắt thật. Cô ả mừng quá, quên cả việc phải rẽ vào chợ đong gạo mua đồ ăn theo lời bố dặn. Nhưng ông bố cũng mừng, vì thấy con ở chợ về với đôi hũ đựng rượu chổng đít lên trời, thành cũng quên cả việc mình đã dặn mà con không làm theo. Bấy giờ cha con, dì cháu mới tíu tít, kẻ đi kiếm quanh lấy cái ăn, người vào trong xóm đong gạo để thổi nấu bữa cơm trưa; thế mới biết gia đình này thật là túng bấn, ngày nào chạy ăn ngày ấy. Có lúc vợ quá lo nghĩ thở than, bác Phó khéo tìm cách an ủi:
- Bu nó đừng lo, đất có tuần, nhân có vận, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Giờ nhà ta có cái Lan đã lớn khôn, buôn bán đỡ đần, thế là cái vốn to của nhà ta đấy; đã có vốn tất phải có lãi, việc quái gì mà lo.
Thật thế, giờ Lan bắt đầu đứng làm trụ cột cho sự sống một nhà bác Phó ỷ thác vào một cách trọng yếu.
Qua phiên chợ sau, nàng lại gánh rượu từ nhà đi cùng một bọn chị em quanh xóm, nhưng đến chỗ ngã ba gần chợ thì nàng từ biệt họ:
- Vô phép các chị, để tôi rẽ vào nhà ông chánh một tí nhá.
Cả bọn nháy nhau cười ồ lên:
- Thôi, đích thị cô ả ăn phải bùa của lão Bá Kim Sơn rồi. Coi chừng bộ râu lão ta nhọn như chổi xể đâm vào cái má phinh phính kia chắc dễ chịu lắm đấy nhé!
Tuy nghe rõ nhưng Lan cứ giả điếc đi thẳng. Vào tới nơi, ông chánh vừa mới ngủ dậy, khoác chiếc áo bông, đang ngồi gật gù với ấm nước trà tàu, khói tỏa lên cao trước mặt. Thấy cô hàng rượu đặt gánh ngoài thềm, nét mặt ông tươi tỉnh ngay, nói cười giòn giã:
- Cô hàng quý hóa thật, biết nhớ lời ước hẹn đấy. Hôm nay cũng rượu nguyên đấy chứ? Cả gánh bao nhiêu tiền, lại bán hết cho tôi.
- Bẩm cụ, kì này rượu nhà cháu ngon lắm, hai hũ còn nguyên, cụ dùng hết thì xin cụ cho nhà cháu mười quan ạ.
- Ồ! Bao nhiêu thì bao nhiêu cô muốn điều gì dẫu có khó khăn đến đâu chăng nữa, tôi cũng không ngại, nữa là mười quan tiền.
Thế rồi ông gọi người nhà đem chiếc vò ra trút rượu và đếm đủ số tiền trả cho Thị Lan, chẳng kèo nài gì cả. Ông lại gọi trẻ lấy trầu ra mời nàng ăn và ân cần dặn với nàng khi nàng quảy gánh ra gần đến ngoài cổng:
- Cô nhớ lần sau lại rẽ vào đây trước nhá.
Đến phiên chợ sau cũng thế, nàng gánh rượu vào nhà ông chánh, lại được bán trút cả gánh rồi về sớm, khỏi phải ra chợ bán từng gáo từng giuộc, lặt vặt mất công. Vả lại mỗi lần nàng nói bao nhiêu tiền, ông đếm trả ngay bấy nhiêu chẳng hề chê đắt rẻ hay bớt đi một đồng kẽm nào. Nếu như nàng tham lam nói nhiều gấp đôi gấp ba đi nữa chắc ông cũng vui lòng trả tiền không chút ngại ngùng.
Thành ra mấy lần tiếng thì đi chợ, nhưng nàng chỉ gánh rượu đến nhà ông chánh bán hết rồi lại về ngay. Đến nỗi bọn chị em nghe nàng bán được món hời như thế, họ phải đâm ghen, đâm tức, lại càng thì thầm bàn tán thị phi:
- Này, chị thử nghĩ mà xem, ý hẳn là có thế nào, chứ đời thuở nhà ai cứ mấy ngày lại mua một gánh rượu, có họa tắm gội bằng rượu cũng chẳng hết.
- Ối chà! Cô ả thấy người ta có tường hoa sân gạch, lúa đụn trâu đàn, lại làm ông này ông kia mà đang góa vợ nữa thì cô ả thích mê đi chứ gì.
- Tao bảo là nó bán trút cả xác nó nữa chứ không phải gánh rượu mà thôi đâu. Sao không ai thử nhìn kĩ xem bộ tịch nó mấy hôm nay đổi hẳn, có hơi giai vào có khác.
Chỉ là một sự buôn bán gặp may của nàng, mà bọn chị em ghen ghét miếng ăn, đành gia cho những tiếng bấc chì gớm ghiếc đến thế. Tuy nàng được nghe lọt vào tai, nhưng chỉ ấm ức riêng trong lòng, không dám nói ra, vì nói ra e rầm rĩ xóm giềng hay chị em đến nỗi chửi nhau đánh nhau, là một việc mà bản tính hiền lành của nàng lấy làm kiêng sợ nhất.
Đến sau, vì trông thấy có gia đình ông Chánh lai vãng nhà bác Phó, lại một hôm thấy đích thân ông Chánh cưỡi ngựa nhong nhong đến, bọn thị phi dài lưỡi kia càng thêm đắc ý, như vớ được chứng cớ hẳn hoi để nói:
- Đấy, chúng mình nói có sai đâu.
Cứ nói cho ngay, những cử chỉ hữu tâm và ích kỉ của ông chánh Kim Sơn, khiến cho Thị Lan trong chỗ vô tình đã làm cái đích cho sự châm chích, bình phẩm của chị em cũng phải.
Một hôm, vào khoảng 23 hay 24 tháng chạp, bác phó ta đang loay hoay trong bếp, bắc lên chiếc nồi to và trét lại ống rấm để nấu thêm một nồi rượu bán Tết bỗng có tiếng người gọi cửa. Bác vội vàng chạy ra thấy một người ra dáng gia bộc nhà ai đầu đội thúng gạo, tay xách cặp gà, nhanh nhảu nói rằng cụ Bá Kim Sơn sai lại biếu.
Bác phó kinh hoảng, ngơ ngẩn hồi tưởng những lúc mình còn làm phó lí ở làng mình cũng chưa hề có cái hân hạnh được ai lễ tết phong hậu như thế, huống chi bây giờ mang thân nghèo khổ, kí ngụ tha hương. Hay là người ta đi lầm nhà chăng? Nhất là đôi bên không có bà con, không hề quen biết, cũng không có ân tình gì với nhau, mà chánh tổng đương thứ một tổng tự nhiên biếu tết một lão hàng rượu như bác càng khiến bác hoảng hốt và một hai lần cầm chắc là tên gia bộc đã đi sai đường lầm ngõ.
Nhưng tên gia bộc cứ bình tĩnh đặt thúng gạo lồng gà xuống tử tế rồi móc túi lấy ra một tờ giấy hồng điều có viết sẵn ba chữ tên trao tay cho bác phó và thưa bẩm lễ phép:
- Cụ Bá tôi dạy nhân dịp Tết sắp đến nơi, gọi là có cặp gà thúng gạo làm quà, sai tôi đem đến biếu hai ông bà, xin ông bà nhận cho.
Trong khi bác phó còn đang ngơ ngẩn, tần ngần thì tên gia bộc đã vái chào và rảo bước đi ra thật mau rồi hút bóng đằng nào mất rồi, bác phó không kịp nói gì cũng không kịp gọi lại để phân trần hắc bạch gì cả.
Nhà sẵn túng nghèo, năm hết Tết đến, được cặp gà thúng gạo tự nhiên cho gia đình mình ăn Tết phong vận kể ra như một sự may mắn trời cho, ngoài hẳn sự tưởng tượng của bác. Nhưng bác lo ngay ngáy, vì không duyên cớ, có thể tưởng là người ta đánh bẫy gì mình đây thì khốn. Chiều lại, trước mặt vợ con đông đủ, bác đem việc lạ ấy ra bàn tính mãi, rồi lấy hột cơm dán tờ danh thiếp lên trên vách, còn gà với gạo vẫn để y nguyên, có thấy mà thèm cũng đành, không dám động đến. Trong ý bác tính để đấy sáng mai chiều hôm gì chính bác thân hành đem giả lại người ta. Việc này chẳng lẽ nào sai vợ sai con đi, bất tiện. Nhưng bác còn bận hàng Tết, không thể đi ngay được. Thị Lan chắc hiểu sự tình ẩn khúc đó ra sao, song phải làm lơ như không biết, mà kể sự thực cũng khó nói ra. Nàng chỉ bảo cha:
- Người ta đã biếu nhà mình thì nhà mình ăn, việc quái gì phải đem giả lại, hở thầy. Có đi có lại mới toại lòng nhau, thì mình đem biếu họ một hũ rượu cho ngon cũng thế.
Bác Phó lắc đầu:
- Mày còn trẻ con biết gì mà nói. Thế ngộ người ta lập tâm đánh bẫy gì đấy với cặp gà thúng gạo này thì có khổ không.
Lan không nói gì nữa, lủi thủi vào bắc nồi cám ra quấy cho lợn ăn. Nàng thầm biết lão chánh Kim Sơn quỷ quái dụng tâm, chắc hẳn một lần nàng vào nhà ông bán rượu ra về, ông đã cho người đi theo hút đàng sau đến tận nhà nàng mà nàng không ngờ. Vì đó gà, gạo mới biết nơi mà đến.
Tuy ban đầu bác Phó định bụng đem gà gạo ấy trả về nguyên chủ, nhưng sau có lẽ bác nghĩ thầm rằng con gái mình nói cũng phải, họ giàu mình nghèo, họ cho thì cứ việc ăn, cũng đỡ tốn được một món tiền Tết cho nhà mình, việc quái gì phải khách khí chối từ. Thành ra luôn mấy hôm sau, thúng gạo để trong góc nhà mỗi bữa khuyết đi một vài đấu, bác Phó chẳng nói gì. Đến cặp gà, tối hôm ba mươi, hai dì cháu Lan cắt tiết vặt lông một con để cúng giao thừa, còn lại một con, qua ngày mùng một xử tử nốt. Thêm với mấy quan tiền thịt lợn và dăm bảy chiếc bánh chưng, thế là cái Tết của gia đình bác Phó cũng tùng tiệm phong lưu mà lại đỡ tốn tiền nhà được đến quá nửa.
