chan_dung-ke_si

LẦM THAN - Truyện dài Lan Khai Phần 2

30-09-2023

Lượt xem 1932

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Lan Khai

LẦM THAN - Truyện dài Lan Khai Phần 2

Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải sinh ra tại Tuyên Quang nhưng thuộc dòng dõi nhà nho ở Huế. Cha của nhà văn là cụ Nguyễn Đình Chức cùng hai người anh từ Huế ra bắc hưởng ứng Chiếu Cần Vương và tham gia khởi nghĩa Hương Khê Hà Tĩnh. Khởi nghĩa thất bại, cụ Nguyễn Đình Chức cùng các anh lưu lạc lên vùng Tuyên Quang.

Lan Khai thông minh, học rất giỏi Hán văn, Pháp văn, làm thơ viết văn từ 12 tuổi. Năm 1924, ông về Hà Nội học trường Bưởi, đến năm học thứ ba thì ông bị đuổi học do tham gia bãi khóa đòi thả Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh. Bị đuổi học, ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, thuộc lớp sau của các họa sĩ Tô Ngọc Vân, Bạch Yến, Lê Thị Diệu. Học hết hai năm, ông bỏ về Tuyên Quang dạy học, dịch sách, viết văn, do bị mật thám theo dõi. Sau đó, từ Việt Bắc, ông hành trình tới Tây Nguyên và các tỉnh Nam Kỳ để vẽ tranh phong cảnh và sưu tầm văn học dân gian.

Năm 1930, Lan Khai bị thực dân Pháp bắt và tuyên án tử hình, bị nhốt tại Hỏa Lò do tham gia phong trào yêu nước kháng Pháp. Gia đình ông phải bán hết gia sản để chuộc tội ông mới được tha.

Năm 1938, nhà văn Lan Khai đã vượt qua bộ máy kiểm duyệt của thực dân Pháp để xuất bản cuốn tiểu thuyết Lầm Than. Đây được coi là cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài công nhân của Việt Nam. Trong tác phẩm, Lan Khai đã mô tả đời sống lầm than cơ cực và chết chóc của những người thợ do sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp.

Cuối năm 1939, lần thứ hai Lan Khai bị thực dân Pháp bắt giam. Lần này là vì tội viết cuốn Lầm Than, đã vạch mặt những tội ác của người Pháp tại Việt Nam. Tới tận năm 1943 ông mới được chúng thả.

Chân Dung Kẻ Sĩ trân trọng giới thiệu, Lầm Than của nhà văn Lan Khai, TÂN DÂN xuất bản 1938.

 

 
 XI


Ông già Tị bây giờ đã thành ra một người khác hẳn.

Trước kia ông mạnh mẽ bao nhiêu thì lúc này ông yếu ớt bấy nhiêu; toàn thân cứ run lẩy bẩy như người hậu đậu. Tay chân ông sờ soạng lào quào như tay chân người phát phiền...

Mắt ông đờ ra, mất hẳn trong sáng; cặp môi ông mấp máy; giọng nói ông trở nên run run như người khóc.

Ông mất hẳn tính người, dớ dẩn chẳng khác một cái hồn ma trong một cái xác chết. Ông đi cò rò lặng lẽ, gặp ai cũng theo liền như cái bóng rồi, bất thần, ông làm cho người ta giật nẩy mình vì một câu rền rĩ:

- Mố nó... khô... ông mán rượu... cho tao!

Tay ông suốt ngày cầm kè kè một cái vỏ chai rượu. Ông ngắm nghía cái chai không một cách buồn rầu rồi bất cứ gặp ai ông cũng níu lấy mà nằn nì:

- Nà... này... má... án cho tao chai rượu này!...

Đàn bà con gái nhìn ông rồi hoảng sợ đâm đầu chạy. Bọn đàn ông con trai mạnh bạo hơn họ cười vào tận mũi ông đoạn trỏ vào cái chai mà đùa nghịch ông:

- Chai rượu đầy đấy thôi! Sao bố không uống đi lại còn hỏi mua gì nữa!

Thấy nói vậy, ông già Tị ngắm nghía cái chai rồi đưa chai lên miệng làm như chai có rượu thực. Ông cũng nhăn mặt, cũng rẩu cặp môi run run thở đánh khà một cái rồi ông lẩm bẩm:

- Chà! Rượu cay quá!...

Người ta phá lên cười. Ông cũng cười thổn thức như người khóc. Và, sau khi đã đi no đi chán khắp nơi, ông già Tị mò về nhà, ngồi rù ở hè hàng trống canh...

Ông không nhìn chi đến vợ con, cũng chẳng nói với ai một lời nào!

Ông thản nhiên như đã tách biệt hẳn với người đời, không còn biết và nhớ một sự gì nữa. Giá có sấm sét ở bên mình ông thì ông vẫn cứ thờ ơ.

Vì có công làm lâu với mỏ nên ông già Tị đã nghỉ hơn một tháng trời mà chủ vẫn chưa lấy ai thay. Nhưng bệnh tình ông càng ngày càng nặng, không hy vọng gì khỏi được nên một buổi tối kia, cái tin một người thợ máy vừa được chủ lấy vào thay ông già Tị đã đem đến cho bà lão và cho Thuật một cảm giác buồn man mác thấm thía.

Không phải vợ con ông buồn vì sợ ông mất việc thì sự ăn tiêu trong nhà bị túng quẫn đâu. Chỉ là vì sự thay đổi ấy tỏ ra rằng cái đời ông già Tị thế là không trông mong gì được nữa, nó có ngụ một ý ngầm cho bà lão và Thuật cảm thấy rõ rệt và đau đớn trước cái chết của ông.

Thuật thở dài, tay ôm trán. Anh ta ngồi thừ ra một lúc lâu rồi khẽ nói với mẹ:

- Bu ạ, bố con xem chừng chỉ còn đợi ngày giờ nữa mà thôi. Con tưởng chẳng nên kiêng nữa. Bố con có thèm thì cho uống là hơn.

Bà lão đành phải bằng lòng. Thuật bèn đứng dậy, cầm tiền chạy đi rồi một lát sau anh đem về một chai rượu.

- Cho ông ấy uống in ít chứ, đừng đưa cả một lúc.

Thuật sẻ vào cái chai không của bố độ chừng hai chén và buồn rầu bảo ông già:

- Đây, con đã mua rượu rồi đây, bố uống đi.

Ông già Tị giương trừng trừng hai mắt nhìn con, nửa ngạc nhiên, nửa không hiểu.

- Rượu đây, bố uống đi.

Ông già Tị cúi nhìn chai rượu đoạn ghé mồm tu một hơi hết sạch. Ông thở giốc lên, mặt càng đờ đẫn, màu da sần sùi càng đỏ lên như gấc chín...

Một lát sau, ông bỗng kêu ằng ặc mấy tiêng như nghẹn thở đoạn ngã lăn kềnh ra, mắt trợn ngược, chân tay co quắp, mặt rúm lại, bọt sùi đầy mép, toàn thân run lên như người động kinh.

Thuật và bà mẹ hoảng sợ kêu gọi ầm ĩ và khiêng vội ông vào giường đắp kín chăn lại, tíu tít hồi lâu ông mới tỉnh, ông thở dài một tiếng; chép miệng tem tép, vật vã chân tay đoạn nói lảm nhảm:

- Tao... chưa say... cứ rót đi... Cứ... cứ rót đi... tao... còn uống nữa!...

Rồi, ông cứ trằn trọc giữa đám chăn chiếu và nói ú ớ như vậy, có đến nửa ngày mới dần dần hồi tỉnh.

Vừa ngồi dậy được, ông đã cò rò ra đi, không ai có thể can ngăn được. Ông đi như một người mất trí, đi như tìm kiếm việc gì và hễ thấy ai ông cũng vội chìa ngay cái vỏ chai ra để đòi mua rượu...

Thoạt đầu, những người trong xóm lao động còn ngạc nhiên chú ý sau họ cũng quen đi mà không ai dám ngó tới ông nữa. Thấy ông, họ cứ cắm đầu bước rảo. Cũng có người tủm tỉm cười có người, trái lại, thở dài tỏ ý thương hại. Nhất là đàn bà. Họ thấy ông đâu họ cũng nhìn ông bằng cái vẻ vừa ghê sợ vừa buồn rầu. Là vì, thấy cái gương nghiện rượu của ông, họ không khỏi nghĩ tới chồng con họ. Những người này hầu hết uống rượu cả. Như trên đã nói, họ làm lụng vất vả nhiều quá nên lúc nào mồm miệng cũng bã bà. Họ phải uống rượu để ăn cho ngon miệng. Tì vị được men rượu làm hăng lên, khiến cho họ cũng có ăn được ít nhiều thật nhưng hễ hơi men bắt đầu nhạt là sự mệt nhọc lại đâu hoàn đấy và còn gấp bội lên là khác. Thế là họ không thể nào nhịn rượu được nữa. Họ cứ uống, họ khuyên nhau uống để tìm lấy một cái ảo tưởng của sự mạnh khỏe. Lâu ngày, họ đâm nghiện rượu tất cả. Những người nào tính thuần còn khá. Đến những người nào tính nóng nảy, hung hăng thì mỗi khi rượu vào, họ còn đập phá đồ đạc, chửi bới vợ con, làm om tỏi cửa nhà, gây cho gia đình họ những trận kinh hoàng ghê gớm...

Rượu là một cái tai vạ của bọn người lao động khổ sở ấy, cũng như thuốc phiện và xóc đĩa. Mà cái gương nghiện rượu thì từ trước đến giờ chưa ai thấy ghê gớm hơn là cái gương ông già Tị.

Ông già Tị bây giờ đã nằm bẹp một chỗ, không đi đâu được nữa rồi.

Biết ông sắp nguy đến nơi, Dương lại thăm ông và bàn với bà lão nên cưới vợ ngay cho Thuật.

Thuật cãi:

- Việc cưới xin là việc vui mừng. Bố tôi đương ốm nặng, chưa biết sống chết lúc nào, tôi còn bụng đâu mà vui mừng được?

Bà lão phân vân không biết nghĩ sao đành chỉ im lặng nhìn hết Thuật lại nhìn Dương.

Nhưng, Dương vẫn quả quyết lắm; anh ta vẫn hết sức bênh vực cái chủ trương của anh.

- Chú nói cũng phải: Kẻ làm con thấy tình cảnh cha già như thế, ai mà không đau đớn cho được! Nhưng, người ta chấp kinh còn phải tòng quyền. Như ông nhà bây giờ chẳng gì cũng đã gần 70 tuổi đầu, nhân sinh thất thập cổ lai hy, nếu ông có về hầu tiên tổ thì tôi tưởng cũng đã phải lắm, không còn non yểu gì nữa. Thế thì sự buồn thương của con cháu cũng chỉ nên dẹp để bên lòng, hãy lo liệu cho ông được mọi sự vuông tròn đã. Mà cái vui lòng của cha mẹ trước khi nhắm mắt là cái gì? Há chẳng phải là được thấy con cái yên bề gia thất rồi ư?

Dương nói một thôi một hồi như người diễn thuyết. Ai nấy lắng nghe và cùng lấy làm phục lắm.

Anh ngừng lại, giơ tay đỡ chén nước mà bà già Tị đưa cho, uống một hớp, đoạn nói tiếp:

- Huống hồ ông lại chỉ có một mình chú thì việc gia thất của chú lại càng cần lắm! Gì bằng bây giờ nằm xuống, ông được thấy đủ mặt con và dâu?

