Cô Tư Hồng, ảnh tư liệu
Chân Dung Kẻ Sĩ: Năm 1926, Đào Trinh Nhất (quê Thái Bình) được tuyển chọn sang theo học tại Khoa Báo chí, Trường Đại học Sorbonne (Pháp) và trở thành người Việt Nam đầu tiên có bằng cử nhân báo chí.
Yêu nước giống như cha mình, nhà chí sĩ Đào Nguyên Phổ, một trong những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục, Đào Trinh Nhất mặc dù được Pháp đào tạo nhưng vẫn hướng về dân tộc bằng các tác phẩm của mình. Trước bộ máy kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân Pháp, ông đã khéo léo ca ngợi các chí sĩ yêu nước như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu và các tấm gương yêu nước khác, nhằm thức tỉnh và cổ súy lòng yêu nước của nhân dân. Tuy vậy, thực dân Pháp, đương nhiên vẫn nhận ra và đã khẩn cấp trục xuất và giải ông về Bắc vào giữa năm 1939.
Dưới ngòi bút của Đào Trinh Nhất, tác phẩm Cô Tư Hồng, nói về một nhân vật có thật, một đối tượng đả kích trong bài hát Chầu văn đương thời “Đĩ Cầu Nôm” của cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, một nữ lưu từng khuynh đảo đất Bắc với những di tích vẫn còn cho đến ngày nay xung quanh Hồ Gươm, người đã phá thành Hà Nội… đã khiến các độc giả của Trung Bắc Chủ Nhật xưa kia nô nức đón đọc hàng tuần.
Hóa An Nam, lứ khách trú
Giữa phố khách buổi sáng hôm đó, trước cửa một hiệu buôn bán đồ ăn đồ hộp tây, thấy tấp nập đến mười lăm hai chục người lao động với những xe bò và xe cút kít để một hàng dài, dựa theo vỉa hè. Người nào, trong tay cũng cầm một cuộn dây thừng thò đầu chõ miệng vào trong cửa hiệu cùng nói lố nhố một lúc nghe như cùng xin một việc:
- Hôm nay có hàng xin ông chủ cho tôi chở mấy chuyến để kiếm mẻ gạo về cho cháu.
- Có tàu Tây sang rồi, xì thẩu cho anh em tôi lĩnh bốc hàng lên nhà.
Bên trong có tiếng nói ra dõng dạc:
- Kiện to hai hào, kiện nhỏ một hào, có chịu giá ấy thì hai giờ chiều lại đây lĩnh vé ra kho mà chở. Buổi chiều mới được bốc hàng lên.
Trong lúc ấy, ông chủ hiệu và bà chủ hiệu ngồi đối diện nhau ở phía sau quầy đang mải nói chuyện tiền bạc buôn bán.
- À quên! Hôm kia hóa đã bỏ thầu được hai vạn năm nghìn cái chổi cho nhà binh dùng. Chiều nay hóa phải ra kho trông coi bọn cu li bốc hàng bên Tây mới sang, còn lứ thì chịu khó đi đặt người ta làm chổi đi chớ.
- Kì hạn bao lâu mới phải nộp?
- Ba tháng.
- Thế thì biết có làm kịp không?
- Phải đặt nhiều nhà cho họ làm kịp thầu đồ của nhà nước, nếu trễ thì bị phạt, lần sau người ta không cho mình thầu nữa.
- Lứ bỏ thầu mấy hào một chiếc?
- Tính ra hơn một hào tư.
- Sao rẻ thế hử?
- Thế mà rẻ à! Mình đặt họ làm, cả chổi với cây nứa làm cán, thượng số hơn hai đồng xu, mình lãi hào mấy, còn gì!
- Người ta mua chổi làm gì nhiều thế nhỉ?
- Để phân phát cho các trại binh, đồn lính dùng để quét tước chứ làm gì.
- Thế còn món thầu mấy nghìn tạ gạo cho nhà thương, bao giờ mới cần giao nạp để hóa còn lo liệu trước mới kịp.
- Việc ấy thì chưa gấp mấy. Đợi mùa gặt hái này xong rồi dân quê cần bán thóc lúa để nộp sưu thuế, lúc bấy giờ hóa sẽ bảo cách thức cho lứ đi mấy vùng Sặt, Cẩm Giàng, Thanh Miện mà cân sẽ được giá hời. Mình làm nghề bao thầu này phải biết xem thời, chờ dịp, mua rẻ bán đắt thì mới có lãi nhiều.
Tới đây có một bà lão xách chai vào mua rượu đủ số rồi bà lão còn vật nài đắt rẻ đòi thêm cho được nửa giuộc mới chịu đi cho. Ông chủ hiệu như có ý bực mình, nói lầm rầm trong miệng:
- Ố Nàm dằn mại quán xồi mậu thếm.
Câu này tiếng Quảng Đông, nói là: người An Nam chỉ có đi mua quan tài là mới không đòi thêm, còn mua thứ gì cũng nài thêm cho được một tí mới nghe.
Bà chủ hiệu nghe hiểu vỗ nhẹ trên vai ông chồng ra cách yêu dấu, vừa cười vừa nói:
- Xì thẩu (ông chủ) vừa nói vụng gì An Nam chúng tôi đấy. Này tôi bảo: vị thần phải nể cây đa mới được chứ.
Rồi cả hai vợ chồng cùng cười.
Hiệu khách này chính là hiệu Bình An ở Hải Phòng. Ông chủ, bà chủ cũng không phải ai đâu xa lạ: chính là chú Hồng với Thị Lan.
Hai người kết hôn thấm thoát đã được vài năm. Con cái tuy chưa có mống nào nhưng tiền bạc thì đẻ thêm ra mãi. Cửa hàng, cửa hiệu ngày càng phát đạt; công việc bao thầu mua bán ngày càng lời lãi. Thím Hồng bây giờ nghiễm nhiên là một bà chủ hiệu to, bạc trăm bạc nghìn đi qua mười đầu ngón tay là sự thường, không còn phải là cái Lan nhặt từng đồng kẽm lúc trước nữa.
Cuộc nhân duyên với chú Hồng có ảnh hưởng quan hệ đến thân thế tương lai của Thị Lan một cách đặc biệt.
Chú Khách này chẳng những cho nàng một cái tên mà sau này vua biết mặt, đời biết danh, cha được mở mày, em được nhờ của, ta có thể nói ngay như thế này, hẳn cũng không sai sự thật: trong mươi lăm năm nữa, nàng trở nên một người giỏi buôn giỏi bán, làm giàu làm có là nhờ khách Hồng khai quang điểm nhỡn cho từ hôm nay vậy.
Lấy chú Hồng, chẳng phải Thị Lan bước một bước từ cô gái quê nghèo khổ lên ngay địa vị một thím khách phong lưu hay một bà chủ hiệu mà thôi vì sự ấy cũng thường, có nhiều người khác từng gặp. Người ta vẫn nói đàn bà có thể làm quan tắt, làm giàu tắt, chẳng có lạ gì. Duy có chỗ khác người ta là Thị Lan đã bước chân vào đầu mỗi con đường nó đưa một cô ả nhà quê đi lần tới những thủ đoạn kinh doanh vừa khôn ngoan vừa quỷ quyệt đến nỗi: “Tay trắng làm nên cơ nghiệp lớn, má hồng trang điểm phấn son vua”, có lẽ có một không hai ở trong lịch sử phụ nữ cận đại xứ ta.
Chỗ hay dở thế nào khoan nói, nhưng sự thật thì quả như thế.
Có người nói chơi câu này, ngẫm lại mà đúng:
- Từ khi xứ ta bước vào kỉ nguyên mới, nếu bảo có cuộc phụ nữ hô hào những là kinh tế tự chủ với nữ tử chức nghiệp thì ta phải công bằng mà nhận cho Thị Lan là viên tướng tiên phong, là nhà thực hành “nữ tử kinh tế, chức nghiệp tự chủ” trước nhất ở đây.
Thật chú khách Hồng là tạo hóa của cô Tư Hồng mai sau.
Nghe hai vợ chồng nọ nói chuyện buôn bán với nhau lúc nãy, các bạn hẳn đã đoán biết khách Hồng là người Phúc Kiến do ở hai tiếng xưng hô hóa, lứ. Tiếng thông tục của người Phúc Kiến và Triều Châu xưng mình là hóa gọi người là lứ cũng như nị, ngộ của tiếng Quảng Đông vậy.
Không biết khách Hồng có phải lai căng hay là đẻ bên ta và học bao giờ mà tiếng An Nam nói rất thông thạo, liến thoắng, cả đến tục ngữ phong dao và những tiếng láu tôm láu cá, chú ta cũng rành. Hèn nào bà vợ dọn những món ăn bản xứ trăm phần trăm như giả cầy, riêu cua hay lòng lợn mắm tôm, chú cũng xơi được tuốt.
Tuy khách Phúc Kiến nhưng chú Hồng thạo cả tiếng Quảng Đông, tiếng Quan Thoại và biết nhiều ít tiếng Pháp cần dùng những lúc giao thiệp bao thầu buôn bán. Nhất là nghề buôn bán các thực phẩm tây phương, người Phúc Kiến sở trường hơn hết gần như độc quyền ở xứ ta, cho đến bây giờ cũng thế, các người đi suốt bắc nam, thấy những hiệu nào gọi là Épicerie hay Alimentation thì hiệu ấy của khách Phúc Kiến.
Thân phụ chú Hồng lập ra hiệu Bình An từ lúc Hải Phòng mới xây nền, đắp móng sau truyền lại cho con, lưng vốn có vạn bạc và bạn hàng rất đông. Ban đầu mỗi việc bao thầu lĩnh trưng gì người Pháp giao hết cho khách đứng làm trung gian vì An Nam ta chưa có ai biết việc làm mối lợi ấy. Thành ra một tay khách Hồng, chủ hiệu Bình An, kinh doanh trục lợi nhiều món: nào là nhập cảng những rượu tây và đồ ăn đồ hộp để bán cho bạn hàng tây, nào là xuất cảng rượu ta và nhiều thổ sản khác về bên Tàu; lại còn bao thầu mua bán cho nhà binh và nhà nước nữa.
Từ ngày có thím Hồng về trông nom giúp đỡ, chú Hồng như chim đủ lông cánh, rết mọc thêm chân, chú càng dễ bay nhảy trong thương trường vì bên mình không có cái gì lo nội cố. Thím Hồng lại đảm đang, tinh quái, thấy một biết mười, khéo tính toán lợi hại giúp chồng, cuộc buôn bán nhờ vậy mỗi ngày một phát tài thêm. Hàng phố đều khen chú Hồng có phúc và đồ chừng vốn liếng của hiệu Bình An bây giờ có đến bốn năm vạn.
Ai không nghĩ cô gái quê họ Trần đến thế là sung sướng tuyệt.
Kì thật lúc nào nàng cũng có vẻ buồn bã âm thầm. Đời con người ta phải có cái biến tượng ấy để tỏ ra ông Tạo hóa chí công. Ta chớ tưởng những kẻ giàu sang kia được yên vui sung sướng mọi vẻ mà lầm. Đấng cao xanh cho họ được sung sướng về phần xác thịt thường bắt họ phải đau khổ về phần tinh thần, chẳng nhiều cũng ít để thừa trừ cho cân. Ta thấy họ mâm cao cỗ đầy, lên xe xuống ngựa thế mà trong tâm não luôn luôn vấn vít có cái gì lo, cái gì buồn, cái gì tủi thầm cho mình, cái gì thua kém người ta. Ông trời có cho ai được trọn hưởng nhân gian hạnh phúc bao giờ!
Thím Hồng lúc này xác thịt sung sướng thật nhưng tinh thần thì đau khổ như tê, như dần có gì lạ đâu! Trong cảnh phong lưu ích kỉ, thiên lương nó cắn rứt tâm não của nàng, bắt nàng phải buồn rầu tưởng nhớ đến ông cha già, tức là bác phó cựu Thành Thị, không biết lúc này đang còn mạnh khỏe hay đã nằm dưới cỏ xanh? Không biết sớm tối có được hai bữa cơm no hay phải khổ sở đói rét? Không biết còn ở Kim Sơn hay đã lênh đênh trôi nổi xứ nào mất rồi? Vì từ ngày nàng bỏ nhà bước chân ra đi chốc đã năm năm, tuyệt hẳn tin tức với cha già, với dì ghẻ, với em bé.
Phải chi nàng cứ lưu lạc nghèo khó thì thiên lương nó cũng không vội lay động tấm lòng hoài cảm ấy thức dậy làm gì. Đằng này, nàng đã làm bà chủ hiệu, làm vợ nhà giàu, hình như mỗi khi thấy mình sung sướng là mỗi khi nghe trong cõi lòng có tiếng trách vấn của thiên lương: “Mày đành vui thú cuộc đời lấy một mình sao? Còn lão già kia đâu?”
Một hôm nỗi buồn thấm thía quá, nàng không thể cầm được nước mắt rồi đem hết tâm sự gia đình ra tỉ tê kể lể với chồng.
Chú Hồng cảm động và có ý trách thím vô tình:
- Chết nỗi! Thế sao mấy năm nay lứ không nói cho hóa biết? Lứ không phải câm mà!
