
CÔ TƯ HỒNG - Trung Bắc Thư Xã xuất bản năm 1941
Chân Dung Kẻ Sĩ: Năm 1926, Đào Trinh Nhất (quê Thái Bình) được tuyển chọn sang theo học tại Khoa Báo chí, Trường Đại học Sorbonne (Pháp) và trở thành người Việt Nam đầu tiên có bằng cử nhân báo chí.
Yêu nước giống như cha mình, nhà chí sĩ Đào Nguyên Phổ, một trong những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục, Đào Trinh Nhất mặc dù được Pháp đào tạo nhưng vẫn hướng về dân tộc bằng các tác phẩm của mình. Trước bộ máy kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân Pháp, ông đã khéo léo ca ngợi các chí sĩ yêu nước như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu và các tấm gương yêu nước khác, nhằm thức tỉnh và cổ súy lòng yêu nước của nhân dân. Tuy vậy, thực dân Pháp, đương nhiên vẫn nhận ra và đã khẩn cấp trục xuất và giải ông về Bắc vào giữa năm 1939.
Dưới ngòi bút của Đào Trinh Nhất, tác phẩm Cô Tư Hồng, nói về một nhân vật có thật, một đối tượng đả kích trong bài hát Chầu văn đương thời “Đĩ Cầu Nôm” của cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, một nữ lưu từng khuynh đảo đất Bắc với những di tích vẫn còn cho đến ngày nay xung quanh Hồ Gươm, người đã phá thành Hà Nội… đã khiến các độc giả của Trung Bắc Chủ Nhật xưa kia nô nức đón đọc hàng tuần.
Địa vị xã hội của cô Tư Hồng giữa đất ngàn năm văn vật lúc bấy giờ, nhờ tờ giấy vàng nâng lên cao hơn một bậc.
Sau những cái danh vọng đã chán tai choáng mắt người ta, nào bà trùm me tây, nào tay thầu khoán sành sỏi, nào nhà buôn bán đảm đang, giờ thêm vào “lạc khoản”: một bà mạng phụ ra dáng. Ai lấy khách, người ta gọi là thím, vợ tây gọi là cô, bất luận tuổi trẻ hay già; ấy là thông tục xưng hô ở đương thời. Nhưng với cô Tư hồi này trở đi, họ bàn riêng, nói khẽ với nhau thế nào mặc kệ, lúc giáp mặt giao thiệp nhiều người gọi tôn cô Tư Hồng lên là bà.
Lắm kẻ khéo nịnh, còn thêm tiếng “lớn”.
Tiệc nhà cô Tư, ăn mừng được sắc, có vẻ phồn hoa, đông đảo, sang trọng, linh đình.
Câu chuyện cô ta cốt chở gạo đi bán đầu cơ thủ lợi mà lại hóa ra phát chẩn thành danh, một lúc tuyên truyền làm câu giai thoại hầu khắp nam bắc. Nhiều người chắt lưỡi kính phục:
- Con mẹ ấy sao mà khéo lâm cơ ứng biến ranh mãnh đến thế?
- Lạ quái gì! Phàm con người ta lúc được số thả bổng lên như diều thì trời thánh chiều đãi thêm cho nguy chuyển ra an, họa đổi ra phúc chứ sao!
Thật thế, đang lúc vận tấy, tung bổng như diều, cô Tư còn phất được tài lợi, công danh hơn nữa, không phải đến chỗ này đã là mãn hạn rồi đâu.
Có điều, sẵn dịp vừa mới kể chuyện phát chẩn thành danh, chúng tôi tưởng nên nói luôn để các ngài biết một vài công việc và thủ đoạn buôn bán của bà “Ngũ phẩm nghi nhân” này xem ra thế nào.
Từ xưa, đàn bà xứ Bắc mình buôn bán vẫn tài giỏi đảm đang có tiếng. Người thì thắt lưng bó que, gồng gánh đi hết chợ này đến chợ kia thế mà tảo tần chu cấp được cho cả chồng con, cửa nhà. Người thì ngồi cửa hàng cửa hiệu, tiếp rước khách khứa rất thiệp, xem xét giá cả hàng hóa rất sành. Nhiều nhà buôn bán, tiếng thì đàn ông đứng tên, nhưng mọi việc chủ trương tháo vác khôn ngoan, chính là ở bà vợ. Từ đồng xu cho tới bạc vạn, chẳng có món hàng gì, mối lợi gì mà phụ nữ Bắc ta bỏ sót không buôn. Ấy là cái thực trạng ở xứ này, ai cũng phải thấy.
Vậy thì cô Tư Hồng khi đã có khá vốn trong tay rồi đứng ra kinh doanh thương mại, chỉ là làm một việc mà cơ man chị em khác đã làm, thường làm, vẫn làm, nào có phải lạ lùng gì đâu mà kể.
Nhưng có chỗ đáng kể là ở vào thời đại cô, cái thời đại mới khởi cuộc Tây – Nam cộng tác, tân cựu giao thời, có lẽ cô là người đàn bà Việt Nam thứ nhất đã mạnh dạn giao thiệp buôn bán với các hãng Tây.
Mà buôn bán khá to chứ không tầm thường.
Chúng tôi đã nói sau lúc phá thành Hà Nội có vốn rồi, cô Tư chuyên nghề buôn bán thóc gạo.
Phần nhiều là giao dịch với các hãng Tây, ở bên này và bên Pháp cũng có.
Lúc bấy giờ công ty độc quyền nấu rượu gọi là Phông-ten đã ra đời. Luôn mấy năm đầu tiên, người được bao thầu cung cấp gạo thóc nhiều nhất cho những nhà máy nấu rượu ở Hà Nội, ở Hải Dương và ở Nam Định chính là cô Tư.
Cô được tiếng buôn bán đứng đắn, vả lại trường lưng vốn cho nên bạn hàng Tây, Tàu họ tín nhiệm lắm. Các hãng Tây ở Hà Nội hay Hải Phòng mỗi khi cần một số gạo bắp để bán về bên Tây hay chở ra thị trường ngoại quốc, thường trong mười lần thì đến bảy tám, họ bảo nhau giao thiệp và ủy thác cho “Madame Cô Tư”.
Thành ra cô khéo liệu lượng đầu cơ một cách tinh mắt cả gan, vớ được làm mẻ bẫm đáo để.
Có mẻ lãi mười vạn một lúc như chơi.
Các ngài thử nghe câu chuyện dưới này xem me Tây họ Trần có thủ đoạn ghê gớm không?
Năm ấy, gạo đang hơn lắm, me tây họ Trần nhờ được ông nhân tình nào đó rỉ tai cho biết, hay là tự cô xem xét tình thế khéo léo cách nào mà dự đoán nay mai bên Tây sắp ăn nhiều gạo xay của xứ Bắc.
Thế rồi cô lẳng lặng về thuê nhà ở chợ Sặt – thử thời là nơi trung tâm cân gạo ở miền Đông – mua vét rất nhiều thóc lúa, chứa đầy mấy kho. Một mặt gọi thợ đóng sẵn cối xay để phòng khi lâm thời thuê người làm gạo cho chóng. Một mặt khác, đi lùng khắp các tỉnh đặt giá mua gạo của các hiệu khách hiệu ta, vốn là bạn hàng giao dịch quen biết thuở nay. Cô làm hợp đồng mua gạo của họ, giá mỗi tạ tây chỉ có năm đồng.
Quanh quẩn trong mươi hôm, tính ra số gạo mua vét ở các hiệu được hơn 10 vạn tạ. Còn thóc mua trữ để tự xay kia chưa nói.
Cách đấy chừng hơn một tháng, quả nhiên mấy hãng Tây ở Hải Phòng tiếp được điện tín bên Pháp bảo mua 35 vạn tạ gạo xay gửi về cần kíp.
Ai không nghĩ cô Tư mau mau tuôn hết số gạo kia ra, còn đợi gì nữa?
Nhưng mà không.
“Madame Cô Tư” cứ việc vâng dạ làm thinh để các nhà mễ thương khác ra bỏ giá thầu thiếc gì đó mặc kệ, mình làm như người bặt hơi mất xác đâu rồi, chẳng ai nghe nhúc nhích đả động gì đến món thầu khá to ấy. Bao nhiêu bạn hàng và mấy hãng Tây đều lấy làm lạ không thấy “Madame Cô Tư” ló mặt. Có người nghĩ vơ vẩn hay là con mẹ này khánh tận đã đi biệt xứ mất rồi.
Thì ra “Madame Cô Tư” đã tính nước cờ quá cao làm cho bên địch bị nước chiếu bí.
Chết cho mấy nhà mễ thương kia đã bỏ thầu chịu giá với hãng rồi nhưng có gạo cóc đâu mà mua cho đủ, theo như kì hạn hợp đồng.
Tất có người hỏi: sao họ không lùng mua ở những hiệu gạo Khách, Nam các tỉnh?
Khốn nhưng phần nhiều hiệu này từ hai tháng trước đã kí hợp đồng bán tất cả gạo cho cô Tư rồi thì bây giờ họ lo đong trả cô, dám bán cho ai khác sao được? Ấy là lẽ rất tự nhiên.
Những nhà bỏ thầu đành phải mua vơ mua vét, giá mấy cũng mua tràn đi miễn là có gạo nộp cho hãng Tây trong kì hạn ba tháng, không thì khổ to.
Giá gạo vì đó mà vọt cao lên đến 30 phần trăm. Họ mua tranh giành nhau đến thế nhưng cũng vẫn khó khăn và không mua được đủ số.
Kết cục đến kì hạn ba tháng, hiệu thì lỗ vốn xiểng liểng, hiệu thì bị phạt mất cả lời lãi; có hiệu lại chẳng mua được hột nào đong cho hãng mới nguy.
Bấy giờ người ta mới thấy “Madame Cô Tư” nhảy ra thị trường đánh đùng một cái, như tiếng sét lưng chừng giáng mạnh.
Bấy giờ cô mới cho tuôn ra hết những gạo đã xay chứa tại Kẻ Sặt và gom góp ở các nơi. Phần thì hãng Tây đành chịu mua gạo của cô với giá cao để có mà gửi về Pháp; phần thì nhiều nhà bỏ thầu “hụt cẳng” họ cũng phải mua gạo của cô, để có mà nộp cho hãng mới khỏi bị phạt.
Một chuyện ấy, cô Tư được lãi hơn mười vạn bạc, tính trừ các khoản chi phí đi rồi.
Có nhà buôn cùng nghề phải hú vía phen này, nhăn mặt nói với cô:
- Thôi, con chắp tay vái bà yêu tinh, từ rày đừng có giết người ta bằng cái ngón rào đường chặn cổ như thế nữa nhé.
Cô Tư cười và đáp:
- Nghề buôn bán, bà phải cho phép như thế mới vui chứ.
Một việc nữa càng chứng tỏ ra me tây Trần thị buôn bán có thủ đoạn và khéo liệu lường thời cơ.
Lần này cô Tư với cô chủ hiệu Cự Khánh ở hàng Bạc, hai chị em buôn bán quen thân, cùng xuống Hải Phòng giao thiệp với một hãng Tây về việc bán bắp. Mỗi người kí một bản giao kèo với hãng, trong hạn ba tháng giao đủ 5 vạn tạ ngô.
Cô Tư nhanh chân sáng trí, lập tức đi về các miền sản xuất ngô ở xứ Bắc ta, đặt giá cho các hiệu cân. Không đầy hai tháng, cô góp lại, chẳng những giao đủ 5 vạn tạ cho hãng mà lại còn thừa.
Trái hẳn lại, hiệu Cự Khánh cho thời hạn ba tháng còn dài nên cứ đủng đỉnh không chịu mua. Có mua thì cò kè bớt một thêm hai, trong ý muốn chờ ngô sụt nữa sẽ mua cho được lợi nhiều.
Không dè mùa ngô năm ấy không thu hoạch được mấy mà tỉnh nào cũng có người mua đông. Thành ra càng ngày giá ngô càng cao, so với bình nhật giá đắt gần gấp đôi. Đắt mà lại khan không còn ngô nữa mà mua.
Vì thế, kì hẹn với hãng đã quá rồi, hiệu Cự Khánh chưa giao được phần nửa. Hãng kiện bội tín, bà chủ Cự Khánh bị bắt giam vào nhà pha Hỏa Lò hai tháng, lại bị tịch cả gia tài, không kịp chuyển chạy được tí nào.
Nghề buôn thóc gạo bắp ngô mấy năm ấy “lột trần” nhiều hiệu ở Nam Định, Hải Phòng như bà chủ Cự Khánh vậy.
Duy có cô Tư năm nào cũng lãi, chẳng nhiều thì ít. Bởi vậy ai cũng chịu cô buôn bán khôn ngoan, tinh quái và có can đảm hơn người. Cô vớ được lắm món bở hơn vì thế.
Cũng vì thế mà cô được các hãng Tây tin cẩn, vị nể. Có lúc, đáng lẽ phải è cổ ra đền hãng bạc muôn mà rồi cô cũng tránh khỏi.
Còn nhớ hình như vào khoảng 1906 hay 1907, cô kí hợp đồng bán cho một hãng buôn lớn kia ở Hà Nội 8 vạn tạ gạo xay. Kì hạn chỉ còn một tháng nữa là hết mà còn thiếu đến 5 vạn tạ chưa biết mua vào đâu. Giá gạo chợ bỗng nhảy lên cao, tính ra cao hơn giá thầu đến ba bốn hào một tạ. Thế mới là nguy. Cứ nhắm mắt nai lưng mua gạo giá ấy để nộp cho hãng thì lỗ vốn to. Nếu không thì mình trái lời giao kèo tất phải đền hãng 2 vạn. Đằng nào cũng khổ.
Cô khéo cậy mượn thần thế đến năn nỉ ông chủ hãng Denis Frères bãi tờ giao kèo đi cho, mới khỏi bồi thường hai vạn đồng bạc.
Rõ thật là có thời gặp may!
Nhiều bạn cùng nghề trông thấy thế đâm ra ghen tức. Cùng buôn với nhau, mình lỗ vốn hay sai hẹn thì phải ở tù, tan nát cơ nghiệp, còn nó lãi thì ăn no, lỗ không phải chịu là nghĩa lí quái gì? Có người nói lẩm bẩm:
- Tôi biết thừa ra rồi. Chính cô ta thân hành đến nhà riêng của ông chủ hãng “năn nỉ luôn hai, ba đêm” ông mới chịu xé giao kèo đi cho đấy. Mình kém cách năn nỉ khéo ấy, hèn gì chẳng phải è cổ ra mà chịu?
Người đời họ hay xoi mói ghê!
Dầu sao, người ta cũng phải chịu cô Tư Hồng thật có cái óc doanh thương trục lợi. Cô ham buôn bán làm giàu cũng như các bà me Tây kia ham cờ bạc hay là đi lễ ngồi đồng.
Ham buôn đến nỗi thượng vàng hạ cám, hễ thấy việc gì có thể sinh lợi cũng làm không chịu khinh bỏ.
Này thầu khoán, này tậu đất làm nhà để bán lấy lời, này buôn bán đồn điền, thóc ngô: một tay kinh doanh mấy món lợi, có khi một lúc làm luôn hai ba việc nữa.
Thì giữa hồi buôn bán lúc gạo đang thịnh, lại trưng mấy chiếc tàu thủy của ông Marty cho chạy đường Hà Nội – Nam Định. Tự mình làm chức vụ kiểm soát. Ai cũng biết cái việc này khó nhọc, phải lặn lội đêm hôm mới bắt được kẻ gian. Thế mà cô Tư đêm khuya xuống bến nọ, lên bến kia, không kể gì những sự hiểm trở có thể xảy đến cho thân mình như chơi.
Cô trưng tàu được hơn một năm thấy vất vả thì nhiều mà lời lãi không mấy mới chịu trả lại cho ông Marty để bán cho ông Bạch Thái Bưởi, lúc ấy là một nhà kinh doanh tàu bè vừa mới xuất thế.
