Chân Dung Kẻ Sĩ: Dưới sự khuyến khích của anh trai là nhà văn Khái Hưng (Trần Khánh Giư), nhà văn Trần Tiêu viết văn khi đã 36 tuổi. Ông có quan hệ mật thiết với Tự Lực Văn Đoàn của Khái Hưng, nhưng chỉ chuyên viết về đời sống nông thôn Việt Nam. Con Trâu là truyện dài kỳ đăng trên báo Ngày nay bắt đầu từ số 140 ra ngày 10/12/1938, sau đó NXB Đời nay in thành sách năm 1940, trở thành một trong những tiểu thuyết sớm nhất viết về đề tài nông thôn Việt Nam.
Nhà văn Trần Tiêu còn là cha của giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Bảng và là ông nội của diễn viên, đạo diễn Trần Lực.
Từ hôm ông hội làm xong chức vụ một ông đại bái trong bữa tiệc mừng ở nhà ông tiên chỉ thôn, từ hôm ấy, không ngày nào ông không chè chén, không đêm nào ông không tổ tôm với các cụ cựu.
Hãy nói bảy ông lão sáu mươi trong thôn Tiền của ông thôi. Theo đúng lệ, mỗi ông phải “sắng” một tiệc rượu mời làng, một tiệc rượu mời thôn, một tiệc mời tư văn, một tiệc mời tư vũ, một tiệc mời khu xóm, một tiệc mời họ. Sáu tiệc ấy, chóng ra mỗi ông cũng phải làm trong ba hôm. Và muốn được tươm tất, mỗi ông phải tốn ít ra mười lăm mười sáu con lợn, ngót hai trăm thúng gạo, vừa nếp vừa tẻ, hơn hai trăm chai rượu, một cót chè tươi, hàng mớ cau, hàng thúng trầu không. Ông nào muốn sang lại còn thêm vài chục bao thuốc lá, vài chục gói chè tàu.
Thế mà ông đại nhà tôi thì làng cũng có ông, thôn cũng có ông, tư văn, tư vũ đều có ông, duy chỉ có yến lão* là không, vì ông chưa đến bực lão.
Yến lão: cỗ bàn dành cho bậc lão trong làng.
Đừng tưởng cứ có tiền làm cỗ là có người vác mồm đến chén đâu. Ông nào có tính kiêu căng, ngày thường hay khinh bỉ, bắt nạt đám xã nhưng thì lúc này sẽ biết tay họ. Chả thế mà ông lý Cầu khu trong, giàu có tiếng, muốn làm to mà không sao làm được. Chỉ vì bọn xã nhưng bảo nhau không đến, làm cho hôm đầu cỗ bàn của ông ôi thối.
Tuy vậy, lệ làng rất rộng. Ông nào nghèo túng ra xin làng mời chay, nghĩa là trầu nước suông cũng được. Làng không bắt bẻ. Nhưng ai đã có của hay có thể nhờ anh em, bà con giúp đỡ thì không khi nào họ chịu cái nhục ấy.
Thấm thoát nay đã mồng bốn tháng hai. Ông hội lại ra nhận chức đại bái. Ông lại bắt đầu đo đắn từng bước đi, thận trọng từng lời nói, hống hách, bắt bẻ từng li từng tí để bảo vệ cho thể thôn.
Hôm ấy ông đến “túc trực” ở đình. Trước khi ra đi, ông dặn vợ dặn con trông nom nhà cửa như một người sắp đi xa hàng tháng.
Ông cẩn thận thế cũng phải. Vì một khi tới đình, ông phải luôn ngày đêm ở đấy cho đến ngày mồng mười là ngày đóng đám, rồi lại bận công bận việc tiếp khách tiếp khứa cho đến ngày mười tám là ngày giã đám.
Vừa chân ướt chân ráo, ông đã lo sửa sang chỗ ngồi cho ra phết chỗ ngồi của một ông đại: một chiếc án thư phủ mào quần bằng nỉ đỏ thêu long, ly, quy, phượng kê đằng sau và ngay sát cạnh sập ông ngồi. Giữa án thư, một cái đồng hồ quả lắc, hai bên, một cái độc bình và một cái giá gương. Cạnh ông ngồi, một cái tráp sơn then, mặt tráp khảm cành hồng con bướm, chung quanh thành khảm tứ quý.
Trước mặt ông, một cái điếu ống, xe dài uốn cong và một cái khay khảm trong để bộ đồ trà.
Dòng dã ngót nửa tháng trời, ông không bước chân ra khỏi cửa. Cơm nước đã có người bưng ra, quần áo thay đã có người mang đến. Hầu hạ sai vặt đã có thằng mõ chạy đi chạy lại. Đủ biết làm được đại bái cũng khó lắm thay!
Nhưng ông đại cũng không đến nỗi quạnh hiu lủi thủi một mình một bóng. Ngày đêm đã có các ông cựu đến hầu chuyện, hầu tổ tôm, hầu rượu để mua vui cho ông đại. Song hôm nào cũng hai bữa chén thì ông đại lấy tiền đâu mà thết mãi được.
Ông bèn nghĩ ra một kế: mỗi khi tổ tôm, cứ đến hội cuối cùng, đánh được độ dăm ván, là ông ra lệnh nghỉ để lấy tiền góp còn thừa đưa cho thằng mõ “sắng” đồ nhắm. Như thế vừa tiện cho ông khỏi phải phiền đến người nhà đem cơm vừa tiện cho các ông cựu khỏi mang tiếng đến quấy quả.
Mỗi lần cơm no rượu say, các ông nói chuyện huyên thiên, kể hết chuyện làng đến chuyện thôn, hết chuyện người đến chuyện nhà. Chỉ khổ các bà cựu làm lụng vất vả để lấy tiền cung phụng các ông.
Hôm nào thiếu chân tổ tôm, các ông ngồi rỗi đem giấy bút ra kê những tên làm lễ và ngồi hát. Có nhiều tên các ông không sao viết được, phải viết chệch đi. Thí dụ như tên Mèng, các ông viết ra Mền, tên Bửng các ông viết là Bỉnh rồi nhí nháy hai nét chấm ở bên. Một ông bàn viết những tên ấy ra quốc ngữ cho tiện. Ông đại và mấy ông nữa nhao nhao lên cự: “Không được! Không được! Chữ Nho ra chữ Nho, quốc ngữ ra quốc ngữ, không bát nháo thế được”. Viết xong, các ông đem dán lên tường để công chúng biết.
Thỉnh thoảng lại một anh xã cầm cái đĩa trên để một chẽ cau đè lên lá trầu, gãi tai nói: “Bẩm cụ đại, thầy con chẳng may yếu đau, con là trưởng, phải ở nhà phụng dưỡng. Vậy xin cụ cho phép em con đi thay”.
Hoặc:
- Bẩm cụ đại, bây giờ con mới nhớ ra rằng: con có trở ông cậu. Vậy xin cụ đại cho phép con cáo.
Cho hay không là quyền ở ông đại. Nhưng ông cũng hỏi qua ý kiến các ông cựu, biết trước rằng họ sẽ trả lời: “Cái đó còn tùy lượng quan đại”.
*
* *
… Rồi đến ngày mồng chín, một ngày tấp nập nhất trong đình thôn Tiền; lúc này ông đại mới thật là ông đại. Ông đi đi lại lại suốt dọc đình, sai bảo, truyền lệnh, thét oang oang: “Đương thứ đâu? các anh bậy thật! Ngày hôm nay là ngày gì, các anh đã biết. Thế mà anh nào anh ấy cứ ỳ thần xác ra thôi… Khán Da! Anh đi mời ông từ đến ngay có việc cần, nghe chưa? Đi chóng vánh lên một tí. Còn anh quản Ất thì đến nhà ông cựu Hạt xin lấy hai cây chuối, cây chuối gì mà có hoa đỏ ở ngọn ấy mà. Anh cứ nói xin cho cụ đại cắm lọ thờ thánh thì dẫu tiếc đến đâu ông ấy cũng phải cho, nghe chưa?
“… Thằng mõ đâu? À, mày đấy à. Mày chạy đến đằng cụ cán Bích, nghe chưa? Mượn cụ cái để treo y môn, nghe chưa? Mày cứ nói mượn cho cụ đại là được rồi, nghe chưa?”
Một ông râu tóc đã hoa râm đeo mục kỉnh trắng, trông đạo mạo như một cụ đồ nho, từ cách vuốt râu cho chí dáng điệu đứng ngắm và nhẩm đọc các câu đối, đại tự. Kể chữ nghĩa, ông cũng chẳng kém gì cụ đồ nho. Nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ ông không hề dạy trẻ con và ông xuất thân làm lý trưởng, ông bước lên thềm đình vừa vuốt râu vừa hỏi:
- Cụ đại gọi tôi có việc gì đấy?
Ông đại đương đứng ngắm bức cửa võng, quay ra:.
- Ấy kìa, cụ cựu từ, tôi vừa cho khán Da đi mời cụ. Cụ có gặp hắn không? Hay hắn đã đâm xả vào đám xóc đĩa nào rồi.
Ông từ vội trả lời:
- Tôi vừa ra đến quán thì gặp hắn. Tôi có nhờ hắn tí việc. Hắn về đây bây giờ.
Ông đại làm ra vẻ nhọc mệt:
- Cụ tính, suốt từ sáng, không lúc nào rời tay, rời mồm. Độ hai, ba hôm như thế này thì phát ốm… À này cụ, cụ mở rương bảo họ đem cỗ kiệu bát cống ra bày đi thôi. Cụ đem cả cờ quạt, tàn tán, “này khác các cái” để cho họ lồng vào cán đem cắm cả ra sân cho trọng thể. Cả áo nậu áo niếc nữa, cụ ạ. Vì chiều nay còn “nghiềm áo” để mai rước.
Quản Ất vừa trở về, cầm cây chuối đứng sau ông đại đợi lệnh. Ông đại quay lại:
- Sao lại chỉ có một cây thôi, hử?
Quản Ất tay vẫn cầm nhăm nhăm cây chuối:
- Bẩm cụ đại, cụ cựu chỉ còn có mỗi một cây thôi.
- Thế anh có theo ông ấy ra vườn không?
- Bẩm có ạ. Con cũng chỉ thấy có một cây thôi.
Ông đại hai tay vắt ra sau lưng, đăm đăm nhìn cây chuối, thở dài:
- Bực nhỉ, làm thế nào cho cân đối bây giờ… À, hay là anh đẵn cho tôi một cây chuối ngự con và chặt cho tôi lấy một bắp chuối để tôi cắm vào ngọn cho nó cân đối với cây kia.
Ông từ đương soạn cờ quạt, nói chêm vào:
- Thôi cụ ạ, cây có cây không cũng được, can gì phải cắm thêm bắp chuối vào cho nó phiền.
Ông đại không bằng lòng:
- Không được, phải cho cân đối chứ.
Rồi ông nghĩ sang việc khác, gọi xã Chính ở giải võ lên, truyền:
- Anh chọn lấy tám tên cầm bát bửu và năm tên cầm cờ để chốc nữa đi “hậu nghinh” thôn Thượng nghe chưa? Hôm nay thôn ấy rước.
Xã Chính nhanh nhẩu, gãi tai thưa:
- Bẩm cụ đại, con nghe thấy nói thôn Thượng các cụ sợ đường trơn nên chỉ rước từ miếu đến đình thôi.
Ông đại cười nói:
- Anh này sao mà lẩn thẩn thế! Quyền ở thánh chứ quyền đâu ở các ông ấy. Thánh ngài muốn đi đâu, lúc rước mới biết được.
Xã Chính cười một cách ngây ngô:
- À vâng, con lại cứ tưởng muốn rước đi đâu là tùy ở các cụ. Con rõ lẩn thẩn quá.
Ông đại không để ý đến câu trả lời của xã Chính, quay ra nói với ông từ:
- Cụ từ ạ, nghĩ việc thần thánh cũng lạ, như năm ngoái, cụ còn nhớ không? Đức thánh thôn ta ngài vừa ở miếu ra, liền bay thẳng đến thôn Hạ, rồi lại bay thẳng đến thôn Thượng. Thế mà qua thôn Trung, ngài không vào. Thì ra dương làm sao thì âm làm vậy. Đức thánh thôn ta với đức thánh thôn Hạ, thôn Thượng chả là thượng đẳng thần à, nên các ngài mới thân với nhau. Còn đức thánh thôn Trung vốn là đức thánh bà, lại mới được có trung đẳng thần thôi. Thảo nào mà ngài không vào.
Ông từ tủm tỉm cười:
- Đức thánh bà thôn Trung, mỗi khi qua đình ta hay miếu ta, vẫn tạt vào ngồi hàng giờ đấy nhé.
*
* *
Xã Chính vừa cài cúc áo lương vừa nói:
- Mình có tiền đưa tôi hai đồng.
Vợ sửng sốt:
- Hai đồng để làm gì?
- Ngồi hát.
- Ngồi hát? Mình biết hát hỏng thế nào mà ngồi hát.
Xã Chính phì cười:
- Mình dở lắm. Ngồi hát là ngồi xếp bằng nghe “nhà tơ” hát, rồi vừa nhắm rượu vừa nghe hát.
- Thì mình ngồi hát làm gì. Nhà đã chả có…
- Ai chả biết thế. Nhưng cụ đại bảo thì phải nể. Chán vạn người bị bắt ép, cứ gì mình.
Xã Chính uể oải đi lại phản ngồi rót nước uống. Vợ ngồi ngưỡng cửa quay mặt vào, lặng yên một lúc rồi nói:
- Mình ạ, từ tết đến giờ nhà ta tiêu hết hơn chục bạc rồi đấy!
Đến lượt xã Chính sửng sốt:
- Có làm gì đến ngần ấy!
Vợ đứng phắt dậy:
- Làm gì đến à? Này nhé, ba hôm tết tiêu hết ba đồng này, may quần áo cho mình, cho các con hết bốn đồng là đi bảy đồng này. Lại còn một đồng tết bà Chánh Bá, hai đồng mình đi mừng các cụ lão, thế là một chục rồi nhé. Bây giờ lại hai đồng nữa, chả là hơn một chục rồi ư. Tiêu thế thì còn mong sao không công không nợ… Núi cũng hết nữa là nhà mình.
Nói rồi vợ ngồi xuống phản, thừ mặt, đăm đăm nhìn ra cửa.
Xã Chính không trả lời, kéo điếu, thông, hút. Thấy nét mặt vợ rầu rầu, bác thương hại, an ủi:
- Này bu nó ạ, chẳng việc gì mà lo. Đình đám xong, chúng ta lại hết sức làm lụng. Bu nó dệt vải, cái Mít bán hàng. Còn tôi thì bạ việc gì làm việc ấy, nhất là làm thuê làm mướn, họ cười thì kệ họ cười. À chào! Xã nhép chứ ông lý, ông khán gì mà sợ họ cười… rồi thế nào tôi cũng dành dụm tậu cho được con trâu cái mới nghe. Nhất là nhịn bữa sáng, ăn bữa tối…
Vợ đương ủ dột, bỗng tươi tỉnh hẳn lên:
- Mình nghĩ phải đấy, sợ quái gì họ cười. Khi trước chúng mình vẫn làm thuê làm mướn đấy nhé.
Một hồi trống giục ở ngoài đình. Chồng đứng dậy bảo vợ:
- Thế bây giờ bu nó đưa cho tôi hai đồng. Hết đình đám là chẳng còn phải phí đi đâu đồng nào nữa.
Vợ vừa cởi nút dải yếm lấy tiền, vừa nói:
- Đây tôi mới có đồng rưỡi tiền bán hai tấm vải hôm qua đấy. Còn năm “cái” hào để tôi bảo cái Mít nó cho dựt tạm rồi mai kia tôi trả nó… Mít ơi!
Mít đương đun nước dưới bếp, vội lấy que giẽ dập tắt lửa rồi vừa đi lên vừa thưa:
- Bu gọi gì cơ?
- Con cho thầy con mượn năm hào rồi mai kia bu lấy tiền bán vải bu trả.
- Thầy lấy tiền làm gì cơ, bu?
- Thầy con đóng tiền ngồi hát.
Mít cười:
- Thầy con biết hát gì mà…
Xã Chính thích chí, củng khẽ vào đầu Mít và nói:
- Lại con này nữa. Ngồi hát là ngồi ăn cỗ, nghe “nhà tơ” hát.
Mít giẫy nẩy, nói nũng nịu:
- Hát “nhà tơ” ấy à? Con chả muốn cho thầy con hát “nhà tơ” đâu! Rồi lại mê như ông lý Cúc, ông lý Khoa, có bao nhiêu tiền cũng hết vì chúng nó. Thế thì con chả cho thầy con mượn tiền đâu.
- Láo nào! Tao biết đánh trống ra làm sao mà mày bảo tao mê. Mày tính tiền của đâu mà mê các cô ấy mới được chứ!
Mít bĩu môi.
- Cô… cô lô cô lốc.
Một hồi trống giục nữa, xã Chính sốt ruột cũng giục Mít:
- Con đưa mau cho thầy không có muộn quá, cụ đại người quở.
Mít vừa móc túi vừa quay sang phía mẹ nói:
- Thế mai kia bu lấy tiền vải trả con nhé! Con cứ bu đấy. (Mít tự cười mình). Quanh đi quẩn lại được bao nhiêu lãi rồi cũng đến đưa cả cho bu.
Bác xã gái âu yếm nhìn con:
- Vốn của cô khi cô về nhà chồng đấy. Bu chả tiêu đi đâu.
Mít sung sướng đỏ mặt. Nó sung sướng phần vì câu nói của mẹ, phần vì thấy mẹ tươi tỉnh, khác hẳn mọi ngày.
Xã Chính vội vã ra đình. Mít xuống bếp đun nốt ấm nước. Còn bu Mít thì đi lại khung cửi, khêu cao ngọn bấc rồi ngồi xuống cặm cụi dệt cho đến già nửa đêm mới đi ngủ.
Bắt đầu từ hôm mồng tám tháng giêng, tốt ngày, bác gái đã vùi đầu vào khung cửi. Bác nghỉ lâu chưa quen, nên chóng mỏi, chốc chốc lại phải đặt thoi xuống thở.
Có lần bác quên cả dệt, ngồi thừ ra nghĩ. Ít bữa nay tiêu tốn quá, bác đâm lo cho gia đình bác.
Chết thật! Chồng bác cứ nay chè mai chén, hư thân mất nết đi thì hai bu con bác đủ sức đâu mà nuôi nổi cả nhà. Nhiều khi bác muốn thổ lộ cho chồng hay, nhưng lại sợ vì lời nói của mình mà chồng buồn, chồng khổ.