XIII
Anh đi đằng anh, tôi đi đằng tôi
Chú Hồng thương yêu chiều chuộng vợ một cách gần như có ý nghĩa tôn giáo. Không phải vì nhan sắc hay mĩ đức gì – sự thật, vợ chú đâu có hai của quý ấy! Chỉ vì thấy từ khi lấy vợ về, việc buôn bán được thêm phấn chấn và càng ngày phát tài hơn trước. Chú Hồng tin chắc tuổi vợ có quan hệ mật thiết với cuộc làm giàu của mình, nếu rời bỏ nhau ra thì sự nghiệp mình đến phải nghiêng đổ, nguy khốn.
Người Tàu có lòng tin tưởng ấy nhiều lắm.
Chúng tôi được thấy một nhà thầu khoán Hoa kiều lấy một cô giang hồ một trăm phần trăm về làm vợ. Cô này vừa già vừa ốm, nghiện thuốc phiện mỗi ngày nửa lạng là ít, lại ham mê đồng cô bóng cậu đến nỗi lúc nào không đi lễ bái, nhảy nhót ở đền kia phủ nọ thì ở nhà nằm li bì cạnh bên bàn đèn. Cái lạc thú giữa vợ chồng hầu như không có nữa. Thế mà ông chồng hết sức chiều chuộng, kính sợ, nào là cho cô thờ tự, đồng bóng ngay ở trong nhà, nào là mua thuốc phiện thượng hạng cho hút và sâm Cao Ly chính hiệu cho cô bổ dưỡng. Người ta có thể bảo là chú thờ bà vợ. Chỉ vì chú tin rằng tuổi vợ rất hợp với cuộc làm ăn của chú, từ khi lấy cô về, chú thầu khoán được toàn việc to, kiếm ra bạc vạn luôn luôn. Thành ra vợ muốn gì được nấy, tới nước đòi làm phép cưới (vì chú Hoa kiều này vào làng Tây) và cho của để riêng, chồng cũng chịu ngay.
Chú Hồng thương yêu chiều chuộng bà vợ đại khái cũng do một tâm lí ấy; hay nói cho đúng, cũng thờ một tin tưởng ấy.
Thấy vợ thương cha nhớ nhà muốn về thăm viếng, chú Hồng vội vàng chiều theo sở thích vợ kẻo sợ vợ buồn. Giá như người khác, bất quá viết thơ cậy người thăm hỏi hay là cho vợ muốn đi thì đi một mình thế đã là tử tế. Đằng này chú Hồng chiều vợ, phú thác công việc cửa hiệu cho mấy người khách làm công rồi chú thím và một con ở bưng tráp trầu, xách va li theo hầu cùng nhau đề huề đi Kim Sơn.
Chắc các bạn còn nhớ, hồi mấy năm trước thím Hồng ở đây ra đi, tay trắng, chân không với một bọc áo vải nâu cũ mèm, một chiếc nón lá rách. Bây giờ thím trở về đây, đi dép cong sơn bóng quai nhung, đội nón ba tầm xuyên thẻ bạc, tai có hoa, cổ có hột, quần áo lượt là, theo sau là một con nữ bộc với một ông chồng thả bím xuống quá ngang lưng, mặc áo dài gần chấm gót, chân đi bít tất trắng, giày Tàu, ống quần thắt xà cạp, đúng mốt của các ông Thiên triều cuối thế kỉ XIX bước sang đầu thế kỉ XX này.
Trong bấy nhiêu năm xa cách đi về, mấy độ sao rời vật đổi, nhân sự biến thiên.
Trước khi sắp đến đầu làng, thím Hồng chứa chan những nỗi vui mừng khấp khởi vì tưởng sẽ được thấy cha già, gặp dì ghẻ và mấy đứa em đã lớn, thấy những gốc cau thời cũ, khóm chuối ngày xưa. Nhất là mừng thầm ta đi một về mười, được hởi lòng rửa mặt cho cha sạch hẳn cái tai tiếng đối với hàng xóm từ ngày nào. Một người học trò nghèo được về vinh quy bái tổ, cái trình độ vui mừng trong dạ, hẳn cũng đến mực cao chừng ấy thôi.
Khốn thay! Nỗi mừng của thím Hồng chẳng khác gì nỗi mừng của cô bán sữa hay là anh chàng đã tỉnh giấc kê vàng!
Lúc về đến nơi, thím nhận rõ từ khóm tre, từ bụi dâm bụt đi về này những lối này năm xưa, duy có nhà xưa cảnh cũ của mình bây giờ chỉ còn lại một đám vườn hoang cỏ mọc. Thím giật nẩy mình khôn xiết ngao ngán bâng khuâng, chưa đến nỗi đứng đấy mà khóc òa vì còn có chút hi vọng hay là nhà đã dời vào phía trong xóm.
Thím trông thấy một người đàn bà ẵm con đang đứng ở đầu xóm dòm sững về phía mình liền đi đến chỗ người ấy để hỏi thăm.
Người ấy là thị Tý bạn gồng gánh đi chợ Kim Sơn với nhau ngày trước.
Thị Tý giờ đã có chồng, có con, bộ tịch sồ sề như con lợn nái đã đẻ nhiều lứa. Lúc nãy có tiếng trẻ con trong xóm kháo nhau có vợ chồng chú Khách đi vào làng, thị Tý ẵm con ra đứng ngoài ngõ nhà mình ở đầu xóm để dòm xem cho thỏa tính hiếu kì.
Khi thấy thím khách đi lại gần chỗ mình đứng, thị Tý nhanh nhảu hỏi trước:
- Thưa bà, bà muốn tìm nhà ai cơ?
Bỗng nàng cau mày nhăn trán như lúc trí nhớ của con người ta vụt tỉnh dậy; thím khách chưa kịp trả lời câu hỏi thì nàng đã reo lên:
- Rõ nỡm chưa! Chị Lan đây mà? Bây giờ bệ vệ sang trọng như bà lớn, còn nhớ cái Tý bạn cũ ngày nào không?
- Ồ! Thế ra chị Tý ư? Trông người bây giờ khác hẳn, giá chị không nói chắc tôi không nhận ra. Ngoảnh lại mới ngày nào, thật là chóng quá nhỉ!
Quả thật, thím Hồng nhận ra bạn cũ. Trong lúc ấy, lũ trẻ trong xóm vây chung quanh chú thím, nghếch mắt lên mà nhìn, ngơ ngơ ngác ngác, chúng nó dòm sững từ đồ vàng đỏ ối ở cổ thím sang đến cái đuôi sam dài thượt của chú; thị Tý xua tay bảo chúng nó giãn ra và nói:
- Mời chú thím vào ngồi tạm trong nhà tôi uống nước nghỉ chân đã.
Nhà thị Tý thanh bạch nhưng anh chồng vốn con nhà học trò nên khéo giữ cửa nhà sạch sẽ và biết cách trang hoàng theo lối quê. Hôm ấy chồng nàng đi vắng, không ai tiếp chuyện chú Hồng. Chú cầm quạt phe phẩy đi lại trước sân, xem hết mấy chậu cây si của chủ nhân dụng công uốn thành chữ phúc chữ thọ, tới xem non bộ và mấy con cá vàng bơi lội tung tăng trong bể nước. Trong khi ấy thím ngồi ăn trầu nói chuyện với thị Tý ở chiếc chiếu hoa giải trên đầu hè.
- Chị về đây hôm nay là có lòng tốt tìm thăm chị em bạn nghèo với nhau thuở trước, hay là có việc gì?
- Phải, tôi về trước là thăm nhà tôi, sau là thăm bạn cũ.
- Nhà nào?
- Nhà thầy tôi chớ nhà nào, chị này khéo hỏi ỡm ờ không.
- Giời ơi! Thế ra chị bấy lâu ở đâu chẳng được tin nhà và không biết chuyện thay đổi gì cả thì phải.
- Chắc thầy tôi đã dọn nhà vào xóm trong có phải không chị?
- Xóm trong nào? Hồi ấy, chị bỏ nhà đi được vài tháng thì ông cụ dọn hết nhà cửa di trú đi đâu không biết, chúng tôi có hỏi nhưng ông cụ không chịu nói. Thế từ bấy đến giờ chị không được tin tức gì về ông cụ cả hay sao?
- Nào tôi có ngờ; vẫn đinh ninh trong bụng rằng cả gia quyến tôi còn ở vùng này.
Thím Hồng nói câu ấy với giọng não nùng và cố cầm nước mắt cho đừng tuôn xuống. Thị Tý cốt nói nho nhỏ cho bạn vừa đủ nghe:
- Chị này bỏ nhà đi vắng một mạch năm sáu năm giời không biết gì tin tức của nhà thật nhỉ. Để tôi kể qua cho chị nghe nhớ. Này, lúc ấy chị bỏ nhà ra đi hôm trước, hôm sau đầu làng cuối xóm, thiên hạ đồn rầm lên rằng chị phải lòng thằng con ông lí Hướng, chửa hoang với nó mà nó không thèm lấy, thành ra chị phải đi xa để ở cữ xong rồi mới về. Ông cụ nhà chị buồn rầu, xấu hổ đến nỗi gầy hẳn người đi. Thêm mấy người độc ác, gặp ông cụ ở đâu cũng hỏi bóng gió, xỏ xiên: Nghe nói ở nhà ông có chiếc trống cái muốn bán rẻ, phải không?… làm ông cụ tức lộn ruột, có lần chửi nhau với họ. Còn một đằng, lão Bá Kim Sơn không lấy được chị về đấm bóp cho lão thì lão cũng tức, thường đe dọa kiện thưa ông cụ và tìm cách làm hại hết sức cho biết tay, cho ông cụ không thể nào làm ăn mở mặt ở vùng này được thì lão ta mới chịu.
Hình như có lần ông cụ ra ngoài Nam tìm chị không được rồi về ít lâu, tôi thấy ông dọn dẹp nhà cửa, cái gì bán được thì bán, còn thì nhét đầy hai cái bồ, sáng sớm dắt díu cả nhà ra đi. Ai hỏi đi đâu, ông cụ chỉ trả lời là dọn lên chợ huyện. Kì thật là nói dối vì ông không dọn lên chợ huyện bao giờ; chắc hẳn di trú đi đâu xa biệt, không ở trong vùng này nữa.
- Thế thì mênh mông giời đất, biết đâu mà tìm cho ra được, hử giời!
Thím Hồng vừa nói vừa dơm dớm nước mắt rồi đứng dậy từ giã bạn. Vợ chồng thầy tớ vội vàng đi ra cho kịp chuyến tàu Kim Sơn về Nam để xuôi Phòng ngay tối hôm ấy. Vì cái mục đích “vạn lí tầm thân” không đạt khiến nàng hết sức buồn bã, không muốn ở lại để ngó thấy cái cảnh tượng dấu cũ rêu phong, đất còn người vắng kia một giây phút nào nữa.
Thế thì trong lúc cô con gái làm ăn đã khá, cốt về thăm cha, giúp cha, với ông rể Thiên triều chịu khó theo vợ đi tìm để chào nhạc phụ, hỏi bác phó cựu Thành Thị đã di trú phương nào, lưu lạc đâu ta?
*
* *
Quả đúng như lời thị Tý đã nói cho bạn nghe sau lúc con gái trốn đi, bác phó như người mắc chẹt ở giữa cái tình thế hai đầu có lửa. Một đầu là miệng tiếng thị phi của thiên hạ thiêu đốt. Một đầu kia là lời hăm dọa của lão cường hào Kim Sơn làm cho bác nóng lòng sốt ruột. Bác liệu bề không ở làm ăn xứ này được nữa thế tất phải đi. Rồi bác lẳng lặng dắt díu vợ con sang ở Bồng Hải; từ nay bác với thím Hồng, cha con chẳng những tuyệt hẳn âm hao lại biệt cả tung tích. Vì tuy ở trong một xứ nhưng hồi đó việc giao thông khó khăn nên khó lòng mà tìm nhau được…
Ở Kim Sơn về Hải Phòng được độ mươi ngày, thím Hồng bỗng phát bệnh nặng vì lẽ ưu sầu thái quá. Mỗi ngày một cơn sốt rét li bì, hễ động nhắm mắt là nói mê, nói sảng; ăn uống thứ gì cũng phải thổ ra. Ông chồng lo sợ xanh mặt, đã tưởng phải làm đám ma. Hao tốn bạc trăm, đổi thầy chạy thuốc mấy bận, gần hai tháng mới được thoát hiểm.
Nhưng từ đấy trở đi thím Hồng hóa ra người ốm yếu hom hem, thường biếng ăn mất ngủ và năm ngày ba tật luôn luôn. Trong nhà chẳng mấy ngày không có y sinh ra vào, bên mình cũng chẳng mấy hôm vắng siêu thuốc bổ.
Có người nói thím Hồng có ngoại tình, ốm thế là ốm tương tư, chẳng biết có phải không? Lắm bà lắm cô nhà giàu, giời cho khỏe khoắn sung sướng quá độ mà ái tình không được no đủ, thường sinh ra dâm đãng, không phải lạ gì. Chỉ biết thím Hồng từ ngày đau yếu liên miên trong mình sớm tối nằm ngồi thờ thẫn, lừ đừ chẳng còn có thể săn sóc âu yếm chồng như mọi khi và cũng chẳng lí hội gì đến việc buôn bán giúp chồng được nữa.
Trong khi thím Hồng ốm yếu như thế, thì chú Hồng đâm ra chơi bời. Có lẽ tòa nhà đến lúc ọp ẹp, suy đồi, mấy cây cột cái bị mọt đục khoét tứ tung. Bà vợ như con mèo ướt, nằm rên trên giường bệnh, ông chồng nhảy tung như con ngựa bất kham ở trên con đường tửu sắc, yên hoa.