Một bà lão hàng xóm có mặt tại đây gật gù khen:

- Bác Dương nói chí lý. Ấy tôi cũng nghĩ như thế!

Dương vớ ngay lấy lời người biểu đồng tình:

- Có phải không bà?

Bà lão giơ tay vuốt quết trầu ở hai góc mép. Kiêu hãnh vì thấy Dương phải hỏi ý mình:

- Phải lắm! Bà Tị nên sắm sửa lo cưới chạy tang ngay cho anh nó đi là hơn.

Dương đắc chí:

- Chính khi còn khỏe mạnh, ông nhà cũng đã bằng lòng dạm hỏi cô Tép cho chú thì việc này càng nên làm lắm.

Bà mẹ Thuật đã quyết định:

- Vâng tôi xin nghe lời bác Dương. Vậy nhờ bác sang nói với bà Chùm hộ xem ý bà thế nào. Chỗ anh em, bác đã có lòng thương em nó và nghĩ đến bố cháu nhà tôi thì xin bác hết lòng giúp đỡ cho, đừng quản công khó nhọc.

Mọi người cùng hùn vào:

- Phải đấy, bác làm ơn giúp bà cụ và bác Thuật.

- Vâng, chỗ tôi với Thuật là anh em, bà đã nói thế khi nào tôi còn dám quản công.

Nói dứt lời Dương đứng dậy đi ngay.

Dương gặp bà Chùm ở ngang đường.

- Kìa, bác Dương đi đâu đấy?

- Cháu lại đằng bà đây.

- Không đi làm à?

- Hôm nay cháu nghỉ.

- Lại tôi có việc gì vậy?

- Bà về nhà để cháu thưa chuyện.

- Tôi định lại thăm ông già Tị xem thế nào.

- Ấy, cháu cũng vừa ở đấy ra.

- Bệnh ông cụ ra sao?

- Khó lòng lắm!

- Tội nghiệp quá nhỉ?

- Thưa bà người ta đến cõi thì phải chết chứ? Ông bành tổ còn phải chết nữa là!

Câu nói thản nhiên của Dương làm cho bà lão cúi đầu tư lự. Cái chết, lạnh lẽo và hãi hùng hoảng vào lòng bà một cảm giác tê tái...

Người ta ai cũng vậy: Lúc bị sự khổ sở thì kêu trời cho chết nhưng lúc giáp mặt với thần Chết thì lại vội chùn trở lại, thà chịu khổ còn hơn.

Hai người vào nhà.

- Việc gì thế hở bác?

- Bà mẹ anh Thuật có nhờ cháu sang đây thưa chuyện với bà về việc cô Tép.

- Chuyện thế nào?

- Bệnh tình ông cụ xem ra khó lòng qua khỏi được. Bởi thế nên bà cụ mẹ anh Thuật có ý muốn cưới vợ chạy tang cho anh. Bà nhờ cháu sang bên này nói chuyện và hễ xong thì lo ngay.

- Cái gì chứ cái ấy thì tôi sẵn lòng lắm. Anh cứ nói bà Thuật lo liệu qua loa thôi vì ông ấy đang ốm đau như thế, chẳng nên bày vẽ làm gì.

Thế là hai hôm sau, Tép đã là con dâu của ông già Tị.

Nhưng ông già đã không biết gì nữa! Ông nằm mê man trên giường thỉnh thoảng rền rĩ:

- Cho tao uống rượu...rót rượu cho tao uống. Tép cuống quýt, giục chồng:

- Hay là đón đốc tờ về xem cho bố?

- Hay để ông lang Thận cho vài thang nữa xem. Đốc tờ thì tiền đâu? Vả thuốc tây nghe đâu không hay bằng thuốc ta.

Bà lão thoảng nghe câu chuyện cũng nói góp:

- Thôi đừng vẽ! Thuốc tây! Tao thấy bao nhiêu người uống thuốc tây chẳng chết nhăn răng ra cả đấy thôi. Tiền đón đốc tờ thì để làm ma cho ông ấy!

Ông lang Thận vào.

Bà lão Tị cuống quýt vì bà sợ ông ta nghe thấy câu bà nói lại ngờ vực và không bằng lòng chăng. Bà vội chào rất lễ phép:

- Lạy ông ạ! Các cháu nó dại dột quá, đòi xoay thuốc tây nhưng tôi nhất định không nghe.

Ông lang bĩu môi:

- Hừ! Thuốc tây! Phải biết rằng Tây họ chỉ được cái nghề tiêm tiếc sì sằng là tàm tạm được chứ còn nội trị thì chẳng còn ra cái nghĩa lý gì hết. Bà cứ để vậy tôi xem thuốc cho ông nhà, uống hết thang này thử xem có chết được không! Chẳng qua tì vị ngộ độc rượu nhiều quá. Nay tôi giải độc cho, hễ tì vị tỉnh lại là bệnh khỏi!

- Vâng, thôi thì phúc chủ lộc thầy, ông gia tâm cho.

Ông lang, trịnh trọng như một vị thánh sống, bước lại gần giường của ông lão Tị, cầm lấy tay ông vừa định xem mạch thì bệnh nhân đã chửi rầm lên:

- Thôi, bước đi... đồ lang băm!... Không cần có chúng mày tao vẫn chết được như thường!

Rồi ông vùng vằng định ngồi dậy.

- Chai rượu của tao đâu... Chúng bay cất chai rượu của tao đâu?... Muốn sống thì đưa ra trả tao đây...

Nhưng, mệt quá, ông già lại ngã xuống nằm lịm đi...

Tối hôm ấy ông tắt nghỉ. Mặt ông trắng nhợt, mồm ông há hốc như mồm người khát mong uống.

Ma chay bắt đầu...

Người ta làm đủ lệ bộ rồi mới chịu đem chôn ông già khốn nạn.

Đi đưa đám có vợ ông, con trai, con dâu, bọn Dương và cả bọn Tuất và cai Tứ nữa.

Bà lão Tị cũng khóc sụt sịt qua loa vì cái chết của chồng bà dù sao cũng cất cho bà một gánh nặng lớn.

Thuật cúi đầu, hai mắt ráo hoảnh. Không phải rằng anh không thương bố đâu. Chỉ vì cái chết khổ sở của bố khiến Thuật tê mê nghĩ đến cái đời khốn nạn của những người phu phen lao động lầm than mà anh là một trong số đó.

Khóc nhiều hơn chỉ có Tép. Cô thương bố chồng bao nhiêu lại trạnh nhớ đến bố đẻ bấy nhiêu và càng ngậm ngùi cho đời cô không được hưởng cái êm đềm của tình cha con.

 

XII


Ngày giờ đi vùn vụt, thấm thoắt ông già Tỵ chết đã được ba năm. Mẹ Thuật và mẹ Tép cũng lần lượt kéo nhau sang thế giới khác cả.

Bây giờ Tép không đi làm nữa vì cô bận có đứa con thơ mới ngót ba tháng.

Sự ăn tiêu trong nhà không nặng nề lắm như trước nên Thuật cáng đáng việc đi làm một mình còn để vợ ở nhà trông con và cơm nước.

Cảnh gia đình hai vợ chồng trẻ rất hòa thuận và trong cuộc đời lầm than, nhiều người đã bắt đầu nói đến cái cảnh vui vẻ của vợ chồng Thuật như nói đến một cảnh thiên đường.

Sáng sớm tinh sương, còi nhà máy rúc vang hồi thứ nhất thì Thuật trở dậy rửa mặt, mặc áo. Tép đã sửa soạn xong cơm nước cho chồng ăn.

Thuật ra lò rồi thì Tép lo giặt giũ áo, tã cho con, quét dọn nhà cửa, khâu vá hoặc nếu con ngủ thì cô đem thùng ra giếng quảy vội lấy vài gánh nước.

Đến lúc Thuật ở lò về thì mọi việc đã xong đâu vào đấy. Thoạt vào tới cửa, anh đã được đón tiếp bằng cái nụ cười tươi như hoa của vợ anh. Anh sung sướng nhận thấy cửa nhà, đồ đạc ngăn nắp, sạch sẽ nó làm cho anh sống ở trong cảnh lều tranh vách đất mà vẫn được thở hút một thứ không khí dễ chịu.

Anh rửa ráy chân tay xong thì lên nhà đùa với con để cho vợ làm cơm tối.

Bọn Dương, Thông và lão già Mẫn cũng đến chơi nhà Thuật luôn. Anh em thường bày ra những cuộc rượu chè, hút sách để cùng nhau trò chuyện lắm bận mãi khuya mới về.

Thuật hết sức làm cho bạn vui lòng nhưng riêng phần anh thì không say sưa bao giờ cả; còn đến thuốc phiện thì tuyệt không.

Thông vẫn thỉnh thoảng nói khích Thuật:

- Làm đàn ông mà không dám ngậm đến cái đầu dọc tẩu thì thực là hạng đàn ông tồi hoặc sợ vợ!

Thuật chỉ cười và đáp:

- Người ta có vợ để mà sợ chẳng hơn nhiều anh chẳng có vợ, đêm đêm nằm co tôm một mình trong ổ rơm ấy à?

Dương gật gù nói:

- Cái cảnh ở nhà chú nó thế mà sướng! Ở đời này chẳng gì bằng được khỏe mạnh để làm kiếm miếng mà ăn. Trong nhà thì vợ chồng hòa thuận nhau, không xảy ra những cảnh lôi thôi cãi cọ. Thực, tôi thấy lắm cảnh vợ chồng mà sợ. Thằng đàn ông đi làm cả ngày như con trâu cày thế mà hễ thò mặt về đến nhà thì con vợ miệng đã ngoác đến mang tai, nói như thiên hô bát sát! Lắm nhà được chị vợ nết na nhu mì thì lại phải anh chồng trái chứng trái thói, nghiện ngập, chè rượu, cờ bạc, trai gái đủ ngón lại còn hay sinh sự chửi bới là khác nữa.

Tép cười nói chõ:

- Anh biết thế mà anh còn cứ hút thuốc phiện mãi vào!

- À, tôi lại khác! Tôi đã nhất định không vợ con gì cả!

- Suốt đời anh cứ thế hay sao?

- Phải, suốt đời tôi cứ trơ thổ địa thế này thôi, chẳng vợ chẳng con gì hết!

- Có! Anh nói thế nghe vẫn dễ nhưng...

- Chẳng nhưng nhiếc gì cả. Tôi nhất định thế là cứ thế. Tôi nghĩ kỹ rồi. Tôi không cùng một ý với mọi người.

Thuật hỏi:

- Anh nói thế nào, tôi không hiểu!

Dương nhìn Thuật, nửa như giễu cợt, nửa như thương hại:

- Chú hiểu anh thế nào được!

Thuật nhũn nhặn đáp:

- Vâng, tôi thì thực thà lắm. Bởi thế nên mới cần anh giảng rõ cho tôi nghe xem ý nó ra làm sao.

- Ý tôi là cái ý một thằng chán đời. Tôi nghĩ rằng cha mẹ tôi đẻ tôi ra chẳng cho tôi được học hành gì cả đến nỗi ngày nay tôi chỉ có thể là một thằng phu mỏ, một thằng phu mỏ suốt đời cứ phải làm như một con súc vật, sống như một con súc vật. Tôi thấy lắm đứa ở làng tôi, ngày bé cũng đi chăn trâu chăn bò, đùa nghịch với tôi ở ngoài đồng, trí khôn của chúng nó cũng chẳng hơn gì tôi thế mà chỉ vì cha mẹ chúng nó lắm tiền cho chúng nó ăn học, bây giờ làm nên cả. Thằng thì ông phán a, thằng thì ông ký a. Lại có một thằng tên gọi là thằng Mốc, ngày bé thò lò mũi xanh bẩn như chó thế mà không hiểu nó làm ăn ra thế nào nay đã đường hoàng một ông tuần phủ, về làng làm như hét ra lửa ấy!...