Chúng tôi nghe nhiều người thuở đó hay ngược xuôi Hà Nội, Nam Định bằng tàu thủy, nói chuyện rằng trong lúc tàu Marty thuộc quyền cô Tư cai quản, dưới tàu rất nghiêm, không có xóc đĩa bày ra, cũng không có cái tệ trộm cắp nhũng nhiễu vì cô Tư rình mò nắm chóp các cậu tiểu yêu ấy luôn. Lại thêm sự sạch sẽ, chạy đúng giờ khắc. Cô lại thuê phường chèo hát đêm cho hành khách được tiêu sầu giải muộn. Nhờ thế mà chuyến tàu nào cũng đông người đi, các tàu khách không cạnh tranh được, về sau, tàu Bạch Thái Bưởi cũng bắt chước bày trò đãi khách như thế một độ.
XXI
Câu đối mừng của hai nhà danh sĩ Tam Nguyên Yên Đổ và Trần Tán Bình
Với cái quan niệm luân lí cũ ở xứ ta mấy chục năm về trước, một người con làm nên có danh phận của triều đình mà để cha mẹ vẫn là chân trắng, bố cu mẹ đĩ như thế thì chưa làm trọn đạo “hiển dương phụ mẫu” .
Tất phải làm sao cho cha mẹ – nhất là cho cha – cũng được trang điểm một chút son phấn nhà vua cho đẹp mày, đẹp mặt với hương tộc, với thế gian. Lúc sống được ngồi chiếu trên ở chốn đình trung, lúc chết cũng có phẩm hàm này kia để vào bài vị. Không vậy thì người con muốn nên thân sung sướng cách gì mặc dầu cũng vẫn lấy làm áy náy chưa thỏa lòng.
Trách nào chẳng có người, lúc họ làm nên thì cha mẹ đã lên xe thiên cổ lâu rồi, cũng phải cày cục xin được truy tặng để làm lễ “phần huỳnh” cho cha mẹ ở dưới chín suối yên thỏa vong linh.
Luôn mấy năm vùng vẫy trong trường doanh nghiệp đều gặp bước may, làm nên giàu có ức vạn, tiếng tăm đồn rầm, lại giao du với nhiều quan sang thế lớn và những bực cự phách ở đất Hà thành này, chắc cô Tư Hồng phải tự thấy mình thỏa mãn lắm rồi.
Một người đàn bà xuất thân như thế mà cuộc đời tươi cười với mình như thế còn muốn gì nữa chứ?
Nhưng cái bụng muốn hữu hình của con người ta lúc đói cơm gạo, bánh trái được ăn một bữa đầy đủ còn có thể biết no. Đen cái bụng muốn vô hình nó đói lợi lộc, công danh thì không biết thế nào cho vừa. Nó được voi đòi tiên, đứng núi này trông núi nọ. Có mà đổ hết cả bộ quan chế hay cả kho tiền nhà băng vào, cái bụng muốn danh lợi ấy cũng vẫn còn thấy thòm thèm, thiếu thốn.
Hèn nào cô Tư chẳng muốn cho ông thân sinh ra cô là bác Phó cựu Thành Thị cũng có phẩm hàm quan chức nữa.
Bản thân được vua ban chữ vàng “Lạc quyên nghĩa phụ” và phong làm “Ngũ phẩm Nghi nhân” mà ông bố vẫn là một chú xích tử bạch đinh, cô không thích thế.
Mặc dầu cô đã tạo lập cho ông cụ một dinh cơ ở nhà quê, đủ cả tường hoa sân gạch, cổng sắt nhà lầu, ra phết một phú ông trưởng giả nhưng mà dân làng họ vẫn xầm xì, bất phục.
Trong làng thiếu gì kẻ bướng bỉnh, thường mượn hơi men để nói bóng, nói gió, nói xỏ, nói xiên. Ra chốn đình trung, họ cố ý sắp đặt để ông cụ ngồi chiếu gần chót, chung với những hạng bố cu, mẹ đĩ. Có người kính nhường muốn mời ông cụ ngồi lên chiếc chiếu trên thì bọn sinh sự kia vội gạt đi:
- Không! Chỗ Hương đảng phải trọng trật tự mới được. Ông Phó cựu có con giàu có làm nên thì ông ấy nhờ nhưng chính ông cũng hai bàn chân “quét vôi” như chúng tôi thì không thể leo lên chiếu của các cụ huynh thứ, chức sắc được.
Cố nhiên mấy kẻ châm chích như thế là người cùng làng mà khác họ, thấy người ta khá thì ghen ghét kiếm chuyện.
Một người bà con đem chuyện ấy ra thật thà nói lại cho cô Tư nghe, cô lấy làm cay lắm. Cô nói đay nghiến:
- Để nay mai ông cụ nhà tôi sẽ ngồi chiếu nhất trong làng, cho quân kia sẽ phải chào bẩm quan lớn cho mà xem nhá.
Lúc này, 1906, cô tậu thêm được dãy nhà ở phố Richaud, lại làm xong tòa nhà riêng lộng lẫy ở ngõ Hội Vũ và công việc buôn bán gạo bắp đang tấn phát muôn này đến vạn kia. Nhưng không khi nào cô quên việc lo lắng công danh cho ông bố.
Với cô thử thời, hễ muốn thì được. Nội cái tài giao thiệp khéo với bạn quen biết đông, đủ cho cô tự tin nơi mình và nói như kiểu Nã Phá Luân đại đế: – Trong tự điển Việt Nam, chẳng có tiếng “không có thể”.
Tự đấy, mỗi năm cô đáp tàu vô Huế một hai lần là ít.
Mỗi lần cô về, chị em bạn lại thăm đều được nghe cô hết sức ca tụng những tấm lòng nhân đức và cách tiếp đãi của cụ thượng Cao hay cụ thượng Đoàn.
Cùng trong khoảng ấy, người ta thấy tên họ ông Phó cựu thường xuất hiện ở các cuộc từ thiện, cứu tế. Nào là đứng tên thứ nhất, thứ nhì vào sổ quyên giúp dân đói xứ Bắc, nào là về Thành Thị bỏ tiền ra sửa đình, lập chợ, đắp đường.
Ai thấy hai cha con hoạt động như thế cũng nghĩ là sự rất tự nhiên: con thì cố dĩ là nhà buôn bán năng lui tới kinh kì chắc vì việc buôn bán, cha thì về già, xuất tiền bố thí nhiều ít, ý hẳn chỉ muốn lấy tiếng với đời.
Rất đỗi muốn mua lòng họ hàng, làng mạc, hai cha con bỏ tiền ra cứu giúp những nhà bần cùng. Có một ông lão và một bà lão nghèo quá, được lĩnh tiền chẩn cấp mỗi tháng ba đồng cho tới khi chết.
Tuy thế bọn đầu bò đầu bướu trong làng đối với ông Phó cựu vẫn có vẻ khinh khỉnh như thường, chẳng thay đổi thái độ chút nào. Họ vẫn nói:
- Pho tượng có phết vàng bên ngoài, nhưng cái cốt trong vẫn chỉ là đất thó mà thôi.
Bỗng đến giữa năm 1908…
Những người hay chú ý xem mục công văn trong báo “Đồng văn” hay “Đại Việt tân báo” đều thấy đăng tin sau này:
“Bà Trần Thị Lan, 40 tuổi, tức bà Tư Hồng, thương gia ở Hà Nội, năm 1904 đã được Triều đình sắc tứ Chánh ngũ phẩm Nghi nhân, nay được thăng Tòng tứ phẩm Cung nhân.
Đồng thời, thân phụ của bà là cụ Trần Văn Mỗ, quán làng Thành Thị tỉnh Hà Nam, được đặc cách thưởng hàm Hàn lâm viện Thị độc, Phụng nghị đại phu”.
Thế là sở nguyện của cô Tư đã đạt: ông cụ phó cựu cũng được tắm gội mưa móc ân trên.
Liền ngay hôm sau, có người được thấy trong hiệu chụp ảnh, về bên số lẻ, ở phố hàng Bông, bức chân dung một ông lão rõ ràng mộc mạc nhà quê mà đội mũ mang hia, bận triều phục, ngồi hơi khom khom ra vẻ ngượng nghịu. Ông chủ hiệu ảnh thì đang ngồi chấm màu xanh vào bộ áo triều. Người hiếu kì hỏi thăm cho biết vị quan nào thế, ông chủ hiệu ảnh tươi cười và đáp:
- Cụ Thị đẻ ra cô Tư Hồng đấy.
- Quý hóa nhỉ! Cha nhờ con gái mà được tặng phong, có lẽ ông lão này là người thứ nhất.
Nhất là những kẻ đồng hương lúc nào hay xỏ xiên hợm hĩnh, bây giờ phải lắc đầu lè lưỡi.
Đấy, họ đã trông thấy thế lực vận động của người con gái nhà họ Trần chưa?
Lão phó cựu bây giờ còn chân trắng đâu nào?
Lần này ở làng Thành Thị có tiệc khánh hạ rất linh đình. Các khách sang ở Hà Nội và các tỉnh về dự tiệc mừng tấp nập, có cái quang cảnh “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”. Có lẽ cụ tổ là Trần Thủ Độ hồi xưa làm tể tướng trở về cũng chưa có cái vận sự như thế. Vì khách khứa nhà cụ chỉ có quan liêu, nhân sĩ một thời. Không bì với con bé cháu mấy mươi đời sau của cụ bây giờ có những bạn chơi nào Tây, nào Khách, nào Ấn Độ, nào An Nam, nào nhà buôn, nào quan lớn, gồm có nhiều nước, nhiều hạng.
Nhiều câu đối hoành phi, trướng liễn của người ta đi mừng treo chật mấy gian nhà. Trong đó thấy nhiều câu của những danh bút đương thời tự viết để mừng chủ nhân vì tình đi lại quen biết, hay vì người khác mà soạn dùm cũng có.
Người ta lại nói lắm câu tự chủ nhà phải mất công cày cục và chịu tốn kém để cầu lấy cái lạc khoản một vị quan sang hay một bực danh sĩ cho được hãnh diện với đời. Những nhà giàu lỏi ở xã hội ta thường có cái cầu kì che mặt thế gian đó.
Ví dụ câu đối sau này do cụ Tuần phủ Nguyễn Đắc ở làng Mọc soạn hộ một người khác đi mừng:
施濟全由聖上仁, 散為雨露
顯揚是謂卿夫孝, 別出簪釵
“Thi tế toàn do thánh thượng nhân, tán vi vũ lộ,
Hiển dương thị vị khanh phu hiếu, biệt xuất trâm thoa”
Câu này nói không có ý gì xa lạ, tác giả ca tụng lòng nhân của nhà vua muốn ban ơn mưa móc cho ai thì người ấy được. Duy có việc làm nên hiển dương cha mẹ vốn là đạo hiếu của đàn ông thi đỗ làm quan, thế mà bây giờ một người đàn bà cũng làm được như thế. Tóm lại, bà con gái nhờ cuộc phát chẩn mà được sắc, ông bố nhờ có bà con gái mà nên danh.
Đến bài hát nói của ông Phạm Xuân Khôi, tri huyện Bình Lục – tức huyện sở tại của cô Tư cũng thật thà tán dương chứ không có ý xoi móc gì.
Miễu:
Năm mây hẫng thấy chiếu giời,
Khâm ban sắc chỉ tới nơi rành rành.
Nền phú quý, bậc tài danh,
Ngẫm cơ hội ngộ đã đành hôm nay,
Đội đức cao dày…
Nói:
Ơn vua lộc nước, há riêng gì nam tử mới công khanh?
Khách trâm thoa này cũng trâm anh,
Cũng bia đá bảng vàng danh giá vạn.
白手成家天下罕
紅裙拔俗女中英
“Bạch thủ thành gia thiên hạ hãn,
Hồng quần bạt tục nữ trung anh”
Vẻ hào hoa phong nhã tài tình,
Gương kim cổ soi chung người phấn đại.
Danh giả tự cao nhân phẩm lại,
Bắc Trung Nam lừng lẫy tiếng bà Tư.
Một đời được mấy anh thư?
Cụ Trần Tán Bình, một bực danh sĩ của Bắc Hà, lúc bấy giờ hình như lĩnh chức Đốc học Hà Nam, mừng chung hai cha con cô Tư một bài tập Kiều đến nay còn nhiều người truyền tụng:
Rằng nay thánh trạch dồi dào,
Mà cho thiên hạ trông vào mới hay.
Đàn bà dễ có mấy tay?
Hoa chào ngõ hạnh, hương hay dặm phần.
Vinh hoa bõ lúc phong trần,
Làm con trước phải đền ân sinh thành.
Nền phú quý, bậc tài danh,
Khâm ban sắc chỉ rành rành tới nơi.
Năm mây bỗng thấy chiếu giời,
Hiển thân là hiếu, cứu người là nhân,
Phong lưu rất mực hồng quần!
Trần tiên sinh lúc sinh bình làm quan nổi tiếng gang thép, văn chương cũng nổi tiếng uẩn súc hào hoa, thử thời lại là một vị đường quan tỉnh nhà, cô Tư kết giao thân mật với ngài, ý hẳn chỉ cốt cái tiếng quan với cái tiếng hay chữ ấy. Ngài tập Kiều bài trên, kể thật tài tình, vì câu nào cũng đắt và hợp cảnh, cô Tư thêu vào vóc để treo giữa nhà trân trọng là phải.
Nhưng nhà nho hay chữ, gặp những trường hợp có thể xoi móc chơi, mà không xoi móc chút đỉnh thì cái mạch văn nó thấy quằn quại khó chịu hay sao không biết nên Trần tiên sinh lại mừng thêm một đôi câu đối nữa. Có lẽ sợ bài tập Kiều có một vài câu ngụ ý kín đáo quá, người xem không thấy chăng?
Câu đối sau này:
“Ngã phẩm sắc phong hàm cụ lớn,
Trăm năm danh giá của bà to”
Lơ thơ mười bốn chữ nghe rất nôm na, thiết thực, giản dị, tầm thường mà chứa đầy ý vị cay chua, xoi móc.
Văn chương vừa thật thà, xinh đẹp như cô mĩ nữ ngây thơ, vừa có nọc độc của loài rắn hổ.
Cũng như hoa hồng đẹp cả hương lẫn sắc, nhưng cây nó có gai.
Có người vội vàng, tưởng rằng “hàm cụ lớn” đối với “của bà to” thì chữ “của” nghe không được chỉnh.
Ấy chết, chính chữ “của” ấy mới là chữ đắc ý nhất của nhà nho. Trong mười bốn chữ, chỉ có nó nổi bật lên, làm rung động cảm giác người ta như tiếng trống ngũ liên giữa khoảng làng xa đêm vắng. Có nó, câu đối mới hay. Một mình nó kí thác cả hai ý muốn: vừa khen tâng bốc vừa xỏ ngấm ngầm. Có lẽ khi moi được nó ra để gieo vào câu văn, nhà nho ta đắc ý không biết đến thế nào. Giá ai gạ đổi chữ “của” ấy lấy một cơ nghiệp cự phú hay một vật gì quý báu nhất đời, dám chắc nhà nho cũng không thèm đổi.
Cụ Tam nguyên Yên Đổ vào hồi này đã lòa cả hai mắt, không thiết hỏi gì đến thế sự đã lâu. Nhưng khi tiếp được thiếp mời rất trân trọng của hai ông con nhà họ Trần trong dịp được sắc ăn khao, cụ cũng nghĩ chỗ đồng châu, đồng quận “kiếm năm ba chữ gọi là tình”. Cụ gọi cậu cháu:
- Lấy giấy bút cho ta đọc đôi câu đối này mà chép để mừng hai ông con nhà bà Tư ở bên Thành Thị, nghe.
Rồi cậu cháu thay mặt đem lễ mừng bốn bao liên tử với đôi câu đối viết trên một tờ hoa tiên kể cũng trân trọng.
Cụ Thị độc và cô Tư cảm động lắm:
- Được cụ lớn chiếu cố như thế này thật làm cho mà chúng tôi vẻ vang vô cùng.
Muốn cho ai nấy được biết nhà mình có cả câu đối mừng của cụ Tam nguyên Yên Đổ đây, cụ Thị độc ta lấy mấy thước vóc đỏ của nhà ghim tờ hoa tiên vào giữa để treo lên cho mọi người cùng thấy rồi xong đám sẽ đem thêu để lưu truyền một kỉ niệm quý báu.
Câu đối thế này:
“Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, danh giá vang lừng băm sáu tỉnh.
Này biển, này cờ, này sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người”.
Chỉ trong mấy ngày, đôi câu đối ấy truyền tụng hầu khắp xứ Bắc. Ai cũng phải khen hay và bảo cụ Yên Đổ thâm quá nhưng mà nhã hơn câu của cụ đốc Trần.