Đêm nào chú cũng kiếm cớ trốn nhà đi ngủ lang, không ngồi bốc rời ở những sòng mạt chược, ngầu hầm thì cũng xuống nằm khàn dưới xóm cô đầu hay là cặp kè một con đĩ “phì phà chảy” ở trong khách sạn nào đó. Lúc trước chú hiền lành như ông bụt đất, bây giờ đổ đốn, phũ phàng hung dữ như một tên côn đồ. Có lúc thím chưa kịp hết lời can gián, ghen tuông, chú đã quắc mắt lên, thím lại phải im ngay.
Cửa hiệu mặc kệ mấy người làm công, chú không dòm ngó gì đến sổ sách và hàng hóa thứ nào mất còn thiếu đủ. Chú chỉ cần một việc là mỗi chiều tối mở ngăn kéo ra, nội ngày bán chác được mấy chục, mấy trăm thì vơ vét bỏ túi rồi đi. Ngày hôm sau cũng thế.
Ai lạ gì cờ bạc, trai gái là một hang sâu vô cùng tận, bao nhiêu kho vàng đụn lúa đem tọng vào đó cũng không vừa. Chơi bời phung phá như cách chú Hồng thì đến sản nghiệp của Vương Khải, Thạch Sùng rồi cũng phải đổ nát tiêu tán, cái lưng vốn dăm ba vạn của hiệu Bình An có thấm tháp vào đâu.
Ban đầu chú Hồng chơi bằng vốn nhà; bao nhiêu tiền bạc buôn bán hay lĩnh trưng kiếm ra, cứ hết trăm nọ đến nghìn kia, chú đem quăng vào cửa hang “tứ đổ tường” cho kì hết. Rồi thì chơi bằng hàng hóa bán đắt bán rẻ và nợ lãi vay cấu vay cào. Tiền hàng còn thiếu chịu các hãng Tây hiệu Khách rất nhiều, nơi thì thúc đòi ngày một, nơi thì thưa kiện thẳng tay.
Thế là cái sự nghiệp của ông bố để lại làm gốc và năm năm dư vợ chồng bù đắp thêm vào đến đây tan hoang vỡ lở sạch bong.
Tới khi chú Hồng tỉnh ngộ, muốn cố duy trì gượng lại thì như người đã ngã, đuối sức quá rồi không vùng dậy nổi. Cho nên trước mấy hôm nguy cấp chú đã bí mật tìm kế thoát thân không thì ở tù mang nhục, chẳng phải khánh tận cửa hiệu mà thôi. Vơ vét tứ phía được dăm trăm đồng, chú lẻn ra Móng Cái xuống thuyền chài trốn về Đông Hưng mất, không hề rỉ răng một tiếng nào cho vợ biết trước để tự liệu lấy thân. Đàn bà Việt Nam thường nói “Lấy khách, khách về Tàu” là sự đó.
Có, chủ Hồng có để lại cho vợ mấy chữ viết trên miếng giấy nhỏ vàng in trên chiếc gối bông mãi chiều tối hôm sau thím mới thấy, vội vàng đưa cho chú tài phú xem và cắt nghĩa giùm. Mấy chữ thế này: “Ngã cấp hồi Mãn, bất năng thoại biệt. Điếm vụ thính nhĩ liệu lí nhất thiết. Tha nhật hữu cơ huyên trùng phùng, vị khả tri dã. Lan khanh trân trọng”. Nghĩa là: “Ta gấp về Phúc Kiến, không kịp từ biệt. Công việc cửa hiệu tùy mình lo liệu tất cả. Ngày sau may có cơ duyên ta lại gặp nhau, cũng chưa biết đâu. Xin chúc Lan khanh, trân trọng”.
Thôi thế là xong: chú mặc mẹ con vợ Ố Nàm mà tếch về Tàu một mình rồi.
Chú bảo thím lo liệu cách gì bây giờ? Người ta đã xin tịch kí mà trong hiệu trống trơn hàng hóa, đồng xu không còn.
Ngay sáng hôm sau, mõ tòa đến niêm phong cửa hiệu Bình An và sai người canh gác. Thím Hồng chỉ vừa kịp thời giờ gói ghém quần áo, xách nón ra đi; lại mình trần tay không, như hồi mới đến năm năm về trước.
XIV
Một đêm dưới tàu Cửu Giang
Số kiếp giang hồ lại quăng Thị Lan giả về đường cái.
Người ta định chắc Thị Lan trong năm năm ở với chú Hồng thế nào chẳng lần lưng để dành được năm ba ngàn làm vốn riêng, phòng bị mai sau gặp cơn gió mưa bất trắc. Ai lấy Khách, lấy Tây mà chẳng phòng thân lo hậu như thế.
Có lẽ.
Nếu như tìm gặp được ông bố già, hẳn nàng đã chuyển vận cho ông được ít nhiều vốn riêng mấy năm ki cóp. Hay là có ai quen thân chắc nàng có chỗ gởi gấm. Nhưng đằng này Thị Lan không tìm được bố mà cũng chẳng quen thân với ai ở xa hay gần, thành ra để riêng được nhiều ít lưng vốn thì nàng chỉ biết giấu trong đáy rương rồi đem ra mua sắm những đồ tư trang bằng vàng. Kể ra nàng sắm được ba bốn chục lạng chớ không ít. Thuở ấy vàng rẻ mỗi lạng chưa đến ba chục đồng, thế là nàng cũng góp nhặt tư sản được trong ngoài bạc nghìn rồi, còn tiền mặt chưa kể. Khốn nỗi đến lúc chú Hồng đâm ra chơi bời phóng túng thì đồ vàng, tiền riêng của vợ, chú cũng dỗ dành mưu mẹo bóc lột dần dần. Thị Lan vừa nể vừa sợ chồng mà lại không quen biết ai để chuyển của đi, để chồng khéo thổi tiếng quyển, giọng kèn mà bòn đãi lần hồi tới hết.
Cho nên hôm chú Hồng đã quất ngựa truy phong mà mõ tòa đến tịch biên hiệu Bình An tống Thị Lan ra ngoài – vì nàng lấy Hồng chẳng có hôn thư phép cưới gì cả – lúc ấy nàng chỉ có bọc áo quần là nhiều, với đôi hoa tai và năm bảy chục đồng trong túi họa may, không làm gì có bạc nghìn thủ thân như người ta đoán nghĩ.
Thật là mèo lại hoàn mèo rồi!
Tuy vậy, mất chú Hồng biết đâu chẳng phải là một cái may cho Thị Lan như chuyện thằng con Tái Ông mất ngựa vậy. Đời nàng sẽ bước vào một giai đoạn mới, mở ra một kỉ nguyên mới hứa hẹn nhiều sự hay hơn. Thường khi cái họa của con người ta vẫn là một điềm báo trước hay chính nó là chìa khóa mở cửa cho cái phúc lững thững đến sau.
Lúc bấy giờ bà cô bố vờ của nàng là thím tài già ở Cầu Đất đã qua đời rồi, ở đất Hải Phòng không có ai thân để cho nàng náu nương tin cậy được. Mấy chị em quen bình nhật thường ngồi nhai trầu nói chuyện phiếm với nhau thì kể làm gì. Có người nói định làm mối cho nàng chắp nối nhân duyên với một ông chồng ta hay một chú khách nữa tùy ý nhưng nàng cười và lắc đầu:
- Tôi đã hai mươi tám tuổi đầu, trong tay lại không có một xu thì còn ma nào thèm lấy.
Kì thật nàng nghĩ chín trong bụng rằng: chẳng gì mình cũng đã trải qua một đời chồng là chủ hiệu giàu có, tiếng tăm hầu khắp tỉnh Phòng đều biết, bây giờ chắp nối liệu có gặp được mặt nào cũng bảnh như thế không? Nếu cha căng chú kiết, vơ quàng vơ xiên, e bị thiên hạ mai mỉa. Mà ở nấn ná mãi chỗ này cho đến long đong sa sút cũng hổ với đời, thôi thì “lại liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu”, số kiếp có bắt mình lấy phải thằng cu bố đĩ hay là cùng lắm đến phải bán trôn nuôi miệng như lũ chị em vô phúc kia thì thà rằng đi xứ khác mà làm cho khuất mắt, chẳng ai biết đấy là đâu, chứ hồi nào nghiễm nhiên một bà chủ hiệu ở đây, giờ sụt xuống làm một người trụy lạc cũng ở đây thì phiền lắm.
Thế rồi ngay buổi chiều hôm ấy nàng từ giã Hải Phòng đáp tàu khách “Cửu Giang” đi lên Hà Nội.
Cảnh đi tàu thủy vào thời buổi này ra sao, chúng tôi đã nói cho độc giả biết rồi. Với nàng chỉ khác có một điều là bảy tám năm trước, đi chuyến tàu từ Nam ra Phòng nàng là một cô ả nhà quê nhút nhát, khù khờ; chuyến tàu này từ Phòng lên Hà Nội, nàng là một thiếu phụ có vẻ lịch sự phong lưu, đi đứng nói năng bạo dạn.
Gần cạnh chiếc chiếu nàng ngồi, một người đàn bà nằm ngủ cò queo, gối đầu trên chiếc tráp khảm nho nhỏ, quàng tay ôm lấy va li, một đứa bé ngồi bên vừa coi đồ, vừa quạt phe phảy. Người này cũng trạc hai mươi tám, ba mươi tuổi, mặt trái xoan, môi son má phấn, đầu vấn khăn nhung bỏ đuôi gà dài, mắt lại đeo kính râm để ngủ cho khỏi chói. Trông có vẻ tỉnh thành, hơn nữa ra vẻ một me Tây vì thấy lông mày cạo gọt sắc lẻm, chân lại mang giày đầm và bí tất trắng, đó là cái đặc trưng của các bà dương phụ thuở đó. Thị Lan dòm kĩ gương mặt, nhớ mang máng như một người nào mình quen.
Mãi chín mười giờ đêm người ấy mới vươn vai trỗi dậy bỏ kính đen ra, trố mắt nhìn vào Thị Lan dưới ánh đèn chiếu ngay giữa mặt. Vừa lúc Thị Lan cũng nhìn trừng lại. Rồi cùng trong một giây phút cả hai người cùng hòa tiếng reo lên một:
- Kìa! Cô Ba La Vích!
- Ô này! Thím Hồng!
Hai người đã nhận được nhau.
Quả thật cô Ba La Vích là một me Tây sang trọng, vợ một ông quan ba pháo thủ, ý hẳn tên ông là Lavic hay là Lavèque cho nên người ta quen gọi cô là cô ba La Vích. Cách hai ba năm về trước, cô theo chồng xuống phục chức ở Phòng, thỉnh thoảng có lui tới hiệu Bình An mua rượu, đồ hộp, phó mát, dăm bông, lẽ tự nhiên hay có dịp giao thiệp chuyện trò với vợ chồng chủ hiệu. Giữa lúc ấy Thị Lan đang là thím Hồng, bà chủ hiệu Bình An vào thời kì cửa hiệu đang tấy, buôn may bán đắt, một vốn bốn lời. Hai người quen nhau hơi thân, mặc dầu không có những sự vãng lai thù tạc.
Về sau cô lại theo chồng đổi lên Hà Nội, xa biệt Hải Phòng luôn mấy năm trường, cái tình quen biết giữa khách với nhà hàng sao khỏi phai nhạt dần đi. Hôm nay sự tình cờ cho đối mặt nhau và đánh thức trí nhớ, khiến hai người cùng phải sửng sốt ngỡ ngàng, nhất là gặp nhau trên một chuyến tàu ngược.
Me Tây, thím Khách ngồi sán lại nhau chuyện như pháo nổ:
- Rõ thật là may! – Cô Ba nói – tôi xuống Phòng hơn một chủ nhật, mãi hôm qua mới có dịp đến hiệu để thăm thím không ngờ đến thấy đóng cửa có người ngồi canh, tôi hỏi bà chủ đâu nó xua tay đuổi tôi đi như đuổi tà, chẳng thèm nói gì cả. Tôi tức cả mình, không nhẽ đứng lại mà “sà lù cu soong” nó…
- Hiệu tôi bị tịch kí rồi, cô ạ – Thị Lan nói và thở dài.
- Chết chửa? Thím nói thật hay bỡn?
- Cô tính đời thuở nhà ai lại đi nói bỡn một câu chuyện tan cơ nát nghiệp bao giờ.
- Thế chú Hồng ở đâu mà để…
- Thì cũng tại nó đấy, cô ơi! Luôn hai năm sau này tôi ốm nằm bẹp một xó thì nó đâm ra chơi bời phung phá, cờ bạc này, trai gái này, trước còn vơ vét tiền nhà đi tọng vào đào đĩ, vào bạc bài rồi sau vay nợ tứ tung thiếu tiền hàng họ của người ta be bét người ta phải xin tòa cho khánh tận, tịch biên. Ả Hồng cuốn gói trốn thẳng về Tàu trước, bỏ tôi bơ vơ.