Ngửa cổ tợp một hơi rượu, Dương thở dài, nói tiếp theo bằng một giọng đầy phẫn uất:

- Còn tôi? Phu mỏ mãn đời phu mỏ!... Tôi nghĩ cái số phận mình nó đã như thế thì còn thiết đếch gì vợ con nữa. Lấy vợ về để đói rách với nhau một lũ ấy à? Đẻ con ra để sau này lớn lên lại chui vào lò làm phu mỏ ấy à? Thôi, tôi xin kiếu!

Lão già Mẫn vỗ đùi ra dáng thú vị lắm.

- Chí phải! Bác Dương nói chí phải! Chính tớ cũng nghĩ như vậy!

Thuật dụi cái tàn đóm vào thành bát điếu, thủng thẳng nói:

- Tôi thì tôi cho rằng việc đời là khó hiểu lắm! Mình sinh ra đời chẳng nhẽ không làm như người ta...

- Chẳng nhẽ! Ấy chỉ chết cái chẳng nhẽ đó thôi! Đã làm một việc gì mà chẳng nhẽ không làm thì tức là mình bó buộc mình. Tôi, tôi rất ghét sự bó buộc!

Tép nói giọng dàn hòa:

- Người ta sướng khổ là do số cả. Tôi chẳng thấy lắm con nhà nghèo mà cũng làm nên nhan nhản đấy thôi!

Dương cãi:

- Trong một nghìn đứa con nhà nghèo khổ dốt nát, cô thấy mấy đứa làm nên? Một hay hai đứa? Bất quá một hay hai đứa là cùng! Còn bao nhiêu cứ cực khổ suốt đời như một đàn chó. Ở đời này chẳng có số hệ gì cả. Tôi...

Tép cũng không chịu:

- Không tại số thì anh bảo tại lẽ gì mới được chứ?

- Cô là đàn bà, tôi nói ra chưa chắc cô đã hiểu.

- Gớm, anh khinh đàn bà vừa vừa chứ! Anh thử cứ nói đi cho tôi nghe nào.

- Sở dĩ ở đời có kẻ giàu người nghèo là bởi loài người bóc lột nhau để chiếm làm của riêng. Đứa nào xỏ lá, gian giảo thì thường thường cướp được nhiều lợi. Đứa nào ăn ngay ở thẳng thì dù có làm bỏ cha bỏ mẹ đi cũng vẫn cứ xác xơ. Tiền của đã hơn kém thì tự khắc sinh ra có kẻ làm thầy để đè nén, có kẻ phải làm đầy tớ để chịu đè nén và trăm nghìn sự không công bằng cũng từ đó mà ra. Hãy lấy ngay cái mỏ than này làm thí dụ. Tôi hỏi cô: Ai làm ra than? Chúng mình! Ai đúc nên máy? Chúng mình! Ai lau chùi những máy móc? Lại cũng chúng mình! Chúng mình làm ra tất cả. Chính bọn mình đem mồ hôi nước mắt mà xây dựng ra cái mỏ than này. ấy thế mà cái mỏ than này lại không phải là của mình mới tức chứ! Than làm ra bao nhiêu bán đươc lợi chủ đều thu cả, ăn ngập mày ngập mặt lên rồi còn thừa thãi đồng nào mới đến phần bọn ta!

- Anh nói thế, tôi không chịu! Chủ người ta không bỏ vốn ra hết trăm ấy nghìn khác thì chúng mình làm trò gì được? Sao bọn phu mỏ không vào rừng hoang mà tự mình khai mỏ lấy than, kẽm đem bán lấy tiền chia nhau có được không, việc gì còn phải đi làm thuê nữa!

Dương cười ha hả.

- Ừ, cô em cãi khá đấy!...

Tép đỏ mặt.

- Khá hẳn chứ lại!

- Nhưng anh hãy hỏi cô nhé?

Tép tự đắc:

- Vâng, anh cứ hỏi.

- Tiền vốn kia ở đâu mà ra? Có phải là cái tiền chính bọn mình làm ra nhưng bọn chủ nó ăn cướp mất không?

- Anh làm chủ xem anh có ăn cướp như thế không?

- Ấy chính thế mới khốn nạn. Chính cái thói chiếm đoạt làm của riêng ấy nó là nguồn gốc của hết thảy mọi khổ não mà chúng ta hàng ngày thấy nhan nhản ở quanh mình.

- Đã thế thì làm thế nào được?

- Sao lại không! Bây giờ cứ đừng cho ai chiếm vật gì làm của riêng cả là tự khắc không có sự bóc lột, sự hà hiếp, sự bất công, và kẻ giàu người nghèo chênh lệch nhau nữa!

- Ai cấm được?

- Chúng mình chứ lại còn ai nữa!

Cả bọn phá lên cười và nói:

- Anh làm như chúng mình là vua quan hết cả!...

Dương phát gắt:

- Các anh chớ cười. Tôi nói, các anh có nghe hết câu thì tôi mới nói và các anh cũng mới hiểu được! Chứ mới nghe nửa chừng đã vội pha trò cười thì đến mãn đại cũng không mở mắt ra được mà cũng chẳng ai hoài hơi người ta thèm bảo cho mà hay!

Thông vớ cái điếu đoạn vừa nạp thuốc vừa nói:

- Anh làm y như là thầy học của cả bọn!...

- Thông! Mày ngu lắm. Tao có phải đẻ ra đã biết những điều ấy đâu? Tao chẳng qua cũng nhờ có người khác giảng cho mới biết, nay lại đem nói lại cho anh em nghe vì là một câu chuyện có liên can đến cái đời của chúng mình, chứ tao thì làm thầy ai được. Nếu tao có thể làm thầy kẻ khác, tao đã không đến nỗi đi làm phu mỏ!...

Dứt lời, Dương bó gối ngồi im với một vẻ bất mãn rõ ràng trên gương mặt.

Tép sợ Dương dỗi, ngọt ngào khẽ bảo Dương:

- Anh Dương, anh nói nữa đi cho em nghe với. Tính anh Thông hay cười cợt, anh chấp làm gì!...

- Thôi, chả nói nữa!...

Lão già Mẫn cũng họa theo:

- Anh nên nghe chị Thuật nói nữa đi cho chúng tôi hiểu với.

Rồi, vớ chiếc xe điếu, lão giơ lên đe mọi người:

- Anh nào không nghe thì cứ hút thuốc phiện đi, hễ đâm ba chè củ là tớ vụt.

Câu khôi hài ấy làm cho Dương cũng phải bật cười. Anh lại bắt đầu nói:

- Hồi ấy, tôi còn làm phu ở mỏ Vàng Danh. Một hôm thấy trong bọn anh em có nhiều người lạ mặt. Họ nom cũng có vẻ sáng sủa thông minh lắm. Chính họ đã giảng giải cho chúng tôi nghe. Chính họ đã đưa ngầm những sách vở cho chúng tôi đọc. Câu chuyện của họ thoạt đầu chúng tôi không hiểu và còn chưa thiết nghe. Sau, chúng tôi cứ rạng dần, rạng dần. Chúng tôi không cãi lý với họ, chúng tôi chỉ lắng tai nghe và cố hiểu. Những câu họ nói làm cho chúng tôi kẻ thì đâm ra hờn giận một cách mờ tối, kẻ thì lo âu, có kẻ lại đâm ra hy vọng một sự gì mới lạ mà chính mình cũng không tự biết.

Thế rồi, một hôm, những người lạ mặt đó đều bị bắt vào nhà pha...

Ai nấy hoảng hốt nhìn nhau...

Dương mỉm một nụ cười đau đớn:

- Phải, họ cùng bị bắt vào nhà pha. Cảnh sát mật thám ở đâu kéo về như bươm bướm. Họ khám nhà này, xét nhà khác, dò la, nghe ngóng làm cho cả mỏ nhao nhao lên một độ. Sau cùng họ lại biến đi đâu hết. Cả những người bị bắt cũng bị họ dẫn đi. Nghe đâu về sau họ đều phải chết chém hoặc đi đày cả! Tình thế đã yên yên, chúng tôi bấy giờ mới khẽ hỏi nhau và mới biết rằng các người kia đều là những đảng viên Cộng sản...

Thuật hỏi Dương:

- Ừ, tôi nghe mang máng đến Đảng Cộng sản mà thực ra vẫn chưa hiểu nó ra làm sao cả!

- Cộng sản là một chủ nghĩa do người nước Nga xướng lên...

- Nước Nga là nước gì?

- Cũng chẳng biết nữa. Hình như đó là một nước lớn ở gần nước Tây Trắng thì phải. Vậy một nước Nga xướng lên chủ nghĩa cộng sản rồi nó cứ lan dần ra các nước vì ở đâu cũng có người theo.

Tép ngây thơ:

- Tại sao ở đâu cũng có người theo?

- Tại ở nước nào cũng có người giàu kẻ nghèo, ở nước nào cũng có sự bất công, sự hà hiếp, sự bóc lột.

- Thế ra cộng sản là một đảng của bọn nghèo?

- Chính thế! Chủ nghĩa cộng sản là cái chủ nghĩa của bọn cùng dân như chúng ta. Ấy cũng bởi thế cho nên những người theo Đảng Cộng sản đều bị bọn giàu có, mà người ta gọi là bọn tư bản, nó bắt bớ, đày ải, chém giết.

- Tại sao thế?

- Tại họ sợ cho cái hầu bao của họ, cái hầu bao chứa đựng những của mà họ đã cướp được của bọn nghèo!

- Thế chủ nghĩa cộng sản để làm gì?

- Là để chia đều của cải cho mọi người, cấm không ai chiếm vật gì làm của riêng cả. Tiền của cũng chia đều nhau, ruộng đất cũng chia đều nhau, ai cũng như ai, không có ông cai Tứ chỉ ngồi mát ăn bát vàng cũng không có lão già Mẫn, cùn đời làm đổ đom đóm mắt mà vẫn không có đủ tiền đong gạo!

Một trận cười nổi lên làm cho câu chuyện Dương nói bớt vẻ nghiêm nghị.

Thông cưòi sặc sụa và nói:

- Thú nhỉ? Đã thế chắc không còn những túp lều tối lụp sụp như tổ chuột ở liền ngay bên cạnh những tòa nhà Tây hai ba tầng mà người ở không hết nữa!...

- Chính thế!...

Như chưa được chắc ở sự thực, Thông hỏi gặng:

- Nghĩa là chúng mình cũng có nhà gạch ở?

- Phải!

Thông nhảy lên chồm chồm:

- Sướng quá! Sướng quá! Còn đợi gì mà anh Thuật không dỡ mẹ nó cái nhà lá này đi!...

Thuật phì cười:

- Cái anh này điên chắc?...

Dương cũng cự:

- Chuyện còn ở trời nam bể bắc nào chứ đã nước mẹ gì mà làm rối lên?

- Khốn, nhưng mà từ bé tớ chưa được biết mùi ở nhà gạch nó ra làm sao cả thì tớ không khao khát làm sao được?...