Riêng với hai cha con nhà cô Tư, miễn là có lạc khoản có đứng tên các quan to để treo cho được hãnh diện với người hàng huyện hàng tỉnh, còn văn chương ngụ ý chê khen xoi móc gì đó mặc kệ hay là không biết.
Một bác phó cựu, phó kiết, giang hồ lưu lạc biết mấy chục năm, tưởng là gửi xác vào bờ bụi xó xỉnh nào thế mà nhờ đứa con gái – cũng giang hồ lưu lạc – đến lúc về già lại được vinh hoa phú quý giữa chỗ cố hương thế này, kể ra trời đãi cũng hậu lắm đấy.
Đời người ta, phần nhiều cũng như giống hoa đến lúc có sắc đẹp hương thơm là lúc sắp sửa tàn tạ.
Sau ba năm được sắc ăn mừng, cụ Thị độc nhà cô Tư qua đời vào năm 1911, hưởng thọ 83 tuổi.
Cô Tư làm đám hiếu cho bố rất mực linh đình, mời được cụ Tuần phủ Nguyễn Nhã về đề chủ. Lại một phen dập dìu quan khách tấp nập, vì lúc này cô Tư còn đang thịnh vượng, lừng lẫy.
XXII
Một vài việc làm tỏ ra người có thủ đoạn chẳng vừa
Một đoạn trên kia, đã bày ra cô Tư Hồng là nhà buôn bán có thủ đoạn khôn ngoan quỷ quyệt ra thế nào.
Đây, một vài việc làm, một vài dật sử, tùy theo trí nhớ và kiến văn góp được, để các ngài thêm rõ ít nhiều cạnh khóe của đời người đàn bà này, đã được tiếng nhất thời là “Nữ trung hào女中豪”.
Cứu một người khỏi ở tù vì cụ trạng Trình
Ngoài vòng buôn bán, cô Tư quảng giao với nhiều giới tây nam trọng yếu. Có lắm cửa ngõ thâm nghiêm, không phải ai muốn ra vào cũng được, cô đến bất cứ giờ nào, nó tự mở ra.
Nhiều người có việc, chạy đến cầu cạnh cô lo toan vận động cho. Vì họ biết cô mát tay chạy việc, rộng giao thiệp, có thanh thế, nhiều hi vọng tất thắng.
Rồi thì kiện tụng, công danh, họa phúc, bổ bán, việc gì cũng có người ta đến gõ cửa nhà cô.
Thật thế, lắm người nhờ cô giúp đỡ xong việc.
Thầy phó tổng Ngọc Lũ ở Hà Nam bị liên can vào một việc ăn cướp, đáng lẽ vừa mất chức vừa ở tù, nhờ cô đi kêu cầu giùm cho thầy mới được khỏi tù lại được tự mình từ dịch nữa.
Đại khái mấy việc lặt vặt như thế, cô chỉ làm ơn lấy tiếng, chứ không đòi công. Có lẽ vì nể sự chủ là người đồng quận. Nhưng cô xơi bẫm với những việc mưu vọng to tát và khó khăn, như việc công danh bổ bán chẳng hạn.
Suýt nữa bị một ông kĩ sư bắn chết
Sau khi quan tư G. về Tây (1903), cô Tư ở độc thân đâu được một độ. Mắt xanh chẳng để ai vào, ý chừng còn đợi kén giai tế, vì lúc này ruột tượng của cô căng thẳng lắm rồi, có thể tự lấy chồng hơn là chờ chồng lấy.
Vào khoảng đầu năm 1905, do một ông Tây quen giới thiệu, cô làm bạn với một vị kĩ sư chuyên khoa kiến trúc mới ở Âu châu sang được ít lâu.
Một hòn đá ném hai con chim, cô vừa lấy chồng, vừa lấy được người cho mình có trụ gọi là để giúp đỡ giấy má sổ sách; nhất là mình đang buôn bán to lớn, không thiếu gì kẻ dị nghị dòm nom.
Thật, tân lang giúp ích cho cô Tư không phải là ít.
Vừa gặp lúc cô mua được một khu đất ở phố Phủ Doãn, gần với trại của cụ Quận Hoàng, chính ông kĩ sư trổ tài vẽ kiểu rồi lại đứng ra đốc công, xây dựng lên được dãy nhà ba tầng quay mặt về đường Richaud để cho Tây thuê. Đồng thời làm nên tòa nhà ở ngõ Hội Vũ trên miếng đất rộng rãi và có vẻ nguy nga so với thử thời.
Cuối năm 1906, nhà này khánh thành, ông bà từ phố Cửa Đông dọn về ở đấy.
Nhưng mà nhà mới quên cúng thổ thần hay sao không biết, qua năm 1907, hai người tự nhiên gây ra nhiều chuyện xung khắc về tính tình và quyền lợi. Không mấy ngày không diễn một tấn kịch xô xát cãi cọ nhau dữ tợn.
Đến nỗi cô Tư không chịu được, phải bỏ nhà đào tẩu vào Huế tránh mặt; ông kĩ sư không biết là bà đầm đi đâu.
Trong chuyện xung đột này tất có nguyên nhân quan hệ, hay những khúc nhôi bí mật.
Mỗi người bàn một thuyết.
Có người bảo rằng tại cô Tư nhà mình hay “cắm sừng” tua tủa trên cái đầu hói của lang quân, khiến lang quân phải nổi ghen phát cáu khua động cả gia đình.
Có người nói ông kĩ sư đã góp công lao rất nhiều trong cuộc doanh nghiệp của cô Tư càng ngày càng phất thêm. Nhất là việc tạo lập dãy nhà chín ngăn ba tầng ở phố Richaud, không những ông vẽ kiểu, đốc công mà thôi, hình như có bỏ vốn chung phần nữa. Mà ông cả tin, chẳng làm giấy tờ gì, cứ để cô Tư đứng tên hoàn toàn làm chủ, nay cô giở mặt sao đó, khiến ông phải tiếc công tiếc của, gây nên bất hòa ở giữa hai người.
Dễ thường cái thuyết sau có lẽ đúng.
Chẳng thế thì sao cô Tư trước khi tránh mặt vào Huế lại khéo sắp đặt cẩn thận và lẳng lặng ra xin tòa án thị chứng cho mình làm giấy tờ đúng luật, giao tất cửa nhà cơ nghiệp cho ông cụ thân sinh và cậu em giai – con người dì ghẻ, lúc này đã nhớn, việc xong đâu đấy rồi mới đáp tàu lai kinh.
Sau khi cô Tư đi rồi, ông kĩ sư dò biết như thế, càng giận đầy gan ứa mật, mau mau dọn cả rương hòm vật dụng của mình ra ở trọ Hà Nội hôtel, không thèm lui tới nhà ngõ Hội Vũ nữa. Nhưng ông vẫn rình hôm nào cô Tư về ông sẽ đến nói chuyện một phen.
Hơn một tháng sau, cô Tư mới về Hà Nội, nhưng tối ngày chỉ nằm ru rú trong một gian phòng kín trên gác, không thò mặt xuống dưới, không tiếp khách cũng không dám bước chân ra khỏi cửa đi đâu. Vì cô biết ông kĩ sư bản tính hung tợn lắm.
Quả nhiên một hôm, vào khoảng bốn năm giờ chiều, ông trèo cổng vào, một tay lăm lăm cầm súng lục một tay xô lắc rầm rầm định phá cửa dưới nhà để lên trên gác tìm cho kì được cô Tư.
Gia nhân sợ chạy tán loạn.
Ông cụ phó cựu – hồi này rồi mới sắp được Hàn lâm Thị độc – đang thơ thẩn xem hoa ngoài vườn, vội vàng chạy vào ôm chặt lấy ngang lưng ông kĩ sư, không còn biết sợ nguy hiểm là gì và mặc dầu sức yếu của lão già đã ngoại tuổi cổ hi khá xa.
Cũng may ông kĩ sư đã hạ bớt cơn nóng, tự biết mình cầm khí giới đột nhập nhân gia thế này là có lỗi, nên ông quăng khẩu súng đi. Bấy giờ cụ phó cựu mới buông ông ra và cô Tư mới dám ra đứng trên ban công nói chõ xuống.
Hai người xì xồ tiếng Tây một lát thì ông kĩ sư nhặt lấy khẩu súng ung dung đi ra.
Họ đã điều đình và nói chuyện với nhau lúc ấy những gì, người ngoại cuộc không ai được rõ. Chỉ biết là mấy hôm sau việc ra đến tòa án hòa giải. Kết quả, cô Tư phải nộp tại tòa sáu ngàn đồng bạc để trả công khó nhọc của ông kĩ sư đã vẽ kiểu và trông coi làm nhà cho cô bấy lâu. Thế rồi ông từ giã Hà Nội vào làm trong Nam kì. Từ đó cô Tư mới được yên trí buôn bán làm ăn, không phải trốn tránh lo ngại gì nữa.
Cầu danh cho bố và mua đồ cổ về bán
Chính lúc cô vào Huế tránh mặt ông kĩ sư là lúc mưu cầu công danh chút đỉnh cho ông bố già hả lòng. Thì ra những hạng con buôn lõi đời không chịu để trôi qua một thời giờ nào mà họ không khéo lợi dụng.
Nhờ cuộc vận động trong thời kì này mà sang năm 1908, ông phó cựu được đặc cách thưởng thụ Hàn lâm Thị độc.
Hơn một tháng trường ở kinh, giao thiệp tốn kém chắc không phải ít, cô Tư nghĩ cách gỡ vốn lại: mua đồ cổ về bán.
Lạ gì thứ buôn này mua một bán trăm.
Chuyến về, cô chở theo mấy xe đồ cổ đã nhặt nhạnh được ở kinh, nào ấm chén bát đĩa, nào đôn, chậu, độc bình, bày chật hai phòng khách lớn trong nhà ngõ Hội Vũ. Tiếng là bày chơi nhưng các quan khách tây nam lại xem, thích món nào mà trả được giá hời thì chủ nhân bán ngay.
Một cái thống men chàm, cao 1 thước 20 phân tây, rộng thước 6, chấm bát tiên bán được 500 đồng. Có đôi lọ cao độ 8 tấc, một cái chấm Lý Thiết Quài, một cái chấm Hà Tiên Cô, gặp một người Tàu thích ý nài mua với giá 700 đồng mà chủ nhân còn làm bộ chưa muốn bán.
Nhà cô nổi tiếng có nhiều đồ cổ ở Hà Thành.
Luôn 12 năm bán hết hai phần ba, còn lại một phần nữa, sau năm 1921, chủ nhân qua đời rồi người ta đem bán ở Tầm Tầm với giá rất rẻ.
Cưới vợ cho anh chồng cũ
Trong lúc cô Tư trèo lên thang giàu có hết bậc này đến bậc kia và khét tiếng trong xã hội ăn chơi hoa lệ thì người chỉ vẽ con đường doanh thương trục lợi cho cô ngày nào, đang lang thang như thằng ốm đói ở bến tàu Hải Phòng.
Hẳn các ngài đã đoán ngay ra chú Hồng, không cần phải suy nghĩ.
Nhưng chú Hồng đã vỡ nợ trốn đi kia mà?
Đáng lẽ một người khách trú phạm tội mà bị trục xuất cảnh ngoại hay buôn bán vỡ nợ mà bỏ trốn đi không được phân minh như trường hợp chú Hồng thì không trở lại xứ Đông Dương này được nữa. Có kẻ làm liều, đổi hẳn tên họ căn cước rồi trà trộn mò sang, chỉ ít lâu ti cảnh sát cũng khám phá ra được. Nhưng ở thời kì ba bốn chục năm trước, việc trông coi ngoại kiều nhà nước Bảo hộ mới nhất sơ, tổ chức chưa nghiêm nhặt chu đáo như bây giờ. Thành ra chú Hồng lại sang Hải Phòng lúc nào không bị phiền nhiễu gì cả. Nhất là chú có thể mạo xưng là người bản xứ mà không ai dám ngờ, nếu như cắt tuột cái đuôi chuột lòng thòng sau lưng đi vì chú nói tiếng An Nam thạo lắm, các ngài đã rõ.
Hôm ấy, vào đầu năm 1906, cô Tư xuống Hải Phòng thương thuyết và kí hợp đồng với một hãng Tây về vụ bán gạo, bắp, nhân tiện ra bến tàu để tiễn chân một ông nhân tình về Pháp.
Bỗng dưng cô giật nảy mình khi thấy một chú khách đang đứng ốp bọn cu li đội từng thúng than xuống tàu, tuy áo quần kiết cáu bẩn thỉu nhưng mà mặt mũi hình dạng sao giống chú Hồng như đúc.
Quả thật là chú Hồng.
Cuộc gặp gỡ bất ngờ, thôi thì nỗi hàn huyên, chuyện xa gần, thiếu đâu.
Thì ra sau lúc ở Hải Phòng trốn về quê nhà, có chút ít ruộng đất tổ nghiệp, chú đoạn mại cho người ta được mấy trăm bạc đem lên Phúc Châu mở hiệu. Nhưng chỉ được ít lâu, lại buôn thua bán lỗ, mất sạch vốn liếng. Chú phải lêu bêu đói rét ở Phúc Châu, đã hai ba phen định quyên sinh mà không chết.
May gặp người bạn cũ là ông chủ hiệu Hằng Hóa ở Hải Phòng về thăm nhà tại Phúc Châu, thấy tình cảnh chú Hồng nghèo đói nên thương, bèn đem chú trở sang Phòng, cho đứng trông coi chành than của hiệu ở bến tàu. Mỗi khi có tàu bể ăn than thì phải đứng ốp dân phu đài tải. Chú sang làm công việc ấy đã hai năm nay.
Thật sự, chú vẫn biết tiếng cô Tư đã làm nên giàu có sang trọng nhưng nghĩ thẹn mình nên không dám lân la thăm hỏi.
Cô Tư động lòng về nghĩa cũ tình xưa, không nỡ trông thấy cố nhân trụy lạc, niềm nở trao tay cho chú mấy chục bạc, bảo sắm hành trang hôm nào lên Hà Nội chơi.
Tuần lễ sau, chú Hồng lên.
Cô Tư tiếp đãi tử tế, cho chú món tiền về cưới một chị vợ Ố nàm rồi lại cấp vốn cho hai vợ chồng buôn bán.
Lúc này cô Tư đang làm bạn với ông kĩ sư kiến trúc và xây tòa nhà ở ngõ Hội Vũ vừa xong.
Về sau, vợ chồng chú Hồng sinh hạ hai đứa con trai mũm mĩm dễ thương. Hằng năm, hai người lại dẫn con về Hà Nội ở chơi trong nhà cô Tư ít ngày. Cô quý hóa hai đứa trẻ, thường gửi quà bánh và may quần áo cho. Tới lúc chú Hồng già yếu, đem cả vợ con về Tàu, cô Tư lại tặng cho vài trăm bạc làm lộ phí.
“Một me tây đối với anh chồng cũ như thế, kể cũng hậu tình”… ấy là tiếng khen của những người đồng thời biết rõ chuyện này.
Sau bố đẻ hàn lâm tới cha nuôi tuần phủ
Một đoạn trên đã nói, hồi năm 1911, ông thân sinh ra cô Tư, tức là cụ hàm Thị độc – mà nhà danh sĩ Trần Tán Bình đã khéo gò gẫm đối ba chữ “hàm cụ lớn” với “của bà to” – qua đời ở Thành Thị. Cô Tư mời được cụ Tuần phủ hưu trí Nguyễn Nhã ở làng Mọc về tận Hà Nam làm lễ đề chủ long trọng.
Sau đám ma bố đẻ rồi, cô Tư xin làm con nuôi cụ Tuần Nhã.
Cái đời sĩ hoạn của ông cụ này cũng lạ: từ chân thông lại xuất thân mà leo mãi đến ngôi đường quan một tỉnh.
Nguyên là con nhà nghèo, ông cày cục được làm một chân tịch sĩ để kiếm ăn. Tịch sĩ tức là anh nho làm phụ giấy má cho các thầy thông, thầy đề. Năm Tự Đức 16, được bổ chân thông lại huyện Phú Xuyên, ít lâu thăng đề lại huyện Thọ Xương, huyện sở tại Hà Nội.