Mít thường thấy bu nó thơ thẩn, buồn rầu. Nó săn sóc hỏi: “Bu làm sao thế? Có mệt thì nghỉ, bu ạ, tội gì mà làm lụng vất vả quá, sinh ốm người. Mà sao độ này bu cứ hay thở dài luôn thế?”
Mỗi lần Mít hỏi thế thì bu lại trả lời:
- Không, bu có sao đâu. Tính bu vẫn thế, hay thở dài vặt.
Mít không dám hỏi nữa. Nhưng trong lòng băn khoăn. Nó hết sức buôn bán lấy tiền lãi để bu nó vui. Chiều nào, đi hàng về, nó cũng luẩn quẩn bên bu, vồn vã, nhí nhảnh, nói những câu dớ dẩn để bu nó buồn cười mà khuây đi. Những lúc ấy nó quên bẵng thằng Tửu.
Còn thằng Chốc, cũng như thằng cu lớn, cu con, chưa biết gì hết. Cả ngày nó dắt em đi nhởn nhơ ngoài đường đùa nghịch với lũ trẻ hàng xóm, hay chạy đi vồ pháo mỗi khi nghe có tiếng pháo nổ.
*
* *
Xã Chính đi, một tay luôn luôn nắm chặt lấy hai đồng bạc hào trong túi. Mất thì lấy gì đóng góp? Bác nghĩ đến việc bác làm sau ngày giã đám, nghĩ đến con trâu cái mà bác nhất quyết ăn nhịn để dành tậu cho bằng được.
Gần tới đình, bác gặp hai người ở trong hàng nước chui ra.
- Có phải bác xã Chính đấy không?
Bác đứng dừng lại.
- Ấy kìa! Bác Bửng, bác Bật. Ý chừng hai bác vào làm bát bún riêu hẳn thôi.
- Ừ, chúng tôi vừa làm mỗi người một bát lót dạ. Bác tính mãi khuya mới được ăn cỗ, sức đâu mà chịu nổi, còn bác có làm một bát thì làm. Chúng tôi đợi.
- Tôi vừa mới ăn cơm.
Xã Chính vừa ăn xong thực. Nhưng dẫu chưa cơm, bác cũng chẳng đào đâu ra tiền. Trong túi bác chỉ còn vừa vặn hai đồng đóng góp.
Ba người thủng thỉnh bước một. Xã Bửng trỏ tay vào đình, nói:
- Hai bác trông, đình ta tối đến thắp nến sáng như sao sa, chẳng đình nào đẹp bằng.
Xã Bật nghe lỏm được mấy câu địa lý, nói:
- Hướng đình ta đẹp lắm đấy nhé, mặt đình trông thẳng ra sông Hóa. Khúc sông chỗ ấy lại khuỳnh ra như hình bán nguyệt. Bên hữu một cái bút, bên tả một cái nghiên. Chả trách thôn ta lắm khoa mục, lắm quan to.
Xã Chính cũng nói chêm vào cho có chuyện:
- Tôi thấy họ nói: nhà cụ lang Trung làm trước đình ta cho nên mới xây lưng vào.
Xã Bật:
- Phải đấy, nếu không thì ai cho làm. Tôi cho vì thế mà chắt cụ thành điên. Sao họ dại thế nhỉ. Cứ như tôi thì tôi xoay quách hướng nhà. Làm ngay hướng đông cũng tốt chán.
Xã Chính chưa bao giờ tiêu đến món tiền lớn và trong trí đương nghĩ cách dành dụm, vội cãi:
- Bác Bật nói dễ nhỉ! Tiền đâu mà thuê khiêng được cái nhà to bằng cái đình thế kia ra chỗ khác?
Bác vừa nói vừa quay lại nhìn cái nhà của cụ lang Trung.
Xã Bật cãi lại:
- Tốn thì tốn chứ. Không có thì đi vay đi mượn. Việc là việc đời đời, kiếp kiếp, chứ có phải việc thường đâu.
Câu chuyện đến đây thì vừa tới sân đình. Ba người bước lên thềm. Xã Bửng đứng nấp ngoài cửa nhìn xem sự thể ra sao đã. Đoạn, ba anh bước qua ngưỡng cửa đi vào chắp tay vái chào ông đại.
Ông đại khẽ gật đầu và truyền:
- Các anh sang cả bên tây đình ngồi vào cho thành cỗ. Anh nọ cứ chờ anh kia thì bao giờ cho xong.
Ba anh dạ rồi khúm núm đi qua chỗ thờ phụng sang ngồi với cánh xã nhưng của mình.
Xã Chính ngồi chiếu cuối cùng. Xã Bửng, xã Bật ngồi chiếu thứ ba vì hai anh bầu trước.
Trên chiếu nhất có hai anh oắt con với hai ông già. Vì hai anh bầu xã từ năm lên ba lên bốn.
Ông đại tối hôm nay mặc áo gấm trần, ngồi riêng mình một cỗ. Trước mặt ông, một cái trống chầu, chiếc roi chầu bằng gỗ quít rừng trắng như ngà, đặt nằm ngang trên mặt trống. Chốc chốc ông lại gọi đương thứ đến truyền những việc nhỏ nhặt không đâu, cốt để cho cả đình để ý đến ông và nhớ rằng ông là đại bái.
Kế đến hai ông giám khảo ngồi chiếu nhì. Mỗi ông mặc một cái áo “sa tanh” còn nguyên nếp. Hình như các ông chỉ đem nó ra diện trong mấy ngày tết, mấy ngày đình đám rồi lại gấp cất đi.
Cũng như ông đại, mỗi ông giám khảo có một cái tráp để cạnh cho nổi. Công việc của hai ông là tối đến đi soát các lễ vật, các mâm cỗ xem có thiếu thốn thức gì không.
Ông ngồi về phía ông đại được thêm chức giữ sổ sách biên chép những vàng, hương, nến và tiền của những người trong làng đến cúng. Những người ấy đến ngày “an tạ” đều được phần biếu.
Từ chiếu thứ ba trở xuống ngồi bốn ông một cỗ.
Hai bên, đông và tây đình, họp lại gọi là nội đình. Ngoài ra, còn một dãy sập kê ở bên trái đông đình, dành riêng cho những ông không dự vào việc làm lễ tức là những quan viên ngoại đình. Những ông này có tiểu cớ cũng đi dự được.
Ông đại khuỷu tay phải tỳ trên mặt tráp, ngồi chống nạnh. Chốc chốc lại một ông cựu đến ra mắt ông rồi đi lại ngồi vào chỗ của mình.
Một lúc lâu, ông tổng Cảnh, một quan viên ngoại đình lên tiếng: “Bây giờ xem chừng quan vơn có đông đủ. Vậy xin rước quan đại lên trống để các người ấy lên hát cung phụng thánh”.
Ông nói to, rõ ra giọng kẻ cả.
Phía này: “rước quan đại lên trống”. Chỗ kia: “rước quan đại lên trống”.
Ông đại thích chí, tủm tỉm cười, cầm lấy roi chầu, rồi: “Xin phép các cụ”, ông giơ lên đánh ba tiếng thong thả và tiếp liền hai tiếng mau. Cách vài phút, ông đánh thêm hai tiếng mau hơn hai tiếng trước.
Ba cô đầu, một cô xách túi phách, một anh kép xách đàn ở giải võ đi lên:
- Lạy các quan ạ.
Rồi ngồi cả xuống chiếc chiếu trải trước nhang án. Ba tiếng trống trả lời câu chào. Tiếng đàn, tiếng phách dạo chậm rãi… Ông đại đánh hai tiếng mau để giục. Anh kép gẩy rênh rênh rênh ba tiếng ăn với ba tiếng phách của cô đầu và ba tiếng trống của ông đại.
Một ông ý chừng thạo trống khen.
- Xinh… Xinh…
Ông đại sung sướng, tủm tỉm cười, nói nhũn:
- Chầu tôi sao bằng các cụ được.
Anh kép gẩy xong khổ sòng đàn, cô đầu cất tiếng hát bài thiết nhạc, rồi ngâm vịnh, rồi bắc phản, rồi sau cùng đến mưỡu nói*.
Những điệu thông dụng trong hát ca trù: thiết nhạc (hoặc phét nhạc) là khúc hát đầu tiên, chú trọng giai điệu chưa chú trọng về lời; ngâm vịnh (hay còn gọi là ngâm vọng) là một khúc ca trù cổ, điệu tha thiết, bâng khuâng nhưng khoan thai, gồm 10 câu lục bát; Bắc phản (còn gọi là hát mổ) có 6 câu lục bát, bắt đầu thấp sau lên cao dần; Mưỡu nói: nếu bắt đầu không hát Bắc phản thì hát Mưỡu, còn hát mưỡu để kết thúc bài hát nói; mưỡu cũng làm theo thể lục bát, số câu tùy theo từng thể mưỡu khác nhau.
Ông đại cầm chầu một cách đĩnh đạc, lúc chậm, lúc nhanh, lúc một tiếng, lúc hai tiếng, ba tiếng, có lúc ông gật gù chát hai tiếng liền để thưởng, tưởng chừng như ông thạo lắm. Nhưng để ý nghe mới biết ông đánh liều đánh lĩnh, sai bét, chẳng đúng một khổ nào.
Nghe xong, ông đưa roi chầu và trống cho một ông giám khảo:
- Người đầu này hát kém lắm phách lúc sớm lúc muộn, chả ra làm sao cả.
Ông chê họ hát kém chỉ vì phách họ đánh không đúng với trống của ông. Rồi đến cô đầu khác hát cũng sẽ kém như cô đầu này. Rút cục cô nào cũng kém cả duy có trống của ông là xinh.
Nghỉ một lát chuyện phiếm, ông đại quay sang phía ông tổng, nói:
- Bây giờ xin rước các quan vơn ngoại đình lên trống.
Bên ngoại đình, ông nọ đùn ông kia. Sau cùng ông lý Hạt, một tay sính hát, cầm lấy roi chầu. Trước khi đánh, ông xin phép quan đại, xin phép các cụ đông đình và ngoại đình. Ông không thèm đếm xỉa đến các ông xã bên tây đình.
Ông vừa nện được vài tiếng, tức thì trống bên đông bên tây nổi lên như ếch kêu làm át cả tiếng đàn lẫn tiếng hát.
Ông Hạt thở dài, đưa roi cho ông bên cạnh, lẩm bẩm: “Ông nghe đi. Tôi thì tôi chịu, chẳng biết đằng nào mà đánh”. Và ông nghĩ thầm: Khi nào giã đám, ông sẽ gọi về nhà hát. Ông sẽ mời những ông nào biết trống và thích trống như ông.
Xã Chính từ nãy vẫn ngồi xếp bằng, ngẩn người ra nghe. Bác chẳng hiểu tí gì về hát ả đào. Lúc nào cũng như lúc nào, bác chỉ nghe tiếng đàn tiếng hát đều đều một giọng buồn thiu buồn chảy. Và những tiếng trống chầu, tiếng phách làm chói cả tai. Ngồi lâu, bác đâm ra ngáp và hay hút thuốc vặt. Bác thay đổi kiểu ngồi luôn, sợ tê chân mỏi gối. Trong trí, bác chỉ mong sao cho quan vơn nghỉ hát để chén rồi về cho sớm sủa. Bác càng mong càng thấy thời giờ dài đằng đẵng.
Bác liền nhìn những người ngồi cạnh, thấy họ cũng có vẻ băn khoăn trằn trọc như bác. Bác ghé vào tai họ thì thầm:
- Các bác ngồi có sốt ruột không?
- Có, cũng hơi sốt ruột.
- Thế thì tội gì cánh mình ngồi đây. Ra sân chuyện vãn, đợi bao giờ các cụ nghỉ hát, xoay ra chén, hãy vào.
Mấy anh đương buồn rũ buồn rượi vì mâm cỗ để trước mặt mà không được chén lại bị inh tai nhức óc vì ba cái trống thi nhau kêu, nên nghe xã Chính bàn, liền thuận ngay. Bốn anh đứng dậy, lẻn ra sân.
Vừng trăng bạc chiếu xuống mát lạnh, làm cho các anh khoan khoái nhẹ nhàng như trút được gánh nặng.
Bốn anh ngồi chiếu trên thấy chiếu dưới bỏ không cũng bắt chước lủi dần. Rồi đến những anh chiếu trên nữa. Không bao lâu một dãy sập bên tây đình chỉ còn trơ hàng cỗ với một vài anh thích học trống.
Hôm đầu xã Chính chưa quen còn phải lảng vảng ngoài hiên để dò xem lúc nào các cụ nghỉ. Bác biết tỏng được rằng trước khi chén, một hồi trống tế rung lên, các cô đầu và kép đứng cả dậy, xuống giải võ để chỗ cho ông đại vào lễ tạ. Rồi ông tổng Cảnh nói to như người rúc loa: “Rước quan đại và quan vơn nội ngoại nâng chén”.
Từ hôm thứ hai trở đi, bác ra đình chào quan đại để người biết rằng mình có đấy. Đoạn ngồi một chốc, đợi mọi người để ý cả vào tiếng hát tiếng đàn, bác lẻn về nhà nằm khểnh chuyện gẫu với mẹ đĩ. Bao giờ nghe thấy tiếng trống nổi lên, bác mới trở lại cũng còn vừa chán.
*
* *
- Chị Mít ơi! Chị Mít! Nghe rõ tiếng Cúc gọi réo ngoài cổng, Mít đứng trong nhà quay ra nói to:
- Ừ! Các chị chịu khó đợi một tí. Tôi đi bây giờ đây!
Mít đã biết trước các chị rủ đi đâu rồi, vì ban chiều chị em hẹn nhau tối nay đi xem chèo ở ngoài xã Đoài với bọn Tửu. Mít và cơm vội vàng rồi buông đũa buông bát chạy xuống bếp uống bát nước chè. Không kịp xỉa răng. Mít cầm đèn hoa kỳ, lẻn vào buồng trang điểm.
Chỉ vài phút sau, Mít đã đến khung cửi, xin phép mẹ:
- Bu cho con đi xem chèo với các chị ấy nhé? Gớm! Chả lúc nào là bu chịu rời cái khung cửi.
Bác xã gái lặng thinh để môi vào lỗ thoi hút lấy đầu sợi chỉ, rồi vừa thong thả đưa thoi và dập mạnh khổ xuống mấy cái liền cho mịn mặt vải, bác vừa nói:
- Không thế thì lấy gì mà ăn, mà tiêu.
Ngoài cổng Cúc, Mậm, Cài thúc giục.
Mít nhắc lại:
- Bu cho con đi xem chèo với các chị ấy nhé.
Bác gái đặt thoi xuống, quay lại nhìn Mít, mỉm cười:
- Sao mà làm đỏm thế? Tối làm đỏm cho ma nó xem à? Chả bù cho tao ngày xưa, bằng tuổi mày mà còn ngồi lê ngồi la, đánh lú, đánh chắt và tắm truồng với chị em.
Mít cười nói:
- Thời xưa khác, thời nay khác, bu ạ.
Cúc lại giục ở ngoài cổng:
- Lâu lắm rồi, có đi không thì chúng tôi đi đây.
Mít nóng ruột sẽ đập bàn chân xuống đất mấy cái như chực chạy:
- Con đi nhé, bu nhé?
- Ừ, đi thì đi. Nhưng về sớm sớm một tí. Tôi không thức mà đợi cô được đâu.
- Vâng.
Rồi Mít chạy vội ra cổng:
- Làm gì mà giục rối lên thế?
Cúc, hai cánh tay quàng lấy vai hai chị đứng cạnh cười, nói:
- Chúng tôi không giục để chị kéo dài mãi à. Bọn họ chắc đợi cánh mình từ lâu rồi.
Trăng rằm đã lên khỏi ngọn tre. Ánh sáng vàng trong, mượt như nhung, bao phủ lấy cảnh vật làm mất các nét thô và tăng vẻ đẹp lên bội phần. Những dãy nhà tranh trông xa, sạch sẽ, mịn màng như trong phim ảnh.
Ra đến đường cái, bốn chị em vui vẻ quàng tay nhau đi hàng chữ nhất.
Mậm, nhìn chị em, ngạc nhiên hỏi:
- Các chị đánh phấn?
Mít cãi:
- Các chị thế nào chứ tôi thì không.
Cúc:
- Tôi cũng vậy. Ai biết đánh phấn đánh sáp ra làm sao. Mà quái! trông chị nào cũng như đánh phấn ấy.
Mít tìm ra được cỗi rễ:
- À thôi, phải rồi, các chị ạ, tại ánh trăng đấy mà.
Mậm xòe bàn tay, sẽ vuốt ngực Mít, vui vẻ nói:
- Này các chị, trông yếm chị Mít mà xem, có phải trắng mịn như xoa một lượt phấn lên không?
Cúc tinh nghịch, sờ lên hai vú Mít, cười nói:
- Đôi vú của chị tôi nở quá.
Mít đập tay Cúc xuống, gắt:
- Ỡm ờ lắm! Đùa gì lại đùa thế, người ta có cười cho không?
Cúc lả lơi:
- Ai cười? Ma nó cười ấy à?
Đường chỗ ấy vắng. Mấy chị em không cần giữ ý tứ, đùa bỡn tự do, nghịch ngợm như trẻ con. Những tiếng cười khúc khích, những tiếng thì thầm trong yên lặng.
Thỉnh thoảng các chị bị Cúc nghịch nhả, quát ầm lên rồi lại cười ngặt nghẹo như điên rồ.
Mậm tính nhút nhát, hay xấu hổ, càng bị Cúc chòng ghẹo luôn.
Bỗng Mít nghĩ đến Tửu, hỏi Cúc:
- Này chị Cúc, bọn họ đợi cánh ta ở đâu nhỉ?
Cúc ghé vào tận mặt Mít, nói chọc:
- Đâu thì chị hỏi làm gì? Anh Tửu hôm nay kêu bận không đi, chị ạ.
- Anh ấy đi hay không thì việc gì đến tôi, rõ khéo cô này.
Tuy nói vậy mà trong lòng Mít phấp phỏng không yên. Vì Mít đi xem chèo, phần chính là cốt gặp Tửu.
Cài ít nói, ít đùa, chỉ tay ra đằng xa:
- Các chị trông, hình như bọn họ đứng đợi cả trước trường học kia kìa.
Mít tìm bóng Tửu, Cúc tìm bóng Chắt, Cài, Mậm chưa có tình với ai, ung dung đi và nghĩ đến tấn chèo sắp được xem.
- Các anh đấy phải không? Cúc gọi.
Có tiếng ở đằng xa trả lời lại:
- Các chị đấy à? Sao mà chậm thế. Đằng này định đợi lúc nữa, không thấy đằng ấy lại là đằng này đi thẳng.