Lão già Mẫn đủng đỉnh nói như lão vẫn nói xưa nay:

- Còn chờ mục xương nới có cái ngày ấy. Mà vị tất!... Từ nay đến ngày ấy thì còn vô số anh vào nhà pha, vô số anh đi đày, vô số anh phải chết chém!

Dương hăng hái:

- Thì cũng phải thế mới được chứ! Phải lấy cái chết mà chữa cái chết! Phải có hàng nghìn mạng chết đi mới mong làm sống lại ức triệu người chết dở...

Thuật hỏi dớ dẩn:

- Này, nhưng mà làm sao những người cộng sản độ ở Vàng Danh lại bị bắt cả?

Dương buồn rầu đáp:

- Nghe đâu vì mấy thằng trong bọn culi nó bảo chủ nên chủ nó mới xin mật thám về bắt.

- Lại tồi thế nữa!

- Ấy, ở đời bao giờ cũng sẵn có những quân khốn nạn ấy! Người ta mở mắt cho chúng, chúng không biết ơn thì chớ lại còn xoay ra phản bạn!

- Tại chúng nó sợ chứ gì?

- Ấy, hễ người ta còn sợ thì người ta còn phải mãn kiếp lầm than!...

Câu chuyện nhàn đàm không ngờ có một ảnh hưởng lớn trong tâm hồn Thuật. Mối bực tức vô căn cứ trong lòng anh hình như đã được thỏa vì có người vừa cắt nghĩa cho anh hiểu cái lý do những bất bình mà anh thấy nhan nhản quanh mình.

Nghĩ vơ nghĩ vẩn, Thuật lại nhớ đến câu Dương vừa nói: "- Lấy vợ về để đói rách với nhau một lũ ấy à? Đẻ con ra để rồi khi nhớn lên, đứa con ấy lại chui vào hầm mỏ để làm culi suốt đời ấy à?" Thuật thở dài, liếc nhìn trộm Tép và đứa con anh mà Tép đang bế thon lỏn ở trong lòng.

Anh thở dài, vì anh cảm thấy một cái gì vừa như sự xót thương lại vừa như sự hối hận...

 

XIII


Cai Tứ đẩy cửa bước vào.

Thuật đứng dậy chào một cách vui vẻ:

- Kìa ông cai, ông đi đâu đấy?

- À, tôi thăm bác có chút việc.

- Rước ông ngồi chơi. Bu thằng Lễ đâu đem nước uống.

Tép thấy cai Tứ có ý lẩn mặt. Cô khẽ thưa ở trong nhà:

- Vâng ạ, tôi đun đây.

Cai Tứ làm dáng xuề xòa:

- Thôi, nước niếc gì, tôi lại đây một lát rồi lại phải đi đằng này có chút việc.

- Ông ngồi chơi đã. Chẳng mấy khi ông lại nhà cháu...

Mà thực thế. Cai Tứ có mấy khi thèm lui tới các nhà phu phen bao giờ. Hắn chỉ đi lại nhà chủ, nhà các ông thầu khoán, các bạn cai khác hoặc ra tỉnh đi hát cô đầu. Bởi thế nên thấy hắn vào, Thuật đã biết ngay có việc gì lạ. Anh hơi xúc động, hơi lúng túng, cử chỉ không được tự nhiên.

Ngồi ghé xuống góc giường, cai Tứ cất tiếng gợi chuyện:

- Sáu anh em ở lò số 4 làm giỏi thực, bằng mười người. Hôm nào cũng về trước nhất. Giá lò nào cũng được như thế thì công việc của tôi chạy biết ngần nào!...

Cai Tứ ngừng một lát.

Thuật lắng tai nghe, phân vân không biết câu mở đầu dài dòng ấy sẽ đưa đến chuyện gì.

- Tôi bực nhất là bọn phu làm ở lò số 9. Gớm phu mấy phen! Thế mà họ cũng vác mặt đi làm mỏ...

Thuật mỉm cười, tự nghĩ:

- Lão này coi nghề làm phu mỏ như nghề đi làm quan không bằng!

Thấy chàng mỉm cười, cai Tứ cũng cười, cất to thêm giọng nói như phân bua:

- Ai lại hôm nào cũng gần tối các bố mới ì ạch được sáu bảy goòng làm cho mình cứ phải loanh quanh chờ xem không thể về sớm được. Thực là mất thời giờ và bực mình quá đi mất!

Thuật có ý bênh vực bọn đồng nghệ:

Nhưng cũng tại lò số 9 vừa xa vừa sâu quá, than lại rắn hơn đá cuội thì ông bảo làm nhanh thế nào được? Vả lại, tôi thấy bọn anh em họ phàn nàn...

Cai Tứ chau mày:

- Phàn nàn? Họ phàn nàn cái gì?... Tôi còn lạ gì họ nữa!... Tôi thuê họ làm phu cho tôi chứ có thuê họ làm bố tôi đâu mà tôi phải chiều họ? Và chiều làm sao cho vừa ý họ để họ khỏi phàn nàn được?

- Thực ra tôi cũng chẳng thấy họ đòi cái gì là quá đáng. Họ chỉ kêu rằng đáng nhẽ lò xa và khó làm như thế thì ông cho họ ăn thêm công mới phải. Các ông cai khác vẫn thuê như thế cả...

- Thêm! Của tôi có là của ông Bạch Thái ngày xưa thì tôi mới nay thêm mai thêm cho các bố ấy được! Tôi chỉ có thế, anh nào làm được thì làm, không làm thì ra. Tôi có cần gì! Ở đường xuôi lụt lội, còn hàng vạn người xin làm công không chẳng ai thèm mướn đành chịu chết đói nhăn răng cả ra với nhau kia kìa!

Thuật nín lặng. Anh nghĩ lại những lời Dương đã nói hôm nào. Thì ra bọn cai và chủ keo kiệt, độc ác thực. Họ chỉ cốt nhét cho đầy túi, ăn hà ăn hiếp ai được đồng nào hay đồng ấy còn ngoài ra ai chết mặc ai. Họ chắc vào chỗ bọn nghèo nếu khí khái hay bướng bỉnh thì sẽ bị chết đói ngay. Thế là họ không cần nữa. Họ thấy trời làm tai nạn lụt lội thì họ sẽ mừng nhân công sẽ rẻ như bèo nên họ tha hồ cay nghiệt, bọn phu có tức mấy cũng phải cắn răng mà chịu, vì nếu thôi việc một bọn đói khát khác đã tới lạy để mà thế chân ngay.

Thuật buồn rầu về nỗi người xử tệ với người, anh lại càng uất ức vì ông trời cũng hình như vào phe với bọn giàu có mà bách hại kẻ nghèo kiết.

Thấy Thuật im lặng quá lâu, cai Tứ cũng ngượng.

- Thực ở đời không biết ăn ở thế nào cho tất cả bằng lòng được. Anh thử xem, tôi đối đãi với anh em phu phen đến thế chứ còn thế nào nữa? Công tôi không lưu lại đồng nào. Ai làm được bao nhiêu tôi trả cho cả bấy nhiêu. Phạt tiền tôi không hay phạt. Ai túng nhỡ, tôi cho vay mượn không lấy lời lãi gì cả. Đến lúc cần phải trả nếu còn túng muốn hẹn lại tôi cũng vui lòng cho! Ấy thế mà còn có người phàn nàn thì tôi cũng đành chịu, không biết làm thế nào nữa!...

Những cái nhân nghĩa vờ của cai Tứ, Thuật không dại gì mà còn mắc, nhưng anh cũng mặc hắn nói cho sướng miệng.

Và, để ngắt câu chuyện lông bông, Thuật hỏi cai Tứ:

- Vừa rồi ông bảo thăm chúng con có chút việc, chẳng hay là việc gì ạ?

- À, có việc gì đâu, tôi lại để nói cho bác biết rằng từ ngày mai bác không làm với tôi nữa.

Choáng người, Thuật giương tròn hai mắt nhìn cai Tứ để xem hắn nói đùa hay nói thực.

- Tôi cũng lấy làm tiếc lắm, nhưng làm thế nào được, vì ông chủ muốn thế!...

Thuật ức quá:

- Nhưng cháu có lỗi gì mà tự nhiên đang làm ông chủ bắt cháu phải thôi?

Nói câu ấy, óc Thuật nghĩ ngay đến vợ.

Cai Tứ vớ điếu hút một hơi thuốc lào đoạn vừa thở khói vừa đáp:

- Không, bác chẳng có điều gì cả. Chỉ vì ông chủ muốn cho bác làm bên nhà máy.

Thuật thở dài như chút cái gánh nặng.

- Làm bên nhà máy? Khốn nỗi cháu không biết một tí gì...

- Ông chủ muốn cho bác lát sê cái chân ông nhà trước vì nghĩ ông nhà bác có công với mỏ. Cái chân ấy làm rất tốt tiền, lại nhàn lắm. Điều này, bác hẳn cũng biết như tôi.

Thuật vẫn chưa hiểu.

- Cháu không biết một tí gì về máy móc cả thì làm thế nào?...

- Cái đó không ngại. Bác cũng biết rằng khi ông nhà bị mệt, chủ có lấy một người vào thay. Nhưng, người ấy, chủ không thích vì tính hắn bướng bỉnh lắm. Thế nào rồi hắn cũng phải đuổi. Ông chủ bèn nghĩ đến bác, muốn cho bác vào phụ người kia để học việc trong vài tháng rồi khi nào bác đã có thể thay được người kia, ông chủ sẽ cho hắn ra.

Thấy cai Tứ nói phô rằng chủ nghĩ đến bố mình nên muốn cho mình một công việc tốt, anh ta cũng muốn tin mà chẳng hiểu sao trong lòng anh vẫn cứ ngờ vực. Anh không muốn lại gần bọn quyền thế. Sự gần gụi ấy anh thấy nó gai góc thế nào ấy. Thuật đắn đo một lúc rồi hỏi cai Tứ:

- Cháu làm trong lò công việc đã quen nên không muốn đi nơi khác. Vả lại làm như thế, cháu e sẽ mang tiếng là cướp cơm anh em... Hay là ông thưa với chủ hộ?

Cai Tứ nhìn Thuật bằng hai mắt ngạc nhiên, đoạn làm ra dáng thương hại và bảo với Thuật rằng:

- Anh này mới lạ chứ! Nhàn hạ sung sương chả muốn lại cứ thích chui đầu vào lò! Anh việc gì mà sợ tai tiếng? Công việc trong mỏ này là quyền ở ông chủ. Ông cho ai hay thì người ấy được hay, ông bắt ai dở thì người ấy phải dở. Chủ cho anh sang nhà máy là ý chủ, ai trách anh vào đâu được? Còn anh nhờ tôi từ chối với chủ hộ anh thì điều ấy tôi chịu thôi. Người ta muốn làm ơn cho mình mà mình từ chối thì mình tỏ ý không thèm khuất người ta. Tôi chỉ e như thế ông chủ sẽ giận anh. Mà chủ đã giận anh thì sau này dù anh có muốn yên thân ở trong lò cũng không thể được!

Những câu giảng giải ấy làm cho Thuật cứng lưỡi. Anh cúi đầu im lặng.

Cai Tứ đứng lên.

- Sáng mai anh bắt đầu sang nhà máy làm, biết chưa?

- Vâng.

Hách dịch cai Tứ bước ra ngoài.