Không hiểu vì có công lao gì hay chỉ nhờ lúc quốc gia đa sự, năm Đồng Khánh nguyên niên, chính thầy đề lại Thọ Xương được lên thực thụ tri huyện huyện ấy.
Ông sửa sang lại chùa Đồng Quang – tức chùa ở Thái Hà bây giờ – và bốc hơn ba vạn ngôi mộ vô chủ ở hoàn thành Hà Nội đem về an táng ở nghĩa địa bên chùa Đồng Quang. Việc phúc đức ấy đưa ông lên chức án sát Hà Nội hai ba năm sau.
Qua triều Thành Thái, ông có công tiễu trừ loạn đảng Văn Thân, bắt được Lãnh Trình ở Bắc Ninh và chiêu dụ nhiều bộ hạ Văn Thân ra thú.
Nhờ công ấy, năm Thành Thái 16 được thăng chức tuần phủ Bắc Giang, sau hai năm thăng tổng đốc hưu trí.
Sinh bình làm quan có tiếng thanh liêm, không thừa thời làm giàu như ai cho nên lúc về hưu ở Mọc ông nghèo rớt mồng tơi.
Người ta nói cô Tư Hồng cảm lòng tử tế của ông về Hà Nam đề chủ cho thân phụ mình mà không chịu nhận lễ tạ gì hết (theo thường lệ, bao nhiêu đồ bài trí trong trạm của nhà tang đều về phần quan đề chủ được lấy, ngoài ra còn phải tạ một số tiền nữa), nên khi đám tang vừa xong, cô đưa cả cậu em giai cùng về làng Mọc bái yết từ đường nhà ông Tuần và lạy ông xin nhận làm con nuôi.
Từ đấy, cô chăm nom sự sống của ông nghĩa phụ rất tử tế. Tuần nào cô cũng thắng xe ngựa từ Hà Nội về đến đình Hội Xuân làng Mọc, đem vật thực về cho ông Tuần và cấp dưỡng tiền bạc luôn luôn.
Năm vỡ đê Liên Mạc, nước tràn ngập cả một vùng Hà Đông cho đến ô chợ Dừa. Cô Tư cắc cớ, lấy ở nhà ra một chiếc xanh đồng và một chiếc chậu thau đồng thật to để thả làm thuyền, vào Mọc đón cha nuôi ra Hà Nội chạy lụt.
Lúc trở ra gặp nước xoáy mạnh, chậu đồng cứ quay tròn, tên gia đinh không sao hãm được, phó mặc trôi theo dòng nước, với hai bố con nuôi ngồi trên chậu đồng ấy. Miệng cô Tư nào có vừa gì, kêu cứu rầm trời mà không ai ra cứu. May phúc làm sao chậu đồng trôi đến Ngã tư Sở thì vướng vào cái cọc nên cô Tư và ông Tuần Nhã mới thoát chết.
Nhưng nước đánh trôi mất hòm sắc của ông.
Cách mấy năm sau, ông tạ thế, cô nghĩa nữ làm lễ an táng rất to và thủ chế ba năm coi như bố ruột vậy.
XXIII
Nhân duyên giữa cha và con
Chuyến xe hỏa Hà Nội – Nam Định buổi sáng hôm ấy đông khách quá. Đúng vào hồi người ta đi trẩy hội Phủ Giày.
Hạng ba cũng không còn hở chỗ nào. Nhiều ghế có tới ba người chen chúc ngồi.
Xe còn vài phút thì chạy.
Một vị linh mục Âu tây bước lên xe sau chót, mở cửa hạng ba đi vào, đứng nhìn quanh tả hữu, lắc đầu một cách rất kín đáo, hơi như có ý trách mình ra tàu quá muộn, chẳng còn thừa một chỗ nào.
Theo phong tục các xứ văn minh, bọn đàn ông mạnh chân khỏe tay lúc đi xe tàu chật chội bao giờ cũng hớn hở nhường chỗ mình đang ngồi cho một người đàn bà, một kẻ tàn tật hay một nhà tu hành.
Nhưng ở xứ mình ít có thói quen ấy. Người ta thấy trên xe hỏa, tàu điện những ông ra vẻ tân thời học thức lắm mà không hề có nhã ý đứng dậy nhường chỗ cho một người đàn bà bụng chửa thè lè lại ẵm một đứa nhỏ ba bốn tuổi trên tay mà đứng cho tàu chao bên nọ, lắc bên kia. Nói gì họ nhường chỗ cho một giáo sĩ.
Trong khi ông linh mục kia đang tần ngần, tính quay lưng bước ra ngoài thì một bà thiếu phụ An Nam có chỗ ngồi giáp bên cửa, tươi cười đứng dậy và nói:
- Mời cha ngồi đây, con xin nhường chỗ.
Bấy giờ một thầy mặc tây ngồi ghế trước mặt, hình như có ý ngượng với cử chỉ của người thiếu phụ, vội vàng đứng dậy nhường chỗ mình một cách rất ân cần.
Ông cố cảm ơn và ngồi xuống đấy.
Thành ra ông với thiếu phụ đối diện nhau.
Những bánh xe hỏa đang lăn nhịp nhàng ở quãng Kim Liên – cống Vọng.
Được chỗ ngồi yên ổn và định thần một lát, nhà tu hành ngước mắt có đeo mục kỉnh đen, nhìn kĩ người đàn bà ngồi trước mặt, tức là người đã có nhã ý nhường chỗ cho ông trước tiên.
Người này, trạc ngoài bốn mươi, nhưng còn tươi đẹp, hồng hào, vấn khăn nhung đuôi gà, mặt chỉ nhồi phấn hơi hơi, càng tôn thêm nước da trắng tự nhiên và đôi hoa tai kim cương to bằng hột đỗ càng chiếu sáng ngời, cố nhiên là người thành thị trăm phần trăm mà trên nét mặt đầy vẻ tân thời, lịch thiệp, bạo dạn. Bên mình có chiếc “xà cột” khá to, là thứ túi đựng tiền của những người cân gạo hay nhà thầu khoán thường dùng bỏ tiền xách đi xa để phát công thợ và dân phu.
Biết là vị khách đối diện đang chăm chú thả nhỡn quan xuyên qua hai miếng kính rợp mà phóng ngay vào mình, người thiếu phụ tự khơi chuyện ra nói trước để cho khỏi đỡ ngượng cả hai bên. Mặc dầu mình không phải là con chiên, nhưng thiếu phụ cũng tôn kính ông linh mục mà gọi là cha.
Nhất là diện mạo ông khôi vĩ, hồng hào, cặp mắt như thước kẻ, con ngươi xanh biếc và ươn ướt, mũi cao và bắt góc như hình Kim tự tháp bên Ai Cập, môi đỏ tự nhiên như son, thêm hàm râu cạo gọt rất khéo. Cái vẻ đẹp giai ấy làm cho thiếu phụ ngây ngất, bàng hoàng, càng muốn gạ chuyện làm quen.
- Cha gặp phải chuyến tàu chật chội thế này có lẽ bực bội lắm thì phải.
Ông linh mục cười và đáp:
- Không bực bội gì mấy, chỉ cách vài ba giờ thì đến nơi, ví dụ có phải đứng cũng chẳng sao.
- Hẳn cha xuống Phủ Lý?
- Không, còn gần hơn, tôi sắp xuống Cầu Guột đây thôi.
- Con cũng xuống ga ấy.
- Thế có khi cô về Cầu Guột thăm quê, hay đi cân gạo, phải chăng?
- Con chỉ về chốc nhát để trông nom công việc và phát tiền cho dân phu đắp đê Phú Xuyên – Cầu Guột rồi đáp tàu trưa lên Hà Nội ngay.
- Nhà cô ở Hà Nội?
- Vâng.
- Phố nào?
- Ở đầu ngõ Hội Vũ.
- Vậy thì tôi biết rồi, cô là cô Tư Hồng mà tôi vẫn nghe nhiều người Phú lăng sa nói chuyện.
- Thưa phải.
Ông lại cười và nói câu này nho nhỏ không cho những người ngồi bên nghe:
- Ồ may nhỉ! Tình cờ Hồng nọ gặp Hồng kia.
Hình như thiếu phụ ngơ ngác không hiểu, ông cố liền nói tiếp ngay:
- Tôi là cố Hồng, linh mục chánh xứ ở nhà thờ Phú Xuyên.
Thiếu phụ mỉm cười thầm hiểu vì chính thiếu phụ là cô Tư Hồng.
Còn nhà tu hành, đạo hiệu là cố Hồng, linh mục Phú Xuyên, một xứ đạo mới mở được ít lâu.
Một bà me tây về già, một nhà tu hành đạo mạo, có ai dám ngờ hai người ấy họ gặp nhau tình cờ trên chuyến xe lửa mà rồi có chuyện tình ái nhân duyên gì dính theo?
Ấy thế mà có.
Thì ra tạo hóa thật khéo oái oăm bày trò, thường khi một chuyện người ta không ngờ lại chính là chuyện xảy đến.
Từ ngày ông cụ cố quy tiên, cô Tư cảm thấy trong lòng yêu đương để trống một chỗ rất lớn.
Cô đâm ra buồn.
Mặc dầu phồn hoa phú quý bao bọc chung quanh; mặc dầu vàng ngọc bạc tiền chan chứa.
Không phải đời người hễ cứ giàu sang thì được thấy toàn sự vui sướng.
Đời người giàu sang có lúc như tấm bảng sơn son thếp vàng, ta trông bề ngoài lộng lẫy, đỏ tươi nhưng lớp gỗ bên trong có chỗ mối ăn mọt khoét mà ta chưa thấy.
Giàu sang cũng có những chỗ buồn rầu nhục nhã riêng của nó.
Người ta vẫn ghê sợ thời vận áo xám. Nghĩa là trong lúc phải mặc xám, mọi việc đều xui xẻo tắc hãm. Trái lại, số phận hậu đãi cô Tư một cách khác hẳn.
Chính lúc đang mặc áo xám, cô lại hái ra tiền.
Nào là vớ được mối hàng 30 vạn tạ gạo của mấy hãng Tây ở Hải Phòng đặt mua để xuất cảng.
Nào là thầu việc đắp đê ở Phú Xuyên cầu Guột. Bọn nhà nghề thầu khoán cạnh tranh không lại, vì cô có những người mạnh thế đỡ đầu.
Họ thường bảo nhau:
- Chuyến này con mẹ Tư lại khoắng được vài vạn bạc lãi là ít.
Tiền vào càng nhiều, cô Tư càng thấy lòng mình trống trải, cảnh mình cô độc.
Con người đã ngoài bốn mươi tuổi đầu, trải hai ba đời chồng, tình nhân không thiếu gì, nhưng bây giờ lại thấy lòng mình khát khao thiếu thốn tình yêu: cái tình yêu chuyên nhất.
Cô nghĩ mình thế tất phải đi một bước nữa. Nghĩa là lại phải lấy chồng. Vì lẽ gia đình và vì lẽ xã hội.
Vì lẽ gia đình, phải lấy chồng để có người giúp mình lo lắng công việc, trông nom sự nghiệp. Bố chết mất rồi, em cháu hãy còn khờ bé, mình lại chưa có con cái gì, cô Tư trơ trọi ở đời có một thân. Mình lại có của, có rất nhiều của, những kẻ tham lam ngấp nghé không thiếu gì, một thân đàn bà, sành sỏi mặc dầu, muốn ứng phó mỗi khi hoãn cấp không phải là dễ. Huống chi đời người phải có những lúc phong vân bất trắc, biết nhờ cậy ai? Không chồng không con, sự nghiệp đắp cao lên mãi để làm gì?
Vì lẽ xã hội, lấy chồng để bịt hẳn miệng tiếng dị nghị của thế gian. Cô Tư thừa biết thói tục ở chốn Thăng Long nghìn năm văn vật, người ta chỉ khéo làm bộ lễ nghi phong nhã với nhau ở trước mặt mà hay phẩm bình xỏ xiên ở sau lưng. Có người làm nên cửa cao nhà rộng, xuống ngựa lên xe, đủ cả công danh, chức phận; thiên hạ gặp mặt thì vái chào “bẩm lạy cụ” rất cung kính nhưng vừa xoay lưng đi họ đã cười khúc khích và bảo nhau: “Xem bác cai ở phố X… đã gặp thời lên mặt trưởng giả đấy!”
Chính cô Tư nhiều lần được nghe lọt tai những tiếng xỏ mát của thiên hạ, sau khi họ chào “bẩm bà” thật là tử tế. Họ dị nghị cô giàu có như thế mà không chồng không con, tha hồ ăn tiêu sung sướng. Một hôm cô vào nhà nọ đi ra chưa khỏi cửa đã nghe bên trong có tiếng Kiều lẩy:
Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay thác xuống làm ma không chồng.
Cô hiểu là câu ấy họ ngâm tặng mình.
Và lòng muốn lấy chồng càng thêm quả quyết.
Nhưng lấy ai bây giờ?
Cô đã tính nhẩm trong những bạn quen và bạn tình hiện tại. Tây có, Nam có, muốn lựa chọn đắn đo, vật sắc lấy một người để làm cho phu tướng, gắn bó chung thân.
Nhưng sau một lúc cân nhắc, cô gạt ra ngoài cả. Cô nghĩ họ chỉ là một cảnh bày chơi tạm thời, chứ không ai xứng đáng làm chồng vĩnh viễn. Họ làm bạn với cô, bất quá lập lẽ lợi dụng hay là bán tình giả dối lấy tiền của cô, thế thôi.
Cô định tìm một người chồng trẻ trung, khỏe mạnh, đứng đắn; cố nhiên phải là chồng Tây mới đúng sở thích.
Có điều người ấy là ai, chính cô cũng đang mong mỏi, chưa biết.
Lúc bấy giờ ở cây đa Cửa Quyền phố hàng Bông, có lão thầy bói già, tự xưng là Quỷ cốc tái sinh dám treo miếng vải tây điều, viết mấy hàng chữ: “Hễ đoán không hay, thì xin đền lại gấp hai số tiền đặt quẻ”. Nghĩa là mình đặt quẻ năm hào thì lão mở tráp đền ngay cho một đồng. Người ta nói lão chưa hề phải bồi thường như thế bao giờ, tức là nghề bói của lão tuyệt phẩm.
Một buổi sáng, cô Tư sai người ân cần mời lão vào trong nhà ở ngõ Hội Vũ để xem một quẻ.
Cô đặt tiền quẻ hai đồng và nói ngay thật cầu vọng nhân duyên.
Lão thầy bói khấn khứa những Văn vương, Khổng Tử, Quỷ Cốc, Trần Đoàn và gieo tiền được quẻ xong rồi có ý ngập ngừng như e ngại điều gì không muốn nói ra.
Cô Tư hiểu ý:
- Thánh ngài dạy cát hung, họa phúc thế nào thầy cứ việc đoán ngay nói thẳng đừng nể nang gì cả. Dù tốt, dù xấu thầy nói rõ cho tôi nghe. Tôi không ưa nói nịnh như người ta đâu.
- Vâng, bà lớn đã dạy, chúng tôi cứ theo quẻ mà đoán.
- Phải, quẻ ứng thế nào thầy cứ đoán thế cho.
- Bẩm bà lớn tuy có số hồng loan chiếu mệnh, những người ngấp nghé cầu thân nhiều thật đấy, nhưng gọi là có thể chung thân kí thác thì bà lớn không trông cậy được vào một ai.
- Chịu thầy.
- Cứ như quẻ này, thể nào bà lớn cũng phải đi qua một cầu nữa mới xong.
- Nghĩa là phải lấy một đời chồng nữa, phải không thầy?
- Thưa chính phải thế.
- Độ bao giờ thì tôi gặp nhân duyên?
- Chắc chắn vào mùa thu này. Từ rằm tháng bảy cho đến hai mươi tháng tám, thế nào cũng thành.
- Nếu được y như lời tôi sẽ biếu thầy một chiếc áo the. Nhưng thầy đoán hộ xem chồng tôi nay mai là người thế nào?
- Bà lớn có cho phép tôi mới dám nói.
- Tôi đã bảo thầy cứ việc đoán thẳng, không ngại gì mà.
- Vâng, bà lớn cao số lắm, theo như quẻ dạy thì ông lớn nhà ta nay mai tất là một thầy chùa hay đạo sĩ mới đúng số.