Cúc đoán chắc là tiếng Chắt, gọi to:
- Anh Chắt đấy phải không, tử tế nhỉ?
Hai bên dồn lại rồi nhập bọn cùng đi. Ngôn ngữ và cử chỉ của các chị xem chừng đã thấy khác lúc nãy, kém vẻ sống sượng, nhưng tình tứ, yêu kiều hơn.
Trăng càng lên cao càng sáng trong. Hai bên đường, cánh đồng lúa xanh non bát ngát. Ngọn lúa mềm nhấp nhô như sóng bạc. Xa xa phong cảnh huyền ảo như trong giấc mộng. Mít, đa cảm ngây người ra nhìn, tuy chân vẫn đều bước.
Cúc vỗ mạnh vào vai Mít, nói:
- Nhớ ai mà ngẩn người ra thế?
Mít giật mình nói gắt:
- Gớm! Làm người ta giật bắn người lên.
Chắt trêu ghẹo:
- Anh Tửu thử hỏi chị ấy xem chị ấy nhớ ai thì biết.
Tửu nghiêm nét mặt, thụi mạnh vào lưng Chắt. Chắt ưỡn người ra đằng trước, kêu:
- Ái đau! Đùa gì lại đùa nhả thế!
Bên trai bên gái vừa đi vừa trò chuyện, cợt giễu lẫn nhau thấm thoát đã tới gần làng Đoài. Người đi xem đã thấy lẻ tẻ. Tiếng trống chèo ròn rã. Thỉnh thoảng xen vào vài ba tiếng trống cái cầm chầu. Dần dần rõ cả tiếng hát, tiếng trống cơm, tiếng mõ nhịp.
Chắt, hai tay vỗ bụng, hát nghêu ngao:
- Binh binh bập bình. Trống cơm ai khéo vỗ nên vông. Một đàn con chim nhạn…
Tín ngắt câu, nói chế:
- Tiếng thằng Chắt nó hát như tiếng vịt đực.
- Phải, mày thì hát hay! Có hát cho trâu nghe.
Mùi tẩn mẩn hỏi:
- Sao người ta lại gọi là trống cơm, chúng mày nhỉ?
Chắt giảng nghĩa:
- Mày dốt lắm. Thế mày không nhìn hai viên cơm bằng hai quả táo ở giữa hai mặt trống à?
- Họ dán vào mặt trống để làm gì, hở mày?
- Để nghe nó ra tiếng trống cơm.
Tửu không nhịn được cười, bắt bẻ Chắt:
- Lại mày nữa. Mày nói thế có ma nó hiểu. Người ta bịt cho mất tiếng ngân đi, ông tướng đã nghe ra chưa?
Chắt cãi lại:
- Bớt ngân đi để nghe nó ra tiếng trống cơm.
Người đi xem mỗi lúc một đông. Đến làng Đoài thì đông quá, khó mà chen được. Mấy chị em nắm chặt lấy tay nhau, sợ lạc. Hơi người xông lên ngạt cả mũi. Tiếng ồn ào như phiên chợ. Hàng nước, hàng quà ngổn ngang. Tửu theo hộ vệ chị em. Còn Chắt, Mùi, Tín đi lẫn vào vòng người đứng xem chèo, tìm chỗ.
Một lát, Chắt chạy ra, gọi thét lên:
- Vào cả đây!
Mỗi anh nắm tay một chị, hết sức chen, mặc kệ những tiếng chửi rủa. Cúc chạy lại giơ tay cho Chắt nắm. Tửu không biết vô tình hay hữu ý nắm lấy tay Mít. Mít rung chuyển cả người, tim đập mạnh, mặt nóng bừng. Tửu cũng vậy.
- Đủ cả đấy chứ? (Chắt vừa nói vừa ngửng đầu lên nhìn) Mậm đâu… A kia rồi… Đủ cả rồi.
Trước mặt các chị còn một hàng người nữa đứng án ngữ. Cài lùn rướn mãi cổ lên.
May sao có mấy anh tuần đi dẹp đám đông, cầm roi sẽ đập vào vai họ và thét:
- Ngồi cả xuống để bên ngoài người ta xem với chứ!
Chị em sung sướng, nói to cho mấy anh tuần nghe thấy:
- Cám ơn các bác nhé. Có thế chúng tôi mới xem được.
Mấy anh tuần nhìn chị em, cười tình và thấy chị em để ý, lại càng săn sóc đến chỗ chị em luôn.
Tửu đứng sau Mít. Nhờ dịp đông, nó đứng áp mãi người vào lưng Mít và cảm thấy da thịt mềm của Mít cọ sát vào ngực nó. Hơi nóng trong người Mít truyền sang. Nó hồi hộp.
Lúc ấy vừa gặp vai Thị Mầu, ở trong buồng trò ra. Thị Mầu, đầu chít khăn mỏ quạ, hai thái dương dán hai miếng giấy đen, tròn bằng đồng tiền, đi ưỡn ẹo, mắt lim dim liếc Thị Kính mặc cải sư ông.
Thị Mầu cười cợt, lả lơi, dùng hết lời ngon ngọt, dâm đãng để gợi tình Thị Kính. Nhưng Thị Kính vẫn thản nhiên, ngồi tĩnh tọa.
Tửu say sưa muốn ôm ghì lấy Mít và muốn thổ lộ hết tình yêu nồng nàn mà nó cố nén trong tâm hằng bao lâu nay.
Cúc nhí nhảnh quay lại định hỏi chuyện với Chắt. Nhưng Chắt đã chuồn đâu mất. Cúc bực mình, chẳng để ý gì đến chèo, nhìn khắp chung quanh tìm Chắt. Nó thấy Chắt ngồi chồm chổm cạnh người cầm chầu, nhe răng ra cười và nhìn Cúc như muốn nói:
- Các chị xem tôi có giỏi không?
Cúc nguẩy đi, bĩu môi nhìn ra đằng khác. Chắt vô tình không để ý.
Một lát đã thấy Chắt trong buồng trò thò đầu ra nhăn nhở như thằng hề. Mít nhìn thấy trước đập tay vào Tửu, nói sẽ:
- Anh trông Chắt nó có nghịch không?
Tửu tủm tỉm cười:
- Chả thế ai gọi là ông tướng!
Mậm, Cài tâm trí để cả vào chèo, hỏi Tửu:
- Ông tướng đâu, anh?
Tửu chỉ vào chiếc màn đỏ:
- Kia chứ đâu!
Mậm, Cài che miệng cười rồi lại để tai, để mắt vào Thị Mầu, Thị Kính.
… Bỗng hai bức màn đỏ vén lên. Một pho tượng Phật Bà mặt phấn môi son, trông đẹp lộng lẫy, ngồi xếp bằng trên một chiếc hòm vuông đặt chồng lên hai chiếc khác.
Bao nhiêu mắt đổ dồn cả vào đấy. Những tiếng thì thầm:
- Đẹp nhỉ!
Hàng người bên kia lộn nhộn. Họ chen nhau, xô đẩy nhau để xem cho được đức Phật Bà…
Rắc, một gióng bương gẫy. Rạp xiêu về một bên. Tiếng hò hét, chửi rủa át cả tiếng trống lẫn tiếng hát.
Mít, Cài, Mậm, Cúc sợ, giục bọn trai về. Mấy anh tuần giơ roi đi chung quanh dọa nạt, nhưng muộn quá rồi. Sóng người mỗi lúc một mạnh. Mấy cái liếp che buồng trò đã ọp ẹp, sắp đổ. Thấy nguy đến nơi, ông cầm chầu cắc dồn mấy tiếng. Trống, thanh la im bặt. Một vài anh đóng trò đứng thưỡn ra nhìn. Phật Bà cũng sợ, bước xuống, lẻn vào buồng, biến mất. Thế là tan.
Vòng người đen kịt tỏa ra, khắp nơi như đàn kiến mất mồi. Tiếng mẹ gọi con, con gọi mẹ, tiếng cười, tiếng khóc, tiếng hò reo inh ỏi. Hàng nước hàng quà được mẻ đắt, vì có nhiều người ngồi rốn lại đợi, trong lòng hy vọng còn hát nữa.
Bọn Mít và bọn Tửu đã ra khỏi đám đông, Cài, Mậm ngẩn ngơ tiếc. Cúc, trái lại, vui vẻ được Chắt đi kề bên. Tửu thầm hát những câu đường trường. Mít vừa đi vừa lắng tai nghe…
Qua cây đa chợ Cầm đến ngã ba đường Dừng, Cúc và Chắt ở cùng xóm, đi rẽ sang con đường con.
Trăng đã xế về tây. Sương lạnh xuống nhiều. Cúc đi sát lại và sẽ đập vào vai Chắt, nói:
- Hay đôi ta trở lại xem đi.
Chắt vẩn vơ nhìn ngọn tre tắm trong ánh trăng, lơ đễnh trả lời:
- Đi không có cánh họ buồn chết!
Cúc vẻ mặt rầu rầu, nhìn Chắt:
- Anh không muốn đi với tôi à?
Chắt vẫn dửng dưng, hỏi lại:
- Sao tôi lại không muốn đi với chị?
- Vì tôi rủ anh, anh không đi.
- Tôi đã bảo không có cánh họ cùng đi thì không vui mà lại.
- Cứ phải có họ mới vui được à?
- Chứ không ư! Với lại bây giờ cũng khuya rồi, chắc họ cũng nghỉ không hát nữa đâu.
Hai người yên lặng đi. Cúc hồi hộp. Cặp môi mấp máy, chỉ muốn ngỏ hết tình yêu ra lời nói; Chắt chẳng nghĩ gì cả, vơ vẩn nhìn đâu đâu.
Tới khóm tre đầu xóm, bóng rợp phủ xuống hai người. Cúc ngập ngừng:
- Này, anh Chắt!
- Cái gì?
- Không.
Yên lặng. Văng vẳng đằng xa tiếng chó sủa trăng.
- Anh Chắt…
- Cái gì?
- Chắc Mít yêu Tửu lắm nhỉ?
- Mà Tửu cũng yêu Mít.
Cúc sung sướng tìm được mối:
- Thế còn anh Chắt, anh có yêu ai không?
Cúc âu yếm liếc Chắt. Chắt vẫn nhìn thẳng, trả lời.
- Tôi ấy à… tôi yêu hết thảy mọi người.
Chắt đã đến nhà, đi rẽ vào phía cổng. Cúc gọi với lại:
- Anh Chắt! Anh Chắt! Anh không đưa tôi về ư?
Chắt quay lại hỏi:
- Chị không dám về một mình?
- Không (Cúc nhoẻn miệng cười). Tôi sợ ma lắm.
Chắt trở lại, vừa đi vừa nói:
- Bằng ngần ấy mà còn sợ ma.
Cúc đứng khoanh tay vào ngực, nhìn Chắt chòng chọc và nói hơi có vẻ nũng nịu:
- Người thì không sợ chứ ma thì ai chả sợ… Này anh Chắt ạ…
- Cái gì?
- Sao độ này anh ghét tôi thế?
- Chị này rõ lẩn thẩn. Khi nào tôi lại ghét chị. Tôi không ghét ai cả.
- Thế sao anh cứ… anh cứ… làm sao ấy?
- Làm sao?
Cúc ưỡn ẹo:
- Nào ai biết được!
Hai người lại yên lặng đi. Nhà Cúc đã gần tới. Cúc vờ sợ hãi ôm chầm lấy Chắt. Bộ ngực nở nang của Cúc áp mãi vào người Chắt. Chắt giật mình, hốt hoảng hỏi:
- Cái gì thế?
Cúc buông Chắt ra, thở hổn hển, ngực phập phồng, giọng run run nói:
- Không biết cái gì nó nhùn nhũn như con rắn ấy, anh Chắt ạ.
Chắt thản nhiên:
- Thế thì có lẽ con rắn đấy. Đêm hôm đi phải nên cẩn thận, lỡ dẫm phải hổ mang hay cạp nong thì khốn.
Cúc thở dài bước đi uể oải. Mặt Cúc buồn thiu như thất vọng.
Về đến cổng, Cúc lửa tình bồng bột, đánh liều định nắm chặt lấy tay Chắt, hạ mình xuống, van nài Chắt lấy một chút tình yêu. Nhưng chưa kịp thì Chắt đã vội chào và trở gót đi thẳng.
Cúc đứng dựa lưng vào cánh cổng nhìn Chắt đi mỗi lúc một xa. “Anh Chắt! Anh Chắt!” Cúc đã hết nghị lực, không gọi ra tiếng. Cúc tủi thân tủi phận, nước mắt chạy quanh.
Cúc yêu Chắt. Đã bao lần một mình với Chắt trong quãng vắng, Cúc gợi chuyện tình ra nói, nhưng Chắt vẫn thờ ơ, không một chút cảm động. Cúc nghĩ đến Mít, đến Tửu, đến tình yêu khăng khít của đôi uyên ương: “Chỉ Mít là sung sướng thôi”. Câu nói ở tận đáy tim Cúc thốt ra.
Từ rằm tháng hai sang đầu tháng ba, lại suốt tháng ba sang tháng tư, không một giọt mưa.
Cây cối xơ xác như sau một trận giông tố. Chỉ trừ một vài thứ cây chịu khô, chịu nắng như cây si, cây đa, cây tre là giữ được màu xanh tươi.
Bao nhiêu ruộng đồng cao đều nẻ toác. Những cây lúa cằn cỗi đâm tua tủa lên trời những lá cứng, vàng úa, ngọn cháy xém.
Không còn kiếm đâu ra nước mà tát.
Các ao chuôm cạn khô để phơi đáy bùn phần nhiều phủ cỏ và những cây cúc dại, hoa vàng chóe.
Chỉ mười hôm không mưa nữa là đi đời cả một cánh đồng hàng nghìn mẫu.
Nếu được cái lạch con ăn thông với cái đầm ở đồng cửa (ruộng triều) thì cũng chưa đến nỗi hoàn toàn thất vọng. Khốn nỗi các cụ không dám cho đào, sợ đứt long mạch, động đến làng, đến mồ mả nhà các cụ.
Ngày năm ngoái, hôm làng họp về việc cấp điền, ông Rao bàn đến vấn đề đào ngòi xây cống liên tiếp đồng nọ sang đồng kia để phòng đại hạn đã bị các cụ nhiếc móc thậm tệ. Các cụ cho ông là một người thiển cận, chỉ biết việc sờ sờ trước mắt, không nhìn xa đến tương lai, đến dòng dõi con cháu. Rồi các cụ kết luận:
- Thầy không am hiểu lý số có khác. Người ta không sợ nguy khi nào người ta không biết cái nguy. Thầy vào hạng người ấy đấy, thầy giáo ạ. Chúng tôi nói thầy đừng giận.
Một ông có tính hay cà khịa, xoay lại kiểu, ngồi chống nạnh, ngửng mặt lên sàn giải võ, nói:
- A sà, cánh Tây học họ biết cái quái gì mà bàn. Họ học Tây chỉ biết bắt chước Tây, đào ngòi đào giếng, bạ đâu đào đấy. Có biết đâu rằng: Tây người ta sang bên mình, người ta cần gì đến long mạch. Động là động nhà mình chứ động gì đến nhà người ta.
Nói rồi ông vuốt râu, vảnh tai đợi câu trả lời của ông Rao. Ông Rao chỉ cười mát, đứng dậy chào các cụ xin cáo. Ông vừa bước chân xuống thềm đã nghe mấy cụ bảo nhau:
- Anh chàng nghe chừng đuối lý.
Từ đấy, những khi việc làng, không thấy ông Rao ra nữa.
Lúc này, nếu ông trở lại bàn đến việc trước, các cụ cũng chẳng nghe nào. Các cụ sẽ cho đại hạn là việc nhất thời. Còn long mạch một khi đã dứt, thì ôi thôi! Khác nào người đã chết, không sao sống lại được nữa.
*
* *
Xã Chính có hai sào trong đồng cao cũng đến mất gió theo với số phận cánh ruộng khác thôi.
Bác có năm sào và hai mẫu ruộng thuê ở đồng cửa đang ngoắc ngoải tuy chưa đến nỗi tuyệt vọng. Được thế cũng là nhờ cái đầm ăn thông với sông Hóa bởi cái cống gạch xây ngầm qua đê. Nhưng nước dầm đã gần cạn, chi còn độ một thước ta nữa là đến đáy, mà cửa sông thì không thể mở ra cho nước sông Hóa chảy vào được vì dạo này sông ấy có nước mặn.
Vì thế họ quý nước như quý vàng, ngày đêm lo lắng về nước, có khi tranh giành cãi cọ về nước.
Không mấy sáng là không có người đứng bờ ruộng nguyền rủa, chửi bới những quân khốn nạn đêm đã chọc bờ tháo trộm nước sang ruộng mình. Rồi sau những chuyện xích mích nẩy ra những cuộc xô xát bằng tay chân. Có khi các cụ phải họp việc làng để phân xử cho khỏi phiền đến quan nha.
Sớm, trưa, chiều, tối, lúc nào cũng nhan nhản những người tát nước.
Tuy cái nguy đã đến chân mà họ vẫn vui vẻ, vừa làm việc, vừa chơi đùa hát hỏng. Họ thản nhiên như đàn nhặng buổi tinh sương bay bổng tít tận trời xanh để đợi vào bụng nhạn.
Không bao giờ vợ chồng xã Chính vất vả bằng dạo này.
Lờ mờ sáng, vừng đông chưa rạng, một vài ngôi sao còn lấp lánh, hai bác đã phải dậy, ăn quàng qué một nắm cơm với muối cho đỡ đói, rồi chồng vác cuốc đi trước để khơi nong*, vì nước mỗi ngày một cạn, vợ xách gầu theo sau. Hai người yên lặng cùng rảo bước. Đến đầm đã thấy một vài bọn ở đấy rồi. Tiếng gầu vục xuống nong, tiếng nước đổ ỳ õm.
Nong: vũng nước ngoài ruộng.
Xã Chính xuống đầm xẻ rãnh cho nước chảy vào nong. Vợ ngồi thừ nhìn những cây lúa cằn cỗi, lẩm bẩm nói một mình: “Ngữ này vị tất đã được bông mà gặt… Khốn nạn rồi lấy thóc đâu mà nộp người ta… lại còn sáu phương…” Bác thở dài, bác lo.
Chồng khơi xong, chống cuốc bước lên bờ:
- Kìa bu nó buộc dây vào gầu, còn ngồi thừ ra đấy à?
- “Ờ nhỉ”. Vợ buộc xong, hai tay chống gối đứng dậy một cách nặng nề, nhảy sang bờ rãnh bên kia rồi ném cuộn dây thừng cho chồng. Mỗi người, mỗi tay cầm một bên dây, bắt đầu tát…
Vừng đông đỏ ối. Bầu trời xanh biếc, không một vẩn mây, báo trước một ngày nắng gay gắt.