- Ấy đấy, thím xem. Mình lấy chồng khách thường gặp phải cái cảnh họ cuốn gói đi êm, bỏ vợ con giữa chợ như thế, mình cay hơn cắn phải ớt. Thím không biết, chồng Tây chẳng có thế bao giờ, dầu sao đi nữa họ ăn ở với mình cũng tử tế, khi đi khi về phân miêng. Cứ xem ngay ông ba nhà tôi thì biết, đến hạn hưu trí về Tây, ông cho tôi mấy nghìn làm vốn và tất cả đồ đạc trong nhà cũng đáng bạc nghìn. Mấy hôm sắp sửa từ biệt, me sừ bà đầm sụt sùi than khóc với nhau cẩn thận. Tôi vừa ra Phòng là cốt đi tiễn ông xuống tàu, giờ tôi trở về Hà Nội đây.
- Cô thật có phúc. Chẳng bù với tôi, mang tiếng tên là Hồng mà vận thì đen. Hồng nhan bạc mệnh là thế!
- Có lẽ con người ta cũng có số. Nhân tiện ra Phòng, hôm kia tôi có đi lễ thánh xin một quẻ thẻ ngài dạy thế nào tôi cũng gặp một quý nhân còn sung sướng danh giá hơn trước nữa kia. Sao hôm nọ thím không xin thánh một quẻ thử xem?
- Cô nghĩ xem cảnh tôi mấy hôm điêu đứng sầu khổ đến thế, úa cả ruột gan, mất cả hồn vía, chỉ muốn đâm đầu xuống sông mà chết quách cho xong, còn có bụng dạ nào nhớ đến việc lễ bái xin thẻ được nữa!
- Chuyến này hẳn thím cốt lên chơi Hà Nội năm ba ngày cho khuây khỏa rồi lại trở về Phòng tái tạo cơ đồ, phải không?
- Không! Còn nhà cửa thân thích nào ở Phòng mà cô bảo tôi trở về. Chỗ chị em quen nhau một ngày là nghĩa tôi không nói giấu gì cô và cũng không ngại cô cười: tôi đi Hà Nội lớp này, giống như người thò tay mở bát lúc sắp sửa cuốn chiếu, bán chẵn hay bán lẻ, cũng đắt tất, mặc nó ra sao thì ra!
- Nghĩa là thím đi liều mạng văng tê, không có chủ ý gì cả.
- Kể ra thì tôi cũng có chủ ý lên đó tìm cách buôn bán nuôi thân. Nhưng rồi số kiếp đưa mình đi đâu mà chẳng phải chịu.
Cô Ba La Vích ngồi lẳng lặng ngẫm nghĩ gì một lát rồi bỗng vui cười, vỗ vai thím Hồng:
- Phải đấy, thím cứ ở Hà Nội ít lâu tôi làm mối cho một ông chồng sang trọng mà nhờ.
- Cám ơn cô có lòng tốt; chỉ sợ lại vớ phải một chú Hồng nữa thì tôi chết!
Hai người ăn uống chuyện vãn với nhau suốt từ đấy cho đến chiều tối hôm sau, tàu mới đến bến Hà Nội.
Cô Ba có bà mẹ và em cháu ra đón tấp tới. Trước khi leo lên chiếc xe tay cao ngất ngưởng, cô Ba còn nắm tay thím Hồng, căn dặn ân cần:
- Mai kia thế nào thím cũng nhớ xuống chơi nhà tôi ở cửa Ô Quan Chưởng nhá. Cứ đi xe đến đấy, hỏi nhà tôi thì ai cũng biết.
Còn thím Hồng thuê xe kéo về hàng Buồm vào một bạn hàng quen, cũng là chồng khách vợ ta.
XV
Gặp được cả chồng lẫn cha
Thuở ấy, các ông thông, ông kí làm việc ở phủ Thống sứ hay ở tòa Đốc lí mà nhà riêng ở quanh những phố hàng Bông, hàng Hòm, hàng Trống, hàng Quạt những khi đi khi về tất phải qua phố hàng Gai. Người ta thấy họ chiều nào đi làm về cũng thế, nhiều ông làm như chăm chú đưa mắt gấm ghé vào một căn nhà gác kiểu xưa, ngay góc hàng Gai, đầu ngõ hàng Hành. Các ông thường liếc mắt dòm có vẻ ranh mãnh rồi khúc khích bảo nhau:
- Con cái nhà ai mà bà mụ khéo nặn thế kia không biết!
- Đằng ấy có biết không? Cả thảy những năm “kẻ” lận!
- Ừ phải, kháu nhất là con bé nhơ nhỡ, mới độ mười tám, mười chín, da nó trắng bóc trứng gà, miệng tươi như hoa nở, mỗi khi tớ đi qua mà thấy bóng hồng thấp thoáng đủ làm cho quả tim tớ nhảy cào cào nhất là hai chân rủn cả lên, không còn muốn bước.
- Sao các quan bác chỉ thích gái non, tôi thì muốn phải lòng bà chủ. Người đậm đà phúc hậu mà có duyên tệ. Nghe đâu như là một thím khách hồi hưu thì phải.
- À ra lão này khôn quá, muốn được cả bò lẫn cơm.
- Thôi đừng ba hoa mãi, con sư tử Hà Đông mà nó thấy mình hay ngấp nghé nhà này, đố khỏi nó nổi cơn tam bành đổ mẹ cả mâm cơm tối cho mà xem.
Vì trong nhà hình như có hai cô trẻ trung xinh đẹp nhất cho nên các ông đặt tên nôm là nhà Sẻ đồng (Đồng tước) để biểu riêng với nhau, phòng khi nói đến trước mặt các bà ở nhà.
Chính là nhà thím Hồng dọn lại ở, sau mấy hôm tạm trú đằng hàng Buồm.
Nhưng không biết có phải thím là chủ nhân, là người tổ chức và quản lí hay cũng chỉ là một phần tử của nhà này? Điều đó thật không ai dám quyết chắc. Vì có người nói không phải thím là chủ, chính chủ là người mà thím quen, thím đến ở trọ cho vui, ở cái gác nhỏ bên trong.
Chỉ biết nhà này cố nhiên một nơi tiêu khiển cho khách phong lưu, có điều không phải là nơi tầm thường tạp nhạp, ai muốn gõ cửa cũng được. Người ta thấy lui tới phần đông là khách chủ hiệu to hay bực phú thương quý chức ta; thỉnh thoảng cũng có một vài ông Tây sang. Bên trong đủ cả mặt làng: có rượu, có bàn đèn nha phiến, có bài mạt chược, có mấy cô em ngoan ngoãn phục dịch. Kể ra thì gần như một chốn hồng lâu, chỉ khác là không có cung đàn tiếng hát.
Có hai lần, cô Ba La Vích cùng đi với ông chồng và mấy ông bạn lại thăm thím Hồng ở đây. Vì cô đã kết duyên với một ông quý quan mới, quá đúng như quẻ thẻ thánh dạy.
Cô cũng không quên lời ước rồi làm ông Tơ bà Nguyệt cho thím Hồng.
Một hôm, tự cô nhắc lại:
- Tôi sắp tìm được cho thím một ông chồng Tây quan tử tế sang trọng ra phết.
- Nhưng tôi không biết nói một tiếng Tây thì làm sao?
- Thì rồi mình chịu khó học, mãi cũng phải biết, lo quái gì! Này nhớ:
Tôi đi, là moa a-lê
Rề-vay thức dậy, cu-xê đi nằm,
Toa ba, cát bốn, xanh năm,
Sà-loong phòng khách, la xăm cái buồng.
Người ta đã đặt thành các vè câu hát như thế cho mình dễ học. Chẳng lo năm bảy tháng một năm, thím sẽ nói tiếng Tây liến thoắng cho mà xem!
Rồi mấy hôm sau, nhân lễ Dân Quốc kỉ niệm, ngày 14 Juillet 1895, ông chồng cô Ba làm tiệc ở nhà đãi năm ba ông bạn thân, cô Ba mời thím Hồng đến và giới thiệu cô với ông quan tư Garlan. Thím Hồng bạo dạn và tinh ranh, cứ dòm chừng người ta cầm phóng-sết và ăn uống thế nào thì bắt chước y như vậy. Trong tiệc, cô Ba La Vích khéo phô trương tán tỉnh, đóng vai băng nhân nguyệt lão rất tài. Thím Hồng chẳng hiểu họ nói với nhau những gì, chỉ ngồi cười với gật. Ông quan tư Garlan thấy thím Hồng bộ tịch hiền lành, mộc mạc vui lòng ừ ngay. Vì chính ông đang muốn tìm một người nội trợ bản xứ.
Cuộc nhân duyên điều đình và kết thúc nhanh như điện. Ngay hôm sau Thị Lan xách va li vu quy nhà chồng, bước vào xã hội me Tây và có cái tên là cô Tư Hồng từ đó.
Bây giờ trở đi, người chép chuyện chỉ dùng tên mới ấy để xưng hô cho tiện và xóa hẳn tên Thị Lan và thím Hồng đi.
Con người ta đến lúc gặp may, tự nhiên thêm khôn, nảy sáng ra là sự thường thấy: “Phúc đáo lâm tinh” quả có như thế. Giờ cô Tư Hồng mới bắt đầu học tiếng Tây, cố nhiên học lối truyền khẩu thấy sao phải uốn lưỡi cong môi khó nói, khó nhớ hết sức; tưởng đâu phải đành chịu dốt, rồi sự ngôn ngữ giao thiệp ở giữa vợ chồng có lẽ cả đời phải nhờ thông ngôn hay là chỉ đưa mấy ngón tay ra hiệu mãi. Ấy thế mà trời cho hạnh phúc mở mang cả trí khôn, cô Tư Hồng chịu khó học lỏm chị em không đầy một năm đã thông thạo những tiếng giao thiệp cần dùng và có thể nghe hiểu, nói được.
Lại khéo ăn ở chiều chuộng ông chồng, khiến ông phải cảm, phải thương. Hằng tháng, ông để riêng cho một số lương khá hậu; còn may mặc sắm sửa và cô bòn thêm khi ít, khi nhiều là đằng khác. Những món nguyệt bổng và ngoại tài ấy, cô khéo dành dụm, thả lãi, buôn bán loanh quanh mới hơn vài năm giời đã tậu được một ngôi nhà gạch ở phố hàng Dầu, tạo nên một cơ đồ biệt lập.
Nhờ giời cho lúc này lại có nhà cửa linh đình, tôi tớ tấp nập, cảnh phong lưu ăn đứt chị em cùng hội, cùng thuyền.
Lạ một điều, là hầu hết me tây, thím khách, khi giời đã cho khá đôi chút, đều tin mê đồng bóng lễ bái. Ba bốn chục năm trước đã thế rồi.
Bọn đồng cốt cung văn nhờ các me, các thím mà phát tài và không bao giờ phải lo nhàn cư thất nghiệp. Có lẽ đây là một cái “mốt” của xã hội me, thím. Họ rủ nhau, đua nhau, ai không theo “mốt” thì không phải mặt bảnh.
Cô Tư Hồng cũng phải theo “mốt”; sắm khăn chầu áo ngự, phải dan díu với chị em đưa nhau cầu đền kia, lễ phủ nọ luôn luôn, cầu con, cầu của, cầu tài lộc, cầu bình an; riêng cô Tư Hồng còn thêm một khoản cầu cha già nữa. Vì từ lúc về Kim Sơn tìm không thấy cha, đến giờ cô vẫn chưa dò ra tăm hơi tung tích bác phó cựu Thành Thị ở đâu, còn sống hay đã chết rồi.
Ai đi lễ thánh được ngài bố thí tài lộc những gì không biết, cô Tư Hồng đi lễ thánh quả được gặp một sự may mắn ra ngoài mộng tưởng.
Thật thế, nhờ một dịp đi lễ thánh mà cô được phụ tử trùng phùng sau bao nhiêu năm sinh li.
Chuyện thật tình cờ.
Mồng sáu tháng ba năm ấy, cô đi theo mấy chị em bạn về hội Phủ Giày lễ thánh xong rồi trở lên tỉnh Nam để đáp tàu thủy ngược Hà Nội. Lúc ra bến tàu chợt thấy một bầu đoàn đang ngồi trong quán nước bên sông, cô mừng quá rú lên, suýt ngã chết ngất. Này cha già, này dì ghẻ, này em bé, những người thân yêu cách biệt tám chín năm nay mình đang băn khoăn hỏi tìm, ước ao gặp gỡ.
Thật quả là bác phó cựu. Nguyên bác từ bỏ Kim Sơn vào Bồng Hải làm ăn buôn bán mấy năm cũng khá, có đồng dư đồng để bèn dắt cả vợ con về Thành Thị quê nhà, trước là tảo mộ tổ tiên, sau thăm bà con làng xóm, kẻo bấy lâu bỏ làng đi biệt, một chốc hai chục năm dư. Hôm nay ở nhà quê lên Nam cốt chờ đáp tàu lại về quê cũ. Bác phó không ngờ gặp con, cũng như con không ngờ gặp cha vậy. Nhất là bác vẫn là bác, mà con thì đã lớn khôn, sang trọng, ra vẻ một bà.
XVI
Lần thứ nhất, bác Phó ăn phó mát
Cái cảnh phụ tử trùng phùng vui mừng sung sướng của hai cha con cô Tư Hồng lúc ấy tưởng không bút mực nào tả ra cho hết được. Giá có ai đem cả nhà băng hay một ngôi vua đánh đổi với họ chắc họ cũng không thèm đổi nào.
Vui mừng sung sướng nhất là bác phó cựu!
Thật thế, con gái bác biệt mất tăm tích gần mười năm, bác vẫn đinh ninh tin tưởng nó chết đói bỏ xác đâu rồi, hay có sống sót nếu không làm con sen, con nụ nhà người ta thì cũng đang rách rưới đói khát với một thằng chồng cực kì nghèo khổ.