Thuật ngồi ngây ra như một pho tượng anh lấy làm khó chịu quá. Sự thay đổi đột ngột kia, anh thấy như có ngụ ý gì đáng sợ. Nhưng, nghĩ quanh nghĩ quẩn, anh cũng chẳng biết tính toán ra làm sao. Từ chối không được mà làm theo ý ông chủ thì anh thực tình không muốn. Anh không thích chịu ơn của người mà từ lâu anh vẫn hết sức muốn quên đi như quên một kẻ tình địch. Anh nghĩ đến Tép. Trong lòng anh bỗng xôn xao một mối tức giận vu vơ...

Tép ở dưới nhà xách ấm nước lên.

- Ơ kìa? Lão cai Tứ về rồi à?

Thuật chau mày nhìn vợ. Anh đang cần phải gắt bẳn nên nói một câu sẵng giọng:

- Khách về từ tám hoánh mới đem nước ra để làm gì bây giờ?

- Khốn nhưng tôi không thích gặp mặt thằng cha ấy.

Câu nói của Tép càng làm cho Thuật thêm cáu.

- Tại sao lại phải lẩn mặt hắn?

Mình không tà tâm thì việc gì phải xấu hổ.

Tép ngạc nhiên nhìn chồng, hai gò má đỏ ửng.

- Anh nói năng hay quá!

- Hay hẳn chứ lại! Mình ngay thẳng, dù có bị nó ăn hiếp cũng không việc gì mà xấu hổ kia mà! Sao lại phải lẩn mặt?

Tép cáu:

- Nói như anh thì ấy à!...

Tép nói đoạn quay vào buồng vì đứa bé khóc. Cô bế con ra ngoài, nâng niu một cách cảm động.

Thuật nhìn vợ, nhìn con, hối vì những lời gắt gỏng vô lý của mình. Anh giảng hòa:

- Thực khó nghĩ quá!... Từ cũng chết mà nhận cũng phiền...

Tép ngẩng đầu hỏi chồng:

- Cái gì thế, hở anh?

- Lão cai Tứ vừa đến đây bảo rằng từ mai tôi không đi làm nữa...

Tép giật mình lo sợ:

- Chết chửa! Sao lại thế?

Sự lo lắng của Tép cũng như sự lo lắng của anh lúc thoạt nghe cai Tứ nói khiến Thuật đau khổ lạ. Lúc này anh mới nhận thấy cái cảnh vợ con là bó buộc, là một cái lụy cho đời anh tuy cái lụy đó nhiều khi cũng êm ái!... Anh thở dài, nghĩ đến câu Dương nói hôm nào. Anh lẩm bẩm nhắc lại câu nói ấy mà hiện giờ anh đã hiểu thấm thía cái đau đớn của nó:

"- Lấy vợ để rồi khổ với nhau suốt đời ư? Có con để rồi sau này nó lại chúi đầu vào lò than làm culi suốt đời ư?".

Không thấy chồng đáp, Tép nhắc lại câu hỏi:

- Tại sao thế, anh?

Thuật buồn rầu:

- Tại chủ nó muốn cho tôi sang nhà máy để rồi thay vào cái chân của bố trước.

Anh giảng giải để tự dối mình:

- Vì chủ nghĩ đến cái công lao của bố làm với mỏ trong hai mươi năm trời.

Rồi anh nhắc:

- Phải, vừa đúng hai mươi năm trời!

Tép hết lo, cô mỉm miệng cười:

- Thế thì càng hay chứ sao?

Sự vui vẻ nhanh chóng của vợ khiến chồng khó chịu:

- Đã chắc đâu là hay hay dở?

- Làm thay chân của bố vừa nhàn vừa lắm tiền.

Tiền! Lần thứ nhất, Thuật khó chịu vì vợ anh đã nói đến tiền. Cái ám ảnh ấy nó theo bọn dân nghèo như một bệnh hủi. Mỗi lần không thể quên được nó là một lần người ta khổ sở. Bởi thế nên nghe chính miệng vợ anh nói ra, anh lại càng cảm thấy đau đớn vô cùng.

- Phải! Đã đành sẽ lắm tiền hơn, nhưng tôi thích cứ làm ở trong lò...

Tép không hiểu ý Thuật:

- Ơ tại sao lại thế?

- Chẳng tại sao cả! Nhưng tôi không thích dây với tụi có quyền.

- Nhưng mình từ chối sợ nó lại thù oán lôi thôi.

- Thế mới khó nghĩ!

- Đành phải nhận chứ làm thế nào được!

Đến lượt Tép tự dối mình:

- Biết đâu chẳng vì lòng tốt của người ta nghĩ đến công lao của bố ngày trước nên muốn làm ơn cho mình.

- Ấy chính cái làm ơn ấy làm cho tôi sợ nhất. Khi nào một kẻ quyền thế làm ơn cho mình một việc thì mình phải biết ngay rằng họ muốn mình... trả ơn họ...

Thuật nín bặt. Cả hai vợ chồng cùng cúi đầu ngượng nghịu...

Tép chợt nhớ lại buổi sáng ngày lúc cô đi chợ có gặp ông chủ. Thấy cô, ông chủ ngắm nghía mãi đoạn cười mà bảo cô bằng tiếng An Nam: "Độ này, cô Tép trông đẹp hơn xưa nhiều lắm!" Câu ấy và cái nhìn thèm ước của ông chủ khiến Tép nhớ lại mà gai cả thịt. Cô cảm thấy như nó xoáy vào thân thể cô chẳng khác những cái đinh ốc xoáy vào gỗ. Ngay lúc gặp ông chủ, bị ông chủ ngắm nghía rồi khen ngợi, Tép đã có cái cảm tưởng như mình bị lột truồng ra ở trước mặt mọi người... Cô nhớ lại câu chuyện ngày xưa, câu chuyện tuy lâu mà vẫn để trên da thịt cô một vết bỏng như dấu sắt nung đỏ vậy. Cô nóng bừng cả mặt và càng cúi gằm mặt xuống, không dám nhìn chồng trong khi Thuật cũng quay nhìn chỗ khác, vì anh nhận thấy những ý nghĩ ngấm ngầm nó đang giày vò hun đốt lòng anh.

Sự ghen tuông, trong giây phút ấy đã làm cho đôi vợ chồng đương yêu nhau khăng khít trở nên xa cách hẳn nhau, hơn thế nữa, nó làm cho Thuật cảm thấy thù oán vợ.

Anh lẩm bẩm nói một câu, cũng chẳng rõ nghĩa nó ra sao:

- Hừ! Cuộc đời!... Chó lắm!...

 

XIV


Mớ tiếng kêu vỡ lở như sóng cồn lọt tận vào trong nhà máy làm cho Thuật lạnh người:

- Sập lò!... Sập lò!...

Anh hoảng kinh đâm bổ ra đường, chẳng kịp nghĩ gì đến trách nhiệm và công việc. Túm lấy một chị đàn bà vừa chạy vừa kêu như ma bắt, anh quát to:

- Cái gì thế? Sập lò à?

- Phải, sập lò số 4!

Thuật tối mắt lại, trái tim anh như ngừng hẳn; một cái rùng mình lạnh buốt chạy xộc vào tâm hồn anh. Thuật buông người đàn bà ra, chạy đâm bổ về phía cửa lò số 4. Trên đường, người ta lũ lượt cũng chạy cuống cuồng như anh. Ra tới chỗ nạn, Thuật thấy cai Tứ và cả chủ nữa đã có mặt tại đấy và đương đốc thúc phu xẻng cuốc bới nhanh để cứu những người bị nạn...

Thuật rùng mình nhìn mảng đất gò đỏ như rớm máu đã sụt lấp hẳn cửa lò, cái cửa mà mọi khi anh vẫn ngày hai buổi chui ra chui vào như một đàn chuột, cùng với năm người bạn.

Anh mừng thoát nạn bao nhiêu thì anh lại lo sợ cho tính mệnh năm người bạn thân của anh bấy nhiêu.

Nhìn quanh những người có mặt tại đấy, Thuật hỏi vu vơ:

- Tại sao thế các ông? Tai sao cửa lò tự nhiên lại sập được?

Không ai trả lời vì hết thảy còn rối rít kẻ cuốc người xúc đất để cứu bọn người bị nạn mà họ không biết sống chết ra làm sao.

Tiếng ông chủ quát:

- A-lê, mau lên!

Cai Tứ cũng tiếp theo:

- Mau lên các anh! Mau lên không có họ chết ngạt mất!

Hai cái mệnh lệnh khẩn cấp ấy nhắc tới bổn phận mình. Anh giằng cái cuốc ở tay một người phu già rồi ra sức làm việc.

Thực là một cảnh tượng thê thảm! Những người nào cuốc và xúc đất cũng làm mải miết, làm không kịp thở, làm như một bọn người máy bị điện truyền rất mạnh. Những người đứng ngoài thì lăng xăng bàn tán, hỏi han, bàn nhau đoán phỏng, thở than làm cho cái cảm giác kinh khủng càng thêm nặng nề...

Chính ngay cai Tứ và ông chủ cũng tỏ ra vẻ lo lắng nghiêm nghị mặc dầu cái tai nạn kia họ biết chẳng bao giờ lại có thể xảy ra cho bản thân họ được, mặc dầu cái mạng thằng culi, họ vẫn quen coi bất quá như mạng con chó con gà.

Ngót trăm người phu ra sức làm việc hơn một tiếng đồng hồ cửa lò mới thủng được một lỗ bằng miệng thúng. Một luồng khói đen lẫn cả than và cát bụi phụt ra như cái hơi thở từ mồm con quái vật. Bọn phu hoảng sợ nhảy trái sang hai bên và kêu lớn:

- Ghi-du!...

Ông chủ cau mặt hỏi cai Tứ:

- Grisou?

- Uẩy me sừ!

- Cest grave, alors!...

Mặt ai nấy càng tái nhợt vì một khi lò đã bị sập vì hơi ghi-du nổ thì bọn người bị nạn kia không một ai còn sống được nữa. Họ chết cả rồi, mà chết một cách ghê gớm, thảm đạm.

Công việc cấp cứu tự nhiên cũng bớt gấp vì ai nấy đều biết rằng có làm vội cũng chẳng ích gì.

Tuy vậy, dưới ngót trăm cái mỏ cuốc cùng nhắc lên giáng xuống đều đặn, cửa lò đã dần dần mở rộng ra. Mấy người khỏe mạnh nhất, gan góc nhất mà chủ chỉ mặt, trong số đó có cả Thuật nữa cùng leo vào lô ri. Máy chuyển... Lô ri từ từ hạ xuống đáy giếng...

Đám đông hồi hộp chờ...

Độ mười phút sau, cái thây chết thứ nhất được đem lên ánh sáng. Rồi cứ lần lượt cái nọ tiếp cái kia bày sát cánh nhau...

Không ai có thể nhận được xác nào là Dương, xác nào là lão già Mẫn, cái nào là của Thông, của Lộc nữa. Vì, như một đàn lợn bị chết trong đám cháy, tất cả sáu cái xác đều đen thui như than và trương nứt chín nhừ cả ra, không còn lấy một mảy râu tóc, không còn lấy một manh áo quần nào nữa; chân tay thì co quắp lại; mặt mũi biến dạng trông rất ghê sợ và thê thảm.

Trước tình cảnh ấy và nghĩ tình bạn bè, Thuật ứa nước mắt trong khi những tiếng khóc than não nùng của thân nhân các người bị nạn làm vang động một vùng. Không khí như trở nên nặng nề khó thở. Đám đông im lặng tựa hồ bị một cảm giác khủng khiếp làm tê dại đi...