Xã Chính ngửng lên, thở dài, bằng giọng chán nản:
- Cơ trời thế này thì còn nắng to. Ít nước đầm sao cho đủ cả một cánh đồng mông mênh bát ngát như thế kia? Đến nguy mất, bu nó ạ.
Thấy chồng lo lắng, buồn rầu, vợ thương hại, tìm lời an ủi:
- Thầy nó chẳng việc gì mà lo. Rồi các cụ đảo võ* đảo viếc chứ… Như năm nào, thầy nó còn nhớ không, trời cũng nắng mãi. Thế mà sau khi đảo võ, ông ấy giáng ngay cho một trận, lúa đương xấu bông bỗng tốt sổng ngay lên.
Đảo võ (đảo vũ): cầu mưa; cúng bái cầu trời mưa.
- Ừ, cũng còn mong thế. Nhưng biết bao giờ các cụ mới nghĩ tới cho.
- Ấy còn đợi tỉnh sức về đã chứ. Năm nào đảo võ chả vậy.
Cái rãnh bị bùn lắng xuống gần lấp hết. Nước chảy vào chậm quá. Hai vợ chồng lại nghỉ tát. Chồng vác cuốc xuống khơi lại. Nước gặp lũng ùa vào. Vợ được nghỉ ngơi nên tát đã thấy nhanh nhẹn hơn trước.
Xã Chính nối lại câu chuyện đảo võ:
- Sao lại cứ phải đợi tỉnh sức, bu nó nhỉ?
- Tôi thấy cụ Cán bảo: còn phải đợi chiếu chỉ vua ra, chả biết có phải không?
Xã Chính vừa tát vừa ngẫm nghĩ. Bỗng, bác làm như vừa mới phát minh được một ý kiến gì hay lắm:
- Mà mình ạ, không khéo rồi lụt cũng nên.
Vợ phì cười:
- Thầy nó rõ lẩn thẩn. Người ta mong mưa chả được mình lại sợ lụt.
- Ấy thế mà không biết chừng. Mười ba con rồng nó phun cho một chập thì có ngày tháo ra không kịp.
Vợ cho là chồng nói bông, chỉ cười mà không trả lời, có biết đâu lúc này chồng đương nghĩ đến mười ba con rồng của cụ cán Bích.
Vợ chợt nhìn xuống cái gầu tuột cạp, vội kêu:
- Chết chửa! Mải nói chuyện, cạp gầu tuột gần hết mà không biết. Chậm tí nữa thì đi đời… Mình có mang lạt đi không đấy?
- Có.
Chồng kéo gầu lên rồi lấy một vài sợi trong bó lạt gài sau lưng ra buộc. Vợ đứng nhìn sang bờ bên kia thấy họ tát luôn tay, quay lại phàn nàn với chồng.
- Nhà mình cũng “sắng” lấy chiếc gầu nữa. Chứ quanh đi quẩn lại mỗi một chiếc thì chỉ những chữa hết ngày.
- Chỉ tại nhà mình không nghĩ tới. Năm sáu xu một chiếc chứ có nhiều nhặn gì.
Lần này, hai vợ chồng yên lặng, cắm đầu cắm cổ tát, sợ vừa làm vừa chuyện, công việc chậm trễ. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Mặc, cứ tát, tát cho đến khi không thể tát được nữa mới chịu nghỉ. Thế mà từ sáng đến trưa, nước vẫn chưa bén gốc lúa. Thì ra đất ruộng khát nước đã lâu lắm, nay càng uống khỏe.
*
* *
Ngót tháng nay, không ngày nào Mít được rảnh. Sáng sớm tinh sương sau khi bố mẹ ra đồng, nó đã phải gánh đôi nồi “chân” ra giếng chùa gánh nước.
Lâu nay không mưa, các ao chuôm gần cạn sạch và nổi váng như nước xáo bò hay đỏ ửng như riêu cua không sao dùng được nữa, tuy phần nhiều người trong làng có tính rất dễ, ăn uống bẩn đã quen. May còn cái giếng chùa có nước mạch để cho cả thôn dùng. Vì thế nên bất cứ lúc nào trên bờ giếng cũng đông những người đến gánh nước. Họ tranh nhau, cãi nhau ầm ỹ như ở các máy nước trong thành thị.
Mít không lấy sự vất vả, nặng nhọc làm khổ. Trái lại, Mít sung sướng được gặp Tửu luôn. Mỗi lần đặt đòn gánh lên vai, nét mặt Mít tươi tỉnh như người sắp đi xem hội và mỗi khi đến gần giếng, tâm hồn Mít hồi hộp.
Mít nghĩ sẵn những câu tình tứ và kín đáo để thổ lộ tình yêu ra lời nói và nhất là để Tửu hồi hộp, sung sướng như mình. Đến khi gặp nhau, anh chị chỉ mỉm cười hay nói những câu bâng quơ. Ấy là từ ngày cùng đi xem hội, xem chèo, anh chị đã bớt bẽn lẽn nhiều lắm.
Nhưng sáng nào cũng gặp nhau ở bờ giếng, dần dần Mít và Tửu thành bạo dạn, cười nói tự nhiên.
Sáng nay người đến gánh nước đông quá, hai người cũng không muốn chen chúc bèn rủ nhau ra ngồi chơi trên bãi cỏ. Mải vui câu chuyện, anh chị quên cả gánh nước, đến lúc trông ra thì họ đã về cả rồi.
Mít nói như tự trách mình:
- Chết chửa, thế này thì cả ngày được mấy gánh!
Tửu nét mặt hớn hở, nói bằng một giọng thân mật:
- Được, mình để anh gánh đền.
Từ ngày yêu nhau đến giờ, Tửu mới dám mạnh bạo dùng tiếng mình. Tuy vậy mà tiếng mình của Tửu vẫn có vẻ rụt rè ngượng nghịu.
Còn Mít đã lâu vẫn muốn dùng những lời âu yếm, nay được Tửu gợi ra trước, Mít rất cảm động. Đôi gò má Mít hây hây đỏ. Mít trả lời bằng một giọng cũng thân mật như để thưởng lại người yêu:
- Em đâu dám lấy đền của anh.
Thế là từ đấy, hai anh chị đã tiến lên được một bước trong đường tình. Tiếng mình, tiếng em đã thấy dùng luôn trong câu chuyện. Nhờ có hai tiếng thiêng liêng ấy mà sự thân mật của hai người mỗi ngày một thêm rõ rệt. Những ý tưởng, những tính tình từ trong đáy tim đã thấy hiện ra lời nói.
Lúc này, nếu Cúc có đấy, tất Cúc phải thốt ra một câu nghe mà thương hại: “Chỉ chị Mít là sướng thôi”.
Phải, chỉ có Mít là sướng thôi. Vì Mít đã được thỏa lòng ước nguyện. Không như Cúc, từ cái đêm đi xem chèo về, cái đêm mà Cúc thấy Chắt thờ ơ tình yêu.
Tuy Cúc vẫn giữ được tính nhí nhảnh, nghịch ngợm mọi ngày, nhưng nụ cười, khóe mắt như nhuộm vẻ sầu muộn.
Thấy bố mẹ làm lụng vất vả suốt ngày, Mít thương hại. Chiều đi bán hàng về, ăn cơm uống nước xong, Mít rủ Chốc đi tát nước, Chốc cầm cuốc đi trước, Mít xách gầu theo sau.
Chốc mới mười một tuổi đầu mà trông người đã rắn rỏi, cứng cáp như một anh canh điền bé nhỏ. Độ bốn, năm tuổi nữa, nó có thể giúp bố làm công việc đồng áng. Hiện giờ, nó còn mải chơi, nhưng cần ra nó giã gạo, xay lúa, gồng gánh được rồi.
Hôm nay Mít rủ nó ưng ngay. Không phải vì lòng thương bố mẹ, cũng không phải vì lo lắng đến sự túng đói. Nó đã biết nghĩ đâu đến thế. Chỉ vì nó nhởn nhơ, đùa nghịch cả ngày đã chán nên nó muốn tìm trò chơi khác. Việc tát nước cũng là trò chơi của nó.
Vừa ra đến đầm, nó đã lon ton nhảy xuống lấy cuốc xẻ rãnh, gạt bùn sang hai bên rồi ngồi xuống nghịch đắp hai con đê ở hai bên rãnh. Nó thích chí nhìn dòng nước đục ngầu chảy ùa vào nong và ngắt lá vứt vào chỗ xoáy nước để nhìn lá quay tít như chong chóng. Tay chân nó lấm lem lấm lễ.
Mít đứng trên bờ giục mãi, sau phát gắt, dọa về mách bu, nó mới chịu rửa tay lên tát nước với chị.
Nó tát còn vụng về. Thân hình cứng nhẵng hai tay quờ quạng. Thỉnh thoảng nó quên không thả chùng dây miệng gầu, làm cho cái gầu hớt trên mặt nước, tung bổng lên cao. Những giọt nước nặng hột rơi xuống, bắn cả vào mặt mũi, đầu tóc và quần áo hai người. Mít buồn cười quên cả gắt. Mít vừa tát vừa chỉ bảo như người đứng lái: hạ chùng dây miệng xuống tí nữa! Kéo thẳng dây trôn lên!… Nào! Nào! nhấc bỗng tay trôn lên mà đổ!… Ưỡn người ra chứ! Sao lại cứng đờ người ra thế thì tát với tiếc gì. Mỗi lần gầu hớt qua mặt nước. Mít quát lên: “Hừ đã bảo mà! Hạ chùng dây xuống”.
Chốc làm theo lời chị, dần dần tát đã thấy đều tay.
Tửu chợt ở đâu đến:
- Chị em đảm đang nhỉ.
Mít quay lại nhoẻn miệng cười:
- Anh Tửu ạ, thằng Chốc nó không biết tát. Từ chiều đến giờ, quanh quẩn chả được mấy tí nước. Anh trông em bảo mãi mới được thế đấy. Chứ lúc nãy anh nhìn thì không thể nhịn cười được.
Tửu sắn quần lên vừa đi lại gần Mít vừa nói:
- Chốc để anh tát hộ vài thôi nhé?
Chốc tát đã thấy chán. Được Tửu giúp, nó mừng quýnh, bỏ thõng hai tay đứng đợi.
Một luồng gió nồm thổi. Chiếc váy lụa và đôi dải yếm của Mít bay cả về một chiều. Tửu đã đến sau Mít.
Chốc vừa đưa đôi dây gầu cho Tửu, đã nhảy tót qua rãnh chạy một mạch đến cái quán gần đấy. Vì lúc tát, nó đã để ý nhìn bọn trẻ đương chơi khăng. Nó thèm quá, thèm như đứa trẻ thèm quà.
Mít và Tửu tát cùng thạo. Chiếc gàu lên xuống vừa nhanh vừa đều. Nước ở miệng gầu đổ xuống như thác bạc. Nước ruộng sầu lên như bọt rượu bia. Vừa tát vừa nói chuyện, nên câu chuyện của anh chị không có vẻ ngượng nghịu chút nào.
Tửu nói khơi đầu:
- Chiều qua em vào nhà ông xã Bổng làm gì thế?
- Em đòi bà ta tiền vải.
Im một lát, tay vẫn tát đều, Mít nói tiếp:
- Bu em định đòi hết tiền vải chịu để trả chú Sùi. Bu em không dệt nữa vì dạo này kém đói, vải bán chậm lắm, mà không được lãi mấy. Chỉ được hai xu hay già hai xu một tấm. Có khi lỗ cũng phải bán để lấy tiền trả hiệu.
Nong đầy bùn, không đủ nước cho miệng gầu chìm hẳn xuống. Hai người nghỉ tát, Tửu vác cuốc xuống khơi nong, khơi rãnh. Mít đứng trên bờ, hai tay cầm hai dây gầu đưa đi đưa lại cho khỏi trơ trẽn, nói nốt câu chuyện nhà:
- Anh Tửu ạ, bu em xoay ra làm hàng sáo, tuy vất vả khó nhọc nhưng kiếm lời nhiều hơn dệt. Thành ra độ này em lại bận thêm việc nữa.
Tửu, hai bàn tay tì vào đầu cán cuốc, ngửng lên hỏi:
- Việc gì thế, em? Em đã làm bao nhiêu việc rồi, nào gánh nước, đi chợ, làm cơm, giặt giũ, bán hàng. Bây giờ lại thêm việc nữa thì chịu sao nổi.
Tửu vừa nói vừa ngắm thân hình Mít in lên da trời đỏ ối của ban chiều.
- Em bận thêm việc xay lúa, giã gạo, sàng sẩy. Em không làm thì thầy bu em lại phải làm. Mà thầy bu thì đã khó nhọc vất vả suốt ngày rồi.
Tửu đã khơi xong, lấy vạt áo cánh lau mồ hôi trên trán rồi bước lên bờ. Hai người lại bắt đầu tát.
Mít vui miệng nói luôn:
- Em nghĩ mà thương thầy em. Khốn nạn, “ông lão”* chỉ mong ước tậu một con trâu cái mà mãi vẫn chưa tậu được. Anh trông, lúa má thế này thì còn hòng gì năm nay.
Người làng Cầm thường gọi bố mẹ là ông lão, bà lão, mặc dầu bố mẹ còn trẻ.
Mít đứng lấp bóng nên Tửu không nhận thấy vẻ buồn trên nét mặt. Nhưng Tửu cũng đoán được lòng trắc ẩn của Mít. Nó băn khoăn tìm lời an ủi:
- Chẳng năm nay thì năm khác, lo gì. Có tính siêng năng, cần kiệm như ông lão thì anh chắc thế nào cũng tậu được.
- Em cũng mong thế. Nhưng còn nhờ trời, nhờ số phận, mình biết trước sao được.
Tửu nghĩ đến tương lai, nói rõ mộng tưởng của mình cho Mít nghe:
- Em ạ, bao giờ anh ra ở riêng, anh cũng cố dành dụm tậu lấy con trâu cái. Anh không cần tậu ruộng, trừ phi giầu có. Em tính, có ruộng mà như lúc này thì chỉ rước thêm cái khổ, cái lo vào người.
Chiếc gầu lên xuống vẫn đều đặn, nhịp nhàng. Bốn cánh tay mềm dẻo hoạt động như bộ máy, không cần trí phải bận đến.
Tửu mê man trong giấc mộng vàng, nói tiếp luôn bằng một giọng lưu loát. Hình như nó đã nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần trong trí nghĩ nên bây giờ nó không cần phải nghĩ nữa:
- Em ạ, với một con trâu cái, chúng mình không bao giờ sợ đói. (Tửu dùng hai tiếng “chúng mình” cốt để Mít hiểu ngầm có cả Mít vào đấy). Anh với nó có thể kiếm mỗi ngày năm hào. Hôm nào anh mệt chẳng hạn, anh có thể cho thuê nó được ba hào. Mỗi mùa anh có thể kiếm được mươi mười lăm đồng là ít. Không kể những con nghé nó đẻ ra sau này. Rồi thừa vốn anh sẽ mua lợn nái về nuôi. Em không biết chứ nuôi lợn nái phát tài lắm cơ.
Mít lắng tai nghe chuyện mộng của Tửu. Nó sung sướng cười luôn miệng và cặp mắt ướt vì cảm động, đăm đăm nhìn Tửu như muốn bao trùm cả lấy người Tửu.
Mặt trời lặn đã lâu, chỉ còn sót lại ít bụi hồng mà đêm tối sắp sửa đến quét sạch. Cây đa đằng xa in hình đen sẫm lên nền trời đen nhạt. Đôi cò trắng song song bay về tổ, cánh đập trên không khí kêu vun vút. Chuông chùa Bính vang đưa lại để làm tăng thêm sự yên lặng trong khoảng đồng không mông quạnh.
Một cảm giác mãnh liệt tự nhiên bồng bột trong lòng Mít như thầm giục Mít chạy lại ôm lấy Tửu. Mít xấu hổ, tự nghĩ sao mình lại có cái cảm giác lạ lùng ấy, cái cảm giác mà Mít cho là chỉ những đứa đĩ thõa mới có. Mít cuống quýt như một kẻ có tội bị bắt quả tang. May mà trời nhá nhem tối, Tửu không nhận rõ.
Muốn đưa ý nghĩ đi đường khác, Mít vội giục:
- Tối rồi, anh ạ, ta về đi thôi.
Ai nấy đã về từ lúc nãy, chỉ còn trơ trọi hai người trong yên lặng chan chứa tình yêu.
Mít hồi hộp quá ríu cả bước, mấy đầu ngón tay bấu mạnh những sợi dây thừng cuộn trong đáy gầu. Tửu nói luôn miệng để cố dẹp yên lửa tình nó chỉ chực bùng cháy trong lòng.
Không thể đừng, Tửu sẽ đặt bàn tay lên vai Mít. Mít rùng mình như gặp lạnh, chân tay bủn rủn, sắp sửa ngã vào người Tửu. Mít sẽ kêu, giọng run run: “Đừng anh… buông ra… anh…”
Tửu để rơi tay xuống. Tửu cũng sợ. Hai người cùng một ý tưởng, cùng nhích xa nhau để khỏi bị dục tình cám dỗ và cùng yên lặng đi.
Đến cổng nhà Mít, Tửu đưa cuốc cho Mít và hẹn chiều mai lại đi tát nước và đêm nào rảnh việc Tửu sẽ lại xay lúa giã gạo hộ Mít.
- Thế thì còn nói gì nữa. Em chỉ muốn có nhiều việc để được anh giúp luôn.
Mít đã thu phục được can đảm nói một cách bạo dạn như người vừa tỉnh cơn mê.
Hai người từ giã nhau, mỗi người mang theo một tương lai rực rỡ, đầy hạnh phúc.
Tửu, tâm hồn phiêu phiêu, cất bỗng giọng hát những câu sở thích của Mít. Mít đứng tựa cổng lắng tai nghe và nhếch một nụ cười khoái lạc.
*
* *
- Cốc cốc cốc cốc… cốc! Cốc! Cốc.
Chiềng làng thôn…
Một hồi và ba tiếng mõ. Tiếp liền sau, một câu dài dằng dặc rao lên trong một buổi chiều oi ả.
Xã Chính nhắm mắt lại, lắng mãi tai mà chỉ nghe được ba tiếng đầu, còn về sau tiếng rao vừa nhanh vừa đều một giọng khàn khàn khiến bác không sao hiểu được. Bác thu hết tâm trí để cố nghe lại lần nữa. Nhưng tiếng mõ và tiếng rao mỗi lúc một xa. Bác vội gọi Chốc.