Ai ngờ…
Phải, không khi nào bác dám ngờ rằng con gái bác còn sống đã lấy được ông chồng quý quan, đã tậu được chiếc nhà. Hôm nay đi lễ, y phục, hành trang, tùy bộc nhất thiết đều có vẻ sang trọng bà lớn, mấy người chị em đồng hành cũng một loạt phong lưu như nhau. Trông thấy con, bác phó ta nghĩ mình nằm mộng cũng phải.
Nếu cô Tư không reo lên nhận ra bố trước, thì đố bác phó dám chỉ vào cô mà nói: – Này con Lan nhà ta!
Đời người ta có những lúc vui mừng đến phát khóc chính là lúc này.
Mấy người chị em bạn trông thấy cảnh tượng cha con hội ngộ bất ngờ như thế và những tiếng vui cười có đẫm nước mắt khiến họ cũng phải bùi ngùi, cám cảnh.
Một người nói:
- Thật là chị Tư ở hiền gặp lành mới được thánh mẫu run rủi cho hội ngộ gia đình thế này. Phúc đức quý hóa lắm. Nhân tiện mời cụ lên ở chơi Hà Nội thật lâu cho chị Tư được thỏa lòng ước vọng thần hôn bấy lâu.
- Vâng, tôi cũng muốn thế – bác phó trả lời. Nhưng cửa nhà và công việc làm ăn ở Bồng Hải bỏ bẵng gần tháng nay rồi, để tôi phải về qua đó sắp đặt rồi sẽ lên Hà Nội chơi với cháu sau.
Cô Tư lắc đầu:
- Chẳng sắp đặt thì đừng. Bây giờ cả thầy u phải lên ở Hà Nội với con trong ít lâu, con sẽ cùng đi về Bồng Hải dọn dẹp cửa nhà lên tất Hà Nội ở luôn đây. Thầy đã già rồi, từ nay con không để cho thầy vất vả nay xứ Đông, mai xứ Đoài nữa.
Thế là một đoàn chị em, cha con, tớ thầy cùng xuống tàu thủy ngược Hà Nội.
Cô Tư hôm đi chỉ cốt đi lễ thánh, nào ngờ hôm về lại rước được bố về.
Hôm sau trong nhà cô ở phố hàng Dầu có mở tiệc vui như tết.
Muốn kỉ niệm cái ngày phụ tử đoàn viên cho được trọng thể, cô Tư làm tiệc vừa cỗ bát, vừa đồ tây, trước để tạ ơn trời đất, gia tiên sau để mời hợp các chị em và những người giao thiệp quen biết đến ăn mừng giùm cô.
Bốn chục năm về trước, xã hội me tây mới nhóm lên, chưa có bao lăm người, vả lại ai nấy còn chất phác và giữ được lề thói xưa nhiều, cho nên họ ăn ở với nhau thân thiết đậm đà lắm. Họ thường đỡ đần, dìu dắt nhau, mỗi khi một người có việc hiếu hỉ gì thì cả bọn tới lui thăm viếng ân cần và đưa lễ vật phong hậu. Cách cư xử với nhau như thế tuy không có điều lệ nào ràng buộc nhưng cũng hình như một hội ái hữu hay một nghiệp đoàn vậy.
Nghe tin bạn gặp được cha già, các chị em bạn lại mừng cô Tư đều có quà cáp tặng hảo ông cụ. Kẻ này tặng cái khăn nhiễu, người kia cho chiếc áo the. Có bà cầu kì lại nhờ được cụ đồ nào đó làm câu đối viết vào liễn tàu đem đến mừng nữa.
Tiệc nhà cô Tư hôm ấy đến ngoài mười cỗ vì chị em khách khứa đến rất đông. Cô có ý xen lẫn cỗ bát với đồ tây, tùy khách muốn dùng thực phẩm nào thì dùng mà cũng là hữu tâm để ông cụ nhà cô được nếm cả hai cái phong vị đông, tây cho biết.
Cỗ bát, nếu đời bác phó từng được nếm qua, chắc hẳn cũng chỉ một hai lần là nhiều; đến đồ ăn tây thì bây giờ bác mới trông thấy là lần thứ nhất.
Bởi vậy bác sửng sốt khi thấy người ta ăn bằng dĩa với dao. Đến lúc ăn “phó mát”, bác thật tình nghĩ là sáp ong, nhưng chỉ cắn một miếng rồi vội vàng nhả ngay ra tắc lưỡi nhăn mặt:
- Gớm mùi nó nằng nặng làm sao ấy!
Cả ngày khách khứa tấp nập, mãi đến tối mịt mới được thong thả, vắng vẻ, cha con ngồi nói chuyện cửa nhà với nhau. Hình như trong trí bác phó ngẫm nghĩ băn khoăn một sự gì còn thiếu nên chỉ sau lúc những chuyện hàn huyên li biệt đã tuôn ra hết rồi, bác bỗng hỏi cô Tư:
- Thế còn ông ấy đâu, sao bữa tiệc hôm nay không thấy nhỉ?
Bác hỏi “ông ấy”, nghĩa là ông chồng cô Tư. Thì ra ông thực thà, suy nghĩ theo như lễ tục An Nam thì trong bữa tiệc hôm nay lẽ phải có ông quý tế ra chào nhạc phụ. Cố nhiên cái sự bái kiến bằng áo thụng xanh, chiếu cạp điều, bác không dám tưởng đến. Bác cũng tự biết mình cho nên đã gọi chàng rể là “ông ấy” chứ không hỏi “anh ấy” hay là “nó” đâu.
- Thưa thầy, ông Tư con mấy hôm nay có việc quan phải đi lên trên Hà Giang độ một chủ nhật nữa mới về.
- Về ở nhà này?
- Không! Vì ông Tư nhà con có dinh riêng của nhà nước cho ở trong thành. Con cũng thường ở trong ấy. Cái nhà này con thấy rẻ thì tậu, trước cho người ta thuê, mấy tháng nay con lấy về không cho thuê nữa định để làm chỗ buôn bán. Bây giờ thầy cứ ở đây, tiện lắm.
- Ông ấy là người thế nào, già hay trẻ?
- Còn trẻ mà tử tế lắm, thầy ạ. Mấy hôm nữa ông ấy về thế nào mà chẳng mời thầy lên chơi.
- Khốn nhưng tao nghe tiếng Tây như vịt nghe sấm.
- Lo gì, đã có con thông ngôn, vả lại ông ấy nói được tiếng An Nam kia mà.
Đêm hồ khuya, đến giờ đi nghỉ.
Trong buồng kê chiếc giường Hồng Kông còn mới. Cô Tư gọi đầy tớ bưng chậu nước ấm ra cho ông cụ rửa chân, lau chùi sạch sẽ rồi đưa ông cụ vào nằm nghỉ trên chiếc giường tây. Lòng hiếu thảo của cô muốn cho ông bố già từ nay được hưởng mọi sự mới mẻ, sung sướng, dù mình phải thiệt thòi gì cũng cam. Nhường chiếc giường Hồng Kông cho bố nằm là cái hảo ý đó.
Bác phó vừa đặt mình ngồi lên giường, thấy sao nó phập phồng không chắc và lại lún dần xuống khiến bác hoảng hồn đứng phắt ngay dậy tưởng đâu mình làm gãy giường.
Cô Tư phì cười:
- Ấy giường lò xo nó thế thầy ạ. Nằm êm mình lắm. Không phải gãy đâu.
- Thế mà không bảo trước làm thầy giật nảy cả mình, trống ngực đang đánh thùm thụp.
Giường êm ổ ấm, bác phó ta ngả lưng xuống một lát, đã cất tiếng kéo gỗ khò khò kéo thẳng một mạch đến sáng. Có lẽ đã lâu ngày lắm, bác phó mới được một giấc ngủ quý hóa như thế.
Bây giờ đã gặp được bố đưa về Hà Nội, lẽ đương nhiên cô Tư phải dẫn đến ra mắt ông chồng để ông chia sự vui vẻ với mình.
Nhưng ông Tư còn đi vắng, cô cho thế là sự may.
Ông Tư lên Hà Giang có việc quan còn những một chủ nhật nữa mới về, ấy chính là một cơ hội, một thời gian thuận tiện để cho cô Tư đủ ngày giờ giải quyết một vấn đề quan hệ.
Vấn đề gì?
Vấn đề thể diện.
Cô nhớ lại hôm nọ có người chị em kể một câu chuyện buồn cười nôn ruột.
Một cô cũng quê quán ở đâu miền Nam, Thái, lưu lạc lên Hà Thành vớ được ông chồng Tây là người Anh hay người Ý gì không rõ. Ông bố, một…
… (bản gốc mất một đoạn)
Thì ra cụ chỉ nghe được có một tiếng “cu-li” mà hiểu là “cụ lý”.
Hôm nghe người chị em bạn kể chuyện vui ấy, cô Tư đã nói:
- Ai bảo chị nọ không biết sửa soạn cho ông bố chững chạc, dễ coi, thì trách nào người ta không tưởng lầm? Chẳng thế thì ta đừng để cho chồng ngó thấy mặt bố có được không?
Hôm nay cô nhớ lại chuyện cũ, và nghĩ ngay đến cảnh mình.
Các ngài không lạ gì bác phó cựu làng Thành Thị vốn dĩ quê mùa cục mịch thuở nay. Thêm bao nhiêu năm chìm đắm vất vả trong cảnh nghèo nàn; một nách vợ con, hai vai thân thế, chỉ những vật nhau với từng mẻ gạo hằng ngày, cầu cho khỏi đói là may rồi, làm thế nào cho cái bề ngoài được lành lặn chững chạc như người ta, khoan nói tốt đẹp.
Quanh năm bác chỉ đóng bộ áo vải quần bô, chân không biết đôi giày, đầu tuy có cái khăn nhiễu quân được vài vòng, nhưng nó đã kinh niên bạc thếch, có lẽ là của di truyền mấy đời.
Lúc cha con gặp nhau rồi đi Hà Nội, bộ cánh của bác phó cũng chỉ có thế. Râu tóc cũng để bờm xờm khó coi.
Bộ tịch thế mà cứ để tự nhiên trình diện ông rể à?
Không được.
Cô Tư nhất định phải giải quyết vấn đề thể diện. Cô sẽ phải giới thiệu cho phu quân biết thân phụ cô, đành là một ông lão nhà quê, nhưng phải là một ông lão ăn mặc chững chạc tử tế, không thể bị khinh hay lầm tưởng là cu-li, và đức phu quân trông thấy phải có thiện cảm ngay.
Vì may gặp dịp chồng còn vắng xa chưa về, cô Tư lợi dụng ngay thời giờ ấy để lo trang hoàng sửa soạn cho ông bố. Luôn tiện cho cả bà dì ghẻ và thằng em bé nữa.
Sẵn có khăn nhiễu áo the người ta đem mừng kia rồi, cô Tư thân hành mua sắm giày dép, bí tất trắng, vải chúc bâu, về hối hả may cắt cho cả ba người đổi hẳn lốt mới. Cô không quên gọi thợ cạo đến sửa râu vén tóc cho ông cụ. Một mặt, lại săn sóc từ miếng ăn miếng uống bổ dưỡng. Chỉ trong mấy hôm, da thịt bác phó đã nở nang hồng hào, xem ra vẻ người chỉnh tề, đầy đặn.
Mỗi lúc nhàn hạ, cô nói qua tính tình cử chỉ của ông chồng cho bố biết trước. Sáng mai ông Tư ở Hà Giang về, thì tối nay cô còn đinh ninh căn dặn:
- Rồi đấy thầy xem, người Tây họ tử tế lịch sự đáo để. Họ thích người ta đi đứng nói năng tự nhiên. Ngày mai, gặp mặt ông ấy, thầy chào: “Bông xua me sừ”, hễ ông đưa tay ra thì thầy cũng đưa tay ra bắt lấy, đừng rụt rè nhá.
Đêm hôm ấy, bác phó nhận mãi mấy tiếng “Bông xua me sừ”.
Buổi sáng hôm sau, ở nhà ông Tư trong thành, có cuộc hội kiến giữa ông với gia quyến bên vợ.
Bác phó ta chỉ nói được hai tiếng “me sừ”, vì lúng túng quên mất hai tiếng trên. Khi ông Tư đưa một tay ra bắt, thì bác phó lại đưa cả hai, nắm chặt lấy bàn tay ông quý tế mà lúc lắc. Tuy vậy, ông tươi cười vui vẻ, và mời ngồi đãi rượu. Vốn ông có cảm tình yêu mến người An Nam, lại trông thấy vợ chồng bác phó ăn mặc ra phết nhà giàu xứ quê, cho thêm càng thêm vị nể.
Ông nói tiếng An Nam một cách dấm dẳn (vì ông mới học được gần một năm), hỏi chuyện bác phó về việc cửa nhà, cày cấy. Thỉnh thoảng phải chêm tiếng Tây, thì có cô Tư thông ngôn lại cho bố nghe. Cô thông ngôn đúng hay sai, không biết. Vì chính cô cũng mới học tiếng Tây lõm bõm từ năm ngoái.
Có mấy tiếng An Nam, ông nói nghe rõ ràng nhất là:
- Tôi yêu cô Tư lắm.
Ông vừa nói vừa ôm lấy cô Tư, đặt vào mỗi bên má phính một cái hôn có tiếng kêu đầm ấm.