Ông chủ bảo cai Tứ sai người đi mua sáu cỗ áo quan gỗ tạp để sửa soạn chôn cất cho nạn nhân, một mặt ông làm giấy trình các nhà chuyên trách đến khám nghiệm...

Mọi việc sắp đặt đến khoảng ba giờ thì xong. Người ta đem chôn sáu cái xác một cách lặng lẽ không kèn không trống, và sau khi đã an táng thi hài của sáu anh phu mỏ, ông chủ truyền gọi thân nhân họ lên giảng dụ và cho mỗi người hai mươi đồng.

Món tiền hai mươi đồng không thể bù được sự thiệt thòi về cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất mà mỗi gia đình nạn nhân phải chịu. Nhưng đó còn là khá lắm, ông chủ này còn là nhân đức lắm, chứ lần xảy ra tai nạn trước, mỗi nhà chỉ được có năm đồng!

Công việc của pháp luật và của mỏ đối với nạn nhân thế là xong.

Nhưng bọn phu phen thì trái lại bàn tán mãi về cái chết của sáu người anh em cùng số kiếp của họ, sáu người vui tính, ngay thẳng và tốt bụng mà ai cũng yêu mến.

Họ nói mãi, xì xào ở trong xưởng máy cũng như ngoài đường, giữa lúc làm việc cũng như khi ngồi chơi suông:

- Mẹ kiếp, cái đời culi mỏ thực chẳng bằng đời một con trâu cày!

- Sống thì sống nhục sống nhã, sống khổ sống sở mà chết thì chết một cách thảm thê, khốn nạn!...

- Biết thế đấy nhưng vẫn phải đâm đầu vào mà làm. Không làm thì đói cũng chết!

- Hai mươi đồng với một cỗ săng gạo! Đấy, cái giá của mỗi thằng chúng ta.

- Còn là được giá đấy! Lúc hạ thì chỉ một cỗ săng với năm đồng!...

Thuật lắng tai nghe... Anh không nói gì cả nhưng không để sót một câu nào. Anh cúi đầu ngẫm nghĩ, mặt buồn rười rượi. Nhất là câu nói cuối cùng của một anh chàng trẻ tuổi làm cho Thuật càng cảm thấy xót xa.

- Dăm, mười đồng bạc một mạng người!...

Anh lẩm bẩm:

- Chẳng thà họ đừng cho đồng nào lại còn hơn!

Thực thế! Một cuộc đời mất đi cả một mớ thương tiếc, nhớ nhung, đau đớn, sầu não gieo vào lòng những ai là kẻ thân thuộc của người chết. Nếu ta không có phép gì hồi sinh được cái mạng đó thì ta cứ yên lặng cho thân nhân người ta tiếc thương nhau.

Trong đời con người ta cái gì cũng đem đánh giá bằng tiền, cả những nghĩa tình thâm trọng cũng nhiễm hơi tiền, thế thì cái chết nên được thoát li đồng tiền là phải.

Tuy không hiểu và không nói ra một cách rành mạch Thuật rất đau đớn khi thấy người ta đánh giá bằng năm mười đồng bạc cả cái công phu hai, ba mươi năm trời của một người mẹ. Anh cho rằng tất cả cái tàn nhẫn của người đời, có cái ấy là tàn nhẫn hơn hết!

Hết giờ làm, Thuật buồn rầu trở về thấy vợ ra đón ở cửa anh cũng chẳng thèm cười nói gì cả.

Tép cũng biết nguyên do nỗi buồn của chồng nên không oán trách gì. Cô đưa con cho Thuật.

- Anh bế con để em đi dọn cơm.

Tiếp lấy đứa bé, Thuật rùng mình ghê sợ. Anh cố cười lên một tiếng để lấp câu nói của người phu bạn mà không được. Anh cố xua đuổi nó đi nhưng nó càng văng vẳng, rõ rệt bên tai anh: "- Dăm, mười đồng với một cỗ săng gạo! Đó, cái giá của mỗi thằng culi!"...Tiếp liền câu ấy là câu của Dương lạnh lẽo như một lời báo trước đưa lại từ cõi âm: "Đẻ con ư? Để khi lớn lên, nó lại chui đầu vào hầm mỏ suốt đời ấy à?".

Thuật ghì chặt đứa bé vào lòng, thở dài một tiếng não nuột. Đứa bé cựa quậy trong lòng anh làm cho anh càng không thể quên được những lời thảm đạm mỗi lúc một gần lại, một rõ rệt, như mũi kim lạnh buốt đâm vào tim anh...

Tép bưng mâm cơm lên. Thuật ngao ngán nhìn đĩa muối vừng, chén tương, đĩa rau luộc và một khúc cá bày lỏng chỏng trên chiếc mâm gỗ.

- Nào, đưa con cho em mà đi ăn cơm!

Thuật điềm nhiên:

- Mua cho tôi mấy xu rượu.

Tép ngẩng mặt nhìn chồng hình như nghe nhãng.

Thuật nhắc lại, hơi gắt:

- Đi mua cho tôi mấy xu rượu!

Tép nín lặng tìm cái chai con đoạn bước ra ngoài.

Thuật dặn với:

- Mua năm xu ấy!

Chẳng có gì nhắm mà Thuật cũng cứ khề khà ngồi uống. Anh còn nhớ một lần say rượu, anh mê man không nhớ gì nữa cả. Nay anh cũng phải say, say để khỏi thương nhớ bạn, để khỏi phải nghĩ ngợi vẩn vơ, và nhất là để khỏi ngậm ngùi cho cái số kiếp mình, số kiếp của vợ con anh mà anh không thể nào thay đổi khác được, mặc dầu anh rất muốn thay đổi.

Tép vừa ủ con vừa ăn, thỉnh thoảng lại nhìn trộm Thuật. Chồng chị vẫn khề khà uống, vẫn khề khà nhấm nháp, vẫn âm thầm bực dọc.

Một bầu không khí nặng nề bao phủ hai vợ chồng trẻ, mọi khi hễ gặp nhau là vui như hội, nói cười ríu rít như đôi chim xuân...

Tép khó chịu vì sự im lặng kéo dài bèn cất tiếng nói:

- Tội nghiệp các anh ấy quá!

Thuật cúi đầu thở dài.

Tép lại tiếp theo, cố gợi chuyện:

- Vừa mới hôm nào uống rượu ở đây còn nói cười nheo nhéo thế mà nay đã thành ma!

- Ấy cái số kiếp những thằng nghèo là khốn nạn như thế cả!...

- Anh có được nom thấy tận nơi không?

- Thì chính tôi xuống lò để khuân xác các anh ấy lên mà lại.

Tép sợ hãi:

- Ghê lắm đấy nhỉ?

- Lại chả ghê! Anh nào cũng cháy đen lại, trương nứt lên, ruột gan lòi cả ra như những con lợn chết cháy.

Tép nhăn mặt:

- Trời!...

Rồi cô nhìn chồng bằng một vẻ nửa mừng nửa sợ:

- Thế mà không lên nhà máy làm thì có chết không! Thực rõ phúc đức quá!...

Thuật cầm chén rượu uống để khỏi trả lời vợ.

- À, thế anh có nhận được mặt các anh ấy chứ?

- Nhận thế nào được nữa! Đã bảo nó cháy đen lại...

- Chết chửa! Thế người ta làm thế nào mà nhận được để đánh dấu mồ mả về sau này?

- Lúc sống còn chẳng ra chó gì nữa là lúc chết!

- Thì cũng phải nhận lấy mồ mả chứ?

- Vẽ chuyện, đất rừng, mấy mống cỏ tranh mọc rậm kín ngay đấy mà.

Thuật lại uống; mặt anh đỏ gay gắt, mắt anh nhìn trừng trừng; giọng anh nói như thấm đầy nước lệ...

- Hừ! Anh Dương!... Nghĩ lại những lời anh nói lại thương anh quá! Nhưng thôi, chết quách cả đi, đem mối hờn giận vùi xuống đất thế lại xong. Sống ngày nào chỉ kéo thêm khổ não ra ngày ấy chứ ích gì!

Thấy chồng nói những câu sầu muộn uất ức, Tép sợ lại gây ra sự bất hòa như mọi khi nên cô cứ lẳng lặng mặc chồng.

Thuật nói nhiều lắm; giọng anh càng lâu càng ngùi ngùi như khóc tỏ ra trong lòng anh chứa chất nhiều phiền não ngấm ngầm.

Tép ăn xong, vô phép cơm chồng để đứng dậy. Thuật bảo:

- Mình vào buồng đặt cho con ngủ rồi ra mà dọn dẹp đi. Tôi không ăn cơm đâu. Đáng lẽ tôi làm đỡ nhưng say quá...

Tép thở dài. Từ khi hai người lấy nhau, lần này là lần thứ nhất Thuật uống rượu đến say. Tép buồn rầu và lo rằng từ nay Thuật sẽ cứ say mãi mãi, vì Tép biết rằng chồng mình tuy là người ít chữ nghĩa nhưng thực hay tư lự lắm. Mà để khuây buồn, người đàn ông, nhất là khi người ấy lại chỉ là một anh phu mỏ nghèo hèn, còn có gì tiêu khiển ngoài mấy chén rượu cồn nữa?...

Tép lo lắng và nghĩ vơ vẩn đến cái chết của ông già Tị. Cô cảm lờ mờ thấy rằng cuộc đời của người phu mỏ nào thì rồi cũng như nhau cả, cùng một kiểu mẫu, cùng một đường lối thế thôi.

Trong khi Tép vừa dọn dẹp vừa nghĩ ngợi như thế thì Thuật nằm lăn ra phản ngủ lúc nào không biết. Mắt anh giương lên, lờ đờ như mắt lợn luộc; miệng anh há hốc và tự trong đó bay ra một tiếng khò khò đều đặn và nồng nặc hơi men.

 

XV


Thuật đến nhà cai Tứ vào lúc hơn bảy giờ tối.

- Ông cai gọi cháu có việc gì vậy?

Cai Tứ cười một cách vui vẻ:

- Ngồi buồn chẳng biết làm gì thì gọi anh em lại chơi cho vui đấy chứ có chuyện gì.

Nói đoạn cai Tứ mời Thuật cùng nằm lên ghế ngựa đã bày sẵn khay đèn, một ít bánh ngọt và một chai rượu tây.

- Lên đây, bác Thuật. Lên đây nói chuyện cho vui.

Nể lời, Thuật nằm ghé xuống một bên khay đèn.

- Chỗ bà con mình, tôi vì bận công việc không hay lại chơi chứ trong lòng thì lúc nào cũng nhớ đến ông cụ nhà ta khi trước.

- Cảm ơn ông có lòng nghĩ đến bố cháu.

- Thực thế! Ông cụ nhà khi xưa tính nết ngay thẳng và vui vẻ, tôi rất ưa. Tôi vẫn thường nói rằng bác cũng được cái tính quý hóa ấy.

Mở xong hộp thuốc, cai Tứ nằm xuống và cầm tiêm bắt đầu làm việc.

Mồi thuốc giãy giụa trên ngọn đèn trong suốt, thỉnh thoảng xì khói thơm ngào ngạt. Thuật tò mò nhìn các đồ dùng sang trọng và nảy ra những ý nghĩ vẩn vơ...

Điếu thuốc thứ nhất xong.

Cai Tứ quay dọc tẩu về phía Thuật.

- Làm đi.

Thuật vội từ chối:

- Xin mời ông thôi, cháu không quen dùng cái này.