Hôm mùng một, cúng ông bà ông vải rồi, bác lấy cặp chân giò gà ngồi xem tẩn mẩn – vì bác cũng thạo về môn dị đoan này ít nhiều – thấy móng giò co quắp không đều, vả lại những tia đen lộ ra nhiều quá, bác chắt lưỡi và nói nhỏ một mình:
- Quái! Điềm gì thế này?
Rồi lát nữa, bác ngồi gật gù nhắm rượu của nhà với cặp chân giò ấy luôn cả đầu gà cánh gà, nhai nghe rau ráu, giòn tan; con cún ngồi hếch mõm trông lên chẳng thấy ông chủ năm mới mừng tuổi cho nó cái xương nào.
Sang ngày mùng ba, xương cặp chân giò đã tiêu hóa tám đời rồi nhưng mà những tia đen của nó thì vẫn còn băn khoăn ghi chép ở trong tư tưởng bác Phó chưa phai. Ngồi khoanh tay bó gối, suy nghĩ vẩn vơ, rồi sự thực tế đánh thức bác phải nhớ lại hôm nay còn có mấy giờ nữa là xong tết nhất, ai nấy đều trở lại cuộc lo sinh sống hằng ngày. Bác vội vàng xuống bếp, cặm cụi sửa soạn cái nồi, cái hũ để cất một nồi rượu năm mới cho cái Lan ngày mai đi chợ mở hàng. Giữa lúc ấy có tiếng nhạc ngựa nhong nhong dừng lại trước cửa nhà bác Phó. Bác từ trong bếp hấp tấp chạy ra xem ai không ngờ là khách vào nhà mình.
Khách ra vẻ hào hoa chững chạc, đầu đội nón lông dải lụa buông thò dưới ngực, mình mặc áo bông nhiễu, khuy hổ phách, chân đi giày Tàu, bí tất trắng. Sau lưng có người đội nón dứa, ôm điếu tráp theo hầu. Hai thầy trò ung dung bước vào trong nhà. Trước khi chủ nhân chưa kịp chào mời câu nào, khách đã tươi cười nhanh nhẩu nói:
- Nhân dịp tân xuân tôi xin đến mừng tuổi ông và chúc ông năm nay đắc tài sai lộc, vạn sự như ý.
Thuở nay chỉ quen tiếp những khách khứa bình thường với lối xã giao giản dị, giờ đột nhiên có một quý khách như thế đến nhà, nhất là một vị khách lạ chưa từng biết tên gặp mặt bao giờ, khiến cho bác phó ngỡ ngàng, lính quýnh. Đến nỗi bác chạy vào trong buồng, tí nữa vấp ngã, vớ lấy khăn đen áo dài vừa mặc vừa run ra chiều lúng túng. Bác cung kính mời khách tạm ngồi trên bộ phản thấp, giải chiếc chiếu đã cũ sờn cả bốn góc. Sa-lông tiếp khách của nhà bác đấy.
Nhà lại chẳng có tôi tớ con trai nào mà sai bảo, chính bác phải rửa qua bộ chén sứt mẻ và cáu ghét chè tươi lâu đời để pha một ấm trà ô long thết khách. Khách uống một hớp rồi đứng dậy sửa khăn áo như người sắp từ biệt ra về; bác phó ân cần nói:
- Mời ngài hãy ngồi chơi thư thả xơi cạn chén nước đã. Mấy khi nhà chúng tôi có phúc may được thừa tiếp quý nhân.
Bác lầm. Khách chưa từ biệt. Khách sửa lại chữ nhân ở nếp khăn cho ngay ngắn, vừa đi ra trước bàn thờ vừa nói:
- Xin ông cho phép tôi làm lễ gia tiên.
- Sự ấy thực chúng tôi không dám nhận, xin ngài thứ đi cho.
- Theo lễ phép tiền nhân phải thế, ông cứ để tôi tự tiện.
Thế rồi khách lễ bốn lễ rất kính cẩn. Bác phó đứng bên vái ba vái để tạ ân. Cử chỉ tử tế của khách càng làm cho bác lúng túng thêm.
- Thế này thì không phải, xin lỗi ngài cho chúng tôi được biết quý tính cao danh và tôn phủ ở đâu để chúng tôi đến đáp lễ mới được.
Khách cười:
- Xin ông miễn thứ cho tôi thật quá đường đột. Tên tôi đã viết trên vách kia kìa.
Khách chỉ vào tờ danh thiếp bằng giấy hồng điều mà bác phó đã trân trọng dán trên vách hôm nọ.
Bác phó giật mình:
- Chết nỗi! Thế ra ngài chính là cụ Bá Kim Sơn mà không chịu nói ngay cho biết, để chúng tôi sơ suất trong việc nghinh tiếp, thật là đắc tội với ngài nhiều lắm. Bấy lâu vẫn nghe danh ngài, nào ngờ hôm nay được ngài hạ cố rồng đến nhà tôm…
Quả thế, khách chính là ông chánh tổng đương thứ Kim Sơn mà chúng ta đã biết.
Ông cười và ngắt lời bác phó:
- Xin ông chớ dạy quá lời. Quân tử kết giao với nhau có phân biệt gì giàu nghèo, quý tiện. Giờ ông mới biết tôi nhưng tôi đã từng hỏi thăm người ta mà biết ông cũng là con nhà hàn nho, danh giáo, trong lòng chứa chan ngưỡng mộ, vẫn muốn làm quen đã lâu.
- Đa tạ ân ngài chiếu cố.
- Vả lại tôi là một khách hàng rất chuộng mùi rượu của ông mà ông chưa biết đấy thôi.
- Chẳng qua nghề nghiệp quen tay có gì mà được ngài quá khen đến thế.
- Hôm nay tôi cốt đến làm quen với ông, thế cũng là chúng ta nhất kiến như cựu rồi. Để mấy hôm nữa tết nhất cho qua, tôi sẽ đến xin ông một người sang bên nhà tôi truyền nghề nấu rượu thì quý hóa biết mấy.
Bác phó ta thật thà, vô tình không hiểu câu nói có nghĩa bóng bẩy chỉ liên thanh đáp:
- Xin vâng! Xin vâng!
Sau khi quý khách lên ngựa đi rồi, Thị Lan mới thò mặt lên nhà trên:
- Chính ông ta mấy phiên chợ Kim Sơn gọi con vào trong nhà mua trút cả gánh rượu đấy, thầy ạ!
Bà kế mẫu nàng cười ha hả:
- Thôi thế thì phải rồi, ông ấy muốn cưới cô đấy! Hèn nào trong năm tết gà với gạo, hôm nay đến lễ giường thờ và mừng tuổi… ông bố vợ.
Thì ra bao nhiêu sự hào phóng, sự tử tế, sự lễ nghĩa của lão chánh tổng Kim Sơn, chỉ động bởi một nguyên nhân và chỉ dồn vào một mục đích: cái Lan.
Cái Lan trẻ măng, xinh xắn, sắc sảo, dễ yêu.
Mà nguyên nhân ấy là nguyên nhân đa tình; mục đích ấy là mục đích ích kỉ.
Quả nhiên vừa mới qua ngày khai hạ, ông chánh Kim Sơn cậy tay mối lái sang nhà bác phó để dạm hỏi Thị Lan về làm kế thất. Bấy giờ bác phó mới tỉnh ngộ về những cử chỉ dụng tâm của ông chánh từ trong năm đến nay, bác nhớ lại mừng thầm về cặp chân giò đã xem hôm mùng một, tưởng đâu tia đen là báo hiệu điềm dữ mà lo ngay ngáy chẳng hóa ra lại là điềm lành.
Một ông chánh tổng giàu có nhất tổng muốn lấy con gái một bác phó cựu nghèo kiết, mà lại cưới về làm bà kế, còn gì vẻ vang, sung sướng cho bác phó hơn nữa? Bác chưa bao giờ dám mơ ước đến sự ấy.
Phúc đâu đem lại như từ trên giời sa xuống.
Bác phó ta ừ ngay, làm như dang thẳng cánh tay ra chộp lấy, vồ lấy mối hạnh phúc kia cho mau kẻo sợ chậm trễ, nó vuột đi mất.
Chắc hẳn các ngài không lạ gì luân lí và phong tục cổ truyền của xứ mình, đối với cuộc nhân duyên, hôn phối của con cái, ngày nay có tùy thời đổi thay dễ dàng đi nhiều, chứ ba bốn chục năm về trước thì cha mẹ nắm quyền tuyệt đối. Lựa chọn, ưng chịu, gả bán, nhất thiết ở trong ý muốn của cha mẹ “đặt đâu con phải ngồi đấy”, không cần gì phải hỏi con:
- Tao định gả mày cho thằng đó, hay là tao định cưới con bé kia về làm vợ mày, mày có bằng lòng hay không?
Người làm cha mẹ ỷ có quyền hành, lại thêm tấm lòng tha thiết thương con và sự lịch lãm kinh nghiệm của mình, hễ đã lựa chọn đám nào phối hợp cho con tức thì đám ấy xứng đáng thích hợp tự nhiên khỏi phải hỏi ý con hay là bảo nó biết trước làm quái gì.
Tức như bác phó, bác định gả con gái cho một chánh tổng đương thứ, vậy là xứng đáng đủ mặt, bác đã chịu thì tất cái Lan cũng phải chịu.
Bảo rằng thằng chồng ấy xấu?
Mặc kệ! Nhưng nó đang làm chánh tổng hách dịch nhất vùng lại có thóc gạo chứa mấy mươi gian nhà, ruộng đất cò bay thẳng cánh.
Bảo rằng nó hơi già cho cái Lan?