Đồng thời, không hề bảo nhau mà vợ chồng bác phó, cả thằng bé con chưa hiểu cóc gì, cùng ngảnh mặt đi và cười chúm chím. Thời đại ấy, người mình lạ hẳn với cái lối biểu lộ ái tình trước mặt công chúng như thế, vì còn đang giữ kỹ cái luân lý “nam nữ thụ thụ bất thân”.
Chiều lại trở về nhà phố hàng Dầu, bác phó nắc nỏm khen mãi ông Tư quý hóa phúc đức, và nói với con:
- Thế là phúc cho nhà ta đấy, con ạ.
Cô Tư cười:
- Sao năm xưa thầy cứ ép mãi con làm nàng hầu, vợ mọn lão bá Kim Sơn.
Bác phó ta làm thinh.
XVII
Cha con phá thành Hà Nội ròng rã ba năm
Từ đây, cuộc đời và cách sống của ông lão phó cựu Thành Thị đổi hẳn.
Sau mấy ngày về Bồng Hải tống khứ cả những cửa nhà vật dụng cũ kĩ đi rồi, bác phó trở lên Hà Nội ở phố hàng Dầu, nghiễm nhiên là một nhà phong lưu trưởng giả. Lúc này lại chơi chậu hoa non bộ, lại uống chè tàu ấm chuyên, mỗi bữa ăn lại có rượu nhắm đưa cay, có người đứng hầu quạt. Giò, rượu nếp của ta – thứ rượu mà bác chuyên nghề và sống nhờ về nó – bác xem ra nhạt nhẽo, bác thường đánh chén bằng rượu cô nhắc nguyên vị của ông quý tế sai đem lại cho. Trong tủ chè, lúc nào cũng có mấy chai cô nhắc để sẵn.
Thật, ông tư Garlan phúc hậu tử tế, đối với bác phó rất ân cần. Mỗi chủ nhật ông mời lên nhà riêng ăn cơm tây, nói chuyện thân mật. Một vài ngày ông lại đến nhà ở phố hàng Dầu thăm hỏi và cho quà này vật kia luôn luôn. Cử chỉ quý hóa ấy là một sự lạ ở cuối thế kỉ trước. Cho nên hàng xóm đều để ý, bàn tán.
Người thì tưởng bác phó là một vị quan to cựu triều cho nên có quan Tây hay đến hỏi han đại kế.
Kẻ thì bảo ông Tây đến học tiếng An Nam với lão chủ nhà.
Dần dần nhiều người biết và kháo nhau:
- Bố vợ đấy.
Rồi ai nấy đều khen ông quý tế ăn ở như thế, ngay trong nhà lễ giáo bản xứ cũng hiếm có.
Người ta thường nói “Mẫu dĩ tử quý” (mẹ nhờ con đỗ đạt làm quan mà được quý hiển) đây thì là “Phụ dĩ nữ vinh”, quả thật cha nhờ con gái được vẻ vang sung sướng.
Cứ tháng tháng, ông tư đem lại cho nhạc gia một gói 50 đồng bạc và nói chơi:
- Tôi đem tiền lương hưu trí lại cho ông đây.
Thời ấy người ta được tiêu toàn bạc đồng. Mỗi lần, bác phó cung kính cất gói bạc vào trong tủ rồi pha ấm trà liên tâm thật ngon mời ông quý tế xơi.
Chắc hẳn bác phó có tài thăm mỏ mà đào và miệng lưỡi tán tỉnh cũng khéo. Một ngày kia, bác ngồi than thở rằng phong tục An Nam, ai cũng cần phải gây dựng lấy gian nhà ở chỗ quê nhà đất tổ, thế mà phần bác thì ở cố hương chưa có tí gì. Ông tư nói:
- Để tôi giúp ông việc đó.
Quả nhiên năm sau, ông mua cho bác một cái nhà gạch hai tầng ở phố hàng Than, tỉnh Nam Định.
Đời bác phó có lẽ tự cho mình thế là sung sướng mãn nguyện rồi nhưng đời con gái bác thì bây giờ mới là bắt đầu.
Trong khi ông bố vuốt râu nằm khểnh ở trên giàn hoa phong lưu nhàn hạ thì bà con gái sục sạo hoạt động, mưu dựng lên một cơ nghiệp to.
Cô Tư vốn con nhà hàn vi, chịu thương chịu khó làm lụng đã quen lại gặp được chú Hồng chỉ vạch cho những mánh khóe doanh thương trục lợi cho, khoảng ấy đã hồ tấy lớn mà rồi xôi hỏng bỏng không, cô vẫn tấm tức. Giờ được số phận đưa lên Hà Nội là trường hoạt động to rộng hơn, thêm gặp gỡ nhờ vả được ông chồng có địa vị là thế, phen này chẳng lợi dụng mà lên bà phú hộ thì còn bao giờ nữa?
Người ta khỏi lo, cô Tư khôn ngoan tinh quái, cố níu chặt lấy cơ hội, không cho nó chạy vuột đi mất đâu.
Các me tây khác gặp được cảnh sung sướng như cô Tư đố khỏi chỉ lo may mặc, chưng diện, cờ bạc, đồng bóng, không có ý chí gì, dễ thường cũng không nghĩ đến tương lai nữa. Cô Tư thì chỉ lo vun đắp xã giao, gây dùng thực lực để nó làm chìa khóa mở cửa doanh lợi cho mình. Không có một cuộc bao thầu buôn bán nào mà cô ta không chú ý xem xét, mặc đầu mối lợi to hay nhỏ, sức mình làm được hay không.
Đến nỗi cuối năm 1897, ông chồng được lệnh bổ lên cung chức ở miền thượng du, cô Tư xin được cho mình ở lại Hà Nội buôn bán. Vì ông Tư là quan họa đồ nhà binh, lên thượng du tất phải xông pha vào những núi rừng hiểm trở, nước độc ma thiêng, nếu đem gia quyến theo, e có nhiều nỗi nhiêu khê bất tiện.
Hà Nội lúc bấy giờ, miễn là người ta có chí làm giàu, chẳng thiếu gì cơ hội và công việc lớn.
Các ngài cứ đoán ra cũng biết; cuộc Bảo hộ đặt ở xứ Bắc, khởi từ năm 1883, đến cái thời kì 1897 mà chúng ta đang nói chuyện với nhau đây, trước sau mới có 15 năm. Lúc ấy nhà nước đang lần lần thi hành chương trình mở mang Hà Nội trở nên một thành thị tân thời, rộng lớn, vừa là thủ đô của toàn xứ Đông – Pháp. Tự nhiên các công cuộc cải tạo kiến thiết phải ngổn ngang đầy rẫy, tha hồ cho người ta làm. Hạ một nhát cuốc, giăng một sợi dây cũng đủ kiếm ra tiền nghìn bạc vạn.
Cô Tư hơi tinh mắt hơn phần nhiều chị em, trông thấy thời cơ dễ làm cho giàu như thế, trách nào không chuyên tâm chú ý vào việc doanh lợi.
Trăm bó đuốc sao cũng vớ được một con ếch.
Năm 1898, nhà nước làm đúng theo chương trình kiến thiết định sẵn, bỏ thầu phá thành Hà Nội làm đất bằng. Trong giới thầu khoán xứ Bắc, người ta cạnh tranh nhau dữ vì là một việc làm to, chắc có lợi nhiều. Nhưng rồi họ phải nhăn nhó, ngơ ngác, nhảy dựng cả lên như đã ngồi phải ổ kiến lửa, không ngờ cái việc khó khăn mà chắc chắn phát tài ấy lại lọt vào tay một người đàn bà thầu được.
Tất cả các ông thầu khoán vừa thẹn vừa tiếc, dè đâu mình thấp cơ thua trí đàn bà.
Càng không ngờ hơn nữa là thời buổi ấy lại có một “thị mẹt” đứng ra tranh thầu với họ.
Chính là cô Tư Hồng.
Phải, quyết ganh đua và ăn đứt bọn đàn ông, cô Tư được thầu công việc hủy phá bốn mặt thành trì Hà Nội.
Những người nào bây giờ năm sáu chục tuổi, thì lúc thiếu thời mới được trông thấy cảnh sắc hùng vĩ của thành Hà Nội, một dấu tích nghìn năm trong lịch sử Việt Nam. Nói gì với hạng tuổi trong ngoài bốn mươi như lớp chúng tôi, thành Hà Nội đã là một chuyện tang thương, nếu không xem sách hay nghe các bực phụ lão kể lại thì có lẽ cũng không biết.
“Ngưu hồ dĩ biến tam triều cục
“Long động không dư bách chiến thành.
(Nghĩa là: hồ nước tương truyền có trâu vàng – tức là Tây Hồ – đã trải qua ba triều vua đắp đổi; đất Long Biên còn trơ dấu tích bức thành từng chịu đựng hàng trăm trận chiến tranh).
Hai câu thơ cảm khái đanh thép của nhà danh sĩ Hoan châu Phan Trọng Mưu thật khéo thu quát trong mười bốn chữ đủ cả địa vị lịch sử và tinh thần một tòa thành trì tối cổ của nước nhà.
Ai cũng biết Hà Nội là đất Long Biên thuở xưa. Thành Hà Nội nguyên là Thăng Long thành, xây đắp để đóng kinh đô từ triều vua họ Lý khi mới sáng nghiệp. Quả núi đất con con ta thấy ở trong vườn hoa bách thú bây giờ, trên có miếu thờ, dưới có chuồng dím đó, ngày xưa nằm vào phạm vi kinh thành và trên lập giảng võ đường, để mỗi khi vua Lý ngự đến duyệt binh, hay dùng làm trường thi võ cử.
Đến hai triều vua nhà Trần và nhà Lê cũng vẫn đóng đô ở đây. Mỗi triều có gia công tu bổ thành trì cho thêm to, thêm đẹp, nhất là thêm kiên cố.
Nhà Lê có công tu bổ nhiều nhất; cái cơ chỉ ấy truyền mãi cho đến lúc bị phá.
Bốn vách thành Hà Nội từng dầu dãi nhiều nắng mưa; từng thấy nhiều cuộc hưng vong thành bại; từng trải nhiều đoạn oanh liệt hay gian nan.
Nó đã làm nơi đăng quang cho những bực anh hùng lịch sử ta như Lê Thái Tổ, Nguyễn Quang Trung.
Nó đã lắm phen phải để cho gót chân lính Tàu xéo lên, nhưng cũng lắm phen được thấy họ bị tống khứ: Trần Quốc Tuấn tống khứ Thoát Hoan; Lê Lợi tống khứ Mộc Thạnh, Liễu Thăng; Nguyễn Huệ tống khứ Tôn Sĩ Nghị.
Nó đã được chứng kiến bao nhiêu cuộc tranh quyền thoán vị, bao nhiêu trận nội chiến loạn ly: nào cha con Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, nào họ Trịnh đánh nhau với họ Mạc; nào Trịnh Nguyễn tranh hùng; nào loạn kiêu binh tam phủ.
Kể về võ công, thành Hà Nội xưa đáng được bội tinh chiến trận. Ta nên biết nước Pháp đã đặt ra thứ bội tinh vẻ vang giá trị nhất, gọi là Croix de Guerre, chẳng những để gắn vào ngực những tướng sĩ lập được chiến công to tát mà thôi, có khi ban thưởng chung cả một tỉnh thành nào đã can đảm chống cự quân cường địch nữa. Tức như trận đại chiến 14-18, cả thành Amiens kháng cự quyết liệt, quân Đức không sao hạ nổi; về sau nhà nước ban tặng bội tinh chiến trận chung cho cả thành, để kỷ niệm cái chiến công anh dõng ấy. Nếu thuở xưa vua ta biết thưởng chung công trận một thành như cách mới nói trên đây, thì cả nước ta duy có thành Hà Nội là xứng đáng. Vì nó đã có công trước sau ba lần khu trục được giặc Nguyên, giặc Minh và giặc Thanh.
Một người Pháp thâm hiểu gốc tích nước ta đã nói câu này rất đúng: thành Hà Nội chiếm gần hết bộ lịch sử nước Nam.
Vì sao?
Vì là quốc đô đóng ở đó lâu đời; bao nhiêu văn vật tốt đẹp, võ công đáng kể, sản sinh ra ở đó; lại làm căn cơ cho giống người Việt Nam từ đó mà phát triển, mở mang.
Nói về quy mô, thành Hà Nội vừa to vừa đẹp hơn hết các thành trì nước nhà từ giữa thế kỷ 17 trở về trước. Nhưng từ khi Nguyễn triều định đô ở Thuận Hóa, vả lại có ông Olivier, người Pháp giúp vua Gia Long, vẽ kiểu xây nên thành Huế theo lối Vauban như chúng ta thấy bên cạnh sông Hương núi Ngự ngày nay, thì thành Hà Nội xuống đứng bực dưới.
Tuy vậy, cũng vẫn là to và đẹp hơn những thành còn lại hiện thời khắp các tỉnh Trung kỳ và một vài tỉnh xứ Bắc.
Các ngài đi lên Cửa Bắc mà xem thì biết.
Nhà nước Bảo hộ cần phá bỏ thành cũ để mở mang Hà Nội theo cách kim thời – như thế là phải lắm, – nhưng còn lưu lại một miếng Bắc môn không phá, vì ở đấy có một dấu tích về võ công của hải quân, nên để làm kỷ niệm.