- Vẽ, làm anh con trai thì phải hút thuốc phiện mới được chứ! Kéo đi xem nào?

Nể lời, Thuật đành bắt lấy đầu dọc. Anh thở một hơi khói dài, vẻ mặt bắt đầu hơi tơ mơ...

Cai Tứ rót cốc rượu.

- Uống đi. Thuốc phiện mà hãm sâm-banh với hoa quả thì thần tiên.

Là con nhà nghèo, Thuật đã bao giờ được nếm mùi phú quý! Chàng nghe nói rượu sâm-banh thì liền có một cảm giác lạ. Thuật tò mò vì xưa nay vẫn thấy người ta nhắc đến tên thứ rượu quý ấy mỗi khi có tiệc tùng hay biếu xén gì sang trọng. Bởi thế nên không để cai Tứ nhắc đến lần thứ hai, Thuật đã nhỏm dậy, cầm cốc rượu đưa lên mũi khẽ hít cái hương thơm là lạ, đoạn nhấp một ngụm mà nghe ngóng xem cái vị nó thế nào.

- Thứ rượu này quý lắm, những bảy đồng một chai.

Thuật choáng người, nhìn cai Tứ để xem lão nói thực hay đùa.

Cai Tứ vẫn nghiêm trang:

- Ông chủ cho tôi đấy chứ. Như mình thì bố thằng nào dám bỏ tiền ra một lúc ngót chục đồng bạc để mua chai rượu uống chơi bao giờ!

Thuật lẩm bẩm:

- Bảy đồng! Gần một tháng công của cháu!

Cai Tứ cười mũi:

- Hừ! Gần một tháng công hẳn chứ lại bỡn.

- Giá vào tay mình thì bảy đồng mua được biết bao nhiêu là thứ!

- Cái ấy đã đành rồi!

Điếu thuốc thứ nhì đã xong. Tứ lại quay dọc tẩu về phía Thuật:

- Luôn đi.

- Ấy, xin rước ông. Cháu làm một điếu thôi.

- Đừng có nói nhảm! Thuốc phiện một điếu người ta không cười cho thối óc.

Trong lúc Thuật lấy hơi kéo điếu thuốc trôn quýt, cai Tứ cầm tiêm khẽ gõ vào dọc tẩu và ngâm nga theo giọng hát cô đầu:

- Nhân sinh ư... ư... quý thích chí! Chẳng gì hơn... hú hí với Phù Dung ư... ư...

Thuật thở phào một tiếng đoạn lẩm bẩm:

- Chà!... Thuốc phiện hút vào nó tơ mơ đến lạ, y như người đi tàu bay...

Cai Tứ cười:

- Chính thế! À này, làm trên nhà máy thú đấy chứ?

- Vâng, công việc ở đấy thì bao giờ cũng nhẹ nhàng hơn!

- Và lại chắc chắn. Giá anh còn làm ở dưới lò thì phải biết!

Thuật nhớ đến cái tai nạn hôm nào.

- Vâng, cháu thực là chết hụt!

- Ấy thế mà lúc đầu tôi nói anh lại còn định chối từ kia đấy!...

Ngừng một lát cai Tứ lại nói:

- Thế mới biết, các bác còn trẻ người non dạ bao giờ cũng hay khí khái hão.

- Có phải là khí khái đâu! Nhưng mà...

- Bác phải biết rằng ở đời này không gì bằng đồng tiền. Có tiền mua tiên cũng được! Bác làm dưới lò, bất quá mỗi tháng được hơn mươi đồng chứ bao nhiêu. Số tiền ấy làm sao đủ cho hai vợ chồng lại một đứa con nữa. Ấy là chưa kể khi ốm đau, khi xảy ra công kia việc nọ... Thế mà nhờ ơn ông chủ, bác nhất đán được vào làm trong nhà máy, mới học việc mà lương đã được mỗi tháng hai chục đồng, còn may mắn, sung sướng nào hơn nữa?

- Cháu cũng biết thế.

- Làm việc gì thì cũng phải cốt có chủ. Ông chủ là cái đầu. Mình phải làm thế nào cho chủ càng ngày càng yêu mến, càng tin cậy mình mới được. Chủ mà đã yêu mình thì tha hồ mà ngang dọc sung sướng. Anh xem như tôi, mỗi tháng làm ra hàng ba, bốn trăm bạc, tha hồ ăn tiêu lại tậu được vô số vườn ruộng ở nhà quê, lấy hai, ba vợ.

Hút một điếu thuốc; uống một hớp rượu xong cai Tứ lại nói:

- Tay mang túi bạc kè kè, nói quấy nói quá kẻ nghe rầm rầm... Người ta cứ hễ có tiền thì thối như cứt cũng có đứa lạy, mà nếu đã kiết thì vợ nó còn khinh đấy, chẳng nói ai xa nữa!...

Bài học sỗ sàng của cai Tứ khiến Thuật mơ màng, ngao ngán. Nó làm cho những điều tin tuởng tha thiết nhất của lòng anh phải lung lay.

- Tôi không phải nói khoe chứ tôi từng trải đã nhiều, hiểu biết sự đời đã nhiều rồi. Tôi đau đớn vì sự đời còn gấp trăm gấp nghìn anh. Bây giờ tôi không tin sự gì nữa mà chỉ tin độc một đồng tiền. Ông Tây ông ấy bỏ quê hương, sang nước mình để làm gì? Cũng chỉ để kiếm tiền. Mình sống ở đời chỉ nên làm cho ra tiền để bắt trăm nghìn kẻ khác phải cúi đầu chắp tay trước mắt mình, thế là sướng. Cho nên dù có phải vứt bỏ hết tất cả những cái gì yêu quý nhất để được đồng tiền tôi cũng không từ chối. Vì mất cái ấy tôi đã có tiền để mua cái khác. Mà cái khác có lẽ lại còn tốt đẹp hơn...

Dứt lời, cai Tứ khẽ liếc nhìn Thuật để dò la ý tứ.

Thuật vươn vai ngáp và than thở:

- Sự đời chán thật!

- Chán mà không chán. Thằng nào nghèo khổ thì chán là phải vì một thằng đã không có tiền thì còn đếch gì nữa. Còn như những người giàu tiền lắm của thì người ta vui như tết chứ chẳng đời nào lại thấy sự đời là chán hết. Người ta thường nói chuyện và khen những tay đạo sĩ có nhiều phép lạ. Tôi, tôi cho không có nhà đạo sĩ nào lắm phép thần thông bằng tiền. Một túp lều hôm nay còn lụp xụp, tối tăm như cái tổ chuột. Thế mà vung tiền ra một cái, ngày mai túp nhà lụp xụp đó đã biến thành một tòa lâu đài đồ sộ. Một thằng người hôm nay còn khố rách áo ôm, vợ con rẻ rúng, bạn hữu chê cười, ngày mai đã có thể trở nên một ông chúa tể, được hết thảy sùng phụng, nịnh hót và có quyền hét ra lửa như thiên lôi...

Thuật cười:

- Cháu cũng biết nhưng còn cái cách làm ra tiền cho thực nhiều thì khó lắm!

- Chỉ những thằng ngu mới kêu khó! Anh mà nghe tôi thì tôi sẽ bảo anh một cách này...

- Thế thì còn nói gì nữa!

- Trước hết, anh phải làm thế nào cho chủ yêu đã. Chủ yêu tức là mình có quyền...

- Làm thế quỷ nào cho chủ yêu được bây giờ?

- Anh thử xem tôi! Nội trong cái mỏ than này, nhất thì chủ, nhì đến tôi, còn ai hơn được? Ngoài số bạc trăm tôi kiếm hàng tháng, tôi còn được chủ luôn luôn cho thứ này thứ khác. Tôi chỉ nói một câu tỏ ý thèm rượu là chủ cho ngay hai chai sâm-banh kếch sụ, đáng giá mười bốn đồng...

- Nhưng cả mỏ này chỉ một mình ông được thế chứ ai ai cũng có thể làm cho chủ yêu được hay sao!

- Cái ấy đã đành! Nhưng, riêng phần anh thì lại khác, anh cũng có thể làm được như tôi...

Ngừng lại để hút điếu sái nhất, cai Tứ rình vẻ mặt Thuật để dò xem ý anh ta như thế nào rồi lâu lâu mới nói:

- Như anh bây giờ đang được chủ để ý đến. Đó là một sự may mắn hiếm có. Anh phải biết lợi dụng mới được. Tôi thấy anh là người tốt cũng muốn giúp anh nhưng chẳng biết anh có chịu nghe không?...

- Ông đã có lòng thế, bảo gì mà cháu không nghe.

Cai Tứ sung sướng như bắt được của.

- Tôi nói, anh nghe thì nghe, không nghe thì thôi, đừng có giận mới được.

- Khi nào cháu lại giận!

- Chẳng nói giấu gì anh: Hôm nay tôi sở dĩ mời anh lại chơi cũng là vì ông chủ bảo thế...

Thuật giả cách ngạc nhiên để xem cai Tứ giở những trò gì.

- Ồ! Lại thế nữa?

- Chính thế đấy! Chủ bảo tôi mời anh lại chơi vì chủ muốn cầu anh một việc...

- Ông chủ sai cháu làm gì mà cháu chẳng phải làm!...

- Việc này hơi khó. Nguyên khi trước, ông cũng đã... biết chị Thuật...

Anh chàng tái mặt... Nhưng vẫn lắng tai nghe.

- Giá ông chủ không có bà đầm ở đây thì chị ấy đã chẳng đến phần anh. Bây giờ tuy anh chị đã lấy nhau mà ông chủ vẫn còn tơ tưởng chị ấy lắm... Ông muốn bảo tôi nói với anh thỉnh thoảng... để chị ấy lên chơi trên nhà chủ...

Thuật cố điềm tĩnh:

- Nhà cháu thì xấu xa vụng dại lắm, bằng sao được bà cai nhà ta, sao ông không nói với chủ...

- Ồ, anh này ăn nói mới lạ chứ?...

- Kìa! Thế ông giận à?... Ông mới nghe tôi nói thế mà đã giận, dễ thường tôi nghe ông nói, tôi không tức hay sao? Vợ ông, ông còn muốn giữ thì vợ tôi, tôi cũng tiếc chứ lại! Cớ sao ông lại đem cái điều chính ông không thích mà xui tôi làm?...

- Anh khác, ví với tôi làm sao được?

Thuật nhếch mép cười:

- Phải, tôi với ông thì có bao giờ lại giống nhau.

Cai Tứ ngồi nhỏm dậy.

- Cái ấy đã hẳn. Một thằng khố rách như anh ví với tôi thế nào được!

- Một thằng khố rách nhưng nó là người thì không bao giờ lại ví được với giống mặt người dạ chó.

- À, thằng này giỏi! Mày dám láo với ông thì mày sẽ biết!

- Biết thì mày làm cái gì? Đáng lẽ tao đập cái chai này vào mặt mày từ nãy nhưng vì tao sợ bẩn tay nên lại thôi.

- Ông thì tống cổ mày đi!

- Mày không tống thì tự tao tao cũng đi. Tao không thể nào ở lẫn với một đàn chó được.

Thuật đứng dậy.

Trước khi bước ra, anh còn bảo cai Tứ:

- Mày liệu cái hồn mày đấy. Bây giờ thì tao không thèm nói gì nhưng sau này, hễ mày còn vác cái mặt chó ra trước mắt tao thì mày đừng có trách!...

Máu uất đưa lên đến cổ, cai Tứ vớ ngay cái chai ném thẳng vào mặt Thuật.