Phải. Nhưng nó cưới về làm bà kế, trông nom tất cả cửa nhà ruộng nương, sung sướng biết bao. Cái Lan mới hai mươi tuổi đầu sẽ đường đường làm một bà chánh mà bác phó sẽ được dựa hơi nhờ thế trở nên danh giá, nổi tiếng quanh miền.
Thành ra mối lái vừa mới đánh tiếng ngỏ lời, bác phó gật đầu tức khắc và tự cho mình là phải lẽ, chẳng thèm hỏi con. Chẳng những bác nghĩ mình có quyền như thế mà đến sự phải lẽ chắc con cũng đồng ý với bác, không thể không được.
Đến nỗi cách sau mấy hôm, bên nhà ông chánh đem sang mấy mâm trà rượu bạc tiền làm lễ vấn danh và định ngày mồng bốn tháng hai xin cưới, bác phó cũng nhận lễ và ưng ý một mình chẳng cần hỏi xem ý Lan thế nào?
Một lát sau, người ta về rồi bác mới nghĩ rằng đến lúc cho con biết về việc chung thân của nó:
- Đấy, lễ vật của ông Bá Kim Sơn ăn hỏi con và xin chọn ngày lành tháng tốt là mùng bốn tháng hai sau, thầy đã ưng chịu đâu vào đấy rồi. Con muốn sắm sửa gì thì lo sắm sửa dần đi. Gả được chỗ này, thầy cũng yên lòng và mừng cho con.
Thị Lan sửng sốt:
- Vâng, thầy để cho con suy nghĩ xem đã.
- Còn suy nghĩ cái gì? Mọi việc thầy đã bàn định thỏa thuận với người ta rồi. Thầy đẻ ra con, muốn cho con nên hay, nên khá mới chọn lựa và ưng chịu gả cho con đám này thật là xứng đôi phải lứa, cả của lẫn danh không còn phải cân đo suy nghĩ gì nữa. Đến mai con dậy sớm đi với dì con sang Nam đánh một đôi khuyên vàng và sắm sửa các thứ, có mấy chục nén bạc người ta dẫn lễ kia con muốn may mặc gì cứ việc. Thầy bảo phải nghe.
Cả đêm nàng trằn trọc không ngủ, lại còn khóc thầm nữa. Sáng dậy, thấy hai mắt sưng húp, gân máu nổi lên đỏ hoe. Nàng xuống ao rửa mặt xong và rồi lên đứng trước mặt cha, thu góp tất cả tinh thần, quả quyết, mạnh bạo vào lời nói:
- Thưa thầy, đêm con đã suy nghĩ kĩ rồi, con nhất định không lấy lão Bá Kim Sơn đâu. Thầy giả lễ lại cho người ta.
Nếu lúc ấy sét đánh bên mình hay là đất động dưới chân, chắc không làm cho bác phó ta choáng váng cả người hơn là nghe câu nói của con gái bác.
- Mày hóa điên rồi à, Lan?
- Con chả điên tí nào. Mới từng này tuổi, chẳng phải lỡ thì quá lứa gì, con còn muốn ở nhà giúp đỡ thầy chứ chưa muốn lấy chồng. Hay thầy muốn gả con cho bố cu, bố đĩ nào cũng được nhưng lão Bá Kim Sơn thì con nhất định không lấy.
- Mày giết ông đi cho xong! Mày xuống bếp vớ con dao rựa lên đâm chết thằng cha mày đi! Mày định bêu rếu không cho ông ở đây làm ăn và dám thấy mặt ai ở đất này nữa phải không? Con tôi nó báo hiếu cho tôi thế đấy, giời đất!
Bác quay cuồng gầm thét như điên, như khùng. Và rút lấy cây đòn gài cánh cửa liếp để định phang con một mẻ. Thị Lan sợ quá, vụt chạy sang nhà hàng xóm để trốn. Bác chỉ làm oai, làm bộ thế thôi, không nỡ nào đánh con; nhưng không khỏi lấy làm lạ sao lần này con dám cãi bác, nhất là cãi bác về một việc rất quan hệ. Qua cơn giận chốc lát rồi, bác nói nhỏ với vợ bảo vợ lấy lẽ thiệt hơn, phải trái khuyên bảo cái Lan. Đàn bà với nhau, họ tỉ tê khuyên bảo nhau dễ hơn.
Bác phó nghĩ nhầm rồi…
Đến mạng lịnh cưỡng bách của cha, nàng còn không chịu khuất phục, huống chi những lời khuyên nhủ của bà dì ghẻ.
Còn phải bé bỏng gì, Lan hai mươi tuổi đầu đã biết đắn đo suy nghĩ nhiều ít. Mình đang son trẻ thế này đi lấy một người đã ngoại tứ tuần, sao gọi là xứng đôi vừa lứa được. Tóc bạc, má hồng, chẳng khác gì nước với lửa không thể trương dung và phối hiệp nhau. Lan lại sực nhớ đến cái vẻ hom hem không có gì đáng yêu của lão Bá làm Lan đã được nhìn rõ nhiều lần khi vào bán rượu: Lan tưởng tượng đến đôi má đã hơi hóp, bộ râu dài ba chòm, mái tóc đã bạc quá nửa của ông Bá mà Lan nghĩ đến số phận mình sau này dẫu có được ngồi trên đống bạc cũng không thể gọi là hạnh phúc được. Lúc nào, lũ chị em xấu bụng đã xầm xì thị phi đủ điều, giờ họ thấy mình về làm vợ lão Kim Sơn, đố khỏi họ chê cười mình tham lam vàng bạc, bán rẻ xuân xanh. Lại thêm câu chuyện chị em bàn tán về tính cách ăn ở của lão Bá Kim Sơn, nay vợ nọ mai hầu kia, chẳng ai được bền; biết đâu rồi cái thân phận ấy không đến lượt nàng. Đời có thiếu gì kẻ giàu có ngông cuồng, hoặc vì lòng hiếu sắc ích kỉ dám quăng ra một số tiền để mua lấy bông hoa đầu mùa mà chơi ít lúc, khi chán ngán, đỡ thèm rồi họ chà đạp dưới chân?
Lan không phải là người không ham giàu, ham danh nhưng chỉ sợ những nông nỗi nói trên, khiến nàng có cái quyết tâm không lấy lão chánh tổng Kim Sơn, mặc dầu nàng phải trái ý cha muốn.
Không biết đêm hôm ấy dì đem lời hơn lẽ thiệt ra nhỏ to khuyên bảo cháu ra thế nào, đến lúc trời tờ mờ sáng dì gọi cháu thức dậy thổi cơm như mọi ngày, chẳng nghe tiếng cháu thưa; chạy ra phản ngoài xem thấy bỏ không, sờ lên cây sào mắc xống áo thấy sạch trơn, bấy giờ bà mới hoảng hốt, kêu réo ông chồng:
- Thầy nó ơi! Dậy mà xem mau lên, cái Lan bỏ nhà trốn đi đâu mất rồi!
Lúc bấy giờ cuộc bảo hộ Trung Bắc hai kì đã bắt đầu thiết lập và chỉnh đốn được mấy năm.
Trong triều, vua Đồng Khánh vừa mới thăng hà, sau ba năm ở ngôi cửu ngũ. Các cụ triều thần bàn tính và được chính phủ Bảo hộ đồng ý, tìm rước đức ông Bửu Lân, con vua Dục Đức về nối ngôi.
(Kiểm duyệt bỏ một đoạn)
Ấy là vua Thành Thái. Cụ Kim Giang Nguyễn Trọng Hợp làm phụ chính đại thần.
Ngoài Bắc ta, dân tâm bắt đầu được hưởng yên vui, nhờ cuộc Bảo hộ lần lần đem lại cho họ cái cảnh an cư lạc nghiệp sau bao nhiêu năm điên đảo, lưu li vì nạn giặc khách và binh hỏa, cơ hoang. Tuy là tỉnh này, huyện khác còn lác đác những chòm nhóm cần vương, nhưng không thể trở ngăn gì được công việc kiến thiết. Bảo hộ một mặt tiếp tục dẹp yên Văn Thân, một mặt cứ việc ra tay mở mang, sắp đặt, ban bố học thuật mới và bắt đầu xây dựng các cơ sở văn minh tân thời cho dân.
Năm ấy vừa trúng năm Mão, có khoa thi hương.
Thuở trước, xứ Bắc có hai trường thi là trường Hà và trường Nam, nhưng giờ đã dồn chung lại một trường thi ở tỉnh Nam Định vì trường Hà Nội bãi rồi.
Sĩ tử các nơi ôm lều vác chiếu tụ tập về tỉnh Nam, ai nấy đều có cái cảm giác gần bước vào một thế giới nào lạ. Các phố phường buôn bán đông đúc vui vẻ, có nhiều tòa nhà kiểu mới dựng lên nguy nga, tốt đẹp; đường sá đã mở rộng và rải đá; cho tới bến sông, chợ búa đâu đó đều đã cải quan và mọi việc sửa đổi mở mang vẫn đang rầm rộ tiến hành thêm to, thêm đẹp hơn nữa. Những thầy khóa ở vùng đông nam, còn nhớ mười mấy năm về trước mình cũng về thi cử ở chỗ này chỉ thấy một vài phố phường có nhà ngói kiểu xưa, còn thì toàn nhà tranh phố lá ẩm thấp; nói gì đường đi chật hẹp bùn lầy và bốn phía còn đặc những ao tù đất trũng.
Chung quanh vẫn nước non nhà,
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa.
Hồi xứ Bắc ta Hán học chưa tàn, khoa cử còn thịnh, mỗi khi đến khoa thi trường Nam tức là một dịp tô thêm cảnh tượng phồn hoa náo nhiệt cho tỉnh thành này, một dịp phát tài cho các quán rượu hàng cơm, cho chị em hàng Thao, cho những dân cư ở mấy phường Năng Tĩnh, Mỹ Trọng có nhà để chứa trọ sĩ tử và nấu cơm cho họ ăn. Những mối lợi ấy, thành Nam có thể hưởng thụ trong một tháng rưỡi, hai tháng.