- Thằng Chốc nó đi chơi từ trưa đến giờ chẳng thấy mặt nó đâu cả.
- Thầy gọi gì cơ?
Xã Chính chỉ tay ra cổng:
- Con chạy ra hỏi xem mõ rao về việc gì. Mau lên không họ đi xa mất.
- Vâng.
Mít hết sức chạy, hai ống chân đập vào váy kêu phất phất. Những dải yếm bay tỏa ra như đuôi diều. Một tay ôm lấy đỉnh đầu cho khăn khỏi xổ.
Một lát, nó chạy về vừa nói vừa thở:
- Thầy ạ, mõ rao sớm mai họp việc làng để bàn về việc cầu đảo.
- Ừ, có thế chứ!
Bác hớn hở sung sướng như người được bạc. Trước đây chưa đầy mười lăm phút bác còn đương ủ dột. Ngồi trên ngưỡng cửa, hai khuỷu tay chống trên đầu gối và hai bàn tay ôm lấy hai má, bác ngửng nhìn trời, một cách chán nản. Thế mà chỉ một câu nói của Mít đã đổi hẳn tâm hồn bác.
Hôm sau, vừa sáng bảnh mắt, bác đã chỗi dậy rửa mặt, súc miệng, hút một điếu thuốc rồi vội vàng đi, chưa kịp cài cúc áo ngoài.
Ra đến “từ”* vẫn chưa thấy một ai. Cả thằng mõ cũng chưa thấy đến trải chiếu và sắp trầu nước. Bác ngồi chán lại đứng dậy, đi đi lại lại đếm từng cái cột, cái rui cho đỡ sốt ruột. Rồi bác đi chung quanh giải võ, tẩn mẩn ngắm những nét gạch đỏ của những đứa trẻ vẽ nguệch ngoạc trên tường trắng hoặc lẩm nhẩm đánh vần những chữ chúng viết bậy ra đấy. Bác tủm tỉm cười mỗi khi bác đọc những câu ngộ nghĩnh hay tục tằn. Bác làm đã nhiều việc mà ngoảnh ra vẫn chỉ thấy trơ trọi một mình bác với hàng sập gạch bỏ không.
Từ: miếu thờ, nhà thờ.
Sau cùng, bác sốt ruột quá, không chịu nổi phải bò về. Bác ăn lót dạ một lưng bát cơm nguội trộn vừng rang, uống một bát nước chè nóng, ngồi chưa được một chốc đã bồn chồn đứng dậy trở đi. Thế mà bác còn phải đợi hàng giờ mới thấy các cụ lẻ tẻ đến. Việc can hệ đến vận mệnh các cụ mà còn thế, huống chi những việc mà các cụ coi thường như việc đào ngòi, đào giếng chẳng hạn.
Lo về cây lúa gần hết tháng tư rồi mà chưa giỗ vè, các cụ không kịp xơi trầu uống nước, vội bàn ngay việc đảo võ.
Ông hàn Năm, ý chừng sẵn ruộng nhất, giục Lý trưởng đương thứ đưa tờ sức ra cho thư ký đọc.
Anh thư ký, một anh học trò đỗ sơ học yếu lược từ năm kia, cầm tờ sức đọc trơn tru như khi anh đọc bài tập đọc ở trường:
Tuy Viễn ngày… tháng… năm…
Thừa lệnh quan Tổng đốc, quan Huyện Tuy Viễn sức cho kỳ hào xã Cầm Ô biết rằng: vì mấy tháng nay trời làm hạn hán, đồng ruộng nứt nẻ, lúa má cằn cỗi. Vậy sức cho các thân hào, kỳ mục phải kíp họp bốn thôn lại mà rước các thần linh đến đình xã Đoài để chiều ngày 25 hay rạng ngày 26 quan Huyện thân về đứng chủ lễ cầu đảo. Hôm ấy truyền cho các chức dịch phải có mặt cả đấy để hành lễ, nhược bằng không tuân theo sẽ bị khiển trách.
Nay sức.
Thư ký đọc xong, ông cử Hạ nói:
- Việc là việc cần, vậy xin các quan vơn, ông nào về thôn ông ấy để sắp sửa trưa hôm nay rước thánh ra đình Đoài cho sớm sủa.
Một ông có tính cẩn thận ngắt lời:
- Ấy, thưa cụ, còn phải xem ngày, xem giờ tốt xấu thế nào đã chứ!
Ông cán Bích cất tiếng:
- Thưa các cụ, ngày hôm nay rất tốt ạ. Chính là ngày lễ bái và giờ ngọ xuất hành cũng tốt ạ.
Một ông ngồi cạnh nói leo:
- Sao cụ biết?
- Thì ngày nào tôi chả xem lịch. Mà có kiêng có lành, các cụ ạ. Từ khi tôi theo lịch xem ý làm việc gì trôi việc ấy.
Ông Lý Hiểu nói:
- Cụ cán đã xem lịch cẩn thận thì ta cứ thế mà làm. Vậy xin các cụ giải tọa*.
Giải tọa (ít dùng): tương tự “giải tán”.
Thế là nhờ cây lúa thúc giục, việc làng đã bàn xong một cách rất nhanh chóng và trôi chảy.
Sáng hôm ấy, thôn nào cũng bận rộn, náo nhiệt như ngày vào đám.
Về phần thôn Tiền, ông Hội lại ra nhận chức đại bái để đi hậu nghinh. Sao mà ông có duyên với chức đại bái thế!
Ngoài bốn vị thần hoàng trong bốn thôn, các cụ còn muốn triệu đức ông chùa Bính.
Theo ý các cụ, đảo võ mà không có đức ông chùa Bính thì kết quả không được mỹ mãn. Vì đức ông ngài khét tiếng cả vùng Đoài.
Các cụ truyền lại rằng: ngày xửa ngày xưa, đức ông ngài dữ lắm. Vô phúc người nào đi qua mà quên không bỏ nón, xuống ngựa hay xuống cáng thì người ấy tất bị ốm thập tử nhất sinh. Nếu không đem trầu cau đến tạ tội, chết oan là thường.
Các cụ sợ di hại đến làng, nhất là sợ cho bọn mục đồng chăn trâu cắt cỏ ở đấy nên đã xoay hướng ngài lại. Từ đấy, đức ông ngài đã bớt dữ, nhưng vẫn còn thiêng lắm. Còn cụ nào to gan đã dám xoay hướng ngài lại thì không thấy các cụ nói.
Vậy việc rước đức ông là một việc tối cần và không phải là một việc dễ. Lỡ ra thì khốn!
Các cụ chọn lọc mãi mới tìm được ông lý Hiểu là người vừa tuổi tác vừa sùng bái. Vâng, sùng bái lắm. Đã lâu, ông không hề đụng đến củ hành, củ tỏi, hay một thức gì mà đứng trước thánh có thể phạm tội được. Không kể bao giờ ông cũng có vài củ gừng hay ít hạt tiêu trong túi áo. Sùng bái như thế mà ông còn ngần ngại, đợi các cụ giục hai, ba phen mới dám nhận lời. Đủ biết đức ông ngài thiêng đến bực nào!
Thoạt ở nhà ra đi, ông đã tâm tâm niệm niệm. Vừa tới cổng chùa, ông đã kính cẩn, sợ hãi như một anh dân ngu đến cửa quan.
Trước khi xin âm dương, ông tế một tuần rượu. Những người giúp việc ông hành lễ đều là những người thanh khiết cả, hai ba hôm chưa hề đụng đến miếng thịt cầy.
Cứ nhìn dáng điệu ông lom khom, đi đứng khép nép trong lúc tế, đức ông ngài cũng phải rủ lòng thương rồi. Tế xong, ông cúi rạp, hai tay giơ ra cầm lấy cái đĩa dựng hai đồng trinh Khải Định để trên nhang án. Ông quỳ và kính cẩn nâng cái đĩa lên ngang trán rồi ông lẩm nhẩm khấn một thôi dài. Đoạn, ông hạ thấp đĩa xuống trước ngực, cầm hai đồng trinh, gieo.
Mấy cụ đứng hai bên, vươn mãi cổ ra nhìn, rồi cụ nọ thì thầm vào tai cụ kia:
- Sấp hai, ngài bất ưng.
Không đầy năm phút, tin dữ đã lan khắp sân chùa.
Xã Chính tay cầm trống khẩu áp vào ngực thở dài (xã Chính được giữ chức đánh trống khẩu đi lùi sát trước kiệu).
Ông Hiểu đặt đĩa lên nhang án, sụp lễ bốn lễ, rồi cũng một cử chỉ như trước, ông lại khấn, lại gieo. Các cụ lại vươn mãi cổ ra nhìn và thì thầm:
- Ngửa bạch, ngài cười.
Tin truyền đi. Ngoài sân nhao nhao lên:
- Ngửa bạch, ngài cười.
Một anh xã nói với những người đi rước:
- Cứ xin mãi, ngài thương hại rồi thế nào cũng ưng.
Anh ta nói không khôi hài giễu cợt chút nào. Thật thế, vì anh ta nói bằng một giọng kính cẩn lắm và trông dáng điệu anh ta cũng đủ biết.
Được cái ông Hiểu cũng chịu khó lễ… chịu khó khấn. Bốn, năm bận, hết ngửa bạch lại sấp hai, sau cùng sấp một. Ngài ưng.
“Sấp một, ngài ưng!” Tiếng hò reo khắp sân như tiếng ca khải hoàn của một đội quân đi chinh phục về.
Xã Chính mừng, nhảy cẫng một cái như thằng rồ. Gặp ai, bác cũng nhắc lại: “Sấp một! Ngài ưng!” Tuy họ biết chẳng kém gì bác.
Được lệnh các cụ, bác giơ trống ra trước mặt đánh ba hồi chín tiếng. Tức thì, cờ quạt, tàn lọng giải ra đỏ rực cả lối đi từ cổng chùa đến tận đường cái. Ông Hiểu vẫn mũ áo chỉnh tề, hai tay kính cẩn nâng hòm sắc của ngài đặt lên kiệu bát cống.
Xã Chính đánh một hồi ba tiếng. Dứt tiếng thứ ba, tám anh ghé vai, nhấc bổng kiệu lên rất đều đặn, ngay ngắn vì các anh khiêng kiệu nhiều lần nên đã thạo lắm. Trống cà rùng, trống cái, trống con, bát âm nổi dịp. Rồi tiếng loa giục, tiếng tù và inh ỏi.
Nhưng kiệu ngài đến cổng liền đứng lại nhất định không chịu nhúc nhích. Ông lý Hiểu tạm lĩnh chức đại bái và các cụ xúm lại khấn khứa mãi, ngài nể lời mới chịu đi cho. Đi được mươi bước, ngài bắt đầu bay, bay mãi. Các cụ xắn tay áo thụng lên tận khuỷu, chạy theo kiệu như đàn vịt, hai dải mũ bay tỏa ra đằng sau như đôi cương ngựa. Xã Chính quên cả đi lùi, chạy bán sống bán chết, đứt cả guốc mà không dám trở lại nhặt.
Ngài bay thẳng vào đình thôn Hạ, đứng lại hồi lâu ở sân đình cho các kỳ hào “văn vũ” đến lễ khấu đầu, rồi ngài lại bay vào đình thôn Thượng, thôn Tiền. Khác các thánh, ngài bay cả vào thôn Trung. Rồi ngài xoay, ngài lùi, ngài phi. Mỗi lần ngài làm dữ quá, các cụ lại phải xúm lại cầu khẩn.
Thương hại cho xã Chính, mồ hôi mồ kê nhễ nhại mà vẫn phải vừa chạy vừa đánh ba tiếng trống một. Bác không hề nghĩ đến cái giá trị to tát nhất trong bọn người đi rước. Bác không quản khó nhọc, tâm niệm, thành kính để ngài chứng quả mà phù hộ cho cả làng.
Theo tôn ti trật tự, đức ông là bực thượng đẳng thần đi đầu tiên. Đi sau cùng là kiệu đức thánh thôn Trung, vì ngài là đức thánh bà, lại mới được phong trung đẳng. Kiệu ngài lúc nào cũng đi bước một. Ngài không bay, không xoay, không lùi, nhưng ai dám bảo ngài không thiêng. Ngài cũng thiêng lắm chứ. Chỉ vì ngài thương hại tám cô chân kiệu của ngài, tám cô gái quê nhu mì, ăn vận lối tân thời: quần trắng áo hồng, khăn vành giây màu lam thẫm. Ngài thương hại cả đến những các cô theo hầu ngài: bốn cô đội hòm khăn chầu áo ngự, hai cô cầm lẵng hoa, một cô đội hòm lồng kính trong đựng những đôi hài xinh xinh thêu chỉ vàng chỉ bạc.
Cả làng náo nức, bỏ cả tát nước để đi xem. Các bà lý, bà khán, các bà vãi, bà đồng đứng hai bên vệ đường chắp tay xuýt xoa khấn vái hoặc theo sau kiệu đức bà tụng niệm nam mô như các đồng trinh bên giáo cầu kinh.
Đám rước đi dài hàng cây số. Đứng xa, trên một nơi cao nhìn xuống, trông như thể một con tràng xà thêu bằng các chỉ sặc sỡ trên nền nhung xanh. Những chiếc lọng nhô lên như hàng nấm. Thỉnh thoảng một tràng pháo nổ ran, làm lấp cả tiếng trống rước. Khói pháo bay tỏa ra như mây mờ.
Chiều hôm ấy, xã Chính đi thơ thẩn ngoài đồng. Bác ngắm hết ruộng mình sang ruộng người, thản nhiên nhìn những cây lúa cằn cỗi, khô khốc như cỏ lau. Bông nào bông ấy gầy nhẳng đâm thẳng lên trời.
Đầm gần cạn sạch, chỉ còn sót lại ít nước chảy ngoằn ngoèo trong lòng đáy. Hai bên bờ lẻ tẻ một vài người. Họ tiếc rẻ còn nước còn tát.
Một người ngồi nấp trong thửa ruộng gần đấy.
- Ai như bác Bửng ấy nhỉ?
- “Phải, tôi đây. Bác đi thăm lúa đấy à?… Hỏng bác ạ, trời cứ thế này thì vị tất mỗi sào đã được tới một thùng thóc.” Xã Bửng vừa đi vừa nói, hai tay buộc lại cạp quần.
- “Có, rồi ông ấy mưa chứ!” Nói rồi, xã Chính hai tay vắt sau lưng, đứng tư lự chăm chú nhìn phương xa, đến nỗi xã Bửng lững thững đi khỏi lúc nào bác cũng không rõ.
Chớp nguồn chốc chốc lại lóe sáng trong những đám mây đen nhợt sau dẫy núi mờ mờ. Bác không biết tên là dẫy núi gì và không bao giờ bác tò mò hỏi biết, vì nó không có liên lạc đến đời bác.
Cảnh tượng ấy không mấy chiều là không bày ra trước mắt, nhưng lần này bác để hết tâm trí vào. Bác tưởng tượng những đám mây kia đùn mãi lên rồi phủ khắp trời. Chớp nguồn sẽ đổi thành những gạch lửa chói lọi và tiếp luôn những tiếng sấm vang làm rung động cả mặt đất. Thế rồi một trận mưa nhân từ sẽ đổ xuống khắp đồng, rồi những bông lúa lép kẹp được no nê, sẽ nở bung ra nặng trĩu những hạt thóc vàng chóe.
Bác lẩm bẩm nói một mình:
- “Đã cầu đảo tất phải mưa”. Và thủng thỉnh bước một về nhà.
Trên cỏ, những con châu chấu thấy động vù bay, đôi càng đập vào cánh lách tách. Bác nghịch lấy bàn chân lia mạnh, hàng đàn châu chấu bay tản ra khắp nơi. Có nhiều con bám cả vào quần áo bác.
- “Giá mấy con gà của mình được những của này thì tha hồ béo.” Nghĩ vậy mà bác vẫn cứ thủng thỉnh đi.
Gần đến cổng thì trời sẩm tối. Tiếng xay lúa ù ù bên tai như tiếng sấm nguồn.
Bác đi thẳng xuống bếp. Vợ ngừng xay, ngửng đầu lên hỏi:
- Mình đã về.
- Ừ, bu nó không đi xem rước à?
- Ai đong thóc, xay lúa, giã gạo cho.
Mít ngồi sàng gạo gần đấy, cười nói:
- Thầy chạy mất cả guốc phỏng?
Xã Chính cười theo:
- Sao mày biết?
- Thì con đứng xem gần ngay đấy. Con thấy thầy chạy toát cả mồ hôi, xổ cả áo, con thương hại quá.
- Láo nào!
Bác gái tủm tỉm cười. Bác giựt mạnh “dằng” cối để cho thóc đổ xuống rồi cắm đầu xay.
Mít định nói nữa, nhưng tiếng xay lúa ù ù át cả mọi thứ tiếng. Thấy mẹ làm việc luôn tay, Mít cũng chăm chú sàng gạo.
Xã Chính đứng một lát, thấy mỏi mệt, bèn đi lên nhà nằm nghỉ… Bác thiu thiu ngủ. Bác mang máng nghe như có tiếng sấm tận đằng xa… Ư, rõ ràng có tiếng sấm. Và chớp sáng thấm qua mi mắt bác. Rồi những hạt mưa nặng rơi trên tầu chuối ở sau nhà đồm độp. Mưa. Mưa to. Mưa rào. Bác cảm thấy luồng gió lạnh lọt qua khe cửa đến bao bọc lấy bác.
Bác ra ngồi ngưỡng cửa nhìn những giọt mưa trắng như bạc, trong như pha lê, dội xuống trước mặt.
- Mưa. Có thế chứ, các ngài thiêng thật!
Cái cống thông ra đường nhỏ quá, không đủ sức cho nước chảy. Cái sân đất tí hon của bác đã tràn ngập lên tận thềm. Bác tiếc không có bể chứa. Lúa má dịp này tha hồ mà thừa thãi. Thật là một trận mưa thừa thãi. Thật là một trận mưa tiền mưa bạc…
… Tiếng gà gáy sáng như tiếng kèn thúc giục bên tai. Bác choàng dậy, nhảy xuống đất ra mở cửa.
Ánh sáng trắng bạc buổi bình minh cùng với tiết trời mát lạnh ùa vào trong buồng tối. Một con chích chòe đứng ưỡn ngực, cong đuôi trên chiếc đấu nóc nhà họ Nguyễn hót một hồi dài. Tiếng hót trầm bổng, véo von như một khúc nhạc trong yên lặng. Đàn sẻ vừa thức giấc; trước khi tản mát đi tìm mồi còn đương ríu rít dưới tầu cau, dưới mái hiên. Cảnh vật đua nhau cùng với một ngày êm đẹp, chỉ một mình bác là tưng hửng.