Cô Tư phá cười lên:
- Thầy đoán mới liều làm sao chứ, người tu hành nào mà lại bỏ trời bỏ Phật đi lấy tôi bao giờ?
Lão thầy bói vừa thu xếp tiền quẻ bỏ vào tráp vừa nói chắc nịch như đóng đinh:
- Bẩm bà lớn, tôi đoán quả quyết như thế đấy: ông lớn tất là một người tu hành. Bà lớn cứ việc mua áo the sẵn cho tôi đi.
Nghe lời quyết đoán của lão thầy bói, cô Tư bỗng giật nảy mình. Cuốn phim gặp gỡ cố Hồng bỗng diễn lại trong trí nhớ với tất cả những tiếng nói bóng bẩy xa gần, những ý tứ đầu mày cuối mắt.
Thì ra sự tin tưởng của người ta có lẽ đúng thật: việc vợ chồng là mối nhân duyên định sẵn. Hễ đã định sẵn, dầu cho hai người ở cách xa nhau một bể một trời hay là có cảnh ngộ trái ngược nhau mấy đi nữa, sợi tơ hồng cũng buộc chặt lấy chân và kéo lại cho gần, hình như không chạy đâu khỏi.
Ngày xưa Vi Cố chẳng vác đao vào chợ quyết chém một con bé ăn mày, rồi sau con bé ấy chẳng trở nên vợ chàng với một vết sẹo ở mặt đấy ư?
Cô Tư Hồng còn một đời chồng nữa là thầy tu, số phận đã định trước như thế.
Nguyệt lão đã buộc xích thằng vào chân rồi chỉ còn thắt lại.
Lão thầy bói đi rồi, cô Tư cười bảo người em:
- Cậu Ngữ à! Thầy bói đoán quẻ không khéo mà đúng thật đấy. Rồi cậu sẽ có một người anh rể mới là nhà tu hành cho mà xem.
Cậu em bông lơn:
- Thôi em hiểu rồi. Chắc lão sư chùa Hòa Giao chứ gì. Hèn nào lâu nay Hà Nội đồn rầm lên, lão sư ấy cứ tối đến là trút lốt cà sa, diện quần áo tây vào, đội mũ ba na ma, tay cầm can, miệng ngậm xì gà đi vất vưởng ngoài đường, chim gái rất thánh. Em được ông anh rể ấy tha hồ mà tròn quả phúc, chị nhỉ!
- Đừng nói chuyện nỡm. Không phải lão sư hổ mang ấy đâu.
- Thế thì là ai, hử chị?
- Đám khác kia, rồi cậu sẽ biết.
Đám khác: ấy là cố Hồng.
Từ ngày cô thầu đê Phú Xuyên, cách dăm ba ngày phải đi một chuyến để coi sóc công việc và đem tiền ở Hà Nội xuống phát cho dân phu. Trên con đường đi về Hàng Cỏ – Cầu Guột cô có nhiều lần gặp ông cụ chánh xứ họ đạo Phú Xuyên.
Khi ở trên toa xe lửa, khi ở trước ga Cầu Guột, có khi ở ngay trong nhà riêng của cụ xứ.
Ban đầu mới gặp cô không để ý, chỉ tưởng là một nhà đạo mạo vui tính hay chuyện trò vậy thôi. Bởi vậy cô vẫn tôn người là cha, xưng mình là con, một cách lễ phép cung kính, mặc dầu mình không phải con chiên.
Nhưng năm bảy bận sau, cô nghe lời ngôn ngữ và thấy cách ăn ở mà sinh ra cảm.
Nhất là cảm nhà tu hành còn trẻ tuổi hơn mình mà tráng kiện lực lưỡng, vẻ người lại đẹp, đúng như cô vẫn sở thích, mộng tưởng. Khoa ngôn ngữ lại ôn tồn lanh lợi, tán tỉnh rất khéo, nghe như đàn ru mật rót vào tai.
Vả lại nhà tu hành như thế bị giam hãm thèm thuồng đã lâu, nay gặp một người đàn bà nồng nàn tương đắc với mình lại tự chủ một sản nghiệp lớn trong tay cũng đâm ra cảm nốt. Cảm cả người lẫn của.
Trước lạ sau quen, hết xa đến gần.
Lửa tình đã rấm sẵn trong quả tim, giờ được một luồng gió thổi vào, bốc cháy lên ngùn ngụt.
Phải biết một khi ngọn lửa ấy đã bắt mồi bùng lên, nó đốt cháy tuốt cả những hàng rào danh giá lễ nghĩa, miệng tiếng thị phi.
Nó bất chấp tất cả xã hội.
Trước hết nhà tu hành còn mò mẫm đến nhà ở ngõ Hội Vũ ban đêm, chưa từng tang tảng sáng đã lùi lũi đi ra như thằng ăn trộm, chỉ sợ người ta trông thấy.
Nhưng rồi cô Tư cứ tự nhiên để cho người yêu mặc bộ áo dài thâm như thế mà lui tới cả ban ngày, thây kệ tai mắt thiên hạ. Nhiều khi ở lại ăn cơm nói chuyện cả buổi trưa.
Người ta bắt gặp cô Tư lắm hôm đi về Phú Xuyên cũng gần như công nhiên lui tới chỗ ở riêng của nhà tu hành mà ăn cơm ngủ đỗ như thế.
Họ đã già nhân ngãi, non vợ chồng.
Một hôm cô Phó Sơn Tây và cô Giám binh đồn Bần, cùng là chỗ bạn thân, đến chơi nhà cô Tư gạn hỏi sự tình và nói ngay thẳng:
- Này chị ạ, một là phải tuyệt đi, vì thiên hạ chẳng thiếu gì đàn ông cho mình ôm ấp, hai là phải làm sao cho ra lẽ vợ chồng, để bịt miệng thế gian. Chứ làm mập mờ dở dang mãi như thế, thiên hạ họ bình phẩm khó chịu lắm. Chị miệt mài trong cuộc không được nghe lời mai mỉa bên ngoài. Họ chửi chị bỏ bùa mê thuốc lú cho nhà tu hành phải sa ngã đấy.
Cô Tư nhận thấy là chị em nói phải.
Hôm sau gặp nhà tu hành, cô thuật lại và thúc giục phải tính toán thế nào một bề. Ông này yên ủi cô:
- Người yêu của tôi đừng lo, tôi đã xếp đặt đâu đó sắp xong rồi.
XXIV
Má hồng đến lúc phôi pha
Giữa buổi sáng hôm rằm tháng tám ta, cô Tư đang ngồi trong phòng giấy, tính toán sổ sách và bảo cậu Ngữ viết thơ cho các hiệu khách cân gạo ở Kẻ Sặt, Cẩm Giàng, Bến Hiệp v.v… thúc họ phải cân mau cho đủ số giao ước.
Vì mấy hãng xuất cảng ở Hải Phòng thúc cô thượng khẩn. Tình hình bên Âu châu đầu năm 1914 có vẻ rất găng. Nhiều cái dấu vết tỏ ra chiến tranh có thể bạo phát chẳng sớm thì muộn. Bởi vậy số gạo đặt mua, mấy hãng muốn có sớm để xuất cảng sớm hơn được ngày nào hay ngày ấy. Một khi chiến tranh đã phát ra tất là tuyệt đường vận tải giao thông.
Bỗng cô ngó ra ngoài cổng thấy một ông Tây vừa bước xuống xe kéo, người phu xe xách một chiếc va li to tướng vào theo.
Ông Tây mặc y phục sang trọng, đúng mốt tay cầm ba toong bịt bạc, gương mặt tuy gần đứng tuổi nhưng trên mép và cằm nhẵn thín không có sợi râu nào, mắt đeo kính đen che kín.
Cô Tư vội vàng ra tiếp, thấy khách vào thẳng sa-lông ngồi xuống tự nhiên không cần phải mời, cử chỉ rõ là một người quen biết thân mật; ông ta nói tiếng An Nam:
- Chào bà lớn mạnh giỏi.
Chủ nhân có vẻ ngơ ngác không nhớ ra khách là ai. Trong trí đồ chừng đó là một người ở hãng dưới Phòng lên thôi thúc việc gạo cho nên cô nói:
- Chắc hẳn ông ở hãng Denis Frères dưới Hải Phòng mới lên. Ấy tôi cũng vừa mới viết thư đi…
Không để chủ nhân nói hết lời, khách vội gạt ngay bằng một nụ cười và nói:
- Bà lớn quên tôi thật sao?
Trong khi khách cười, cô Tư nhìn thấy hàm răng xinh đẹp, miệng cười như hoa, liền nhận ngay ra khách là ai vì cô đã từng yêu mê, hôn hít cái miệng tươi, cái hàm răng đẹp ấy mãi. Cô vùng cười rũ lên như nắc nẻ; chạy ngay lại bên khách, lật kính đen xuống rồi hôn vào má vỗ vào vai:
- Rõ nỡm chửa? Mông sê ri (mon chéri) mà tôi ngơ ngẩn, tưởng là ông khách lạ nào!
- Giờ cô đã nhận ra người quen rồi đấy.
- Chứ sao! Cái miệng với hàm răng con trườu này (cô vừa nói vừa tát yêu) có trộn đi đâu cũng không lẫn. Sao hôm nay lại vẽ trò đổi lốt ăn mặc khác hẳn thế này? Bộ râu xồm đâu mất rồi?
- Cạo tuột nó đi rồi.
- Còn áo thâm?
- Cũng bỏ xó, từ nay không dùng nó nữa.
…?
- Nghĩa là tôi bỏ chức đạo sĩ trở về thường nhân để chúng ta được tự do yêu nhau.
- Thế thì còn nói gì nữa, tôi sung sướng quá.
Cô vui mừng líu tíu, cất tiếng gọi cậu em nheo nhéo:
- Ngữ ơi, Ngữ! Mau ra chào ông thầy tu anh rể mới của cậu đây này.
Rồi cô cười ngắt nghẻo dặn tiếp:
- Chốc nữa cậu nhớ nhắc chị đi mua cái áo the La Khê thật tốt để cho lão thầy bói ở cây đa Cửa Quyền nhá.
*
* *
Các ngài đoán ngay là cố Hồng.
Ai cũng biết tôn giáo Thiên Chúa rất trang nghiêm đứng đắn, không khi nào dung túng một việc làm bất chính, không khi nào tha thứ một con chiên ghẻ.
Việc cố Hồng tầm ngầm phá giới là một việc lỗi đạo rất nặng, bề trên không thể dung thứ. Trước còn khôn ngoan bưng bít miệng bình, nhưng tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa, các đấng bề trên nghe lọt vào tai và xét rõ sự thực, lập tức gọi cố Hồng lên quở trách, buộc phải ăn năn chữa lỗi.
Nhưng ông ta bị quỷ Sa tăng cám dỗ, dìm xuống bể tình lút mất cả chỏm rồi, không sao ngóc lên được nữa.
Cần giữ thể thống và trật tự nghiêm chỉnh, đấng bề trên công giáo bắt buộc phải lột chức của ông và truất ra ngoại đạo.
Thế là ông cạo phăng chòm râu và cởi áo hoàn lương, tự do đi theo tiếng gọi của trái tim, không còn phải lén lút như trước.
Từ đấy, ông đóng đô ở nhà ngõ Hội Vũ.
Hai Hồng nghiễm nhiên là vợ chồng.
Cô Tư được như nguyện.
Muốn phân bua giới thiệu tân lang với các thân bằng cố hữu, cô đặt một đám tiệc rất to, không ngại tốn kém.
Lạ thay! Thiếp mời gửi đi, kê tên vừa đúng 120 quan khách nhưng đến buổi tiệc vẻn vẹn chỉ có 26 người đến dự, không kém không hơn. Trong số ấy, phần đông là mấy bà cụ già nửa tỉnh nửa quê và mấy anh giàu lỏi, tuyệt nhiên không có tay nào là đại biểu Hà thành hoa lệ hay phiệt duyệt như đám tiệc nhà cô những lần trước.
Một chỗ trống trải cho người ta dễ thấy nhất là bữa tiệc hôm nay chẳng có lấy một ông Tây bà Đầm nào đến, người ta nhớ về trước, mỗi khi “Madame cô Tư” thết tiệc thì quan khách Âu Tây chiếu cố rất đông. Có những ông bà chủ hãng ở tận Hải Phòng cũng vui lòng bạt thiệp lên Hà Nội dự tiệc nhà cô rồi một hai giờ khuya mới lên đường về.
Không hiểu sao lần này chẳng ai giao hẹn với ai mà chẳng ai thèm đến.
Hình như có một lẽ gì thiêng liêng, chắc nó là nhân tâm, thiên lí – tự nhiên mỗi người đều nghĩ đến mà tránh mặt bữa tiệc ấy chứ không cần ước hẹn với nhau.
Cô Tư buồn ngấm buồn ngầm, cay đắng trong ruột nhưng bề ngoài vẫn gượng nói gượng cười.
Cô Tư biết thế là xã hội kết án mình rồi.
Chỉ sướng cho lũ gia nhân bộc dịch và tất cả bè bạn con sen, cậu nhỏ của họ được hưởng một bữa cỗ nguyên lành, thật là say sưa bừa mứa mà vẫn không hết. Vì thừa ngót một trăm phần ăn kia mà.
Dù sao mặc lòng, bà me tây già với ông đạo sĩ phá giới ấy cũng đã đường hoàng trở nên một cặp vợ chồng, bất chấp cả dư luận thị phi.
Nhưng xã hội đã kết án họ thật.
Cứ nói theo lẽ thuận thì hai người ấy xây ổ tình ái nhân duyên với nhau kể thật phải đôi và cùng có ích lợi.
Cô được người giúp đỡ công việc, được người làm bạn cảnh già, được hưởng cái lạc thú chồng một, vợ một cùng nhau chia vui sẻ buồn. Thiên hạ chắc hết chê cô không có chồng, hết nói vụng rằng cô quá lãng mạn hoang đàng nên không ai thèm lấy. Cảnh già sẽ thêm đầm ấm vui vẻ, nếu như trời Phật ban phước cho một vài mụn con, biết đâu.
Còn ông, sự độc chiếm một quả tim bọc vàng ở Hà thành và được chỗ chắc chắn dung thân sung sướng, chẳng phải nói gì, ông muốn lợi dụng lưng vốn dồi dào của vợ để vùng vẫy kinh doanh và làm nên giàu có gấp năm gấp mười. Của vợ công chồng, bề nào mai sau mình hẳn được hưởng trong ấy một phần.
Hai cảnh ngộ ngược dòng đã ráp liền họ lại, cho họ yêu nhau vì tình ái đã đành mà lấy nhau vì lợi lộc cũng có.
Bởi vậy ngay từ hôm ông “vu quy” về nhà vợ, cô liền đem lòng tin cậy, nể nang và chiều đãi rất tử tế, giao phó nhất thiết công việc. Ông đóng đủ vai tuồng: bạn năm canh, chức thư kí, nhà ngoại giao, có lẽ rồi là một người thừa hưởng sản nghiệp lớn lao của bà họ Trần nữa.
Cứ thế mà cứng cánh gió xuôi mấy chốc họ chẳng bay lên nóc đài triệu phú.
Song đạo trời công bằng lắm, chẳng hề cho ai được thừa ra đằng này mà không trừ bớt đàng kia. Không thế thì bao nhiêu hạnh phúc trên đời bọn giàu sang đều vớ hết.
Lẽ thừa trừ ấy, người ta thấy ứng hiện ở khoảng đời áp chót của cô Tư Hồng.
Cũng có lẽ – Số mệnh mượn lấy một cớ để xô lần má hồng vào góc tường phôi pha mạt vận.
Từ ngày cô lấy chồng mà chồng ấy lại là một nhà tu hành phá giới, cô thấy người đời đối với mình có vẻ lạt lẽo. Chẳng những họ đã không niềm nở vui mừng giùm cô lấy chồng lại còn tỏ vẻ chê bai khinh rẻ cô ngay ở chỗ đó.
Cứ xem họ kết án cô bằng sự lẳng lặng trốn tránh bữa tiệc tân hôn của cô cũng đủ biết.
Hồi nào cửa ngõ sớm tối tấp nập ngựa xe, đông đúc quan khách đến nỗi chủ nhân phải mệt nhoài về sự thù tiếp, thế mà bây giờ mỗi ngày thấy thưa dần, vắng dần.