Nhất là hai làng Mỹ Trọng, Năng Tĩnh thường ngày vắng vẻ buồn tênh, nhưng đến khoa thi thì quang cảnh tấp nập đông vui bằng mấy đám hội. Vì được địa lợi gần với trường thi, cho nên sĩ tử trọ đông hơn các phường xóm khác. Các bực phụ lão nói chuyện có lắm chủ nhà ở đấy cứ thổi cơm chứa trọ xong một khoa thi có thể về làng mua nhiêu, tậu ruộng là sự thường.
Giữa phố Năng Tĩnh có hàng cơm bác Khán Tèo, tuy cửa hàng chỉ có một gian nhà ngói thấp nhỏ, nhưng đi vào bên trong, cách một cái sân rộng độ năm sáu thước ta, còn chiếc nhà gỗ ba gian hai chái, cao ráo sạch sẽ. Phía sau lại có ao riêng để giặt giũ tắm rửa. Được mọi sự tiện lợi như thế, cho nên khoa thi năm ấy, một nhà bác chứa trọ được ba chục thầy khóa. Bác khéo thu vén xếp đặt, kê bảy tám bộ phản gỗ giường tre liền nhau ở ba gian giữa để các thầy vừa làm nơi ăn chốn nằm, quanh trong khu vực ấy. Bên chái tây, nhà bác dùng để chứa gạo củi nước mắm một phần, còn một phần thì chất đầy sắp lớp những yên, những chõng, những lều, những chiếu của ba chục ông khách trọ. Có ông lại khiêng cả hai tủ sách cổ văn, bắc sử đi theo để nghiền ngẫm nữa.
Còn nguyên cái chái bên đông thì bác cho một cậu ấm tử, ấm tôn nào đó thuê 15 quan tiền một tháng, ở riêng một mình. Hình như cậu là con một cụ quan ở miền bắc, tuổi trẻ nhà giàu ra dáng phong lưu công tử cho nên cậu ở trọ đi thi một cách đường bệ khác hẳn người thường. Cậu đem theo hai gia nhân và hòm xiểng đầy đủ các thứ vật dụng thực phẩm, cả điếu tráp và ấm chén trà tàu, hỏa lò nấu nước cũng không quên. Thầy trò thuê nguyên cái chái đông của nhà bác Khán Tèo, ở biệt tịch một mình và tự nấu ăn lấy. Trừ ra khi cần mua sắm thức gì mà gia nhân cậu không biết thì phải phiền đến bác Khán.
Một nhà có bấy nhiêu người khách trọ hằng ngày phải chợ búa, nấu nướng, cơm nước, hầu hạ thử lượng xem công việc bận rộn đến thế nào, tất là trong nhà phải đông người nhà, đầy tớ mới phục dịch nổi. Còn thêm cửa hàng cơm bên ngoài, có những khách bất thường tới ăn năm bảy xu cũng phải tiếp rước nữa là gì? Thế mà chừng ấy công việc phục dịch, nhà bác Khán chỉ quanh quẩn có hai vợ chồng, một đứa con gái mười sáu, mười bảy tuổi, một u già, thêm một con cháu gái đã lớn, nói rằng gọi mình bằng chú thím họ, mới ở nhà quê ra phải đội thúng đi chợ mua cái ăn rồi về chui vào bếp giúp hai vợ chồng bác để thổi cơm và làm đồ ăn, buổi sáng cũng như buổi chiều; đứa con gái bác thì ngồi đuổi ruồi coi hàng bán cơm bên ngoài, thỉnh thoảng có thầy quyền vào đùa bỡn chọc ghẹo, nó lính quýnh không biết làm sao thì nó réo gọi “U hỡi! U ơi!”, còn vú già đã chất nặng hơn sáu chục tuổi trên đầu, mắt lòa, tai nghễnh ngãng, mỗi bước chậm như con sên, thì đóng vai bưng cơm rót nước và cho các thầy khóa sai vặt.
Các ngài thấy đó chắc hẳn dư biết: người sướng thân khỏe xác nhất là cô ả con ruột; kẻ đầu tắt mặt tối nhất là con bé cháu ở nhà quê mới ra.
Có lẽ so sánh chẳng sai bao nhiêu, nếu các ngài nhớ đến vợ chồng Thénardier, chủ quán cơm ở Montfermeuil trong truyện “Những kẻ khốn nạn”. Vậy thì Cosette tức là con bé cháu ở nhà quê mới ra, chỉ khác lớn tuổi hơn, còn sự được nghe mắng chửi và ngồi đâu khóc thầm thì cũng thế.
Anh chồng còn khá, đến mụ vợ thì mồm loa, mép giải, ăn có nói không, hơi một tí là sưng sỉa nhiếc móc con bé cháu tàn tệ.
Lạ gì lúc có khoa thi, tự nhiên chợ búa đồ ăn phải đắt đỏ hơn ngày thường. Ngay bác Khán còn biết lợi dụng thời cơ, thổi cơm hàng và cho ở trọ tính tiền đắt gấp đôi nữa là những người bán hàng ngoài chợ. Mỗi buổi sáng, trước khi con bé cháu đội thúng đi chợ mua cái ăn, mụ Khán dặn dò phải mua những thức gì và giá bao nhiêu. Luôn luôn mụ đánh giá mỗi thứ vào mực rẻ nhất, đến ngày thường mua cũng chẳng được, nói gì những ngày đặc biệt như dạo này. Con bé cháu phải chịu mua đắt mới có đồ ăn, tức là trái ý của bà thím. Sáng nào, các thầy Khóa thấy bóng cô bé cháu đi chợ về thì một lát sau tất được nghe tiếng hạch lạc gắt gỏng của bà chủ nhà trọ, hoặc ở phía cửa hàng, hoặc ở trong bếp:
- Con đĩ! Chắc mày lại ăn bớt của bà, mớ cá thế này mà năm tiền ư?
Hay là:
- Mày ra chợ ngồi nói chuyện với giai, rồi thì bạ cái gì mua cái nấy, vơ cào vơ cấu, chẳng mặc cả gì hết. Đồ hư! Đồ tồi!
Chốc nữa vào trong bếp, mụ lại tế lên cho một hồi nữa, bất cứ vì một nguyên nhân gì. Mặc dầu con bé cháu làm việc túi bụi, chẳng hở tay lúc nào, mặc dầu mụ thấy nó giúp đỡ mình nhiều việc, nó nhanh nhẹn giỏi giang nhưng mụ cũng cứ mắng chửi. Con cá đánh vảy lâu, miếng đậu rán kĩ, cũng đủ là một vấn đề cho mụ quai mỏ ra. Với hạng đàn bà nỏ miệng lắm điều, mắng chửi người ta hình như là một chứng bịnh, có lẽ cũng có vi trùng như con trùng lao bắt phải ho vậy.
Người ta để ý nghe mỗi lần người thím hành hạ mắng nhiếc là mỗi lần con bé cháu khóc lóc. Hai mắt nàng lúc nào cũng vận tia máu lên đỏ như gấc, phần vì khói bếp hun gần suốt ngày, phần vì sớm chiều hai ba bận khóc. Nàng tủi thân. Tưởng mình nương nhờ chú thím được yên ổn, sung sướng; ai ngờ đã nai lưng cật sức như làm tôi tớ không công, mà cũng bị đối đãi tàn nhẫn. Đến con ranh con, con gái chú mình cũng lên mặt coi mình chẳng ra gì. Thím chỉ biết kể miếng cơm cho ăn, nên muốn dằn vặt lại cho bõ, chớ không kể công việc mình đền lại đáng gấp đôi. Nàng càng ngẫm nghĩ càng ấm ức mà không biết nói sao, thành ra chỉ có nước khóc cho hả bớt hơi tức.
Rõ ràng cái thân con Cosette lớn tuổi ở dưới bàn tay sắt của mụ quán Thénardier.
Những lời chua ngoa của mụ chủ nhà và tiếng khóc thầm của con bé cháu, đã làm động tâm cậu Ấm, người khách trọ ở chái đông.
Phải nói cho rõ, cậu chỉ động tâm vì tiếng khóc của con bé cháu nhà chủ, mà nhất là động tâm vì chính mình con bé cháu thì đúng hơn.
Chắc cậu sẵn tiền, ham chơi. Vào kì đệ nhất, mấy bài kinh nghĩa cậu làm có ra hồn gì không chẳng biết, chỉ thấy suốt ngày cậu chè chén, tối lại đi gõ trống hàng Thao. Mùi đời hưởng mãi một thứ có lẽ cũng chán, ý cậu muốn được thay đổi hoa đồng cỏ nội chơi, sẵn trong nhà trọ, thấy cảnh ngộ nàng khổ sở, cậu thương. Cậu thường nói với hai tên tùy bộc:
- Con bé trông kháu tệ!
Có lần, hai tên tùy bộc đi vắng, nàng đun hộ ấm nước sôi và xách lên chái đông, cậu vồn vã cám ơn và hỏi nho nhỏ đủ nghe:
- Cô em là cháu của ông bà chủ đây?
- Thưa vâng ạ.
- Cô gọi ông bà chủ nhà bằng gì cơ?
- Thưa, là chú thím tôi.
- Cô nay xuân xanh chừng mười tám, mười chín thôi chứ gì?
- Ô, cậu trông lầm đấy, em ngót ba mươi rồi, có con đã nhớn…
Nàng tự biết mình nói láo, nên chỉ nói rồi nhoẻn miệng cười, làm cho cậu Ấm đa tình càng thêm chết mệt. Cậu thở dài, làm bộ thương hoa tiếc ngọc:
- Ai cũng thấy cô làm việc giỏi giang, thế mà bà thím tàn nhẫn, mắng chửi suốt ngày, tôi nghe cũng phải… sốt ruột đau lòng.
Nàng vừa cười tới đó bỗng sầm nét mặt lại, không nói gì, nước mắt chạy quanh, vội vàng bỏ đi ra.
Ngoài ra tấm lòng ao ước thèm muốn, cậu Ấm còn tính hiếu kì muốn dò biết tung tích và tâm sự nàng trước khi định thả mồi bắt cá.
Cậu dặn bảo mưu mô miệng lưỡi cho hai tên tùy bộc để chúng lân la dò hỏi u già và cả bác Khán gái. Việc gì dụng tâm mà chẳng có kết quả.