*
* *
Mùa gặt vụ chiêm này có một vẻ đặc sắc hơn các vụ khác, đặc sắc về nỗi buồn tẻ.
Người ta không còn thấy đâu những bọn thợ gặt vác đòn càn, vác hái như một toán nhuệ binh đi tiên phong rảo bước đến các quán để đợi người thuê đón. Không còn thấy đâu những gánh lúa nặng trĩu, những bông đập vào nhau rào rào như mưa. Không còn thấy đâu những cô gái quê tươi tắn, nhí nhảnh đi mót lúa hay quang gánh mang cơm nước cho thợ làm. Không còn thấy đâu những tiếng đập lúa trên những cối đá thủng. Không còn thấy đâu những buổi bừa rơm huyên náo trên sân gạch. Ôi! Thời thịnh vượng nay còn đâu!
Trên các đường làng, toàn những người cắp thúng, cầm liềm uể oải ra đồng. Họ có vẻ lo âu, không trò chuyện, không cười đùa vui vẻ. Họ không tiếc công tiếc của để rồi mua lấy một cái kết quả khốn nạn như kia thì bảo họ vui vẻ sao được.
Cánh đồng mới lại càng thê thảm. Những cây lúa gần chết khô giơ những bông khẳng khiu. Hạt lúa thưa thắt không đủ sức nặng để rủ xuống mặt đất. Đứng trên cao nhìn như một bức thảm vàng lâu ngày đã mất tuyết phai màu.
Lác đác chỗ một vài người, chỗ dăm bảy kẻ. Họ yên lặng cầm liềm cắt từng bông hay vài bông một bỏ vào trong thúng đội về.
Thỉnh thoảng một giọng cất bổng lên không trung rồi… im bặt, vì không một người xướng họa.
Họa hoằn mới thấy một bọn thợ gặt. Đó là những chủ điền giàu có thuê họ gặt về lấy rơm rạ làm đồ thổi. Còn những người nghèo, những người bậc trung không lấy tiền đâu mà thuê, họ chỉ cắt độc bông để vò cho dễ. Khi nào rỗi việc họ sẽ cùng con cháu đi cắt rạ về phơi.
Nhà xã Chính cấy ngót ba mẫu mà góp lại không được tới ba mươi phương thóc.
Mọi năm được mùa, một sào xấu nhất còn được mười lăm, đôi mươi phương.
Hai vợ chồng lo lắng phờ cả người.
Vợ đứng nhìn đống thóc tí hon nhớ lại đống thóc tướng cữ tháng mười năm ngoái, thở dài nói:
- Từng này thóc thì sao đủ nộp và trả cái nợ bà Chánh Bá, lại còn những món nợ lặt vặt, lại còn ăn, còn tiêu… Ôi! Chao ôi! Rõ cơ cực! Cái thân này còn vất vưởng cho đến bao giờ mới thoát nợ.
Nói rồi, bác lại thở dài. Cặp mắt đẫm lệ, hai gò má sưng lên vì cố nhịn khóc.
Xã Chính ngồi vắt chéo chân trên ngưỡng cửa nhìn ra sân, nói:
- Bu nó ạ, chẳng việc gì mà lo cho thêm phiền. Bao nhiêu nợ nần cứ trả hết. Rồi sẽ xoay. Trời sinh voi, trời sinh cỏ.
Vợ quay ra đằng sau sỉ mũi, co một chân lên, hai đầu ngón tay quệt vào gót:
- Khốn nạn, mình bảo xoay thì xoay cách nào bây giờ.
- Khó gì. Tôi với mình đi làm hàng xáo. Sáng đi đong thóc, về đã có tôi xay lúa, mình giã gạo, còn con Mít sàng sẩy! Gặp thời kém đói thì phải thế, chẳng ai cười.
- Vẫn biết thế, nhưng mình bảo đong đâu bây giờ?… Mình không nhớ hôm kia tôi đi khắp làng mà không sao đong được lấy hai thúng thóc đấy nhé. Các nhà giàu họ thấy trời làm mất mùa, thóc cao gạo kém, họ găm, có chịu bán cho đâu.
Xã Chính ngồi yên lặng nghe. Mấy đầu ngón tay gõ dịp trên ngưỡng. Ngay ngõ vào, một rặng cau bác trồng độ tháng giêng héo quắt đi vì nắng quá.
Vợ thở dài nói tiếp:
- Chỉ khổ hạng nghèo đói như mình thôi. Có tiền mà vị tất đã có thóc.
- “Tức nhỉ!” Chồng chau mày, nghiến răng, hai bàn tay nắm chặt như sắp đánh ai, cặp mắt long lên sòng sọc. Nhưng chỉ thoáng như cái chớp, bao nhiêu nghị lực lại tan ra tro tàn. Bác ủ rũ, hai tay buông thõng như những tàu cau của bác.
Vợ đứng suy nghĩ. Không những chẳng tìm ra được kế gì hay mà bác gái còn sực nhớ đến vụ sưu thuế năm nay nữa.
- Chết chửa, thầy nó ạ, lại còn vụ sưu thuế sắp tới. Mình mà không nộp được đủ đồng thì khổ với ông lý, với các ông tộc biểu.
Không để ý đến nét mặt thảm đạm của chồng, vợ tiếp luôn:
- Thầy nó còn nhớ vụ thuế năm ngoái không? Bác Chửng ấy mà, bác ta thiếu có năm hào mà bị tuần đến khiêng cả nồi, niêu, chum, vại ra đường. Gặp lúc bác ta say rượu cà khịa với cả tuần, bị họ lôi ra đình. Vợ bác chạy ngược, chạy xuôi mới vay đủ đem ra nộp các cụ. Bác lại còn phải đèo thêm trầu cau ra xin lỗi, chồng mới được tha về, khỏi bị trói vào cột đình… Mình mà không nộp được đủ rồi cũng đến như bác Chửng.
- Vậy bu nó bảo làm thế nào bây giờ?
Vợ nhìn chồng, thấy hai giọt lệ đọng trên gò má. Bác nhận thấy chồng bác sút đi nhiều: mắt sâu hoắm, má hóp lại, sắc mặt mất cả vẻ hồng hào khi trước. Lòng trắc ẩn bỗng nẩy nở trong tâm hồn bác và đem đến cho bác cái can đảm của một người đàn bà thương chồng. Bác thở mạnh để xua đuổi ý nghĩ hắc ám. Cặp mắt bác sáng lên. Bác tủm tỉm cười, một nụ cười gần như tươi tỉnh:
- Thế mà cũng chẳng lo. Trời có để cho đói đâu… Bây giờ thì cánh mình hãy khất lại bà Chánh cái nợ trước, xin nộp mười hai phương về vụ này thôi. Còn những nợ lặt vặt, người một thùng, kẻ vài đồng thì ta hãy khất lại họ ít bữa nữa. Được cái họ cũng biết mình thực thà, sòng phẳng. Họ tuy khá nhưng cũng có lúc bấn nên biết thương kẻ nghèo. Còn cụ cán Bích với bà cụ cán Bột thì chẳng lo, lúc nào có trả cũng được.
Bác vừa nói vừa âu yếm nhìn chồng… Bác sung sướng thấy chồng bớt lo.
- Ừ, mình nghĩ cũng phải nhưng mà rầy lắm mình ạ. Có cái nghề hàng xáo, thì đã khó khăn như thế đấy. Không lẽ cứ ăn rồi lại ngồi cho qua ngày đoạn tháng.
Vợ cười:
- Thiếu gì nghề chỉ sợ làm không xuể thôi… Mình đan rổ đan rá khéo lắm đấy nhé. Vậy ngoài việc đồng áng, mình hãy kham lấy nghề ấy. Còn tôi chẳng có vốn dệt cho mình thì đi dệt thuê. Cứ tay tôi dệt đều cũng có thể làm được hai tấm một ngày. Năm xu một tấm, mỗi ngày cũng được một hào. Cái Mít thì nó có nhiều việc lắm rồi. Còn thằng Chốc… rồi chúng ta cũng phải tìm việc cho nó không thể để cho nó cứ lêu lổng mãi thế được. Ui chào! Tôi còn một việc này hay lắm, dễ kiếm ăn lắm (chị tủm tỉm cười) để rồi chốc nữa tôi sẽ bàn. Bây giờ thì ta hãy ăn no đã.
Rồi bác quay xuống bếp, gọi:
- Mít a! Con hãy để ấm nước bu đun hộ. Con chạy đi gọi lũ ranh con về ăn cơm đã.
- “Vâng”. Mít đứng dậy lấy vạt áo lau mồ hôi. Mặt nó đỏ ửng như người say nắng. Nó vừa rảo bước vừa gắt thằng Chốc: “Xéo đâu thì cũng phải nhớ đến bữa mà về ăn chứ! Gớm! Mà bu cũng nuông nó lắm cơ. Ai lại bằng ấy tuổi đầu mà chẳng biết gì cả. Con sợ nó lớn lên rồi cũng đến hư thân mất nết như thằng cu Chú con ông cán Thỗn mất thôi.”
Bác gái ngồi đun nước ngửng lên chực nói thì Mít đã ra khỏi cổng. Bác lẩm bẩm một mình:
- Con bé thế mà khá. Lo hết việc này đến việc nọ.
Xã Chính đứng dậy vào phản ngồi hút thuốc. Hút xong, bác cầm xe gõ vào bát điếu, vơ vẩn nhìn đâu đâu.
Một lát, thằng Chốc ở cổng vào. Một tay nó dắt thằng cu Nhớn, một tay xoa đầu phụng phịu nói trong nước mắt: “Tôi coi em chứ tôi có đi chơi đâu mà chị đánh tôi. Ừ ừ, cậy lớn bắt nạt…”
- “À mày còn lẩm bẩm cái gì hở!” Mít ẵm thằng cu Con đi sau, bước rướn lên định cho thằng Chốc mấy cái cộp nữa.
Bác gái vội chạy lại can:
- Thôi đừng đánh nó nữa. Để rồi bu sẽ kiếm việc cho nó làm. Con đi sắp sửa cơm nước kẻo muộn rồi.
Mít đưa thằng cu Con cho mẹ, vào bếp bưng ra sân cái mâm gỗ tróc sơn, trên để trơ trọi một bát vừng rang. Nó lại vào bắc nồi cơm vùi ở trong tro ra. Nó nghiêng đầu phùng má thổi tro bám trên mặt vung rồi hớt ít cơm ở miệng nồi vứt xuống đất cho con chó mực. Đoạn, nó để nồi cơm vào cái rế bưng ra đặt cạnh mâm. Thế là bữa cơm đã soạn xong.
Từ ngày kém đói, bữa cơm thường của nhà xã Chính chỉ có thế. Có hôm lại chỉ trơ trọi một đĩa muối. Hôm nào thêm được đĩa rau luộc, bát nước mắm là bữa cơm đã sang lắm rồi.
Ăn xong, hai vợ chồng ngồi trên thềm xỉa răng uống nước. Mít cắp rổ bát ra ngồi rửa cạnh vại nước. Nó không ra ao làng vì ao độ này cạn sạch.
Chồng nhìn lũ trẻ chạy nghịch chung quanh đống thóc, nhắc lại chuyện làm ăn, hỏi vợ:
- Mình bảo việc gì hay hở mình?
Vợ uống xong, đặt bát nước xuống thềm, nói:
- À, tôi tính đến đằng bà cụ cán Bột nói xin cụ cho nuôi lợn rẽ. Việc này mà xong thì chẳng còn lo gì thiếu phân bón ruộng nữa, mình ạ.
Chồng định nói, nhưng vợ tiếp luôn:
- Mà việc ấy thế nào cũng xong, vì cụ đã hứa cho nuôi hai con từ mấy tháng trước. Có lợn rồi, mình mới tán đến việc đong thóc của cụ để lấy cám nuôi lợn. Muốn cho lợn của cụ chóng lớn chóng béo, tất cụ phải bán thóc cho mình. Vả lại mình đong trả tiền ngay, cụ chả còn sợ mất cả chài lẫn lưới, có phải không mình?
Chồng tươi tỉnh nói nịnh vợ:
- Sao bu nó tính việc giỏi thế. Cứ những tôi thì cũng đến ăn rồi lại ngồi đợi cơ túng đói.
Được chồng khen, vợ hả dạ, nói luôn:
- Việc này mà thành thì cô Mít ta lại thêm được việc đi xin nước gạo nữa. Việc lấy dong ngoài đầm thì giao cho thằng Chốc.
- Ừ, phải đấy, tôi không muốn để thằng Chốc nó lêu lổng. Thằng cu Nhớn đã lớn, coi em được rồi.
Đêm hôm ấy xã Chính ngủ yên. Con trâu cái lại bắt đầu lảng vảng trong trí nghĩ.
Sáng hôm sau, hai bu con Mít dậy sớm. Mít vào buồng bưng thúng gạo ra thềm. Bác gái ngồi xổm, đong bằng đấu gỗ, lưng lom khom, hai đầu gối tỳ xuống đất. Mít ngồi trước mặt, hai tay cầm cái mẹt dựa vào cạp thúng. Mỗi lần mẹt đầy gạo, Mít đổ sang cái thúng để cạnh.
Đong xong, bác gái gõ đấu vào miệng thúng ngồi ngẩn ra tính: “Đồng sáu mà được đi hai mươi mốt đấu… Hãy cứ tính gọn hai mươi đấu cho dễ… Hai mươi đấu đồng sáu thì mười đấu đi… tám hào. Một đấu tám xu. Còn đi một đấu lẻ, hãy trừ đi mỗi đấu một trinh… thế ra đấu lẻ những một hào kia à… Thôi, con cứ bán tám xu một đấu là được rồi, hoặc giả cùng quá bảy xu rưỡi cũng phải bán”.
Mít hoảng hốt:
- Bán thế thì lỗ chết!
Bác gái nhìn thẳng vào mặt Mít, nói ra vẻ thạo lắm.
- Thưa cô, còn mẻ cám cô không tính à. Mẻ cám ấy ít ra cũng được hào rưỡi, hai hào.
Mít vừa cười vừa gật luôn mấy cái:
- Ờ nhỉ, con không nghĩ đến mẻ cám.
- Thôi thế con ra chợ bán cho sớm sủa. Bu cũng đi khất vài món nợ đây.
Nói rồi bác vào trong nhà lấy nón đi ra cổng.
Mít vừa san gạo ra hai thúng, vừa nói:
- Bao giờ cho nhà mình sạch hết nợ?
Mít xuống bếp lấy đôi quang và đòn gánh để dựa vào vách. Nó lồng quang vào thúng dỗ xuống thềm cho gạo thu gọn lại rồi gánh ra chợ.
*
* *
Bác xã gái đã đi đến nhà bà Chánh Bá. Bác đứng cổng dòm vào thấy thúng mủng bày la liệt ở ngoài sân. Cạnh đống thóc, một cái phương với một cái gạt gác lên thành phương. Sáu, bảy anh nhà quê đứng nài xin, tay chắp ngực hoặc đưa lên gãi tai. Bà Chánh, tay chống cạnh sườn quát tháo. Nét mặt bà hầm hầm, lộ ra vẻ giận dữ. Bác đứng xa chỉ nghe phấp phỏng, câu được câu chăng, còn những câu của bọn kia khẽ quá, bác không nghe rõ: “… Không trả đủ thì rầy với bà… Chuyện! Thế khi được mùa thì ai đến lấy thêm của các người… không được, kệ kệ, mặc kệ các người… Thiếu một lẻ cũng không xong… Mặc! Mặc!” Bà Chánh vừa nói vừa xua tay lia lịa.
Biết là không phải lúc, bác trở gót ra về. Nhân tiện, bác lại nhà ông cán Rật, ông hương Rạng khất các ông ấy đến vụ sau. Qua nhà bà cán Bột bác tạt vào nhắc lại chuyện nuôi lợn rẽ. Bác hớn hở ở nhà bà đi ra. Các việc đều xong xuôi một cách hoàn hảo. Bác không cần xem lịch cũng biết hôm nay tốt ngày.
Về đến nhà đã gần trưa.
Thằng Chốc ngồi coi em ở thềm. Nó lấy đất dẻo nặn những mâm bồng, đèn, nến. Nó bỏ một viên đất vào trong vạt áo cộc nâu, cuộn lại, cầm hai đầu vặn để làm quả dưa đặt lên mâm bồng. Thằng cu Nhớn đang nhổ bọt vào đất để cho dẻo thêm. Hai bàn tay nó lấm lem. Còn thằng cu Con chưa biết chơi đình thì thằng Chốc đã làm cho nó mấy con trâu để nó khỏi phá đám. Mấy con trâu là mấy hòn đất hình củ khoai, chân, đuôi và sừng bằng những que diêm và những mẩu lạt. Chúng nó mải chơi, bu về lúc nào không biết.
- Chị Mít đã bán gạo về chưa, chúng mày?
- Chưa ạ.
Chốc trả lời mẹ rồi ghé vào tai thằng cu Nhớn nói nhỏ: “Giấu đi không có phải đòn bây giờ!” Thực thì nó sợ bị đòn, vì mỗi lần thằng cu Nhớn, cu Con nghịch bẩn, bu nó chỉ nhè nó mà đánh.
- Thầy đâu?
- Thầy sang bên cụ cán ạ.
Bác xã gái vào trong nhà nhìn vơ vẩn.
Một bức tranh cá treo trên vách. Không phải bức tranh Tàu vẽ bằng nét bút ủy mị. Đây là bức tranh của thằng Chốc, bức tranh to bằng bàn tay mua nửa xu ở chợ Cầm dạo tết.
Bác sực nhớ đến quà biếu bà Chánh Bá mà lúc sáng mải đi quên bẵng đi mất. Bác vội cắp cái rổ tất tưởi ra chợ.
Bác lần đến hàng gạo tìm Mít. Mít đương ngồi cầm cái vỉ gấp đôi lại quạt. Đôi má hồng hồng làm cho cặp mắt tươi thêm. Những sợi tóc mai ép xuống, ướt như người vừa mới gội đầu.
Thấy mẹ đến, Mít lộ vẻ sung sướng:
- Bu ạ, chỉ còn độ hai đấu nữa. Con bán tám xu một đấu đấy.
Một người hàng gạo ngồi cạnh đấy nói xen:
- Sao mà gạo cô ấy giã kỹ trắng thế! Vừa được cám, vừa dễ bán… Mình cũng biết vậy, nhưng có một mình sức đâu mà giã mãi được.
Các thứ tiếng ào ào như rừng thông reo trong một ngày lộng gió. Bác xã không nghe rõ và cũng không để ý đến người ngồi cạnh. Bác cúi xuống sát mặt Mít, nói to:
- Con đưa bu dăm hào.