Hình như cửa nhà cô có vi trùng ôn dịch khiến họ phải ghê sợ, kiêng cữ không đến.
Nhất là hạng Âu Tây thì vắng biệt tăm bóng.
Có thể nói theo tiếng thông tục là người ta từ cửa cô, không chơi với cô nữa.
Thì ngay đến cuộc buôn bán làm ăn lúc nào tài lợi như chạy sấn sổ vào nhà, giờ cũng lần hồi kém sút trông thấy.
Lạ gì một khi tòa nhà đã núng thì gió thổi tất cả cột kèo rui mè đều nghe kêu lắc rắc.
Chỉ cách đâu độ một tuần sau khi ổ tình vừa mới ấm chỗ, cô Tư tiếp được bức thư đảm bảo của một hãng đại xuất cảng ở Hà thành gửi lại. Cô bảo ông chồng xem hộ rồi giảng dịch ra tiếng An Nam rành mạch như vầy:
- Thưa bà,
“Bản hãng rất lấy làm tiếc xin thưa để bà biết cho rằng: vì một lẽ riêng, công việc hôm nọ bản hãng chủ nhân bắt đầu thương lượng phú thác cho bà nay không thể tiếp tục được nữa.
“Vậy xin bà vui lòng coi câu chuyện ấy như là không có gì cả.
“Vân vân…”
Công việc thương lượng là công việc gì?
Thì ra cách vài tuần lễ trước, hãng xuất cảng ấy đã mời “Madame cô Tư” đến thương lượng và ăn giá với cô năm vạn tạ bắp ngô trắng và bốn vạn tạ sơn Phú Thọ để họ chở về bên Tây. Chỉ còn đợi họ đánh máy tờ hợp đồng cho cô kí tên vào là xong.
Bỗng dưng hôm nay hãng viết thư giãn ra, không để cho cô gánh vác mối hàng khá bở ấy nữa.
Cô tính xoàng trong trí, mất mối hàng béo bở này cô hụt ăn ngon lành hai vạn rưỡi đồng bạc lãi là ít.
Một việc xui xẻo.
Các ngài hẳn nhớ mọi khi “Madame Cô Tư” thường được đắt lời, cả nể với các hãng lớn thế nào. Ví dụ đến ngày kì hạn mà số gạo bắp giao nạp không đủ – có lần thiếu hẳn một vạn tạ trong số ba vạn tạ kí trong hợp đồng – hay là chậm trễ hàng tháng chưa cân đủ gạo cho hãng thì cứ chiếu giao kèo, với trường hợp trên đáng lẽ mất không số gạo đã giao nạp chẳng được tính tiền, còn trường hợp dưới thì cứ tính mỗi một ngày chậm trễ là phải phạt một vài trăm hay dăm ba trăm, một nghìn tùy theo hai bên kí ước gắt gao ràng buộc nhau.
Nhưng cô Tư chỉ thân hành đến tận ông chủ hãng bắt tay một cái, cười cười, nói nói vài câu thế là xong việc ngay chớp mắt. Cô chẳng phải đền, phải phạt một trinh nào hết.
Cái ngày “miệng nói có duyên” ấy đã qua, đã biến mất rồi.
Bây giờ với vụ 30 vạn tạ gạo của hãng Denis Frères dưới Hải Phòng, cô Tư giao trễ hết 24 ngày hãng cứ tính chẻ hoe mỗi ngày chậm trễ là phạt 500 đồng mà trừ phăng vào tiền gạo của cô. Chính hãng ấy đã từng nể nang tha phạt cho cô mấy lần, nay họ thẳng tay không chịu nhân nhượng. Cô thân xuống Phòng năn nỉ ông chủ hãng cũng vô công hiệu. Cái đầu ông chủ hãng ấy hồi nào gật lia gật lịa ở trước nụ cười, tiếng nói của cô Tư thế mà hôm nay nó chỉ ngoảnh đi và lắc mãi.
Vụ này cô thiệt mất đứt một vạn hai nghìn đồng cay đắng.
Hai việc xui xẻo.
Thuở giờ có buôn bán chỉ trông nhờ giao dịch với các hãng Tây mà làm nên cơ nghiệp giàu có, ngày nay họ từ chối cô, xô đẩy cô, hoặc vì cách nọ hoặc kiếm cớ kia.
Như một cái mỏ vàng, cô thấy cửa miệng nó dần dần thu nhỏ lại rồi lấp kín mất.
Cho đến những hiệu cân gạo cho cô ở các tỉnh lâu nay cũng thấy bơ thờ trễ nải, sở dĩ cô bị hãng phạt một vạn hai nghìn đồng chỉ vì các hiệu kia đong chậm gạo cho cô nên cô nộp chậm cho hãng. Những tư nhân hay cửa hiệu còn mắc nợ cô, kẻ ít người nhiều không hiểu sao bây giờ họ cũng lần khần, chẳng trả.
Bao nhiêu việc không may dồn dập và xúm lại giày vò cô, hất hủi cô.
Cô bảo xã hội kết án mình là thế.
Vì sao?
Nhân tâm tức là nơi phát biểu của thiên lí. Người ta trở lại chê cười cô, ghẻ lạnh với cô đến nỗi kết án cô bằng cách đoạn tuyệt giao du thương mại, chắc hẳn chỉ vì thấy cô đã cám dỗ một nhà tu hành phá giới về làm chồng mình. Thật ra có lẽ nhà tu hành ấy cũng cám dỗ cô nhưng người ta không biết. Người ta kết án cả đôi nhưng trách móc cô nhiều hơn.
Ta nên biết phần đông người Âu Tây rất là mộ đạo; trong ấy thiếu gì bực quyền hành hay chủ hãng buôn lớn. Hèn nào họ không lạnh lẽo giao thiệp với cô, bày tỏ ra bằng sự không thèm dự tiệc tân hôn và biệt cửa lui tới. Các chủ hãng cũng không điên khùng gì cho cô những mối hàng kiếm lãi bạc nghìn bạc vạn để cô cung phụng một người phá giới!
Những việc rủi ro thiệt hại kia khác mà cô đang chịu đều là cách hành phạt của thiên lí đã mượn nhân tâm làm ngôi mà phát lộ ra.
Cô thấy rùng rợn đau đớn.
Mà những két sắt, nhà lầu, kim cương, cổ vật bao bọc quanh mình đều không có sức che đỡ hay làm cho cô lãng quên.
Té ra trước khi chưa lấy chồng, cô cảm thấy mình cô độc, bây giờ lại càng cô độc hơn.
Con người có nghị lực sắt đá ấy, bị cảnh ngộ éo le nung đốt phải mềm nhũn, một hôm đang ngồi bên ông chồng, suy nghĩ thấm thía thế nào rồi bưng mặt khóc rưng rức:
- Sao đời họ độc ác quá, họ xúm nhau lại mà dằn vặt mình. Nông nỗi thế này thì ở Hà Nội mình hết cách làm ăn buôn bán gì được. Lại ngồi mà nghe họ mỉa mai và nhìn bộ mặt họ khinh khỉnh mãi, thì cho đến tim gan bằng sắt cũng không chịu nổi. Phải tính làm sao chứ?
- Không muốn ở Hà Nội thì ta đem nhau đi xứ khác kinh doanh vùng vẫy, cứ vật lộn với số phận đến keo cuối cùng tất mình phải thắng, đừng lo.
Ông chồng trả lời một cách bình tĩnh tự nhiên.
XXV
Vợ chồng dắt nhau đi Cao Miên
Hai vợ chồng bàn tính với nhau cả buổi rồi đồng ý tạm bỏ Hà thành đi ở biệt xứ khác buôn bán để cho thời gian xóa dần dư luận ác cảm sẽ trở về.
Dư luận có lúc độc dữ nghiêm khắc, song nó lại có tính hay quên.
Nhưng đi đâu cho phải bây giờ?
Theo ý cố Hồng, muốn đi biệt sang Tàu ở Hương Cảng hay Thượng Hải, không thì sang ở bên Xiêm, Tinh Châu tùy ý miễn là tếch xa cho khuất mắt. Vì ông tự biết chính mình là cái bia đàm tiếu ở Hà thành và bị người đồng bang ghét bỏ và bà vợ vì tình phải chịu vạ lây nên ông chẳng muốn quyến luyến ở đây một tí nào.
Đi mấy xứ kia, thà bảo rằng mình phiêu lưu với hai bàn tay trắng thì mới phải lo ngại cho sự sống ở chốn tha hương. Đằng này mình có nhiều tiền, đem mươi lăm vạn bạc sang mở hiệu bán các thứ kĩ nghệ của xứ Bắc như đồ đồng, đồ thêu, đăng ten và nhiều món sản vật khác thì sự phát đạt có thể cầm chắc trong tay.
Ông chồng ngồi gảy con toán trong óc cho như thế là đúng lắm đấy.
Có điều xuất dương xa hẳn đồng đất nước nhà thì bà vợ lắc đầu không muốn:
- Thế còn cửa nhà, phố xá, quê hương, giỗ tết, mồ mả ông bà, bảo tôi trút những gánh nặng ấy cho ai mà cũng không có ai thân mật để mình có thể ủy thác được. Cậu em và các cháu còn khờ dại cả lũ…
- Thôi thì chúng ta tìm chỗ đi quanh trong cõi Đông Pháp này vậy.
Cô Tư tán thành vì thế mới được thuận tiện gần nhà cho cô thỉnh thoảng chạy đi chạy về trông nom cửa nhà, thăm viếng mồ mả.
Xuống Hải Phòng?
Không tiện, vì nó gần Hà Nội quá và nó cũng đồng tình nghiêm khắc với vợ chồng nhà cô y như Hà Nội vậy, thà cứ muối mặt ở lì lại đây mà chịu trận còn hơn.
Vào Huế?
Cũng không được. Sông Hương núi Ngự, cô Tư đã thừa biết chỉ là một cảnh hữu tình cho làng thơ và khách du lịch, không phải nơi có thể kinh doanh thương nghiệp gì to lớn. Đi đâu thì đi, chứ cô vẫn muốn buôn bán đồ sộ, đâu phải chỉ cầu buôn lấy đủ ngày hai bữa và nộp thuế môn bài. Cà cuống gần chết đến đít vẫn cay như thường.
Duy còn Cao Miên và Sài Gòn nên lựa chọn lấy một.
Cô Tư muốn vào Cao Miên.
Cô bảo xứ ấy cũng người “đàng thổ” đang lúc nhất sơ khai thác, tất dễ buôn bán làm ăn, vả lại không làm gì có đông người đồng châu mà bảo họ ngồi lê đôi mách đi kháo chuyện riêng của mình.
Nhưng muốn cẩn thận, cô phải chịu khó viết thư vào hỏi thăm tình hình trước đã.
*
* *
Cô ba La Vích, chỗ bạn chí thân mười mấy năm trước đã có công ơn giáo hóa, mối manh cho cô Tư trở nên me tây và nhờ đó mà tấy lên đến thế nào, ý hẳn chư vị độc giả còn nhớ.
Cái đời me tây nghĩ cũng hay: lắm cô làm mối cho chị em vớ được chồng sang đáo để mà đến chính thân mình thì số phận lại bắt vất vả, lẻ loi “chổng mông mà gào” cũng không có.
Ngay cô ba La Vích đấy, sau khi mối lái giùm bạn lấy được quan tư Garlan rồi, ít lâu ông chồng cô về Tây, cô muốn tìm chồng khác để nương thân mà số phận cản trở không cho. Nhiều đám đi lại mối manh, hồ nên lại hỏng. Cô phải một độ “ở góa” như thế đến bốn năm dư, tình cảnh túng bấn hết sức. Nước sơn nghèo nàn làm mốc thếch cả phấn hương, võ vàng cả da thịt, cô không còn thể làm me tây được nữa. Mãi sau mới gặp một ông cai máy đèn đưa nhau vào Cao Miên làm ăn khó nhọc luôn mấy năm trời. Vợ chồng khéo nhúm rau, nhúm bếp mở ra được một cửa hiệu nho nhỏ ở Nam Vang, chuyên sửa quạt máy và đèn điện. Nghe nói cô Tư có nghĩ lại tình cũ nghĩa xưa mà gửi giúp cho bạn vài trăm bạc vốn.
Giờ hai vợ chồng làm ăn đã khá có cơ tấn phát, vững vàng. Cô thường viết thư hỏi thăm cô Tư và xa trông con điều hạnh vận của bạn càng ngày càng lên bổng mây xanh để tiếng sáo phú quý phong lưu đưa vẳng mãi đến tận bên tai cố nhân đang lận đận ở chân cổ tự Đế thích. Còn chuyện tình duyên rắc rối của bạn mới đây, hẳn cô chưa biết.
Cô Tư viết cho bạn, hỏi qua đường đất buôn bán ở Cao Miên và ngỏ ý muốn vào mở một hiệu bán hàng Bắc ở Nam Vang, liệu có được không?
Gần một tháng sau, cô mới tiếp được phúc thư của bạn, một tiếng bà, hai tiếng bà, không xưng hô chị chị, em em như ngày trước. Có lẽ cô Ba suy nghĩ cảnh ngộ hai bên đã quá biến thiên, vả lại bạn mình lại có phấn vua trang điểm nữa. Nguyên văn bức thư như sau này:
“Thưa bà,
“Lá thư của bà cho tôi cái cảm giác như bắt được lạng vàng.
“Tôi vội vã phúc đáp kẻo bà mong đợi sốt ruột
“Nếu như đã chán cảnh Hà Nội phồn hoa, bà muốn vào Cao Miên buôn bán là sự nên làm.
“Xứ Cao Miên có rừng vàng, biển bạc mà bây giờ người ta mới bắt đầu khai phá.
“Định buôn cá sống, cá khô thì vào Biển Hồ, người ta mỗi năm khuấy nước hồ này kiếm lợi biết mấy trăm vạn. Có một ông lái cá người mình được triều đình Cao Miên thưởng hàm thượng thư.
“Định buôn các loài gỗ quý thì vào ở Bất Tầm Boong. Xứ này có gỗ với cá là hai nguồn lợi to nhất
“Còn như muốn đem hàng Bắc vào mở hiệu thì nên ở ngay kinh thành Nam Vang. Nhà nước đã cắm đất và lấp kinh, đang mở mang thành phố càng ngày càng rộng lớn.
“Dân đàng thổ không biết buôn bán. Bao nhiêu thương lợi đều ở trong tay người Hoa kiều. Cửa hàng hiệu Tây cũng đã mở nhiều. Còn người xứ Bắc mình thì lơ thơ không mấy. Gọi là hàng Bắc chỉ có một hiệu Đại Thịnh của cụ Cử Can ở đường Quai Piquet là to nhất. Cụ bị an trí vào đây mấy năm nay, nhân tiện kinh doanh thương nghiệp xem ra phát đạt lắm.
“Đường đất còn rộng thênh thang, mối lợi không thiếu gì, một người can đảm tài năng như bà thì Cao Miên là trường hoạt động rất tốt, bà cứ vào đi. Buổi đầu có sự gì cần dùng sai bảo, người bạn cũ sẽ không hề từ nan.
“Kính chúc v.v…
“Cô Ba La Vích”
Nhận được thư bạn hôm trước, hôm sau cô Tư liền sắp đặt việc đi.
Vào khoảng đầu tháng ba năm 1916, hai vợ chồng đáp tàu “Orénoque” vào Nam, sau khi đã làm phép cưới với nhau cho chính danh nghĩa.
Phép cưới làm tại dinh Đốc lí Hà Nội, mỗi bên chỉ có mấy người bạn thân dự lễ và làm chứng. Một đám cưới rất thân mật và giản dị. Có thể nói là buồn tẻ như muốn giấu cả thiên hạ. Cố nhiên không làm lễ ở nhà thờ và cũng không bày vẽ tiệc tùng gì hết. Cho đến người chứng hôn bên cố Hồng cũng là người An Nam mà cô Tư viện trong mấy ông bạn quen đi giùm. Chẳng có một người Âu Tây nào lại đi chứng hôn cho một nhà tu hành phá giới bao giờ.