Thì ra nàng là con gái của một người dòng dõi. Tử tế, buôn bán ở vùng Kim Sơn. Bố đẻ nàng với bác Khán Tèo là anh em chú bác họ nhưng mười mấy năm nay, mỗi người đi lưu lạc sinh nhai một phương, chỉ có người khác đi lại đem tin tức thế thôi chứ hai anh em không gặp nhau. Một buổi sáng kia bác Khán thấy một người gái quê xách khăn gói đến chào vợ chồng bác là chú thím và xưng là con ông nọ ông kia. Thế là chú cháu nhìn nhận nhau, rồi nàng ở lại từ hôm đó đến nay. Chú gạn hỏi cháu mới biết nguyên do là cháu chê chồng mới bỏ nhà đi hay là không chịu lấy người mà ông bố định gả.
Hẳn các ngài đoán biết người cháu gái của bác Khán chẳng phải ai lạ: chính là Trần Thị Lan, cô hàng rượu không chịu lấy ông chánh Kim Sơn.
Phải, chính là nàng.
Đêm hôm đó nàng thao thức suy nghĩ đến cùng đường hết kế, biết không còn cách gì đánh đổ được cái đầu óc tham giàu, sợ thế của cha mình. Chỉ còn một nước gọn nhất, là bỏ nhà đi trốn mặc kệ gia sự ra sao thì ra, mặc kệ tương lai đến đâu thì đến.
Quá nửa đêm nàng lén trỗi dậy, đánh cắp của cha được một quan tiền kẽm, gói ghém vội mấy chiếc áo xống làm một cuộn, quơ lấy cái nón rồi rón rén mở cửa ra đi. Cuối tháng giêng, trời mưa phùn và tối đen như mực mà nàng thấy trước mắt mình như có hào quang nhấp nhánh dẫn đường. Nàng đã đặt bước chân thứ nhất trên con đường giang hồ lưu lạc.
Tảng sáng, vợ bác Phó mới biết và gọi chồng dậy: “Thầy nó ơi! Cái Lan đi mất rồi!”, bác Phó choàng dậy kinh hoảng hồn vía, sau khi xem xét sự thực rồi bác vò đầu giậm cẳng:
- Giời ơi là giời! Cái Lan nó giết tao phen này. Rồi bảo tao ăn nói làm sao với người ta. Thật là nó đắp mo, trát cứt vào mặt thằng bố nó, nó báo hiếu cho bố nó thế đấy, giời đất ơi!
Trong lúc hai vợ chồng bác, mỗi người một ngả, lùng vào các nhà quen ở đầu làng cuối xóm rồi tốc lên đến chợ Kim Sơn tìm tòi dò hỏi những chị em bạn hàng xem ai có biết cái Lan đi đâu thì lúc ấy cái Lan đang nằm trong một chiếc đò dọc xuôi Nam.
Tiếng đồn cái Lan bỏ nhà đi theo giai, ngay trong hôm đó, vang dậy cả vùng.
Bác Phó thân hành đem đồ lễ trả lại tận nhà ông chánh Kim Sơn, thiếu nước sụp xuống lạy ông mà ông chưa thèm nhận cho:
- Anh nhận lễ đám này lại mưu mô gả con cho đám khác, để tôi vào trình quan cho gông cổ anh lại xem…
- Con cắn cỏ lạy ông, quả thật con gái con nó hư, bỏ nhà trốn mất, xin ông làm phúc đánh chữ đại xá đi cho.
Tội nghiệp! Những hôm bác Phó van lạy người ta ở đây và mang tai mang tiếng xấu hổ thì con gái bác đang bị vất vả mắng chửi ở tỉnh Nam mà bác không ngờ.
Sáng sớm hôm sau, Thị Lan – các ngài đã biết con bé cháu nhà quê của bác Khán chính là nàng – xách cái thúng đi lững thững từ phố Năng Tĩnh lên chợ Rồng, như thường lệ mỗi ngày.
Nàng vừa đi vừa suy nghĩ thấm thía. Càng thấm thía càng ấm ức.
Bao nhiêu chuyện đụng chạm quay cuồng ở trong đầu óc nàng nhưng rút lại chỉ quy tụ vào hai việc cốt yếu: ở và đi.
Hai việc, hai dấu hỏi rất lớn.
Tình cảnh nàng thế mà khó khăn. Đã bỏ nhà đến đây nương nhờ chú thím, tuy là họ xa nhưng cũng còn dính dấp rễ má dây mơ hơn là hàng xứ, trong ý nàng chỉ cầu được ở yên thân. Cứ ở yên đây ít lâu, gặp được anh chàng nào xứng lứa bằng đôi, phải duyên phải số thì ta lấy rồi cùng nhau chịu khó làm ăn, sinh cơ lập nghiệp, thế là có thể tạ tội với cha mẹ. Sở nguyện của một cô ả nhà quê mới ra tỉnh lần đầu, chưa có gì là cao kì, xa xôi; đũa mốc đâu dám chòi mâm son, váy đụp trông gì ngồi võng tía, nàng chỉ ước mong ngày kia vớ được anh chồng trẻ trung, hiền lành có nghề nghiệp tử tế để có thể đưa nhau về Kim Sơn nói với bác Phó: “Thưa thầy nhà con đây”, thế cũng đủ rửa tiếng bỏ nhà ra đi.
Nhưng nào phải con người ta muốn gì cũng được. Thế ra quên đứt ông Tạo hóa và bảo người ta không có vận mạng. Thì xem cảnh Thị Lan đấy. Những ước mong yên ổn, mơ màng tương lai mà vớ ngay được một mụ thím cay nghiệt và xấu bụng hết chỗ nói. Cho con bé cháu nhà quê mới ra được một chỗ ở đậu, hai bữa cơm dư mà ra điều tiếc rẻ suốt ngày nỏ miệng chửi mắng trừ, chớ không chịu bắc đồng cân, đồng lạng mà cân giùm công việc vất vả nó làm cho nhà mình còn nặng bằng ba cái mình nuôi nó.
Thím gì mà xử với cháu tệ hơn là đầy tớ. Mới ở chừng nửa tháng hai mươi ngày nàng đã thấy rõ mụ thím là một con yêu tinh, nghiệt phụ. Đang lúc đông khách ở trọ ăn cơm, mình làm tối mắt suốt ngày, mụ còn nỡ lòng xử tệ như vậy, nay mai hết mùa khoa thi, tự nhiên vắng khách ế hàng không biết mụ sẽ tiếc mấy hột cơm bố thí mà dằn vặt mình đến đâu.
Thế tất phải đi.
Nhưng mà đi đâu bây giờ?
Nàng đến tuổi đã biết nghĩ, biết lo. Đi có lẽ là bước chân vào con đường hạnh phúc, mà cũng có lẽ nhảy xuống vực sâu. Sẽ bơ vơ khổ sở, sẽ làm tôi tớ người ta để mà sống, sẽ bán rẻ cả xác thịt không chừng để cho con tì con vị khỏi liệt máy, hay sẽ chết đói chết rét một xó xỉnh nào, như thân con chuột thối nằm trên vỉa đường, người ta hất cẳng đá một cái xuống lỗ cống là xong chuyện. Nhưng cứ phải đi, đi liều vì tình thế không ở được. Cứ đi, nhất nên nhị hư, một sống hai chết, chỉ có thế thôi.
Tới đây, nàng nghĩ nhớ lại câu chuyện chị em hàng gánh nói với nhau hôm cùng đi chợ Kim Sơn về. Nhiều cô con gái quê phẫn chí, bỏ nhà ra đi xuôi Nam ra Phòng, ít lâu trở về thấy nghênh ngang áo the quần lĩnh, nón thao dép cong, thì ra họ đã vớ được chồng là thầy kí thầy thông hay chú khách chủ hiệu. Chuyện ấy như có móng nhọn in vào óc nàng, giờ gặp được lúc nổi bật lên. Nàng ngẫm nghĩ những cái may mắn người ta chẳng có nước da cặp mắt như mình còn có thể gặp được huống chi mình đây chẳng thua kém ai. Ông trời đã ban cho họ lắm sự may mắn, không lẽ nào lại hẹp lượng với mình. Thôi mình đã xuôi Nam gặp bước không tốt rồi, cũng chưa phải là cùng đường bí lối, vẫn còn một cửa mở nữa: ra Phòng.
Nàng vừa đánh xong cái dấu nhất định ấy trong trí thì chân cũng vừa bước đến chợ Rồng.
Tội nghiệp nàng mua chác mớ rau mớ tép cũng phải mặc cả từ đồng kẽm chỉ sợ về nhà bị mụ thím ác nghiệt nghi là ăn bớt.
Tay xách một xâu cá mè, đầu đội cái thúng nặng trĩu, nàng ở trong chợ đi ra được một quãng thì gặp cậu Ấm trọ ở chái đông nhà mình đang từ đằng kia thất tha thất thểu đi lại, chắc cậu ở phố hàng Thao về. Xem bộ tịch mỏi mệt không muốn bước và cặp mắt thức suốt đêm nó đờ ra thì biết. Nhưng khi trông thấy cô bé cháu nhà trọ thì cậu lại tỉnh táo ngay. Sự gặp không ngờ, làm cậu mừng quá, tươi hẳn nét mặt. Cậu kiếm cớ xin một miếng trầu để nàng phải đặt thúng xuống đất và mở gói lấy trầu cho cậu được dịp tán chuyện. Cậu nhoẻn miệng cười, cái thứ cười chớt nhả, ranh mãnh của kẻ tán gái, cười cả mắt lẫn răng:
- Cô mời miếng trầu này để mừng tôi được vào “kì phú” đây.
- Kì phú là thế nào cơ?
Con gái quê mùa có hiểu chuyện thi cử, chữ nghĩa là gì đâu.
- Vào kì phú nghĩa là vào nhị trường, thi làm thơ phú.
- Thế là cậu đỗ ông cử hay ông tú rồi?
- Chưa, còn phải thi hai kì nữa kia, nếu như được lọt nhị trường. May ra tôi còn được trọ nhà ông Khán cả tháng nữa để hàng ngày được giáp mặt hoa đào…
- Không, nhà chú thím em có cây đào nào đâu mà có hoa?
Nàng cãi ra vẻ thật thà, ngớ ngẩn.