Ta cứ đến chỗ ấy, đứng dưới chân vách tường sót lại mà trông lên và đo qua bằng trí, có thể tưởng tượng thành xưa nguy nga kiên cố ra thế nào.
Ngoài ra miếng thành Bắc môn, đến cột cờ xây bằng gạch cao vòi vọi, ai đi qua con đường Puginier đều phải trông thấy, cũng là một di vật của thành xưa.
Phố cửa Đông bây giờ, tức là Đông môn ngày trước.
Cũng như cửa Nam nguyên là Nam môn.
Muốn lượng chừng sự rộng, dầu không tưởng cũng không xa mấy: Ta cứ khởi hành từ chỗ cửa Bắc mới nói trên, đi theo đường phố vòng phố cửa Đông, xuống cửa Nam, vòng lên khỏi Văn Miếu một đoạn, rẽ sang con đường vào Bách thú rồi lại về chỗ xuất phát ban nãy.
Đại khái phạm vi thành cổ đấy.
Cả cái khu vực ấy, năm mươi sáu năm trước cao ngất vách tường như ta còn thấy dấu tích ở cửa Bắc kia, bao bọc tứ vi. Phía trong còn lớp thành đất dày, ngoài có hào sâu chạy vòng theo chân thành, bề rộng đến ba thước.
Bấy giờ biết bao đường ngang phố dọc, biết bao dinh thự trọng yếu, các cơ quan nhà binh, các trại lính đóng, tóm lại, nguyên cả một khu rộng lớn, ta quen gọi là “Trong thành”, đều thuộc vào phạm vi thành cổ.
Duy có các vị cố lão sáu bảy chục tuổi, họa chăng ôn lại trí nhớ, tìm vạch dấu xưa, mới bảo cho chúng ta biết được chỗ nào là dinh tổng đốc, chỗ nào là hành cung, chỗ nào ông Hoàng Diệu viết xong bài biểu văn có những câu:“đà tàm Bắc kỳ đô nhân sĩ ư sinh tiền, nguyện tòng tiền nhân Nguyễn Tri Phương ư địa hạ”.
Với cách kiến thiết tỉnh thành của đời văn minh này, thành trì lối xưa là một vật chướng ngại, choán mất nhiều đất vô ích, vừa không có mỹ quan, vừa không thấy hữu dụng, ngay về phương diện phòng thủ cũng vậy. Nhà nước Bảo hộ định sửa sang Hà Nội cho trở nên thủ phủ Đông Pháp và một tỉnh thành lớn, hủy phá thành trì cũ đi là phải lắm.
Phá thành cũ đi, lấy chỗ mở đường lập phố, chẳng phải được việc hữu ích hơn.
Có điều, phải nói cho đúng, người phá thành Hà Nội trước tiên chính là đại tá Henri Rivière.
Nguyên từ hồi 1873 đến 1882, ta vẫn mơ tưởng vào sức mạnh của quân nhà Thanh, thành ra sai cả điều ước đã ký với nước Pháp, và để cho quân Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc hoành hành xứ Bắc, nhiễu hại cả việc nội trị ngoại giao của ta. Thấy tình thế không thể làm ngơ được nữa, nước Pháp nhất định giải quyết vấn đề Bắc kỳ cho xong.
Thoạt tiên, đại tá Henri Rivière phụng mạng đem quân ra bình định Hà Nội và Nam Định, rồi Soái phủ Nam kỳ phải thêm nhiều viện binh ra đánh tan quân Lưu Vĩnh Phúc ở Sơn Tây và quân Thanh ở Lạng Sơn, kết quả là bản điều ước 1884, nước Pháp định xong Bắc kỳ, đặt cuộc bảo hộ.
Ngày 25 Février 1882, đại tá Rivière công hãm thành Hà Nội chỉ trong mấy giờ đồng hồ, xong rồi ra lệnh phá thành để quân Cờ đen không còn chỗ ẩn núp nhiễu hại được nữa.
Sự thật, thành Hà Nội bắt đầu phá đổ từ đó.
Song lúc ấy chỉ là một việc đánh ngã vách tường xuống thôi, chớ gạch đá còn ngổn ngang chưa dọn, chân thành chưa cuốc bằng và hào cũng chưa lấp.
Từ đấy cho tới năm 1898, các dinh thự, ông sở, và phần nhiều người Pháp sang, ở cả trong khu vực gọi là Nhượng địa (concession), tức là Đồn Thủy bây giờ. Có người đem gia quyến sang, phải thuê nhà lụp thụp ở trong phố An Nam, hoặc ở tạm trong chùa cũng có.
Trong khoảng đó, các nhà kỹ sư Pháp chăm chú công việc đặt đường mở phố Hà Nội, và có nhiều đường mới phố mới đã mở ra. Hà Nội không còn phải một châu thành chỉ có 36 phố phường như câu hát nữa.
Công cuộc mở mang trong mười lăm năm bắt đầu như thế, tuy đã san bằng được nhiều đoạn cổ thành và lấp kín được nhiều hào vũng, nhưng cũng còn một bộ phận lớn đang còn bừa bộn, chưa kịp dọn dẹp.
Vì thế, năm 1898, nhà nước nhất định phá hủy chân thành, lấp kín hào vũng chung quanh một lần cho hết, để lấy rộng đất làm cửa nhà, mở đường sá.
Giờ chúng ta có thể trở về với đàn cừu của chúng ta.
Công việc phá thành vừa nói như trên đây, cô Tư Hồng được lĩnh làm.
Nói cho đúng, cô Tư lĩnh được việc này, cốt nhờ tiếng tăm và sự báo kết của ông chồng mà được tín nhiệm, nhà binh mới giao cho mà làm.
Các nhà thầu khoán có râu, có sừng lúc bấy giờ, lành nghề và nhiều vốn hơn mà không tranh nổi một người đàn bà là vì thế.
Nhưng ta cũng nên biết giùm công việc phá thành không phải đâu một việc dễ, nhà thầu khoán chỉ ngồi mà ăn.
Nhất là ở thời đại bốn chục năm về trước, mọi sự gì cũng còn nhất sơ thiếu thốn, nào có máy đào máy chở gì, động một tí là có cơ khí chuyên môn giúp sức như bây giờ đâu?
Thuở ấy, người ta chỉ có sức bắp thịt để nạy từng viên gạch, xúc từng xẻng đất, bỏ đầy vào đôi thúng gánh đi mà đổ xuống chỗ khác. Liệu chừng mỗi ngày một người đi về như thế được bao nhiêu gánh?
Đã vậy, phần nhiều thành xưa của ta, dưới chân là đá ong, trên gạch nung thật già, hòn nọ dính với hòn kia bởi một thứ hồ riêng, hình như trộn vôi cát với giấy bổi mật ong mà luyện nên, nó bền mà cứng vô kể, trải bao nhiêu gió mưa, binh hỏa cũng vẫn trơ trơ. Thành ra nạy được những hòn gạch này, người ta phải mất bộn hơi sức và mồ hôi.
Công cuộc phá thành lấp hào vì thế mà tốn nhiều nhân công và làm vất vả lâu ngày. Cô Tư bắt tay vào việc từ cuối năm 1898 mãi đến đầu năm 1901 mới xong, tính lại vừa đúng ba năm.
Còn nhớ ngay lúc sắp đặt khởi công, cô Tư phải tậu một cái nhà ở phố hàng Da để làm đại bản doanh đốc thúc thầy thợ, trông coi phu phen. Hai cha con thay phiên nhau săn sóc việc làm tận nơi, tận chỗ, vừa đóng vai ông chủ vừa đóng vai cập ràng.
Khổ nhất là việc phá cửa Đông, nên cô Tư phải lập căn cứ ở gần đó cho được gần nẻo đi về, tiện đường coi sóc.
Tuy vậy, việc làm này chính là bậc thang cho cô Tư Hồng bước lên trên đài danh lợi.
XVIII
Bắt được vàng chôn hay chỉ là có đống đá
Thật thế, việc thầu khoán phá thành đã đặt vào tay cô Tư một mối phát tài to.
Trong khi xã hội bắt đầu biết tiếng cô Tư Hồng và nhiều chú đàn ông dòm nom, gấm ghé thì sở địa ốc của thành phố Hà Nội đã biên tên Trần Thị Lan là một nghiệp chủ.
Người đàn bà mới ngoài ba mươi tuổi ấy có thủ đoạn khôn ngoan thật tình.
Một công hai việc: cô Tư vừa phá, dọn thành xưa vừa xây nhà mình.
Thì ra những viên gạch cạy gỡ ở thịt da bức cổ thành kia nào phải là vật đáng bỏ đi, vô dụng!
Bộ óc tính toán lợi dụng của cô nặng đến mấy ki lô không chừng.
Giữa lúc vất vả dọn thành cứ dọn, cô vẫn lo tậu đất làm nhà. Vì những viên gạch nào nạy ở thành ra còn nguyên lành, vẫn có thể đem dùng vào việc xây nhà cất phố của ta, còn gì tiện lợi và khỏi tốn hơn nữa.
Cho đến sự thuê một căn nhà ở hàng Da để làm căn cứ đã nói ở cuối đoạn trên, cũng là nhất cử lưỡng tiện, để coi sóc công việc dọn thành ở cửa Đông mà cũng để trông thợ làm nhà của mình ở trong xóm ấy luôn thể.
Chắc hẳn cô Tư mua đất ở xóm Đông môn lúc ấy cũng như chú Hỏa mua đất chung quanh chợ Bến Thành, Sài Gòn. Nghĩa là một xu một thước.
Tiền có, đất rẻ, gạch kia tha hồ; lúc bốn vách thành Hà Nội ngã xuống sát đất tức là lúc mấy dãy nhà mới của cô Tư ở mặt đất mọc lên.
Năm 1901, người ta thấy công cuộc phá thành vừa hoàn hảo thì một dãy nhà mới ở phố cửa Đông Général Bichot cũng tạo lập gần xong. Lại xây thêm một dãy khác ở hàng Da cả thảy tám căn.
Thời đại nào, kỉ cương ấy. Những dãy nhà kia, so với lâu đài phố xá bây giờ chẳng thấm vào đâu nhưng mà ba bốn chục năm trước, người làm chủ nó đã nổi tiếng là sang trọng và được coi là một đại phú gia.
Hồi này, vốn liếng trong tay cô Tư được chừng vài ba vạn.
Thấy gái nhiều của mà ở một mình, thiếu gì các ông danh giá mon men, tán tỉnh. Vì quan tư Garlan về Pháp năm 1902, cô Tư ở độc trụ buôn bán làm ăn, người ta đồn cô nhân tình ông này ông nọ, chẳng ai biết đấy là đâu nhưng kể danh nghĩa thì chưa có ông nào là chồng chính thức.
Còn các bà thì ngồi lê đôi mách:
- Ấy, cô ả phá thành bắt được vàng chôn từ đời xưa mới chóng giàu to như thế, bà ạ. Chứ công việc dọn mấy đống gạch, dù có lời lãi cũng không tậu nổi hai ba dãy phố như thế kia!
Tiếng đồn cô Tư Hồng dọn thành được của, đồn vang khắp cả kẻ chợ nhà quê từ đó.
Người ta đồn cũng có lẽ.
Như các ngài đã rõ, thành Thăng Long nguyên là kinh đô của ba triều vua Lý, Trần, Lê. Trước sau gần bảy thế kỉ.
Phàm là chốn kinh sư, bao giờ cũng tụ tập những của trân kì quý báu. Trong chỗ cung vi chứa nhiều vàng ròng, của lạ đã cố nhiên, lại còn các phủ vương công, các nhà quyền quý, các tay phú hào, thiếu gì kim ngân tích súc.
Bảy trăm tuổi của Thăng Long đế đô đã trải qua ba phen thay triều đổi họ, ba lần quân Tàu xâm lăng, ngoài ra còn biết mấy mươi lớp nào loạn li, nào nội chiến, nào đào nạn, nào luân vong. Cứ mỗi cơn quốc gia biến cố như thế, từ trong cung cấm đến ngoài dân gian, trước khi trốn tránh, người ta chôn vàng giấu của ở một xó xỉnh nào đó, họa may sau về còn mong lấy lại của mình. Nhưng thử hỏi bỏ nhà chạy nạn xưa nay, có bao nhiêu người trở về được hay là trở về mà của chôn còn đó không mất?
Vậy thì biết đâu những buổi thành Thăng Long sao dời vật đổi như cuối đời Trần Lê, chẳng có những cung nhân chôn giấu vàng ngọc dưới một gốc cây hay một góc thành?
Lại biết đâu những thuở có quân Mông Cổ tới hay có loạn Kiêu binh nổi lên, chẳng có những nhà quan sang giàu lớn gói ghém vòng xuyến hoa hột, chôn dưới chân thành cho khỏi bị quân giặc cướp mất?
Nhưng rồi ngày qua tháng lụn, cỏ mọc rêu phong, tài chủ một đi không về, bảo vật trăm đời nằm đó. Người sau đào cây cuốc đất, vô tình bắt được vàng bạc của cổ nhân, của tiền triều là sự thường thấy. Vàng Sầm Sơn mấy năm nọ là một chứng cớ.
Suy thế thì vì dọn dẹp thành Thăng Long mà cô Tư vớ được mười con trâu vàng hay một kho bạc nén tưởng cũng có thể có và cũng không phải quái lạ gì.
Tuy nhiên, câu chuyện được vàng chỉ theo tiếng gió truyền văn, không biết đâu mà chất chính thực hư thế nào. Duy một đống đá vứt đi mà rồi bán được dăm sáu nghìn đồng thì là chuyện có thật.