Vả lại, cô Tư chiều ý muốn của ông chồng mà làm phép cưới cho tắc trách thế thôi. Bản tâm cô không muốn. Vì nghĩ không cần và cũng không có ích lợi gì. Con người lõi đời ấy đã có lần nói chuyện tâm phúc với một chị em sắp sửa nhập tịch làng me tây:
- Bày vẽ cheo cưới làm quái gì! Vợ chồng ăn ở với nhau quan hệ ở tấm lòng hơn là ở tờ giấy. Có hôn thư mà họ chẳng cắm sừng trên đầu nhau hàng tá rồi không ruồng bỏ nhau như vứt chiếc áo rách đấy ư? Thật lòng thương yêu thì chẳng cần hôn thư cũng ở với nhau được suốt đời. Nhất là nếu mình có của riêng càng không nên dại vì anh chồng tham lam có thể lợi dụng giấy tờ cheo cưới để xài phá, xâm đoạt của mình. Thà cứ thuận mua vừa bán, hay ở dở đi, lấy chồng như thể mua hàng vậy.
Bởi thế, lần này cô chỉ làm phép cưới để khỏi trái ý chồng. Nhưng về mặt hộ thì hai người lấy nhau theo luật phân sản. Ai có sản nghiệp riêng tự quyền người ấy chủ trương định đoạt, không được xâm phạm của nhau.
Điều ấy hình như cố Hồng lấy làm phật ý vì ông muốn trọn quyền làm chủ cái sản nghiệp của vợ kia.
Cô Tư khôn ngoan yên ủi:
- Của vợ tức là của chồng, sớm muộn thế nào tôi cũng phải giao quyền cai quản cho ông mà. Bây giờ chúng ta hãy lo việc đi Cao Miên đã.
Hai vợ chồng vào đến Nam Vang, trước khi bắt tay vào việc còn chịu khó xem xét tình hình kĩ lắm.
Không hiểu cô Tư suy nghĩ thế nào lại đổi ý: không mở cửa hiệu chuyên bán hàng Bắc như chủ kiến đã định ở nhà.
Ông chồng một hai nài nỉ làm công cuộc khác mà ông tính hoạch lợi rất to: nấu rượu. Ý chừng nhà tu phá giới muốn tấp tểnh làm một ông Phông-ten ở đất Cao Miên.
Cũng chiều ý chồng, cô Tư xuất vốn năm sáu vạn bạc mua lại một lò nấu rượu của người khách trú có đủ khí cụ máy móc và sẵn cả mối hàng.
Họ không ngờ đã hí hửng bước chân vào cửa tử.
Chế độ nấu rượu ở Cao Miên thử thời đại khái cũng như ở xứ Bắc ta mấy lâu nay, nghĩa là không có độc quyền. Ai có vốn được lập công ty, mở nhà máy nấu rượu bán tự do miễn là đúng phép và trước khi phát hành phải có nhà Đoan xem xét đánh thuế.
Các công ty khác tha hồ cạnh tranh với hãng Phông-ten. Rượu ai nấu ngon hơn thì đông khách đắt hàng, dở thì lỗ vốn đóng cửa.
Ở đất Cao Miên mấy chục năm trước vẫn thế. Tình trạng y như ở Nam kỳ.
Ngoài rượu của hãng Phông-ten – người ta quen gọi là rượu công xi – còn có nhiều hiệu khác do những lò rượu khách trú nấu ra.
Họ rất trường lưng sẵn vốn, số rượu xuất sản nhiều, nấu ngon, bán rẻ. Lâu ngày, uống quen mùi vị đi rồi, thân chủ của họ cũng gần như khách nghiện thuốc phiện của nhà Đoan. Sức tiêu thụ rất mạnh, nhờ người đồng bang họ cổ động giúp nhau. Khắp xứ Cao Miên và Nam kì, không một đầu làng xó chợ nào chẳng có dăm ba hiệu khách. Đấy là những cơ quan sẵn sàng để truyền bá và tiêu thụ cho họ, lời rao trên báo nào cũng không thể địch lại được.
Thành ra những lò rượu khách tuy không có độc quyền của pháp luật nào cho nhưng thật sự họ vẫn độc quyền về thực tế, về khách quen, về kinh nghiệm lâu năm.
Vì thế mà hồi nào tới giờ, ta không hề thấy người bản xứ ở Cao Miên hay Nam kì mở lò rượu cạnh tranh với lò rượu khách trú vì trong cuộc cạnh tranh ấy mình chắc thua trước.
Phải biết lúa gạo là lúa gạo của mình nhưng họ mua, họ lập nhà máy xay, họ giữ trọn quyền bán. Mình mở lò rượu, gạo là nguyên liệu cần nhất, họ làm cho khó mua hay phải mua với giá đắt cũng đủ nguy rồi.
Rượu mình nấu ra, họ bảo nhau không dùng hay giữ ở các hiệu tạp hóa và họ cứ để mốc nguyên vị không giới thiệu và bán hộ cho cũng khốn.
Vợ chồng cô Tư sang Nam Vang không xét đến nơi những cái thực trạng éo le ấy nên hấp tấp bỏ tiền ra mua lò nấu rượu, tưởng đâu mình có vốn thì làm gì cũng nên và tự chắc rượu mình nấu ra cũng bán chạy như họ.
Từ giữa năm 1916 đến cuối năm 1918, lò rượu của cô Tư kinh doanh chật vật được già hai năm rồi đành phải bán lại cho khách với giá rất rẻ.
Việc thất bại này làm ruột tượng cô Tư hao hết ba bốn vạn là ít.
Trong thời gian làm rượu, vợ chồng cô hục hặc gây gổ nhau luôn vì nỗi ông chồng đứng chủ không được phân minh về việc tiền bạc sổ sách.
Nhiều món tiền thiếu hụt đi đâu mất một cách vô cớ vô tang.
Thì ra đức lang quân đã khéo làm trò quỷ thuật cho nó chui vào trong hầu bao riêng.
Cô Tư cay đắng như ngậm quả bồ hòn nhưng muốn nhổ ra không được.
XXVI
Đánh ván bài cuối cùng lại bị thua
Lỗ vốn hết mấy vạn bạc, cô Tư vừa buồn vừa tức.
Từ lúc ra đời, một tay tháo vát gây dựng nên cơ đồ sự nghiệp giữa đất Hà Nội mấy chục vạn cô chưa hề biết một sự thất bại nào.
Cái tay ấy chỉ thu bạc nghìn, bạc vạn của thiên hạ thì có chứ chưa hề để hồ bao rơi lọt đi mất một xu nào gọi là lỗ vốn.
Lần này thất bại là lần thứ nhất.
Mà lại bị một vố nặng.
Lại thêm một nỗi ưu phiền nữa là cô để ý xem xét tâm tình cử chỉ của đức ông chồng, thấy ăn ở với mình nhiều chỗ không tốt.
Mấy năm làm rượu ở Cao Miên, ông ta được giữ quyền hành tiền bạc trong tay đã lạm dụng lòng tin của vợ để ăn tiêu xài phá, trai gái mèo mỡ ra phết. Có kẻ mách cô Tư rằng ông có nuôi một hai ả gái non ở riêng nhưng cô làm thinh không muốn sinh sự.
Mỗi khi có dịp nói chuyện về vấn đề chung thân, ông khéo đem những lý luận lợi hại, với giọng nói như thật thà, rủ rỉ, tán tỉnh bà vợ nên sang tên tất cả cơ nghiệp cho ông trông nom sinh lợi.
Việc ấy ở giữa vợ chồng, đề cập một đôi lần có thể là câu chuyện tự nhiên, nhưng mà nhắc đi nhắc lại mãi nghe như nóng nảy, thiết tha thì một người khôn lỏi như cô Tư sao khỏi nghi ngại, suy nghĩ.
Lần lần, cô thấy rõ tâm lí ông chồng đối với cô chỉ vì của cải, không vì ái tình.
Hay là cốt mượn bàn tay ái tình để chụp lấy của cải cho dễ.
Bởi vậy từ đấy vợ chồng bề ngoài vẫn niềm nở như bát nước đầy nhưng bề trong cô để tâm phòng bị từng li, từng chút.
Con người đã bao phen chứng tỏ ra có một tâm hồn cứng cáp, không mấy khi yếu ớt phải nhỏ nước mắt vì sự đời, thế mà bây giờ có lúc ngồi nói chuyện tâm sự với bạn cũ là cô ba La Vích – hiện giờ là vợ ông chủ một hiệu đèn điện – cô Tư nghĩ thấm thía thế nào đến nỗi phát khóc. Khóc rồi Kiều lẩy:
Trót vì tay đã nhúng chàm,
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây?
*
* *
Sau khi thanh toán lò rượu ở Nam Vang xong, vấn đề đi hay về đã gây nên một trận phong ba nho nhỏ giữa hai vợ chồng. Vì ông muốn về gần chỗ mục đích gia sản của vợ mà ông đang dòm nom để mưu mô vận động cho được phần dễ hơn. Còn bà thì chưa muốn trở về nơi mình đã bị mai mỉa.
Vả lại tự mình đánh thấp, thua đau một canh bạc mấy vạn ở xứ người thì phải đánh một hội khác nữa để gỡ lại chứ.
- Giờ chúng ta trở về Hà Nội… lời ông nói.
- Trở về Hà Nội làm gì?… bà hỏi.
- Âu châu chiến tranh thế là xong rồi (hồi này, nhằm tháng Décembre 1918), mọi việc kinh tế công thương lại khôi phục như cũ, trường hoạt động ở Hà Nội rộng rãi đã quen cho mình, về đấy mà hoạt động chẳng hơn sao?
- Tôi chịu thôi. Ông muốn về Hà Nội thì về một mình, để tôi ở lại đây buôn bán ít lâu nữa sẽ hay.
Ông chồng lẳng lặng, cô Tư nói tiếp:
- Phen này tôi xuống Sài Gòn mở một hiệu bán hàng Bắc…
- Định dọn ở phố nào?
- Ở đại lộ Catinat, tôi đã nhờ người ta thuê nhà hộ rồi.
- Thế à!
- Tôi sẽ thuê một ngôi nhà riêng ở đường Espagne hay Mac Mahon để vợ chồng mình ở.
- Chúng ta ở ngay cửa hiệu chẳng tiện việc và đỡ tốn hơn sao?
- Tốn cũng phải chịu vì căn nhà ở đường Catinat, trên gác sẽ để chứa hàng không thể ở được. Vả lại tôi cốt thuê nhà riêng để ông nghỉ ngơi biệt tịch vì ông đã làm công việc vất vả hai năm rồi, giờ ông có quyền tĩnh dưỡng ít lâu. Chuyến này việc buôn bán để mình tôi trông nom, ông không phải bận lòng đến.
- Một mình cô trông nom sao xuể? Nhất là sự giao thiệp và sổ sách tiền bạc.
- Điều ấy ông không lo. Tôi đã từng giao thiệp với các hãng lớn và đếm tiền vạn quen rồi! Cần người coi hàng giúp việc, tôi đã viết thư gọi mấy người bà con ngoài Bắc vào.
Tất nhiên cố Hồng thừa hiểu chỗ mình dụng tâm đã hơi bị mụ vợ tinh ranh soi thấu ít nhiều rồi. Nhưng ông không hề để lộ ra nét mặt một lằn, một nếp gì thất vọng hay bất như ý.
Trái lại ông tươi cười vui vẻ khác thường, khen mãi bà vợ xếp đặt công việc như thế là phải, ôm chầm lấy vợ và tỏ vẻ yêu đương vô hạn, hôn lấy hôn để hai bên gò má nhăn nheo rồi vừa cười vừa nói:
- Bà đầm nhà tôi thông minh và tử tế hết sức có lòng lo nghĩ đến sức khỏe của tôi, ép tôi nhàn dưỡng một độ thế là phải lắm. Cám ơn! Cám ơn!
Nếu cô Tư quả người thông minh, chắc phải biết trong cái cười, cái hôn âu yếm đó đầy những gai góc.
Thế rồi ông bà thu xếp, cách mươi ngày sau, dọn xuống Sài Gòn.
*
* *
Quả nhiên cô Tư thực hành đúng theo chương trình đã định từ trước.
Thuê một căn nhà vừa phải ở cuối đường Espagne gần sở Bách thú, mát mẻ, thanh vắng làm chỗ ở riêng.
Tuy chẳng nghe nói ra, nhưng người ta xem ý tứ cũng biết bây giờ cô cung phụng lang quân để làm một cảnh dưỡng lão. Bề ngoài vẫn kính yêu mà bề trong thường phòng bị. Già rồi, thay chồng đổi vợ chẳng hay hớm gì. Thà chịu người ta trách mình cám dỗ một thầy tu còn hơn bây giờ bỏ đi, hẳn người ta sẽ chê cười nhiều hơn.
Cảnh dưỡng lão này mỗi tháng phải tốn kém mấy trăm đồng bạc cũng cam.
Ngày ngày ông chỉ có ăn chơi, xem sách, việc buôn bán của vợ, ông không được nhúng tay vào.
Cô Tư đã trù liệu từ trước, không sót việc gì; nào cậy người thuê nhà đóng tủ, nào đặt mua hàng hóa ở Hà Nội, nào nhắn vợ chồng cậu em với một bà thím họ vào giúp việc.
Thành ra ở Nam Vang xuống Sài Gòn chưa đầy một tháng đã có đủ mọi sự cần dùng để khai trương một cửa hiệu mới ở giữa đại lộ Catinat là con đường buôn bán vui nhất, đẹp nhất của kinh đô miền Nam.
Ngày nay các ngài vào chơi đất Sài Gòn mới được trông thấy nhan nhản những cửa hàng Bắc. Cơ hồ chẳng thấy một đường phố nào không có vài ba cửa hàng cửa hiệu của người đồng châu ta. Rất đỗi một quận nhỏ, một chợ nhà quê cũng có người Bắc mở hàng quán. Nói gì các bà đeo những bọc hàng tơ lụa nặng mấy chục kí lô ở sau lưng đi bán rong khắp miền thôn dã sơn lâm, ta tới một chỗ hẻo lánh thế nào cũng có thể nghe những tiếng người Bắc rao: “Mua hàng không?”
Nhưng ngoài hai chục năm trước, nghĩa là hồi cô Tư Hồng mở hiệu buôn bán, đang nói trong câu chuyện này, người Bắc mình vào Nam thương công kế lợi còn ít lắm.
Số cửa hiệu Bắc lúc bấy giờ chỉ lác đác như cảnh sao mai.
Nếu trí nhớ của chúng tôi không lầm thì suốt đường Catinat chỉ có một cửa hàng Bắc to nhất là nhà Đào Huống Mai chuyên bán đồ khảm, và đồ thêu, về sau con rể là ông Nguyễn Đắc kinh doanh chiếm luôn hai căn nhà, mỗi tháng tiền thuê hơn ba trăm bạc. Ngoài ra còn có mấy hiệu nhỏ nữa của ông Nguyễn Chí Hòa và anh em nhà họ Tăng rất phát tài về đóng giày làm mũ trắng và khắc con dấu đồng. Chỉ có thế thôi.
Phong trào cạnh tranh buôn bán với khách trú đã khởi lên trong nước ta hồi năm 1917, chắc nhiều người còn nhớ. Ấy chính từ hồi đó nội hóa được đồng bào ta cổ võ hoan nghênh. Các thứ hàng hóa của xứ Bắc sản xuất, nhất là the, lượt xuyến, lụa v.v… tiêu thụ vào Nam đến nỗi các cô chức nữ ở mấy làng La Cả, La Khê, phải “Con cò mấy máy suốt canh thâu” mà dệt cũng không đủ bán.
Cô Tư Hồng mở hiệu buôn hàng Bắc giữa lúc ấy thật là hợp thời đúng dịp. Làm gì chẳng kiếm được bạc vạn để gỡ lại cái lỗ ở Cao Miên.
Không ngờ người đến lúc vận đen, trước khi trốn chiếu, đánh một hồi bài sau chót cũng thua. Chẳng những không gỡ được canh bạc hôm qua lại còn thua thêm tiền túi một mẻ nữa.
Sự thật, cửa hiệu của cô buôn may bán đắt tính ra vẫn được lãi lời, nhưng vì mọi sự ăn tiêu chi phí nặng quá thành ra chung quy vẫn là lỗ vốn.
Phần vì hồi này cô đã bắt đầu thụ bệnh, rồi khi ra Bắc thuốc men, khi nằm lì ở nhà cả tháng mặc kệ người nhà trông nom, sao khỏi mất mát thẩm lậu.
Thế là buôn bán ở Sài Gòn vài năm cũng lại lỗ vốn.