- Tôi nói hoa đào tức là định nói cô đó.
Giữa lúc ấy có tiếng còi tàu tu tu ở ngoài bến đưa vào, nàng làm bộ hỏi như không biết:
- Có cướp đánh ở đâu gần đây, cậu nhỉ, mà lại có tiếng tù và họ thổi đó?
- Tiếng còi tàu Phòng lên đấy.
- Thế nó đi bao giờ mà bây giờ đã lên.
- Cô sao thật thà quá. Bao giờ ở bến Nam này cũng có mấy chiếc xuôi, mấy chiếc đến. Ví dụ chiếc Trường Châu xuôi Phòng chiều hôm qua, nay có chiếc Trấn An về.
- Bến tàu chắc vui lắm, cậu nhỉ. Mình đi xem, lính họ có bắt không?
- Việc gì mà bắt.
- Em vẫn ao ước xem tàu chạy một hôm. Tàu Phòng chạy vào giờ nào hở cậu?
- Vào khoảng một giờ chiều.
- Thế thì giờ ấy em đi xem được. Hôm nào cậu đưa em đi xem nhớ.
Cậu ấm thích mê:
- Được. Mai tôi bận vào trường thi, ngày kia tôi dẫn cô đi xem cho biết. Hôm ấy, ta cứ hẹn nhau ra đây rồi cùng đi, nhớ.
- Vâng, chào cậu, bây giờ em vội về nấu cơm kẻo trưa mất rồi.
Cậu ấm tấp tểnh mừng thầm tưởng mình lợi dụng được chị gái quê, chẳng dè chị gái quê đã lợi dụng cậu để dò thăm một tin tức cần biết là giờ tàu Phòng chạy.
Nàng định cao bay xa chạy ngay vì sợ để lâu bại lộ cơ mưu, hay là bác Phó ở Kim Sơn lần mò đến nơi bắt về thì hỏng.
Quả nhiên, ngay sáng sớm hôm sau, nàng thu sẵn gói xống áo để trong chiếc thúng đậy vỉ buồm lên trên, một lát mụ Khán đưa cho đồng bạc hoa xòe sai đi chợ như mọi ngày, nàng vội vã cắp thúng ra đi. Lần này đến đầu phố Khách, nàng không rẽ vào chợ Rồng, đi thẳng tuột xuống bến tàu.
Lẩn lút trong xóm Vị Hoàng đến trưa, nàng vào quán ăn cơm với mấy con tép rang, lại mua một nắm cơm gói theo rồi mới xuống tàu Trường Châu để xuôi Hải Phòng.
Từ lúc này mãi cho đến khi có Bạch Thái Bưởi nổi lên, tàu thủy chạy trên các ngã sông xứ Bắc, trừ ra mấy chiếc tàu của Tây còn thì người khách chuyên lợi. Tàu còn chạy bằng guồng bánh xe ở sau đít. Từng trên từng dưới giải những hàng chiếu dài cho hành khách nằm chen chúc nhau như cá mòi sắp lớp. Lúc nào chiếc tàu cũng nghiêng, cũng trành, người đi không quen tất phải xanh mặt, chỉ sợ lật đổ. Thế mà tối đến, một chú tài công hay chú mại bản còn dồn khách lấy một chỗ rộng độ vài chiếc chiếu để bày xóc đĩa hay phán thán bóc lột bà con mình. Đàn bà con gái thường bị nạn chòng ghẹo, lần mò, nghịch ngợm. Họ thừa đêm tối, rờ rẫm, cấu véo các cô phải kêu lên oai oái. Bọn vô lại ấy xảo quyệt, làm bộ chọc ghẹo mấy bà già, để mấy bà phát giận, phải nói:
- Mấy bác đùa nghịch các cô còn xuân kia kìa, chứ đùa nghịch bà già là nghĩa lí gì?
Thế rồi chúng xoay lại nghịch ngợm các cô, các cô nào chua ngoa cự lại thì chúng được điều nói:
- Các cụ vừa mới truyền lệnh, cô không nghe thấy sao?
Trong khi mũi tàu và sau lái có những tấn kịch khả ố như thế thì ở giữa tàu rền những tiếng kêu của bốn đồng tiền và bán chẵn bán lẻ làm cho nhiều bà con ta máu mê cờ bạc, phải trút túi cạn lưng rồi bán mẹ cả ô và khăn gói, tay nải đi. Tàu thủy bốn chục năm trước thật không có trật tự chút nào, nhũng nhiễu đủ thứ, kẻ cắp cũng nhanh như chớp.
Thị Lan một thân, một mình, vừa nhát sợ, vừa lo ngại, đâu có dám nằm, cả đêm nàng phải ngồi xổm, khoác chiếc nón sau lưng, dựng đứng chiếc thúng bên mình để giữ lấy gói áo, rồi khoanh tay gục đầu trên vành thúng, khi chợp khi tỉnh. Chốc chốc nghe có bàn tay nào mò vào trước ngực, nàng lại giật mình ngẩng mặt lên:
- Cái tay bác khỉ gió này làm cái gì thế?
Không biết bàn tay ấy chỉ tinh nghịch, hay định móc lấy đồng bạc hoa xòe của cô gái quê. Có khi cả hai mục đích cũng nên. Tự đấy, Thị Lan không dám chợp mắt nữa. Nàng mở cơm nắm ra bẻ ăn và tán chuyện mưa nắng với mấy bà cụ ngồi gần để thức đến sáng. Phần tủi thân phận, phần lo sợ tương lai mịt mù, nàng ngồi khóc âm thầm, rấm rứt. Ai bảo bỏ nhà trốn đi? Thế mà chánh tổng muốn rước về ở ngôi bà kế, tha hồ sung sướng lại còn làm bộ làm cao không lấy? Có lẽ trời bắt đắng cay vất vả như thế để phạt cái thói lên mặt đỏng đảnh kia chăng? Hay là con người có số nay mai giàu có tiếng tăm tất phải trước hết đi qua cái cầu phong trần luân lạc như thế mới được chăng?
Lúc bước chân từ dưới tàu lên bến Hải Phòng, cô ả càng ngơ ngẩn lo âu, tự hỏi không biết mình đến đây làm gì và tìm con đường sống ở đâu bây giờ?
Chúng ta nên biết nguyên xưa Hải Phòng tiếng là một trấn vua ta đặt ra để trông coi việc phòng bị giao thông ngoài bể, nhưng chỉ có danh nghĩa thế thôi. Toàn cảnh chẳng qua chỉ gồm có một dinh thự cỏn con cho viên trấn hải sứ, một vài xóm nhà lá, một vài vạn chài, đại khái cũng như cửa Hàn trong kia trước lúc có thủy sư đề đốc Rigault de Genouilly tới, chứ không phải đã có châu thành và thương cảng gì hết. Sau việc Hà Nội thất thủ lần đầu năm 1873, triều đình cắt nhường khu đất Hải Phòng cho nước Pháp làm thương phụ. Người Pháp ra tay mở mang ngay: mở đường sá, cất phố buôn bán, đặt tòa lãnh sự để giao thiệp với quan ta, dọn đến cho tàu thuyền ra vào. Ấy là viên đá thứ nhất của thương cảng Hải Phòng. Đến khi cả xứ Bắc hoàn toàn thuộc quyền bảo hộ thì Hải Phòng đã có cái cơ sở, cái quang cảnh một thành phố tân thời sớm hơn được mươi năm rồi. Công cuộc kinh doanh tạo lập cho nên một thương cảng to và mới, những cánh tay khoa học mỗi ngày làm mãi, mở mãi không lúc nào ngừng.
Hôm cô gái quê họ Trần ở dưới tàu Nam bước ngớ ngẩn lên bờ, Hải Phòng đã bày ra quang cảnh một thành phố mới mẻ, đông đúc, thịnh vượng. Phố tây, phố khách đã có, đường cầu Đất đã vui, bến tàu Sáu Kho đã mở; châu thành giống như con tằm ăn lá dâu, đang vùng to lan rộng ra tứ phía. Dân các tỉnh dồn nhau và kéo xuống buôn bán tìm việc hồ khẩu, tụ tập rất đông. Trước những cảnh tượng to tát mới mẻ ấy, Thị Lan ta bỡ ngỡ lo âu cũng phải. Vì Hải Phòng hoàn toàn mới, đẹp, nàng thấy lạ hẳn mắt mình, không như tỉnh Nam còn pha vẻ mới vào những nếp cũ vết xưa dính lại.
Nhưng gái quê mặc kệ, đã bị số phận ném lên trên đường bơ vơ lưu lạc, tấm lòng muốn sống của họ bắt họ phải trở nên khôn ngoan, bạo dạn, có khi đâm liều. Bởi vậy, Thị Lan chỉ bàng hoàng lúc vừa đặt chân lên đất mới thôi, một lát nàng định thần lại, tắc lưỡi một cái rồi mạnh bạo cất bước đi rất tự nhiên. Cái tắc lưỡi ấy có thể diễn nghĩa ra thế này:
- Trăm sự phó mặc ông giời! Mình đã liều đem thân xô đẩy đến chốn này thì cứ nhắm mắt đưa chân tìm lấy đường sống. Giời sinh giời dưỡng, việc quái gì mà sợ. Ta cứ việc đi, đi tìm lấy việc làm mà sống; nhất là được chỗ may thuê vá mướn, không thì đi ở gánh nước nấu ăn cho người ta; hay có số kiếp vất vả lắm thì đến vào nhà thổ chứa là cùng chứ gì?
Đồng bạc đổi ra lấy vé và tiêu pha, giầu cau lặt vặt dưới tàu, còn lại mấy hào, nàng vào một quán cơm che liếp ở ngay đầu bến, cốt mượn cớ ăn cơm để hỏi thăm mụ chủ quán ít nhiều đường đi nước bước cần dùng cho mình.
Sau khi đã ních một bụng cơm cho cứng hai bắp vế rồi, cô gái quê ta đội nón cắp thúng, mạnh mẽ, ung dung đi lên trên phố.
Nàng đi tìm việc làm.
Hình như nàng muốn việc làm ở nhà nào giàu có thì hơn, cho nên đi qua cửa hàng cửa hiệu nào trông vẻ hơi khá nàng cũng đứng tần ngần một lát rồi vào hỏi:
- Thưa ông bà có công việc gì cho cháu làm.