Con người ta đến lúc số phận cho khá, thần tài nịnh hót đến nỗi như phép thần tiên “chỉ đá hóa vàng”, có lẽ tiếng đồn được vàng bởi đó mà ra chăng?
Đoạn trên, chúng tôi đã nói thành Hà Nội xưa chân móng xây bằng đá ong thật tốt; hai bên thành cầu đi vào mỗi cửa cũng xây đá hoa. Năm trước, cô Tư Hồng lĩnh việc phá thành, những đá ấy, hòn nào to và nguyên lành, người thầu được bán hay phải nộp nhà nước dùng vào việc kiến trúc khác không rõ. Chỉ biết cô Tư gom góp được vô số đá nhỏ, đá nhớn đem về chất thành mấy đống cao ngất như mấy đống rơm của nhà đại điền chủ ở trong khu vườn sau nhà cô tại phố hàng Da.
Mấy đống đá coi như vật bỏ lăn lóc dầu dãi nắng mưa luôn ba bốn năm trời. Cô Tư định bụng nay mai có xây nhà tây thì dùng nó làm nền, làm móng.
Ngờ đâu hôm kia có một ông lão làm nghề bán đá mài nghe tin đến mua. Kế tới những thợ khảm các nơi đồn nhau đến mua về để mài trai mài ốc, tốt lắm.
Ấy thế là đá phát giá cao. Hòn to bán một hai đồng; nhỏ nhất cũng năm bảy hào. Chỉ hơn một năm, cả mấy đống đá như có chân ra đi, đem về cho cô Tư một số tiền khá lớn.
Chẳng bao lâu, người thấy cô tậu được chín gian nhà tây ở phố Richaud và xây tòa nhà tân thời đồ sộ ở ngõ Hội Vũ. Cô thường nói:
- Đấy là số tiền bán mấy đống đá năm xưa, tôi đem buôn bán sinh lợi mà tậu và làm nên những ngôi nhà này.
XIX
Nhà buôn gạo được vua Thành Thái ban khen phong sắc
Thế kỉ thứ 20 đã mở đầu ở nước ta với nạn cơ hoang kịch liệt dọc theo dãy núi Hoành Sơn.
Luôn hai năm 1902 và 1903, hầu hết mười ba tỉnh Trung kì mất mùa. Có tỉnh còn vơ vét được lúa bắp ít nhiều. Có tỉnh thì mất sạch sành sanh. Dân tình đói kém hết sức.
Nhất là hạt Thừa Thiên.
Các ngài hẳn không lạ gì địa thế Trung kì ta đóng vai làm hình chiếc đòn gánh cho hai đầu thúng Nam Bắc. Mình dài và mỏng, ngoảnh mặt ra thấy bể rộng, day lưng vào đụng với rừng núi liên miên, còn lại đất cát khả dĩ cày cấy trồng trọt không được bao nhiêu.
Ngay những năm được mùa, xứ Trung còn thiếu thóc để nuôi cư dân huống chi mất mùa, nạn đói kém bày ra nguy ngập tức khắc.
Thừa Thiên, núi non ở chen với đồng điền vốn là một tỉnh vào hạng những tỉnh nghèo nhất trong xứ Trung. Thế mà dân cư lại có phần trù mật, chắc vì lẽ sở tại kinh kì. Địa lợi cũng kém và không có công nghệ gì bổ sung vào canh nông. Ấy là chúng tôi nói chuyện bốn chục năm trước.
Bởi vậy, trong cái thời kì hai năm vừa mới kể trên, dân tình Thừa Thiên gặp nạn đói kém lạ lùng. Còn nhớ các bậc phụ lão ở đế kinh nhắc lại chuyện xưa với những hơi thở dài và cho là một cảnh cơ hoang không tiền khoáng hậu.
Mấy huyện mé ngoài còn khá, khổ nhất phía trong vào tới Thừa Lưu, Truồi, Liên Chiểu, người ta đói tới nước chỉ còn bộ xương bọc da, đói nằm lả trên đường mà chết ngổn ngang.
Nghe cũng đủ cho mình thương tâm, nói gì những người được mắt thấy.
Nhà nào nhà nấy đều tuyệt khói bếp lâu ngày. Vì trời đại hạn đã đốt cháy khô nhất thiết, không còn để lưu một trái bắp, một củ khoai, một hột lúa nào cho người ta có thể đun nấu mà bảo phải cần đến lửa?
Đói quá, thôi thì người ta vớ được cái gì cũng nhai tuốt để cho đàn kiến trong bụng khỏi chạy và sợi dây thở mỏng manh khỏi đứt.
Ban đầu, người ta hái lá sung, rau má mà ăn, coi như cao lương mĩ vị. Đến sau phải ăn cả rơm cỏ đỡ lòng. Rồi đem nhau vào rừng bới đào các thứ rễ cỏ, củ cây và bóc lột tới vỏ cây nhai ngấu chẳng kể gì đến sự độc lành. Già trẻ lớn bé đều thế. Tội nghiệp, lắm người giữa đường kiệt sức, nằm lăn ra đó tắt thở luôn. Có người truy tặng những kẻ bất hạnh ấy là tử thương binh sĩ của trận giặc đói.
Phải biết Chính phủ Bảo hộ và triều đình sốt sắng ra tay cứu cơ phát chẩn nhiều lắm nếu không thì dân tình Thừa Thiên mấy năm ấy còn đói kém khổ sở hơn nữa.
Tai nạn đói tràn lan như đám lửa cháy quá to, cố nhiên một hai gáo nước cứu cơ không thể nào tưới tắt cho được.
Lúc đó ở ngay kinh sư và các thị trấn phủ huyện, những nhà có tiền đổi gạo, phải mua với một giá đắt đỏ ghê sợ. Hạt gạo quý như hạt vàng. Bọn đầu cơ các nơi chở gạo thóc vào Thừa Thiên bán một giá nhất bản vạn lợi, thật là cơ hội phát tài cho họ, nhưng họ cắt cổ người mà ăn.
Cô Tư Hồng thấy thế cũng tính cầu lợi mà lại hóa ra lập được công danh, nổi tiếng nhân nghĩa mới kì.
Nguyên là sau việc thầu khoán phá thành được phát tài đâu hai ba vạn, cô xoay ra buôn bán lớn về thóc gạo, bắp ngô. Hồi này cô đã bắt đầu bước vào địa vị một nhà doanh nghiệp có số ở Hà thành. Xã giao cũng rộng. Khách hàng Tây có, Tàu có, An Nam có. Trong bọn chơi bời giao thiệp, không thiếu gì quan thương, phú hộ Tây Nam.
Trước cửa tòa nhà ở phố cửa Đông, sáng chiều thiếu gì ngựa xe dừng bước, quan khách ra vào. Nếu không phải khách hàng đến mua bán thóc gạo thì cũng là bạn bè Tây Nam đến thăm chơi.
Cụ Nguyễn Năng Quốc, thử thời đang ngồi tri phủ Hoài Đức, cụ Trần Nhật Tỉnh, tri huyện Đông Sơn, cụ Trần Tán Bình, đốc học Hà Nam, ông Vũ Huy Quang, thông phán trạng sư; các nhà công thương doanh nghiệp như Trần Viết Soạn, Bạch Thái Bưởi, Cự Khánh hàng Bạc, Hòa Kí hàng Khay, đều là những khách năng đi lại nhà cô Tư, hoặc tới giao du, hoặc vì việc buôn bán.
Đã nói cô Tư đang độ xuân sắc hơ hớ, ở độc thân mà lại giàu có như thế, ai chẳng thích tìm đến kết giao.
Nghề đời, có năm lại muốn giàu mười. Hễ có một cơ hội hốt của thêm họ không khi nào chịu bỏ.
Nghe nói hạt Thừa Thiên đói kém luôn hai năm, thóc gạo rất khan và bán được giá lắm, cô Tư chở đầy một chuyến tàu gạo vào Huế để bán thủ lợi. Hồi ấy vào khoảng đầu năm 1904.
Nhưng khi tàu gạo mới ở ngoài này nhổ neo thì ở trong Huế, nhà đương cuộc Bảo hộ muốn trừ cái nạn thóc cao, gạo kém cho dân, vừa mới ra nghị định cấm buôn bán đầu cơ. Thành ra lúc tàu gạo vào đến nơi, đáng lí bị tịch biên và người chở gạo lại còn bị phạt nữa là khác.
Phúc đáo tâm linh, cô Tư nói dối ngay một cách rất khôn ngoan, mẫn tiệp:
- Không! Tôi chở tàu gạo này vào, cốt để phát chẩn cho dân đói, chớ có phải bán chác gì đâu.
Câu nói xoay hẳn tình thế, lật ngay mặt trái ra mặt phải.
Từ nhà buôn gạo đầu cơ đổi ra nhà giàu lòng từ thiện.
Một việc thừa nguy cầu lợi đáng khinh trở nên một việc cứu khốn phò nguy đáng trọng.
Quan Khâm sứ ngợi khen lòng thiện hiếm có, nhất là từ nghìn dặm chở gạo lại đây cứu người. Thừa Thiên Phủ doãn thông sức cho các địa phương. Hôm trước hôm sau, nạn dân tứ phía kéo về Phủ doãn lĩnh chẩn đông như kiến cỏ.
Mỗi người được vài đấu, dăm lon, so với đại nạn tuy không thấm gì, nhưng kể cũng níu lại hơi thở của họ được dài thêm mấy bữa.
Khắp kinh sư vang đồn tiếng tăm bà Tư Hồng, nhà từ thiện xứ Bắc. Nạn dân được bố thí thì cảm ơn nhớ người, còn cái ẩn khúc bên trong, họ nào biết được.
Thử thời nếu có báo chí quốc văn to rộng như bây giờ, chắc người ta đã thấy dung nhan cô Tư in bằng cái mẹt trên báo vào những bài tán dương leo từ trang nhất qua trang ba, trang bốn.
Tiếng vang thấu đến cửu trùng.
Trong lúc cô Tư đang vui thú phong cảnh sông Hương núi Ngự với những bạn mới ở thần kinh, bỗng tiếp được thánh chỉ triệu vào bệ kiến.
Đoạn này xin để cô Tư – người trong cuộc tự thuật ra thì hơn:
- “Hôm tiếp được lệnh đòi, tôi lo sợ “xanh mặt”, không hiểu chuyện gì. Một bà chị em bạn nói: Chắc vì việc cô phát chẩn, “ngài ngự” muốn triệu vào tận nơi để xem mặt ban khen chớ gì. Mấy ai được cái vinh hạnh ấy, nhất là đàn bà. Thế là đáng mừng, có chi mà lo.
“Bây giờ tôi mới yên tâm.
“Nhưng thuở nay mình chẳng biết lễ nghi trong chốn triều đình cung cấm là thế nào, biết quỳ lạy tâu gửi cách sao cho khỏi phạm phép?
“Biết tiếng cụ thượng Cao Xuân Dục xưa kia từng làm quan xứ Bắc, tôi vội vàng đến hầu thăm cụ để hỏi cách thức.
“Cụ tiếp đãi ân cần và bảo cho biết việc chầu hầu đã có quan Lễ bộ chỉ vẽ hướng dẫn, đừng lo. Vả lại, cụ sẵn lòng để cụ lớn bà đưa tôi vào nội.
“Sáng mai, cụ bà sửa soạn giùm tôi bịt khăn vành dây, mặc áo rộng, do quan Lễ bộ tập qua nghi lễ rồi cùng đi vào cấm thành.
“Chỗ cung điện tôi vào chầu gọi là điện gì tôi cũng chẳng biết. Cảnh lộng lẫy uy nghiêm làm tôi choáng cả mắt, run cả người. Một lát, nghe quan Lễ bộ nói nhỏ: Ngài ngự và bảo tôi làm lễ. Tôi lễ năm lễ, khấu đầu chín lần. Ngài ngự ban cho ngồi và phán hỏi tên họ, quê quán tổ tích và công việc buôn bán thóc gạo. Kế ngài ban khen việc tôi đem gạo từ Bắc vào phát chẩn rồi truyền thái giám đưa tôi vô hậu cung bái kiến các bà phi tần và hầu chuyện khá lâu mới ra.
“Tôi không ngờ đời tôi có cái vinh hạnh ấy, có chỗ sung sướng không thể tả ra được nữa kia v.v…”
Chuyến này mất mấy nghìn đồng bạc gạo nhưng được tiếng nhân nghĩa, được gần thiên nhan và chắc sắp được phẩm hàm nữa, cô Tư hớn hở ra mặt, khi xuống tàu từ giã đế kinh.
Quả nhiên cô về Hà Nội mới hơn một tháng thì có tin trong Bộ tư ra, cô được triều đình ân thưởng bốn chữ sơn son thếp vàng: “樂捐義婦, Lạc quyên nghĩa phụ” và sắc phong cho làm “Chánh ngũ phẩm Nghi nhân 正五品宜人”
Trong lòng sắc có hai câu:
女中風雅之, 紅裙拔俗
世上雲雷之會, 白手成家
“Nữ trung phong nhã chi hào, hồng quần bạt tục
Thế thượng vân lôi chi hội, bạch thủ thành gia”
(Nghĩa là: Hào hoa bực nhất chị em, má hồng khác tục; Bay nhảy gặp hồi mây sấm, tay trắng nên nhà).
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com