Cô dẹp cửa hàng, dắt díu bầu đoàn về cố hương.
XXVII
Trước khi nhắm mắt ăn năn xin lỗi Chúa trời
Đống tiền của cô Tư nhờ tài riêng thu nhặt, xây đắp trong bao nhiêu năm lao khổ, kinh doanh, năm năm buôn bán không may ở Cao Miên và ở Sài Gòn đã thấy vẹt đi một góc khá lớn.
Vì ai cô phải thiệt mất những mối hàng lúa gạo là nghề nghiệp quen tay, lợi lộc sẵn có của cô?
Vì ai cô phải xa bỏ quê hương?
Vì ai cô phải buôn thua bán lỗ?
Những nỗi lưu li tổn hại đó, nếu được một cái tình chân thật của ai kia đền bù lại chắc mình cũng có thể vui lòng mà tự yên ủi. Nhưng đằng này cô lại thấy chồng cô không phải vì tình mà chỉ vì của. Biết bao phen, ông chồng dỗ dành tán tỉnh cô sang tên sản nghiệp, cô nghĩ mà chán ngán cho thế thái nhân tình. Tự biết mình dại thì việc đã muộn.
Đối với một người vừa tiếc của, vừa thất tình, con ma bệnh chỉ búng một cái cũng đủ ngã.
Năm 1921, cô Tư ở Sài Gòn ra Hà Nội chỉ vừa đủ thời giờ để leo lên giường bệnh nằm liệt.
Mà bệnh nguy hiểm: bệnh lao.
Con người có tiên thiên vạm vỡ khỏe mạnh là thế, trong tay lại sẵn tiền của tha hồ bổ dưỡng thuốc men nhưng sự lo sự buồn, sự bực tức đã mở rộng cửa ngõ cho vi trùng Kock vào đục khoét gan phổi thịt xương, chẳng mấy chốc mà khô héo tiêu mòn với nó. Tiền bạc có mua lại được tính mạng đâu?
Những thân bằng cố hữu đến thăm, trông cô mà ái ngại; với mỗi ngày một chập ho, một cơn sốt đi qua rồi, cô Tư vẫn có lúc tỉnh táo nói năng được ít nhiều, song cứ ăn vào là thổ ra, thịt da rút đi đâu rất nhanh chóng! Đâu còn là cái Lan chắc nịch, gánh rượu đi chợ Kim Sơn ngày xưa? Đâu còn là người lực lưỡng béo lăn, không hề biết bệnh tật là gì, đến nỗi chị em bạn đã đặt cho cái tên “một đống thịt sắt”?
Chung quanh giường bệnh, sớm tối đắp đổi không thiếu gì đông, tây danh y ở Hà thành và từ các tỉnh rước lên cũng có. Ông nào xem mạch rồi cũng lắc đầu thở ra tỏ ý thất vọng.
Một bệnh nan y. Một bệnh bất trị. Những Kỳ Bá, Lãn Ông ngày xưa và khoa học đời nay đều phải khoanh tay ngồi ngó.
Trong lúc ấy đức phu quân nhà cô làm gì?
Chẳng cần phải có máy đo tâm lí hay là cặp mắt thầy tướng, ai chỉ trông qua thần sắc ông thử thời cũng biết ông không lo thuốc men săn sóc vợ ốm cho bằng kí chủ băn khoăn về vụ gia sản của vợ.
Thì ra ông thầy tu này tham lam của cải thật.
Chỉ vì đồng bạc mà ông đành tâm lấy mình làm tấm bia cho mũi tên đàm tiếu của dư luận, phá giới và kết hôn với cô Tư. Vì ông rõ biết người đàn bà này không con mà ở Hà Nội lại có nhiều dãy nhà, trong tủ có nhiều giấy bạc. Của vợ chẳng là của chồng thì của ai?
Tuy nhiều lần gạ gẫm vợ kí giấy sang tên sản nghiệp cho mình đều bị vợ kiếm cớ thoái thác, hứa hẹn nhưng ông không ngã lòng chút nào. Ông quyết theo đuổi kì cùng để chiếm lấy cái tài sản to tát ấy.
Chưa biết nếu như chuyến này trở về Hà Nội mà cô Tư không ngọa bệnh thì ông sẽ giở ra những mưu mô và thủ đoạn gì để cho đạt mục đích. Rủi ro cho cô Tư về nằm liệt vị, ai buồn, ai lo mặc kệ, chính ông cho đó là một cơ hội rất may cho ông. Bệnh ấy thế nào mà thoát chết. Cô Tư chết tức là sản nghiệp của cô phải về phần ông hưởng tự nhiên.
Ông để hết tâm trí lo vụ sang tên cho dứt khoát và mau xong. Xem chừng cô Tư càng ngày càng đi gần tới nghĩa địa, không còn cách nào xa. Nếu để vợ chưa kịp kí tên mà nhắm mắt thì hỏng bét.
Bởi vậy, trong khi bà vợ nằm rên rỉ trên giường, mặc kệ các thầy lương y tận tâm cứu chữa, mặc kệ gia nhân phục dịch thuốc men, ông lần mò ra sở địa ốc xem tên bà Trần Thị Lan có những nhà cửa đất cát nào ở Hà Nội, lại ra ngân hàng dò la cho biết vợ còn gửi bao nhiêu tiền.
Một hôm, về buổi chiều thấy bà vợ hơi khỏe khoắn tươi tỉnh có thể nói chuyện được, ông liền đến bên làm bộ sờ trán cầm tay, ân cần thăm hỏi rồi đưa ra một tờ giấy biên sẵn mấy hàng chữ và nói:
- Cô chép y theo mấy hàng chữ này rồi kí tên vào dưới là xong. Giấy bút đây.
Cô Tư nhìn thấy viết mấy hàng chữ như vầy:
“Tôi để lại cho chồng tôi là M. Croibier Huguet, thừa tự tất cả của cải động sản và bất động sản của tôi.
“Tôi viết giấy này và kí tên trong lúc tinh thần rất tỉnh táo.
“Kí tên…”
Vừa đọc hết chữ sau cùng, cô Tư ngã bật ngửa trên giường, hai tay ôm lấy ngực, một cơn ho khúc khắc nổi lên, cô mệt nhọc quá gần như tắc hơi, bí thở.
Người nhà sợ cuống, tưởng là cô Tư giãy chết.
Cũng may đó chỉ là một cơn uất tức.
Dăm bảy phút sau, cô tỉnh lại mở mắt nhìn đức phu quân trừng trừng rồi khoa tay và nói được có hai tiếng:
- Hôm khác.
Trong ý cô muốn bảo chồng để hôm khác sẽ nói chuyện ấy cho mà nghe. Nhưng ông chồng tưởng là bảo hôm khác cô sẽ kí tên nên chỉ cách sau đó một hôm, cũng về buổi chiều, ông lại mon men đến bên giường bệnh tán tỉnh rồi thò cái giấy hôm trước ra.
Lần này, cô Tư tỉnh trí, cầm lấy tờ giấy xé vụn làm nhiều mảnh, vừa nói vừa nhìn thẳng vào mặt chồng:
- Ông cố tâm chiếm đoạt tài sản của một người đàn bà đến thế kia ư? Thế mà lúc mới gặp nhau, ông nói ông tu hành đạo đức chẳng thiết gì của cải thế gian…
Cô vuốt ngực cho nhẹ hơi thở rồi nói tiếp:
- Tôi nhớ không biết lần này là lần thứ mười mấy rồi ông gạ mãi tôi sang tên gia sản cho ông. Chắc ông nghĩ gái già này dại dột lắm, bảo gì nó chẳng phải nghe. Nó không dại đâu, ông ạ. Nói thật cho ông biết rằng nó đã phòng lấy thân rồi. Bao nhiêu gia sản nó cho người ta và mấy hội thiện hết cả rồi, có còn gì đâu nữa mà cho ông…
Cô nghỉ hơi, thoáng nghe ông chồng nói lẩm bẩm gỉ trong miệng có những tiếng… pháp luật… thưa kiện… Chắc ông hăm dọa sẽ đem vụ gia sản này ra tòa.
Cô nghiến răng, quắc mắt:
- Phải đấy. Tôi chết rồi, ông muốn sinh sự thế nào cứ việc, tôi khỏi phải giương mắt trông thấy tình đời đen bạc mà đau đớn ruột gan.
Ông vùng vằng đi ra không thèm hỏi han bệnh tình vợ nửa tiếng!
Mặc dầu đốc tờ hết lòng cứu chữa mà bệnh vẫn không chịu đầu hàng hay rút lui ít nào, cô Tư chắc hẳn tự biết đời mình sắp sửa đến lúc tàn cuộc.
Buổi sáng hôm ấy, tự nhiên cô bảo người vực ngồi dậy, uống được trên nửa cốc sữa. Nét mặt trông tươi tỉnh, hai mắt như có hào quang. Người nhà hơi mừng, cho là một điềm báo trước của sự bình phục.
Cô gọi cậu em ra ngồi nói chuyện một cách điềm tĩnh rõ ràng như người vô bệnh:
- Em ạ, ngày xưa ông cụ đẻ ra chúng ta bần khổ hàn vi lắm. Có lúc gánh con ngồi trong hai đầu thúng, lưu lạc sinh nhai hết xứ này đến xứ khác. Lúc chị lớn khôn cũng trải bao nhiêu nông nỗi gian nan rồi mới dựng nên cơ nghiệp thế này. Bởi chị khéo nhẫn nại, tính toán, bốc vác, tảo tần, từ một đồng xu cho đến một căn nhà đều tự tay mình buôn bán dành dụm mà làm nên chứ không phải cướp được của ai đâu. Lẽ nào để ai cướp được của mình? Nay chị để lại cho em tất cả tức là cho các cháu bé. Hễ chị nhắm mắt rồi, em phải cố giữ gìn cơ nghiệp này mà gây dựng cho các cháu đều được học hành nên thân. Trước khi chị chết, em có dám hứa với chị điều ấy không?
- Sao chị nói gở miệng thế! – cậu em đáp – Chị không chết đâu. Khí sắc của chị hôm nay xem có vẻ tốt lắm, ấy là cái triệu chứng bình phục đến nơi. Chị cố mà tĩnh dưỡng cho mau lành mạnh.
Cậu có biết đâu cái chết có lúc là một thang thuốc bổ rất quý cho người ta.
Cô Tư hơi nhếch miệng cười, cái cười khô khan mà thành thật.
Đoạn cô nói tiếp:
- Giờ chị bảo em một việc nữa.
- Việc gì thưa chị?
- Em bảo đánh xe đến Nhà Chung mời cố Ân lại đây giùm chị.
- Ngay bây giờ?
- Tức khắc. Vì có một chuyện rất quan hệ, chị phải nói với cố.
Cố Ân ở nhà thờ Hà Nội lâu năm, là một người đạo đức nhân từ, luôn luôn sốt sắng với kẻ nghèo, kẻ bịnh, ai biết cũng phải kính phục.
Sau đó 20 phút, cố đi xe tới ngôi nhà ở ngõ Hội Vũ vào ngồi bên đầu giường bệnh nhân vỗ về, an ủi.
Cô Tư đang nằm, mở mắt ra thấy cố, chào hỏi rồi nói trân trọng rõ ràng từng tiếng:
- Thưa cha, câu chuyện tình duyên của con đã làm phiền lòng dư luận đạo đức, hẳn cha đã rõ.
- Chuyện đã qua rồi.
- Vâng, chính vì chuyện đã qua ấy mà nay con thành thật ăn năn tội lỗi của con đã đồng phạm với kẻ lỗi đạo tu hành.
- Tốt lắm, con biết ăn năn thì đức Chúa Lời sẵn lòng tha thứ, linh hồn con sẽ lên Thiên đàng.
- Chứng tỏ lòng con ăn năn tha thiết, con xin cha rửa tội cho con trở lại đạo, cứu rỗi phần hồn của con.
- Lòng thành của con đã được Chúa Lời soi thấu.
Thò tay vào phía trong đầu giường, lấy ra một tập giấy cô Tư trao cho cố Ân và nói:
- Con có điều ước nguyện cuối cùng, xin cha chiếu cố.
- Được, con cứ nói.
- Thưa cha, trong tập này là bản đồ một miếng đất đáng giá gần hai vạn bạc và tờ nhượng con đã kí tên để cúng vào Nhà Chung. Với số tiền sẽ bán được miếng đất ấy, xin cha xây một tòa nhà thờ cho kẻ nghèo khó mà dưới nền móng đó nắm xương tàn của con sẽ được chỗ nương nhờ để các giáo hữu đời đời cầu nguyện cho con.
- Đấng Cha chung của chúng ta sẽ ban phước cho con được như ý sở nguyện.
Đoạn cố Ân làm phép rửa tội cho cô. Sau khi đó người ta thấy trên gương mặt cô có hửng sáng, cô cố lấy hơi để nói cho to:
- Trọn đời tôi, duy có phút này là thấy sung sướng thảnh thơi.
Rồi cô nằm nhắm mắt lại, chắp hai tay để trên ngực.
Một lát người ta rờ thấy người cô lạnh ngắt, chỉ còn trơ cái xác không hồn.
Thì ra bây giờ tỉnh táo nói năng chỉ là một hơi gắng cuối cùng như cây đèn hết dầu, ngọn lửa bùng lên một cái rồi tắt.
Cô Tư Hồng hưởng thọ được 53 tuổi.
Nguyện vọng cuối cùng của cô được như ý.
Miếng đất ở ngay cửa trường Đấu Xảo trông sang và đối diện với hãng xe hỏa Vân Nam, cô dâng Nhà Chung, quả nhiên sau bán được hai vạn bạc. số tiền ấy dựng lên tòa nhà thờ cho dân nghèo của bà phước Antoine ở hàng Bột. Di hài của người quyên tiền nằm ở trong đó.
Còn ông chồng?
Cô Tư vừa nhắm mắt thì ông vội đệ đơn lên tòa kiện xin lấy gia tài của cô để lại, viện cớ rằng mình có công gây dựng chung.
Vụ kiện dây dưa đến mấy năm, rốt cuộc lại ông đạp nhầm vỏ chuối. Pháp luật xét rõ gia tài ấy do một mình cô Tư làm ra, ông không có quyền gì được chia hay được hưởng.
Hình như ông thu nhặt những đơn hàng và giấy nợ lặt vặt của vợ rồi chịu khó đòi hỏi hú họa mà cũng kiếm chác được gần bạc muôn.
Ông mới qua đời hồi năm kia.
Cố tâm chiếm đoạt sản nghiệp của cô Tư mà không được, chắc ông chết ấm ức đến ngàn thu.
Sản nghiệp ấy, theo lệnh của tòa, viên chưởng khế trông nom cai quản từ 1921 đến 1927 mới chia cho sáu người cháu. Tính ra mỗi người được độ hai vạn, cả tiền mặt lẫn nhà cửa.
Một phần vì mấy năm sau, cô Tư buôn bán thất bại hết bốn năm vạn, một phần vì vụ kiện cáo lôi thôi bởi cố Hồng gây nên làm cho mấy người thừa hưởng phải chịu tốn hao chẳng ít. Nếu không thì phần chia cho các cháu chắc còn nhiều hơn.
Cái sản nghiệp lớn đó nay còn giữ được hay không ta không cần biết đến, nhưng ngày nay những ai đi qua ngôi biệt thự ở ngõ Hội Vũ – hiện đã về tay người khác nhưng vẫn gọi là nhà “cô Tư Hồng” – và dãy nhà ở phố Richaud chắc cũng phải ngậm ngùi tưởng nhớ đến người cố chủ đã xây dựng nên nó đã qua đời!
Lúc cô Tư Hồng đang nằm ngoắc ngoải trên giường bệnh, cụ Đốc Trần Tán Bình có đến thăm nom. Theo ý muốn của bệnh nhân, cụ tức khấu tặng một bài thơ. Chúng tôi tưởng nên để nó kết thúc câu chuyện này:
“Giang hồ vùng vẫy buổi ganh đua,
“Những bạn quần hoa hẳn chịu thua!
“Tay trắng gây nên cơ nghiệp lớn,
“Má hồng trang điểm phấn son vua.
“Công danh bốn chữ chưa từng có,
“Phẩm giá nghìn vàng há dễ mua.
“Đáng tiếc ngọc lành còn có vết,
“Trời già như thể cũng chơi chua”
HẾT
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com