Nhà nào cũng lắc đầu. Có bà chủ hiệu thấy cô ả quê kệch ra ý khinh khi, hất hủi đến nỗi nàng chưa nói hết câu xin bà đã gạt ngay:
- Ai thừa cơm mà nuôi thứ mày.
Suốt cả buổi sáng đi mất công mỏi cẳng, nàng đã hơi nản, tìm một bóng cây ngồi phệt xuống nghỉ ngơi. Một con mẹ lân la đến hỏi chuyện, nàng nghi là quân mẹ mìn dỗ người đem bán, nên chỉ ậm à vài câu rồi xách nón đứng dậy đi nữa.
Lang thang mãi đến chiều, sang mạn cầu Đất, thấy một cửa hàng bán rượu khá to, nàng đứng lại dòm xem lâu lắm. Chạnh nhớ cái nghề nấu rượu, bán rượu vốn là nghề quen của mình, có lẽ vào xin việc ở nhà này may được, nàng đánh bạo bước vào.
Bà chủ hiệu đã già, nét mặt rắn rỏi, đanh đá, nghe nàng hỏi xin việc, bà nhìn kĩ từ đầu xuống chân rồi hỏi một cách nhẹ nhõm:
- Quê quán chị ở đâu?
- Thưa cụ, cháu người tỉnh Nam ạ.
- Mới ra Phòng lần này là một?
- Vâng.
- Thế là chị ở nhà quê mới ra biết quái gì công việc tỉnh thành mà đòi làm.
- Thưa cụ, thầy cháu ở nhà quê chuyên nghề nấu rượu cho nên cháu quen nghề này lắm.
- Thế à?
Bà cụ tươi cười ngay vì đang cần một người biết xem rượu tốt xấu và bán hàng phụ mình, kẻo nhiều lúc đông khách quá bà bận tíu tít.
- Mà chị định xin tiền công mỗi tháng bao nhiêu?
- Tùy lòng tốt của cụ, cháu không dám nề hà, để cháu vào làm ít ngày, cụ xét việc định công, sao cho khỏi thiệt thòi cháu thì thôi.
- Quý hóa nhỉ! Thôi, vào trong nhà cất thúng mủng đi.
Thế là nàng đã có việc làm.
Cũng trong một giờ nàng xin được việc làm ở Phòng thì bác phó ở Kim Sơn ra Nam đến nhà Khán Tèo ở Năng Tĩnh hớt hơ hớt hải:
- Cái Lan nhà tôi có ra đây ở với chú thím không?
Vợ Khán Tèo như có chuyện tức giận sẵn, giờ nghe hỏi càng sưng mặt lên:
- Có! Nó ra đây ở mười mấy ngày, sáng hôm qua nó lấy đồng bạc tiền chợ của tôi trốn đi theo thằng cu li, cu leo nào mất rồi không biết. Đồ con gái hư.
Bác Phó bận lo thu xếp việc nhà mãi, ra Nam chậm trễ vài ngày, thành ra con đã đi đàng con, không được gặp mặt.
Bà chủ hiệu Phát Lộc nhận cho Thị Lan vào làm ngay là một việc cả hai người cùng có lợi.
Lan được lợi hiện tại.
Bà trông lợi tương lai.
Phần nhiều gái quê nhất sơ lên tỉnh, không ai thân thích, không chỗ dựa nương mà không tìm ra chỗ ở việc làm ngay, thế tất phải bơ vơ đầu đường, xó chợ rồi bị quân đàng điếm lợi dụng hay bọn mẹ mìn thổ chứa cám dỗ là sự thường thấy. Lan mới ra Phòng từ sáng đến chiều đã có việc làm chỗ ở ngay thế là có phúc hơn nhiều chị em lắm đấy.
Nhưng bà chủ hiệu chí tâm làm phúc cho người thì ít, vụ lợi cho mình thì nhiều.
Bà nguyên là một thím tài về già được nghỉ, cũng như người đi làm việc đến tuổi hưu trí vậy. Không biết rõ quê quán và gốc tích của thím ra thế nào. Người ta đồ chừng thuở mười lăm, mười tám bà trôi dạt đến miền này còn là một xóm vạn chài biệt tịch hoang vu, hình như bà cao số lắm, thay đổi năm sáu đời chồng mà đời nào cũng là một chú khách đuôi chuột. Có lúc trong vòng một năm, hai lần bà giới thiệu ông chồng cho bà con hàng xóm biết:
- Chú tài nhà tôi đây.
Người ta nhận ra mỗi lần giới thiệu lại là một chú khách khác lạ hẳn. Thì ra bà đã thay đổi chú tài nhanh chóng như ta thay áo, dễ thường chú nọ xuống thuyền chưa về đến Đông Hưng hay là hòn đất đậy mồ chưa ráo thì bà đã nên chồng nên vợ với một “sếnh sáng” khác rồi. Chẳng ai được biết chồng bà làm nghề nghiệp gì, chỉ thấy bà giới thiệu chồng là chú tài thì người ta gọi bà là thím tài và xem ý bà thích cái vinh hiệu ấy lắm.
Tuy vậy bà hiếm hoi về đường tử tức, mỗi đời chồng kết thúc là một sợi dây đứt hẳn không lưu lại một chút kỉ niệm gì về huyết nhục hay tinh thần. Chỉ có điều khác là bây giờ bà đã có một tòa nhà gạch hai từng ở đầu phố Cầu Đất, dọn cửa hàng bán rượu và các thứ tạp hóa, ấy là cơ nghiệp của đời chồng thứ sáu để lại cho khi phải cuốn gói vĩnh biệt đất nước “Ố nàm” vì anh ta bị nghi là một tên dư đảng của giặc Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc.
Trừ ra chiếc nhà gạch, lưng vốn bà cũng có dăm sáu nghìn quan tiền. Cái thời đại 18 đồng tiền kẽm một bát chiết yêu cơm đầy lên có ngọn, số vốn của bà được vậy đã kể vào hạng giàu, cũng như đời nay có bạc vạn. Thiếu gì chú tài khác trông thấy mà thèm muốn ra tay đào mỏ nhưng bà không dại, bà vẫn tự khoe một tay mình mấy chục năm khoét tiền của khách, giờ họ định khoét lại thì bà không chơi.
Vả lại, lúc này bà đã 59 tuổi đầu rồi, không còn xuân sắc gì mà đa mang chồng con cho thêm bận. Thím tài đến lúc hưu trí rồi: “Thương thì tiền của đưa đây, lấy chồng thì gái già này xin van”, thím tài bây giờ chỉ lo hốt của làm giàu. Trong đời thường có nhiều người lạ lùng như thế: họ không có con cái, tự phụng một cách rất kham khổ mà bo bo giữ từng đồng kẽm, chắt bóp từng đồng xu định hót của làm giàu để lại cho ai không biết?
Nhờ bao nhiêu năm lấy khách bà thạo cả đường lối buôn bán của họ. Vì thế mà bà mở cửa hàng rượu, đặt tiền trước cho dân quê nấu rượu rồi đem ra đong hết cho bà, bà bán lại cho khách thành ra những kẻ có nồi nấu mất công mà lãi ít, còn bà chỉ đưa đẩy nước bọt thì được lãi nhiều.
Ngoài ra những hũ rượu, thím tài – từ sau ta nên dùng tiếng xưng hô này đúng hơn – còn buôn một món hàng khác, kiếm một mối lợi khác nữa: buôn người.
Ta nên biết thím tài buôn người là một công phu trau chuốt, hầu như là một nghệ thuật khó khăn, người nào khác tay thím chưa chắc muốn làm mà đã làm nổi. Thím vẫn tự phụ rằng mình từng “đi guốc” vào trong tâm lí của các ông khách vì đã lâu năm cùng họ đầu gối tay ấp. Có những hạng chủ hiệu giàu đẫy, béo quay, dù trong nhà mấy thiếp, mấy phòng ra ngoài cũng vẫn còn thèm của lạ, hay mấy chú mại bản, tài phú quen thói bốc rời, vớ được miếng mồi đồng trinh, xử nữ là của hiếm hoi, dầu một vài trăm quan tiền họ cũng không ngại tốn kém. Nhất là phần nhiều họ có mê tín rằng nước trước bẻ hoa là một sự may mắn sẽ giúp cho họ buôn bán phát tài, cờ bạc cũng được. Vì thế mà họ dám trả sự may mắn ấy với một giá đắt. Còn một hạng chủ tâm sinh cơ lập nghiệp ở đây lâu dài muốn lấy con gái bản xứ làm nội trợ để giúp việc trông nom tiện đường giao thiệp hoặc để gá tiếng mượn tên trong việc buôn bán cho được tiện lợi dễ dàng hơn. Hạng này thường tinh khôn kén chọn mấy cô nào có căn cơ bề thế để họ tin cậy phú thác mai sau chứ không phải bạ ai cũng vớ, xong việc thì thôi.
Đón biết tâm lí và sự nhu yếu của họ như thế cho nên thím tài dụng công tìm kiếm gái quê để nuôi nấng trau chuốt rồi gả cho khách lấy lãi. Thím làm việc nuôi người thế này, cũng chịu khó như những kẻ đi mua gà con, lợn giống về nuôi, ban đầu vốn liếng bạc đồng bạc hào, chỉ mất công chăn nuôi trong ít tháng là có thể đem bán được bạc trăm, bạc chục.
Ai hiểu công khó của kẻ nuôi gà con, lợn giống sẽ hiểu công khó của thím tài nuôi người.
Những người ở thôn quê xa gần thường đem sản vật ra cửa hiệu thím bán, thím ân cần nhắn bảo họ về làng xem có con gái nhà nào nghèo khó mà sạch sẽ – phải biết nghĩa hai tiếng sạch sẽ là có chút nhan sắc, thì đưa chúng nó ra làm việc với thím, thím nuôi nấng cho, may mặc cho, dạy bảo buôn bán cho rồi sau gả chồng lập nghiệp cho cũng nên. Không thiếu gì nhà có con chỉ cầu ước như thế.