- Để làm gì, hở bu?
- Bu mua con cá biếu bà Chánh.
Mít lấy một chuỗi tiền chinh ở thắt lưng ra đưa cho mẹ. Bác xã đi lại dẫy hàng cá trong quán đá. Hôm nay sẵn cá nên bác mua được giá rẻ. Bác đếm tiền đưa cho nhà hàng rồi bỏ con cá chép vào rổ. Bác vừa đi vừa lẩm bẩm: “Mọi khi con cá này phải năm hào”. Con cá còn tươi nguyên, thỉnh thoảng há sẽ mồm ra hớp không khí.
Bác rảo bước mạnh bạo đến nhà bà Chánh, chắc chắn hôm nay tốt ngày, làm việc gì cũng trôi chảy, nên lòng bác chứa chan hy vọng.
Đến cổng, bác sợ chó, đứng ngấp nghé nhìn vào.
Cái sân gạch rộng phủ đầy thóc vàng chói dưới ánh nắng. Đàn sẻ nhảy nhót thỏa thích, chọn những hạt béo mập mới thèm ăn. Vài con chim bồ câu thong thả bước một. Chúng nó đã no nê, bây giờ đương đi tìm kiếm những hạt sành hạt sỏi.
Bác Xã nhìn cái sân thóc mà thèm: “Nhà mình cứ được nửa sân thóc này thôi cũng đủ thừa thãi cả năm”. Thế mà bác không ghen tị không tủi nhục, không khổ sở đâu. Bác cho mọi việc đều do ở số kiếp. Số kiếp bác nó vất vả thì bác chịu vất vả. Bác cố ăn ở thực thà, một lòng thờ trời, thờ phật, thờ thánh để hòng kiếp sau vậy.
Bác đương nghĩ vơ nghĩ vẩn thì chợt một người đàn bà ăn mặc xuề xòa như bác đi ra sân bừa thóc. Đàn sẻ thấy động, bay vù lên nóc nhà ngói. Mấy con chim bồ câu bạo dạn chỉ bay là là chỗ này sang chỗ khác.
Bác cất tiếng gọi:
- Này thím Kẹo! Thím Kẹo!
Bác không có họ có hàng gì với Kẹo. Bác thấy họ gọi Kẹo bằng thím, thì bác cũng cứ thế mà gọi.
Thím Kẹo quay ra nhìn rồi vừa đi ra cổng vừa nói:
- Bác xã Chính đấy à. Đến có việc gì mà lại đem cả rổ gì nữa thế kia?
Bác cười tủm tỉm:
- Tôi đến tết cụ. Thím coi chó hộ tôi với nhé.
Bác trợn mắt, chúm mồm, nói tiếp:
- Con cá chép còn tươi nguyên, béo lắm! Ngữ này chỉ làm gỏi là tốt nhất.
Thím Kẹo thò ngón tay trỏ vào mang con cá:
- Gỏi với ghém gì. Bà tôi thì lại đến bỏ vào nồi kho ăn làm vài bữa.
Thím Kẹo không có ý gì nói xấu bà Chánh, thím vốn thực thà, trung hậu, ở hầu bà Chánh, đã chín mười năm trời, kham khổ, vất vả thế nào cũng chịu được, chịu một cách nhũn nhặn vui vẻ.
Hai người đi trên thóc, xào xạo như đi trên sỏi vụn. Bốn, năm con chó ở trong bếp chạy ra sủa ran.
Bà Chánh ngồi trên ghế ngựa nghe cậu Thanh đọc nhật trình. Bà góa chồng, được mỗi một mụn con trai nên bà quý lắm, không lúc nào rời con. Cậu đã đỗ sơ học yếu lược mà bà không chịu cho ra tỉnh học sợ mẹ con xa nhau, bà nhớ, bà buồn.
Nghe tiếng chó sủa, bà đứng dậy ra thềm:
- Ứ ừ, mụ xã Chính đấy phỏng? Sao bây giờ mới vác mặt đến hử? Liệu hồn! Không trả đủ thì bà cho người đến có bao nhiêu thóc xúc hết, nghe chưa?
Bác gái đặt rổ cá lên thềm và ngồi sụp xuống:
- Bẩm cụ, nhà cháu có con cá tươi đem đến biếu cụ.
- Tôi chẳng lấy cá. Chị biết điều thì cứ mang thóc đến nộp đủ tôi.
Thanh đương nằm khểnh trên ghế ngựa, ngồi dậy chạy vội ra. Từ ngày bác Chính gái mang đôi chim tây đến biếu cụ, tức là biếu cậu, cậu đem lòng mến bác.
Chưa biết đầu đuôi ra sao, cậu đã khẩn khoản khất hộ bác:
- Thôi mẹ ạ, bác ấy có xin khất, mẹ cũng nên cho bác ấy khất. Nhà ta thiếu gì. Bốn năm cây thóc to tướng ở sau nhà lại đầy một sân thóc kia nhé. Vừa ăn vừa tiêu hàng đời vị tất đã hết bằng ấy thóc.
Giá người khác nói ra câu ấy thì chết với bà Chánh, nhưng cậu Thanh nói thì chẳng việc gì cả. Bà chỉ lườm cậu thôi.
- Nói thế chứ tao thương hại vợ chồng nhà hắn lắm.
Lần này chẳng phải bà nể cậu con trai, cũng chẳng phải bà thương gì vợ chồng nhà hắn. Bà thấy vợ chồng nhà hắn nhu mì, thực thà, hiền lành, nhút nhát và nhất là có ruộng nương hẳn hoi thì bà cho khất, tức cũng như bà cho vay mà không phải bỏ của nhà.
Bà vốn làm giàu về nghề cho vay, cầm cố. Nay được con nợ chắc chắn như thế thì còn đâu bằng nữa!
Bà quay ra nói với bác xã:
- Nói thế chứ ai nỡ làm khổ vợ chồng nhà mụ.
Bác Xã cảm động, nhìn bà Chánh và thấy bà phúc hậu quá. Cặp mắt hiền từ, lúc nào cũng như muốn bao dung. Nhất là cậu Thanh, sao mà cậu đáng yêu thế!
Bà Chánh nhìn xuống rổ cá:
- Hừ! Nhà đã chả có, lại còn bày vẽ biếu với xén.
Bác Xã ngồi, hai bàn tay xoa vào nhau:
- Lạy cụ, con cá còn tươi lắm ạ.
Bà Chánh ngồi xuống ngắm. Con cá hãy còn ngáp. Vây và đuôi nổi những tia hồng.
Bà Chánh lẩm bẩm:
- Ừ, con cá còn tươi thật.
Rồi bà quay ra sân, gọi:
- Thím Kẹo!
Thím Kẹo đương bừa thóc, đi lại. Bà Chánh sẽ đập mấy ngón tay vào vành rổ:
- Thím đem xuống bếp cắt ra từng miếng mà kho cho nhừ, nghe chưa? Gỏi ghém gì cho nó lôi thôi. Tôi cũng không thích đâu.
Thím Kẹo liếc nhìn bác xã, tủm tỉm cười như để tỏ rõ lời nói của mình ban nãy là đúng. Thím thò ngón tay trỏ móc vào mang con cá xách xuống bếp.
- Vào trong này ăn trầu, xã.
Bà Chánh vừa nói vừa đứng dậy đi vào. Bác xã dạ rồi đi theo sau.
Thanh thấy hây hẩy gió, đã chạy xuống nhà ngang, đem diều ra thả. Cậu thích chơi diều cũng như ông quản thích chơi chim. Cậu có ba cái tất cả và đủ các thứ sáo. Cái diều lớn nhất dài mười thước (thước ta). Hôm nào gió to mới thả được. Và lúc thả, cậu phải mượn người lớn. Cậu chỉ đứng cổng nhìn ra hoặc lẩn quẩn bên họ. Còn hai cái diều năm thước và ba thước, cậu cầm dây lấy được.
Hôm nay gió bé, cậu thả cái ba thước. Bộ sáo năm do tay bác Ánh khoét, kêu vang như tiếng chuông và đổ hồi vào ba ra bảy rất nhịp nhàng khiến những tay sành phải ngây người lắng nghe. Bác Ánh đã nổi tiếng là tay khoét sáo giỏi nhất ở vùng Đoài.
Nghe sáo cất tiếng, bà Chánh thở dài bảo xã Chính đương ngồi sụp dưới đất, bên ghế ngựa:
- Thằng bé lại đi thả diều.
Rồi lấy cau trong cái lọ chè thủy tinh bày ra đĩa, mở âu đồng một dúm trầu têm để lẫn vào với cau.
- Này xã ăn trầu.
Bà vừa nói vừa cầm một miếng trầu đưa cho xã Chính.
- Dạ.
Bác xã, hai bàn tay ngửa ra khum khum, hứng lấy.
- Này xã!
- Dạ.
- Tôi thấy vợ chồng nhà mụ hiền lành tôi cũng thương hại. Người làng người nước cả chứ có xa lạ gì.
- Dạ.
- Vậy tôi cho vợ chồng nhà mụ khất cả vụ này lẫn cái nợ trước.
- Dạ. Cụ thương cho thế thì còn gì bằng. Thật là phúc cho nhà chúng cháu quá.
Bác bối rối, muốn tìm một câu gì để tạ ơn mà không sao tìm được.
Bà Chánh chọn miếng trầu ngon nhất bỏ vào mồm nhai bỏm bẻm. Bà há mồm, lấy ngón tay trỏ và ngón tay cái miết vào hai bên mép rồi nói tiếp:
- Nhưng mà mụ phải về bảo chồng mụ đến làm giấy đợ mấy sào ruộng của chồng mụ.
- Dạ, bẩm cụ đã thương thì khi nào chúng cháu dám sai, nhưng mà…
- Vẫn biết thế. Tôi cũng chẳng thiết gì mấy sào ruộng nhép, nhưng mà…
- Dạ, bẩm cụ thiếu gì, cụ…
- Nhưng mà việc gì cũng phải có đầu có đuôi. Với lại tôi biết bụng vợ chồng nhà chị thế nào. Rồi thấy tôi dễ lại đâm ỳ ra đấy thì…
- Có! Thưa cụ, chúng cháu bao giờ cũng trước sau như một.
- Thôi thế cứ về bảo chồng đến làm giấy rồi tôi cho khất cả. Sung sướng nhé!
Bà nhổ quết trầu vào ống phóng, cầm miếng bã ngắm rồi lại bỏ vào mồm nhai.
Bác xã gái đứng dậy chắp tay nói:
- Bẩm, còn cái lãi thì cụ tính cho chúng cháu thế nào ạ?
- Thì lại cứ như trước.
Bác Xã vừa bẻ mấy ngón tay kêu răng rắc, vừa nói:
- Bẩm cụ tính thế thì thiệt nhà cháu quá. Bẩm thế ra hai mùa thành quá một đi đôi…
Trước kia bác lầm. Thấy người ta vay chục sáu chục bảy, bác đã tưởng người ta vay nặng lãi hơn mình. Mãi sau bác mới biết họ vay trong hai vụ.
- Chuyện! Mụ thử vay trong hai vụ xem tôi có tính như thế không?
Bác xã sung sướng vừa cười vừa nói:
- Vâng, thế chúng cháu cũng vay hai vụ thì cụ tính cho chúng cháu chục ba chứ?
Bà Chánh bĩu môi:
- Chục ba, chị nói dễ nghe nhỉ. Chị thử đi khắp làng này xem có vay được chục ba không… Chả nói gì chục ba, ngay chục tư, chục năm cũng vị tất… Thôi, thế cứ chục năm. Sung sướng nhé. Cả thiên hạ này cũng chẳng có ai dễ như tôi.
- Lạy cụ, xin cụ chục tư vậy.
Bà Chánh gắt:
- Hừ! Được voi đòi tiên. Mụ này chẳng biết điều tí nào cả. Đã thế không cho khất nữa, muốn sống đem thóc nộp đủ bà đi.
Bác xã run lẩy bẩy, vội nói:
- Chúng cháu nài được thì vẫn cứ nài. Còn cho hay không là tùy cụ. Dẫu thế nào đi nữa, cụ cũng đã thương chúng cháu lắm rồi. Thôi, lạy cụ ạ. Để cháu về bảo nhà cháu đến làm giấy.
Bác vái chào rồi vội lui ra, chỉ sợ bà Chánh đổi ý không cho khất nữa.
Một chiều mùa đông. Trời thấp và trắng đục lờ mờ như khói ám đè nặng trĩu lên những mái tranh bạc màu.
Bác xã Chính nằm phủ phục trên ổ rơm, thỉnh thoảng ngóc đầu nhìn xuống cái bếp tro lạnh. Những ông “đầu rau” nhọ nhem ngồi ba một, châu vào nhau, củ rủ như cũng cảm thấy giá lạnh của chiều đông. Nhìn chán, bác lại úp mặt xuống hai bàn tay đặt ngửa, ngủ gà ngủ vịt. Một lúc lâu, xem chừng thấy ê chân, bác ngồi xổm dậy, hai cánh tay khoanh lấy hai đầu gối, mắt rầu rĩ nhìn ra sân.
Vợ bác đi lên Hu đong thóc từ sớm. Làng Hu cách làng Cầm hằng năm, sáu cây số, bác gái chịu khó lặn lội xa xôi là vì nghe người ta đồn: trên ấy thóc hơn được mỗi đồng ngót một đấu.
Cái Mít đi bán hàng chưa về và độ này hàng con bé bán cũng ế lắm. Thằng Chốc đã đi ở chăn trâu cắt cỏ cho nhà bà cán Bột từ năm ngoái. Còn thằng cu Nhớn, cu Con thì trừ bữa ăn, chẳng thấy bóng chúng đâu cả. Chúng về làm gì? Buồn chết đi được. Và có lẽ, lúc này chúng đương ngồi sưởi ở bếp nhà cụ cán Bích để đợi chốc nữa ăn rình mỗi đứa một lưng cơm hẩm. Rõ tội nghiệp! Chúng chẳng mấy khi được no. Từ năm trời làm đại hạn rồi kế tiếp, nào úng thủy, nào bão, nào sâu cắn lúa, vợ chồng làm chẳng đủ, thường vẫn phải nhịn bữa sáng ăn bữa tối.
Một luồng gió bấc thổi mạnh vào trong nhà. Bác run cầm cập. Thế mà bác cũng chẳng buồn đứng dậy khép cửa. Hay là bác muốn để vậy cho dễ trông nom? Không phải. Nhà bác còn có gì nữa mà trông với nom. Hay là bác không muốn ngồi ấm một chỗ trong khi vợ con bác đương phơi thân trước gió để kiếm lấy chút lời?…
Một đàn vạc bay từ phương bắc tới. Tiếng kêu inh ỏi làm náo động một lát trước khi chìm đắm vào trong yên lặng.
Bác sực nhớ tới giờ về và bước đường của vợ.
Mít dẫu có về muộn cũng chẳng ngại, vì nó bán hàng ngay trong làng. Nhưng mà vợ bác phải đi một thôi dài trên đê, rồi lại phải rẽ xuống con đường hẹp, ngoằn ngoèo trên đồng không mông quạnh. Bác hồi tưởng lại năm nào cũng về mùa đông và cũng sâm sẩm tối như bây giờ, chị Tẹo đi chợ xa về, giữa đồng bỗng gặp một thằng lực lưỡng nấp trong bụi dứa, nhảy xổ ra bóc lột hãm hiếp. Tẹo già và xấu hơn vợ bác. Thế mà quân khốn nạn còn chẳng từ nữa là.
Nghĩ vậy, bác đâm lo, bác nóng ruột, bồn chồn không sao ngồi yên được. Bác cất tiếng gọi thật to: “Bớ cu Nhớn!” Không thấy thưa, bác định chạy sang ông cán tìm thì ngay lúc ấy Mít ở cổng gánh đôi bồ về.
- Hàng ế quá, thầy ạ.
Nó vừa nói vừa nhìn khắp nhà như muốn tìm cái gì.
- Bu con chưa về cơ, thầy?
Bác Chính đứng dậy. Mấy tiếng rắc của gân cốt giãn, vì bác ngồi lâu dồn cẳng. Bác vươn vai, ưỡn ngực, vừa nói vừa ngáp:
- Thầy cũng đương nóng lòng sốt ruột về bu con đây. Con coi nhà để thầy đi đón bu nhé.
Rồi, không để ý đến lưng đấu gạo đựng trong nắp bồ đặt ngược, bác rảo bước ra cổng, hai tay thọc vào cạp quần, vai nhô lên, cổ thụt xuống để chống lại với cái rét buốt thịt.
Mít nhìn theo, ái ngại cho thầy nó vừa ốm khỏi được vài ba hôm. Nó chạy ra sân gọi với:
- Thầy ơi! Thầy! Hay để con đi cho.
Bác Chính không quay lại, vừa đi vừa nói buông thõng:
- “Con không đi được.” Bác không muốn ngỏ ý lo ngại, sợ con gái hốt hoảng.
Đường cái vắng tanh. Trời mỗi lúc một tối. Từng cơn gió bấc thổi. Những gốc tre cọ vào nhau cọt kẹt. Chốc chốc lại một tiếng vạc kêu bất thình lình như thét, như dọa nạt. Bác rùng mình, nghĩ đến những nỗi ghê sợ. Bác rảo bước gần như chạy và càu nhàu trong mồm: “Hừ! người đâu lại có người liều lĩnh, dại dột đến thế. Không còn biết nguy hiểm là gì nữa!” Cứ giọng nói ấy với dáng điệu ấy thì chị vợ chẳng phải đòn cũng phải mắng tàn tệ.
Nhưng, đi khỏi đầu làng độ vài chục bước, bác gặp lũ lượt bảy, tám người đàn bà gồng gánh chuyện trò vui vẻ.
Trông thấy bác mỗi người chào hỏi một câu thành ồn ào. Bác không biết trả lời ai, đứng thưỡn ra, mỉm cười một cách trơ trẽn.
Vợ bác hơi ngạc nhiên, vừa đi vừa nói ra ý không bằng lòng:
- Ô hay, tôi đã bảo thầy nó hãy kiêng vài ba hôm nữa cơ mà. Lỡ phải lại thì sao? Mà thơ thẩn đi đâu đấy?
Bác Chính muốn trả lời: “Tôi đi đón mình đây”. Nhưng thấy đông và toàn đàn bà, bác đâm ngượng lại thôi.
Mọi người chế nhạo bằng những giọng bông đùa, làm cho bác càng ngượng. Cũng vì ngượng mà bác không dám ghé vai gánh đỡ vợ, tuy bác đã trông thấy hai thúng thóc nặng làm chĩu hai đầu đòn gánh và díu hẳn một bên vai vợ xuống.