Quả nhiên thím khéo tùy theo vẻ người và óc khôn của mỗi chị gái quê mà biến hóa trở nên một cô gái tỉnh vào giai cấp nào, giá trị nào. Trước hết, thím cho chải chuốt ăn mặc rồi dạy bảo cặn kẽ từ những cách đứng, cách đi, cách gói, cách mở và ít nhiều tiếng khách cần dùng để giao thiệp đối đáp. Bấy giờ mới cho ra ngồi phất phới ở cửa hàng hoặc cho đem hàng hóa đến giao các hiệu khách. Từ lúc tô lục, chuốt hồng cho đến lúc xuất đầu lộ diện được, các cô gái quê đổi sắc tướng bao nhiêu tức là thím tài đã tốn công phu bấy nhiêu. Ngộ nhất là cô nào đối với thím, không cháu gọi bằng dì thì cũng em gọi bằng chị, toàn người thân thích ruột già, nào phải ai đâu xa lạ. Một ít danh hiệu xưng hô ấy có ý nghĩa quan hệ khôn ngoan của nó, không phải thường đâu!
Lúc này, một xếnh xáng nào để vào mắt xanh một cô em hay cô cháu của bà chủ hàng rượu ở đầu phố cầu Đất mà muốn cưới xin tự nhiên phải tốn cho thím tài năm bảy chục nén bạc hay một hai nghìn quan tiền đen cũng có. Họ tin ở thím là người đã từng làm vợ khách và họ yên trí rằng em, cháu của thím bao giờ cũng căn cơ bề thế hơn.
Thành ra các cô nào đã qua tay tạo hóa của thím cũng được nên duyên hay đắt mối, phi cách nọ thời cách kia, món nào khá thì thím gả chồng, món nào tầm thường thì thím “bán lẽ”. Người ta nói trong khoảng mười năm, thím phát tài về cuộc buôn này cũng nhiều mà những cô nhờ tay thím gả bán được làm vợ khách vào hạng khá cũng không ít.
Cô em, cô cháu thứ mấy chục của thím không biết vừa mới vu quy với một chú mại bản được mấy hôm, trong nhà đang vắng vẻ chưa có người kế chân thì vừa có Thị Lan ở đâu tới xin vào làm việc, thím tài nhận lời ngay.
Thím liếc cặp mắt tinh ranh nhìn cô ả gái quê từ đầu đến chân thấy mặt mũi tươi tắn có duyên lại ra vẻ người lanh lẹ, chắc không mất công tô điểm bao nhiêu sẽ thành ra một vật có giá trị cho nên thím đón ngay lấy không ngần ngừ chút nào. Nhất là cô gái quê này sẽ được việc cho thím cả hai phương diện: vừa biết nghề nấu rượu vừa có ít nhiều nhan sắc.
Nhập gia chưa đầy một tháng, cô gái quê đã thay hình biến tướng.
Con người đã có trí sáng, lại như có vận thời sắp đến giúp thêm vào, sự thay đổi nào có mấy chốc.
Bây giờ Thị Lan nghiễm nhiên là một cô thiếu nữ tỉnh thành luôn luôn quần lĩnh áo the, ra giày vào dép, cái lốt gái quê hôm nào đã trút đi mất rồi. Ban đầu nàng tưởng mình được vào ở nhà này già con hầu, non đầy tớ, không dè bà chủ lại cho ăn mặc tử tế sang trọng và đãi như con cháu: sự đó hẳn ở ngoài hi vọng và trí tưởng tượng của nàng. Hình như nàng cảm động mỗi khi nghe ai hỏi về nàng, thì bà chủ cũng nhận là cháu:
- Ấy nó là cháu gọi tôi bằng cô ruột. Vì cửa hàng, cửa hiệu lúc này bận lắm tôi phải nhắn cậu nó cho cháu ra ngoài này trông nom giùm tôi ít lâu.
Sự thật, lâu ngày ở với nhau thành ra tâm đầu ý hiệp, tính nết nàng thùy mị đáng yêu lại được cử chỉ nhanh nhảu và có trí sáng bảo một biết mười khiến cho thím tài phải vì nể, chiều chuộng. Trước chỉ đóng vai tuồng cháu vờ, sau hóa ra thật như con ruột. Thím tài càng cố trang điểm cho nàng đến nỗi tháo cả hoa hột của mình ra cho mà diện những khi sai đi ra ngoài có việc. Ví dụ lúc này bác phó Thành Thị có gặp con, không chừng chắp tay vái chào sát đất, coi con nghĩ là một tiểu thư nào, đố dám nhận là cái Lan.
Nhưng bù lại cư xử tử tế của thím tài, Lan tỏ ra mình cần dùng đắc lực và đỡ đần thím được nhiều trong công việc buôn bán. Nào là đi thu tiền chỗ này, đòi nợ chỗ kia, nào là cầm sổ đến các hiệu khách giao hàng hay lấy hàng, mỗi ngày năm bảy bận. Những lúc ngồi nhà trông hàng, cô ả lại chào mời khách khứa với giọng nói ân cần khôn khéo và nét mặt tươi cười. Thím tài phải khen nàng có khiếu buôn bán đảm đang.
Trên kia đã nói thím tài chuyên nghề cất rượu của dân quê để bán lại cho khách vận tải về bên Tàu. Có lẽ tại bên Tàu nhiều miền ít cấy lúa nếp mà rượu nếp ta ngày xưa nấu rất ngon cho nên dân quê nấu bao nhiêu đem bán cho khách cũng hết. Họ xuất cảng về miền nam xứ họ một phần còn một phần thì lại bán lại cho bà con mình, đựng trong hũ sành ngoài dán tờ giấy đỏ gọi là rượu Nhu Mễ.
Lúc dân quê gánh rượu ra bán cho hiệu thím tài thì Thị Lan làm việc một nhà hóa học kĩ sư và đóng vai một nhà giám định. Con nhà nghề nghiệp thuở nay có khác, nàng không cần gì phải nếm, chỉ ngửi qua mùi rượu xem nhạt hay nồng và trông qua nước rượu trong đục là phân biệt tốt xấu ngay. Từ khi có nàng thím tài không mua lầm phải những thứ rượu có pha lẫn nước lã như trước.
Chừng nào cất rượu được nhiều thì cũng tay nàng đem giao cho các hiệu khách. Nhờ giao thiệp lui tới thường ngày, nàng học được ít nhiều tiếng khách cần dùng trong việc giao dịch. Lạ hơn nữa, nàng đổi hẳn tính khí nhút nhát ngày xưa mà trở nên mạnh bạo, từ lời nói cho đến cử chỉ. Nhiều chú khách thấy nàng hồng hào, chắc nịch trong ý thòm thèm nhỏ rãi. Nhưng chú nào chòng ghẹo nói năng hơi sỗ sàng thường bị nàng nắm kéo đuôi sam giật ngược lại cho mất cựa hay nàng cướp lấy chiếc quạt Tàu của chú đang phe phẩy trong tay:
- Từ rày nị đã chừa chưa?
- Thôi, ngộ sợ cô hai rồi lớ.
Vì nàng đã bạo mà lại khỏe hơn.
Tấn kịch khôi hài ấy làm ngơ ngác lũ trẻ đứng núp xem ở ngoài cửa hiệu. Các bạn nên nhớ lúc bấy giờ Trung Quốc còn ở dưới triều Mãn Thanh, người Tàu mặc áo dài, kết bím và đội thứ mũ có núm ở trên đỉnh đầu, trong tay luôn luôn cầm chiếc quạt tàu vừa đi vừa phe phẩy. Thuở xưa, lũ trẻ mình thấy bóng người khách là sợ run rủ nhau chạy mất. Cái cảnh tượng của cô con gái mình dám kéo đuôi sam chú khách như thế bắt mấy đứa trẻ đứng xem phải lấy làm lạ.
Nàng ở với thím tài thế mà thấm thoát đã được ba năm. Càng ngày thím càng tin cẩn thương yêu, định bụng tìm kiếm cho nàng một đám chồng khách nào rõ giàu, để nàng nhờ cậy chung thân và thím gỡ lấy một món tiền đền công mấy năm dưỡng dục luôn thể.
Tuy có mấy đám mối manh dạm hỏi nhưng đều không xong: hoặc nàng không ưng, hoặc thím không chịu.
Có đám là một chú tài cậy trẻ tuổi nhưng mang phải tội nghèo, thím không chịu gả. Thím kị nhất là cái nghèo vì chú rể khách nghèo thì bảo thím cậy gỡ vào đâu. Còn một đám là chủ hiệu giàu có nhưng mặt như lợn ỷ, bụng phệ bằng chiếc thúng cái, mỗi bữa ăn hơn một cân thịt, đám này thì Lan chê là Đổng Trác tái thế và không ưng. Nàng nói đùa với thím:
- Lấy nó để mùa hè rực lên những mỡ là mỡ, ai mà chịu được.
Sau lại có một đám được cả hai người cùng hợp ý, hoan nghênh chỉ sợ sểnh tay rơi mất: ấy là chú khách Hồng, chủ hiệu Bình An.
Chú này vốn là một bạn hàng quen của thím tài vì hiệu Bình An cũng chuyên mua rượu An Nam chở về Tàu. Thường ngày, nàng hay lui tới giao hàng đã quen người nhẵn mặt. Năm ấy chú Hồng mới độ ba mươi tuổi chưa có vợ con gì, một mình chủ trương cửa hiệu của ông bố để lại cho kể đáng bạc vạn. Với đám này, thím tài mới chắc kiếm được món “lì xì” khá bở.
Thím khéo mối lái tán tỉnh thế nào không biết, chỉ cách sau mươi ngày hàng phố bỗng thấy nhà thím có đám cưới linh đình.
Thị Lan, hai mươi ba tuổi, trở nên thím Hồng tức là bà chủ hiệu Bình An.
Cuộc nhân duyên này, theo như thiên hạ đồn, thím tài đã ăn không năm sáu chục nén bạc của khách Hồng. Vì thím này vẽ ra nào là tiền cheo cưới ở nhà quê nặng và phải đãi đằng bà con họ hàng đông.
Thế là Lan đã có chồng mà thím tài đã vớ được một mẻ buôn người phát tài vậy.
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com