Bác thấy vợ vất vả mà thương. Bác càng thương vợ bao nhiêu, bác càng giận thân bác bấy nhiêu. Bác cho là vì bác, vì lấy phải bác mà vợ bác bị đày đọa, điêu đứng đủ trăm chiều. Bác có biết đâu rằng cũng chỉ vì thấy đời bác vất vả nặng nhọc quá mà vợ con bác phải nai lưng ra làm lụng để gánh nhẹ bớt đi cho bác, cho đời bác được sung sướng đôi chút. Bác quên hẳn bác mà chỉ nghĩ đến vợ con thôi.
- Hình như mình còn mệt thì phải. Tôi trông mình thơ thẩn làm sao ấy.
- Không, tôi chả làm sao cả. Hay bu nó để tôi gánh đỡ hộ. Bu nó chạy ù về giục Mít nó thổi cơm đi.
Bác cố nín mà không sao đừng nói được câu ấy.
Một người đàn bà đi cạnh bác, nói cợt:
- Các bà xem, người ta sung sướng thế đấy. Chả bù cho bọn mình. Đi, chồng chả hỏi, về chồng cũng chả hỏi. Động một tí thì gắt thì “chửi” om xòm cả nhà.
Người ấy là bác xã Mục, một người đàn bà suốt đời bị chồng hành hạ và suốt đời làm lụng tần tảo để nuôi chồng.
Một người khác nói nửa bỡn nửa thật:
- Phải, họa chăng có riêng một nhà bà. Chứ bọn chúng tôi thì sung sướng lắm cơ. Chồng chiều như chiều vong, có phải không các bà nhỉ?
Ai nấy trả lời: “phải!” rồi cười vang quãng vắng.
Bác xã Mục tức, nói gắt:
- Phải, sung sướng! Có sung sướng cái phải gió.
Bác Chính gái thấy chồng săn sóc đến mình, cảm động, nhưng ngoài mặt làm như thản nhiên:
- Thôi được, để mặc tôi. Đi từ Hu về còn được nữa là từ đây về nhà có vài chục bước. Với lại chúng tôi cũng đã nghỉ ngơi chán ở quán Hạ Am rồi. Đằng ấy mau về giục con bé nó thổi cơm quàng lên thì có. À mà liệu nhà đã có gạo ăn bữa này chưa?
Bác Chính chạy vội về để tránh khỏi phải trả lời rằng chưa.
Vợ bác cũng sực nhớ đến nhà không còn hột gạo. Hơn tháng nay, thường vẫn phải đong bữa một.
Từ ngày chồng ốm, mình và con gái phải ngầm nhịn bữa sáng để mua thức ăn cho chồng… Chiều hôm nay, vị tất cái Mít đã có đủ tiền đong gạo, mà có đong được, vị tất đã đủ cho hai vợ chồng với lũ con. Khốn nạn, con bé dạo này xanh đi, gầy đi vì nhịn đói.
Nghĩ đến đấy bác thở dài và từ đấy bác hết vui, chẳng buồn nói, chẳng buồn thưa và cũng chẳng hiểu các bạn nói những gì nữa.
Chồng về đến nhà được một lát thì vợ cũng về.
Cái Mít đã thổi xong nồi cơm, đang vùi vào đống tro nóng. Thằng cu Nhớn, thằng cu Con về từ lúc nãy, ngồi kề bên chị, nheo nhéo kêu đói, và nằng nặc đòi ăn trước.
Chiếc mâm gỗ tróc sơn đặt ngay cửa bếp. Bốn con cá khô của bà cán Bột gửi thằng Chốc mang lại cho, đặt xếp hàng trên cái đĩa trơ trọi ở giữa mâm.
May mà có bốn con cá, chứ không thì cả nhà lại ăn cơm với muối như mọi hôm.
Cái Mít bới nồi cơm bắc ra. Từ nãy nó vẫn làm việc trong tối; nhưng nó tinh mắt và khéo chân, khéo tay, để chỗ nào nhớ chỗ ấy, không vấp váp.
Nó đặt ấm nước vối lên bếp rồi nghiêng đầu, phùng má thổi lửa. Lửa bốc cháy sáng, Mít ngồi ngay lại, tủm tỉm cười nói: “Đèn thắp rồi, mời thầy bu lại xơi cơm.”
Đã hơn tháng nay, bắt đầu từ mùa rét, tối nào cả nhà nó cũng vẫn ăn cơm dưới ánh ngọn lửa bếp. Nhiều nhà như thế, cứ gì nhà nó. Mà ăn như thế, hà tiện được ít dầu, lại được sưởi ấm. Chỉ hơi bận cho cái Mít vừa ăn vừa phải trông nom ấm nước, cầm que rẽ gạt tàn luôn.
Thằng cu Nhớn, cu Con xấu thói, vừa ngồi xuống mâm đã tranh nhau con cá. Thằng này thò đũa chực gắp con cá to nhất. Thằng kia lấy đũa chặn lại. Hai thằng sắp đánh nhau thì mẹ nó vội quát:
- Hỗn nào! Thầy ngồi đấy mà chúng mày không sợ à? Cá mặn lắm. Ăn nhiều vào rồi mà khát nước bỏ mẹ!… Hượm! Để tao gỡ cho!
Nói đoạn, bác gái cầm đũa xắn đôi con cá gắp vào bát mỗi đứa một nửa:
- Này, lũ ranh ạ, ăn dè chứ! Từ đầu bữa đến cuối bữa đấy. Hết thì ăn nhạt.
Thằng cu Nhớn sợ mẹ, không nói gì. Còn thằng cu Con dằn vặt, phụng phịu sắp sửa dỗi.
Thầy nó thấy thế, gắp một khúc đuôi con cá khác bỏ vào bát nó và khẽ nói:
- Đấy, cho mày thêm, sướng nhá!
Thằng cu Nhớn ghen tị với em, noi làu nhàu trong miệng:
- Nó được thêm, tôi lại không được. Thế nữa!
Chị nó ghé sát vào tận tai nó, thì thầm:
- Còn để phần thầy với chứ. Thầy vừa ốm khỏi đấy nhé. Bằng ấy tuổi đầu mà chẳng biết gì.
Đã bao lâu chỉ toàn ăn cơm với muối, nay được bữa cá lạ miệng, bữa cơm trông ngon lành lắm. Thằng cu Nhớn cắn dè dặt miếng cá. Nó nhai với cơm kỹ lưỡng quá. Hình như cả tai, mắt, mũi nó cũng thấy ngon. Trước khi và, nó giấu miếng cá xuống đáy bát đế ủ lấy chất nóng cho miếng cá ngon thêm. Nó làm như cả đời chưa được nếm vị cá khô bao giờ.
Cái Mít từ nãy vẫn ăn nhạt. Sau thầy nó gắt lên nó mới chịu gỡ lấy một cái đầu.
Bác gái thương chồng ra mặt. Bác chọn khúc cá ngon, nhiều nạc, gắp bỏ vào bát chồng như chủ tiếp khách. Đến lượt sau, chồng biết ý, gạt bát ra và nói:
- Bu nó ăn đi chứ! Tôi chỉ thích ăn đầu cá!
Nói rồi, bác gỡ lấy khúc đầu bỏ lên bát.
Ba người, vợ, chồng, con gái vừa ăn vừa để ý đến nồi cơm. Mỗi người, trong thâm tâm, cùng muốn nhịn để nhường người khác. Nhưng lần này không ai phải đói.
Ăn xong, bác gái lên nhà cầm đèn “hoa kỳ” xuống thắp. Bác vặn thật nhỏ lấy đủ sáng thôi. Cái Mít bắc ấm nước xuống, rót vào ba cái bát sành, rồi xếp đũa bát vào rổ, đem ra cạnh chum nước, rửa.
Trời rét cắt ruột. Hai bàn tay nó tê buốt.
Thằng cu Nhớn, thằng cu Con chẳng rửa mặt uống nước gì cả, nằm quay ra ngủ trên đống rơm ở góc bếp. Chúng co quắp lấy nhau như hai con sâu trong tổ. Hai vợ chồng ngồi yên lặng.
Bỗng chồng thở dài, nói:
- Bu nó ạ, để bu nó lặn lội vất vả, tôi không đành tâm…
Không muốn để chồng lo buồn, vợ vội ngắt lời:
- Ôi chao! Mình cứ hay nghĩ vẩn nghĩ vơ. Chán vạn người còn vất vả bằng mấy… Có khó mới có miếng ăn, không dưng ai dễ mang phần đến cho.
- Đã đành rằng thế, nhưng tôi muốn mình cũng được thảnh thơi như bác xã Bửng, có ít vốn để làm cái vải cái sồi… Hay là nghe cụ cán, bán quách ruộng đi…
- Thôi đi chóng. Nghe cụ ấy rồi bán cả nhà lẫn đất đi một thể. Mà nhà mình thì đã đến nỗi nào. Nợ bà Chánh chẳng trả được một lúc thì trả dần chứ sao!
- Vẫn biết thế, nhưng mà…
- Thôi thôi, chẳng nhưng mà gì cả. Mình vừa ốm khỏi, hãy cứ đi mà nghỉ cho lại sức. Bế hai thằng ranh con lên một thể. Tôi cũng đi xay vài cối thóc để lấy gạo mai bán chợ đây.
Bác chống gối đứng dậy cầm đèn “hoa kỳ” đặt trên cái đế đèn dệt vải mà từ ngày thôi dệt vì hết vốn, bác đem xuống dùng ở dưới bếp.
Trong lúc vợ chồng to nhỏ, bác thường làm ra vẻ bình tĩnh. Kỳ thực, bác cũng lo lắm. Có phần lo hơn chồng.
Nhà bác mỗi ngày một sút kém, tuy bác, chồng bác, con gái bác đã hết sức làm lụng, tần tảo, không phí phạm một cái tơ, cái tóc.
Mà không hiểu sao, trong năm nay, bác động mó vào việc gì là hỏng việc ấy. Dệt vải thì vải rẻ, sợi cao. Nuôi gà thì gà toi. Nuôi lợn thì cám đắt. Mấy tháng nay, bác xoay ra làm hàng xáo. Lúc đầu còn có lãi. Đến bây giờ gạo tự nhiên cứ mỗi ngày một hơn mãi lên, mà thóc đong trong các nhà giàu (nhà giàu mới có thóc bán) thì cứ phải chịu cái giá cũ. Nói rát cổ bỏng họng, họ mới bớt cho mỗi đấu một chinh. Khéo lắm, họa may mới được lãi ít cám.
Một lần, bác nghe mong manh thấy người ta đồn ở trong Tiên có ông thầy bói hay lắm. Nhiều người theo lời ông ta, đã trở nên khấm khá. Bác nghĩ lẩn thẩn, cũng thử đi xem sao.
Sau mấy lời nói dựa và một vài câu bác cho là đúng, ông thầy xoay sang hậu vận, nịnh nọt, gãi vào chỗ ngứa cho bác sướng. Rồi kết cục, ông ta bảo phải cất lại ngôi mộ ông thân sinh ra chồng bác và động mộ ông tam đại, phải lễ ông thổ thần cai quản khu đất ấy. Lễ vật phải: một con ngựa hồng, một chiếc mũ hồng và một chân giò lợn.
Việc lễ không hết mấy thì bác đã làm xong rồi. Duy còn việc sang cát cho ông thân sinh thì nhiêu khê lắm. Ít ra phải một con lợn mời hàng giáp. Năm, sáu đồng con lợn với lặt vặt, trầu cau, gạo nước, rượu, thuốc phiện cũng phải bốn, năm đồng nữa. Ấy là còn hà tiện đấy.
Hai ba lần bác đã định đem lời thầy bói ra kể với chồng. Nghĩ đi nghĩ lại thế nào, bác lại thôi. Sau cùng bác đâm ra ngờ vực, tự nhủ thầm: “Bói ra ma quét nhà ra rác. Tội gì mất tiền mua cái không đâu.” Tuy vậy, bác cũng băn khoăn cho đến khi nào làm xong công việc ấy mới hết.
Cái Mít rửa bát đĩa xong, chạy vào ngồi xổm ngay cửa bếp, xòe hai bàn tay hơ trên đống tro nóng sưởi cho đỡ buốt. Hơ xong nó cầm chổi quét gọn rác bẩn vào đống tro và đè viên gạch lên trên, rấm lửa, kẻo sáng mai lại phải quấn giẻ đi xin lửa bên ông Cán.
Bu nó lo thì nó cũng lo. Có khác mỗi người lo một đường. Mít lo vì “hàng họ” của nó bị mòn dần. Cách đây không bao lâu, cái ngăn chia làm nhiều ô lồng kính của nó còn có đủ các thức. Nào kim chỉ, nào đanh ghim, đanh dép, sáp cô Ba, dầu Hoàng tường… đủ các thức để quyến rũ khách qua lại. Nay ô thì trống rỗng, ô thì gần hết trông thấy cả đáy. Thùng dầu hỏa đã nhường chỗ cho năm, bảy đôi guốc sơn với chiếc thúng nhỏ đựng quai.
Bán được ít nào phải bù vào tiền lãi gạo của mẹ để ăn tiêu rồi, còn đâu. Mấy tháng rét, ông lão nhà nó ốm quặt quẹo chỉ ngồi nhà đan rổ rá, bu gà. Những thức ấy bán chả được mấy.
Một hôm, thằng Tửu đã đưa tận tay nó năm đồng, nói cho mượn để cất hàng. Nó cảm động, đã định cầm, song nghĩ thế nào, nó lại thôi. Thằng Tửu khẩn khoản nói mãi, nó cũng không chịu nhận. Rồi thấy Tửu bẽn lẽn, bỏ tiền vào túi một cách ngượng ngập, nó hối hận, nó nói chữa thẹn cho Tửu:
- Của anh cũng như của em, anh hãy giữ lấy. Khi nào em cần, tự khắc em hỏi mượn.
Thấy Tửu đổi nét mặt bẽn lẽn ra nét mặt hoan hỉ, nó sung sướng và nghĩ đến, hiện giờ nó vẫn còn sung sướng. Nó biết thằng Tửu đã băn khoăn muốn cho nó vay từ lâu.
Đáng lẽ nó về nhà chồng từ năm ngoái. Nhà nó với nhà Tửu, hai bên cùng thỏa thuận. Nhà Tửu đã đem trầu cau ăn hỏi và xin cưới. Thầy bu nó cũng bằng lòng rồi. Nhưng nó còn muốn ở nhà hầu hạ thầy bu. Ý nó thì bao giờ thầy bu nó khấm khá như xưa, nó mới đi lấy chồng.
Bác trai đã lên nhà nằm với hai đứa bé từ nãy.
Trong bếp yên lặng và lạnh lẽo. Ánh sáng tù mù của chiếc đèn con càng làm lạnh lẽo thêm. Ngoài sân, tối đen như mực. Thỉnh thoảng một cơn gió bấc lùa vào trong nhà, rú lên như tiếng mèo gào.
Ý chừng hai mẹ con cũng thấy nỗi phiền muộn bao phủ tâm hồn, nên cùng nhắc đến công việc buổi tối.
- Bu đi nghỉ, để đấy con xay cho.
- Thôi được, để bu xay. Bao giờ bu mỏi tay con hãy xay hộ bu. Con đi lấy phên che cửa bếp cho bớt gió. Hôm nay lộng gió quá, con nhỉ?
- Có thế mới khỏi mưa dầm, bu ạ.
Nghĩ đến mưa dầm, hai mẹ con lại rùng mình. Mưa dầm, đường làng sẽ lầy lội, người qua lại vắng tanh thì hàng họ bán cho ai? Thóc đong sẽ khó khăn hơn. Chợ búa tẻ ngắt. Gạo, cám tất ít người đong.
Bác xã gái giật mạnh “dàng” cối để đổ thóc xuống, rồi bắt đầu xay ồ ạt.
Tiếng ù ù trong yên lặng làm bớt lạnh lẽo của đêm đông.
Mít thấy người nhẹ nhàng, dễ chịu hơn. Không lúc nào nó thích hoạt động bằng lúc này, hoạt động để xua đuổi nỗi buồn nản.
Nó cầm chổi để lùa quét các khe ngách trong khi đợi có gạo sàng. Tay nó đưa đến đâu, sạch sẽ, gọn gàng đến đấy.
Quét xong, nó cầm cái nia đựng ở bức vách và giơ tay với lấy đôi sàng gác lên ránh bếp.
Hai cánh tay nó dẻo dang, mấy ngón tay mềm mại cầm mím lấy mép sàng, nó đưa đi đưa lại thoăn thoắt như lúc nó gieo thoi dệt vải.
Bác xã Chính nằm trên nhà cũng băn khoăn chưa ngủ. Bác ôn lại những lời của ông cán Bích và lấy lẽ hơn thiệt bàn lại một mình: “Ừ, mà cụ ấy nói cũng phải. Nếu mình tiếc đắt tiếc rẻ không dám bán, nợ một ngày một sinh sôi nẩy nở rồi có phen ruộng mất đằng ruộng, mà nợ vẫn hoàn nợ. Chẳng gì, hãy cứ nói đến vụ này. Nợ mà không trả được thì ba sào cầm cho bà ấy liệu có khỏi bị đoạn mại không? Chi bằng cứ nghe cụ ấy, bán phăng ngay từ bây giờ. Trả sạch nợ, còn bao nhiêu đưa cho mẹ nó cất vải, cất sồi bên chợ Sóc, đội sang chợ Hộ bán. Làng ta nhiều người giàu có về nghề ấy, như bà lý Khóa, bà hương Vọng chẳng hạn. Rồi đưa cho con Mít mươi đồng cất thêm hàng. Bấy giờ không có ruộng thì ta thuê ruộng hay cấy lĩnh canh. Biết đâu nhờ trời, nhờ phật, nhờ thánh tổ, nhờ phúc ấm, được mùa ba, bốn năm liền xem. Chả biết chừng, tậu được cả ruộng lẫn trâu cũng nên.”
Ý nghĩ đi đến đâu, bác nhìn thấy hiện thực đến đấy: vợ bác tươi tỉnh đội một thúng đầy vải sồi cùng đi với bạn buôn trên dải đê về lối bến Hộ. Cái Mít hớn hở với các thức tạp hóa bày la liệt ở trước mặt, thằng Chốc ngồi thong dong trên mình con trâu cái béo mập. Theo sau, một con nghé tơ nhảy nhót. Và bác thủng thỉnh bước một trên đồng lúa chín vàng.
Nếu không có tiếng xay lúa ù ù ru bác ngủ thì không biết bác còn đưa giấc mộng vàng của bác đi đến đâu?
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com