Né mình tránh khỏi, Thuật điên tiết nhảy sấn lại đè ngửa cai Tứ xuống giường, hai bàn tay bóp chặt lấy cổ lão và lắc mạnh.

Ngay lúc ấy, chủ mỏ than ở ngoài vào. Người Tây không kịp nói năng, chạy lại nắm tay Thuật du ra.

Đương cơn giận, Thuật đánh vong mạng, chẳng phân phải trái gì nữa đoạn anh đạp bung cánh cửa nhà cai Tứ rồi chạy ra đường.

Tép lúc ấy hãy còn thức để đợi chồng. Thấy Thuật ở ngoài xồng xộc bước vào, mặt đỏ gay gắt, hai mắt sáng lóng lánh, chị ta giật mình đoán ngay có sự gì không thường xảy ra:

- Cái gì thế anh?

- Mẹ bố những quân chó má quá!... Hừ, đồ mặt người dạ thú!... Ông thì ông quyết liều mạng với chúng bay phen này!...

- Nhưng mà cái gì mới được chứ?

- Cái gì! Lại còn cái gì!... Thằng cai Tứ nó gọi lên tưởng bảo gì chẳng hóa ra nó tỉ tê bảo mình đưa vợ lên cho chủ...

Tép nóng ran cả người; mặt chị cũng đỏ bừng như gấc chín.

- Tiên sư đồ đểu!

- Tôi chửi cho nó mấy câu. Nó không biết xấu lại còn vớ chai để chực đánh. Tôi bóp cổ cho một mẻ, tí chết. Cũng là phúc cho nó mà thằng chủ nó vào...

- Chủ cũng đến à?

- Phải, nó du tôi. Tức mình, tôi choảng cả đôi...

Tép hốt hoảng:

- Chết chửa!... Anh đánh thế thì nguy với chúng nó!...

- Sợ gì! Một mất một còn! Tôi không sợ gì cả. Chúng nó bỏ tù mình là cùng chứ gì! Thì mình cũng đã dạy cho chúng nó một bài học làm người rồi!...

 

XVI


Suốt đêm hôm ấy, hai vợ chồng thức chong, không thể ngủ được. Cả hai cùng chờ đợi một sự gì sẽ xảy ra...

Thuật nằm chán lại ngồi lên và luôn luôn hút thuốc lào... Cơn tức giận qua, anh bắt đầu trông thấy sự thực, một sự thực hãi hùng. Lấy một tên phu mỏ mà dám chống cự với ông chủ và một ông cai thần thế, Thuật nhận thấy mình đã làm một việc cực kỳ mạo hiểm: Đem trứng chọi với đá vậy.

Kẻ quyền thế kia bao giờ chịu im. Họ sẽ tìm hết cách để báo thù, mà những kế sách họ sẽ dùng để hại Thuật chắc ghê gớm lắm, tuy anh chưa biết đích nó ra làm sao.

Thuật không sợ chi cả, một khi anh đã dám táo bạo làm cái việc anh đã làm. Thì kẻ thù của anh cũng đến làm tù làm tội anh là cùng chứ gì! Anh đã chơi dao khi nào anh còn sợ đứt tay. Anh cầm bằng như anh cùng với bọn Dương, Mẫn chết cháy ở trong lò rồi.

Anh sở dĩ băn khoăn lo lắng, chỉ vì còn vướng có vợ con. Anh không thể biết rằng sau khi anh bị hại về tay kẻ thù rồi thì vợ con anh sẽ ra làm sao? Vợ anh trơ trọi một mình giữa một đám người đểu giả, liệu có giữ được toàn chăng? Nếu vợ anh sẽ quên anh, sẽ thay lòng đổi dạ thì anh cũng đành một bề, không nghĩ ngợi gì nữa. Nhưng nếu vợ anh lại là người có tâm địa khá, hết sức thương anh mà bị bọn kẻ thù anh nó hà hiếp, nó đè nén thì anh đau đớn biết chừng nào? Lại còn con anh nữa, giọt máu của anh, đứa con còn ngây thơ trứng nước kia làm thế nào mà tự toàn được tính mệnh? Chẳng khỏi sẽ bị chết vùi chết gí ở một xó nào hoặc có sống lay sống lắt thì suốt đời con anh cũng chỉ đến làm tôi tớ cho kẻ khác để mà chịu lấy tất cả mọi sự bất công, mọi sự độc ác của người đời.

Thuật ngao ngán quá. Lúc này anh hoàn toàn ngã lòng, không tin một sự gì tốt đẹp nữa. Anh không tin ở trời, không tin ở sự công bình, không tin ở nhân đạo, không tin ở một cái gì hết. Mà người ta khi đã không tin ở sự gì nữa thì chính là lúc người ta khổ sở nhất, chính là lúc cuộc đời trở nên một thứ cực hình.

Tép lo lắng bảo chồng:

- Em sợ quá, anh ạ. Không biết rồi ra làm sao!

Thuật cúi đầu im lặng. Anh hối hận vì đã có vợ có con. Giá lúc này, anh trơ trọi như Dương chẳng hạn thì anh sẽ thảnh thơi và bình tĩnh biết chừng nào!

Nhưng, sự hối hận bao giờ cũng chậm. Anh hối hận chậm rồi. Anh không thể nào làm khác được nữa. Ngoài những đau đớn của chính thân anh, anh còn phải đau đớn vì vợ con nữa. Mà nỗi đau đớn này mới thực não nùng...

Bỗng xa xa, tiếng còi nhà máy rúc một hồi dài như gắt gỏng...

Thuật bồi hồi nhận thấy trong tiếng còi ấy một ý nghĩa mới lạ; anh thấy nó biến thành một cái hiệu của sự đoạn tuyệt giữa anh với mỏ. Từ đây, thế là thôi, chẳng bao giờ anh lại còn bước chân vào cái nhà máy ấy nữa. Trước mặt anh mở ra một cái tương lai đen tối...

- Nào! Thử xem cơ sự sẽ xoay ra làm sao!...

Thuật vừa dứt lời thì bên ngoài có tiếng gọi:

- Mở cửa!... Mở cửa mau!

Thuật nhảy từ trên giường xuống đất. Anh chạy ra mở rộng hai cánh cửa thì thấy lố nhố một đám đông vừa Tây vừa ta. Hai người phú-lít vồ lấy anh như chộp một con thú dữ khi họ nghe cai Tứ trỏ anh và nói:

- Chính nó đấy!

Thuật không kháng cự, cũng không nói năng gì. Anh chỉ giương mắt lên nhìn và nhận thấy ngoài hai người phú-lít, cai Tứ, chủ mỏ còn một viên cẩm Tây, vẻ mặt rất dữ tợn.

Viên cẩm bước vào nhà, nhìn quanh các xó xỉnh một lượt, đoạn hắn hỏi Thuật bằng tiếng Pháp rồi một người phú-lít dịch miệng ra tiếng An Nam:

- Tên mày là Thuật có phải không?

- Phải.

- Thẻ mày đâu?

- Các ông để tôi lấy.

Họ buông hai tay Thuật ra nhưng họ vẫn đứng kèm sát bên mình Thuật.

Anh thò tay vào bao da ở thắt lưng lấy tấm thẻ đưa cho người phú-lít.

Viên cẩm Tây cầm lấy, đọc:

- Ngu... yên... đin... thu.. ất?

- Phải.

- Village Y-Yên?... Nam-Đìn?...

- Phải.

Một hồi tiếng Tây tiếp theo bằng một câu tiếng ta dài và hách dịch:

- Nguyễn Đình Thuật!... Mày can về tội chực ăn cướp tiền ở nhà ông cai Tứ rồi lại hành hung đánh người bề trên...

Thuật cãi:

- Không phải! Họ vu khống! Tôi...

Chủ mỏ quát:

- Im cái mồm!...

Một người phú-lít cũng nói:

- Phen này thì rũ tù, con ạ! Cứ bướng vào, đồ cộng sản!...

- Emmenez-le!

Một lệnh của viên cẩm truyền; hai người phú-lít tức khắc lôi bừa Thuật ra đường cái.

- Tép từ nãy vẫn đứng yên cũng chạy theo chồng và khóc bù lu bù loa:

- Anh ơi!... Khổ thân chồng tôi nào có làm gì nên tội!... Người ta ăn hiếp chồng tôi để cho cha lìa con, vợ lìa chồng!...

Viên cẩm thét mắng.

Hai người phú-lít quay lại chửi như tát nước vào mặt chị:

- Tiên sư mày!... Có câm cái mồm đi không? Già họng lại bỏ mẹ sớm!

Tép cứ kêu khóc váng lên. Hàng xóm đổ ra đông nghịt.

Đằng này họ cứ lôi bừa Thuật về bót. Tép lăn khóc rất thảm hại. Người ta tò mò xúm lại hỏi:

- Này, cái gì thế, chị Thuật?

- Ông cả bà nhớn thử xem vợ chồng tôi có ức hay không?...

- Nhưng mà cái gì mới được chứ?

- Hôm qua bố cháu đi làm về thì người nhà ông cai Tứ gọi lên chơi. Tưởng ông ấy bảo gì chẳng hóa ra ông ấy dỗ dành bố cháu một việc mà chỉ có đồ chó ăn phân không biết dơ mới có thể làm được...

Mấy anh con trai tinh nghịch vội ngắt lời Tép:

- Nhưng việc ấy là việc gì mới được chứ?

Rồi phá lên cười.

Những người đứng đắn vội mắng:

- Ồ! Các anh không nên thế! Thấy người cùng hội cùng thuyền bị ức hiếp, các anh không thương hại thì thôi sao lại nỡ chế giễu như thế cho đành.

Bọn kia bị mắng đều im thin thít.

Họ giục Tép:

- Rồi sau làm sao nữa hở chị?

- Nhà cháu giận quá, phân trần với ông cai thì ông ấy giở mặt chửi bới ngay lại cầm chai ném bố cháu. Ông bà tính con giun xéo lắm cũng quằn nữa là! Bố cháu ngu dại, xấu ăn xấu nói lại hay cục tính nên có vùng vằng đối lại thì ông cai kêu rầm lên rồi thêm ông chủ đến đổ cho bố cháu cái tội chực ăn cướp tiền thế rồi bắt đem đi...

Nói đến đây, Tép cực thân lại khóc:

- Ối trời ơi, không biết người ta đem chồng tôi đi đâu, làm tình làm tội những gì hở trời...

Đám đông im lặng, cảm động. Có người thở dài chùi nước mắt. Có người nắm tay hằn học:

- Bố đồ chó!... Nó ăn hiếp người ta đến thế là cùng!...

- Nó bám lấy mình, rút hết mồ hôi, nước mắt của mình rồi lại đè nén mình!...

- Xúm lại mà đánh cho nó mất mạng đi!!...

- Nhưng làm thế nó lại bảo mình làm loạn mà bắt đi cả xốc thì chết...

- Sợ gì!... nếu sợ thì nay nó ức hiếp người này, mai nó đè nén người khác, nay nó thấy vợ tôi đẹp nó gạ, mai nó gạ em gái anh... Phải làm cho nó một mẻ cho nó hết cầu công danh, hết nịnh chủ đi mới được!...

- Ừ, vợ nó nó không đem dâng chủ, nó lại cứ gạ người ta đem dâng vợ của người ta.

- Đồ xỏ lá!

- Đánh!

- Đánh bỏ mẹ nó đi!

Ông già giơ tay:

- Thong thả. Các anh phải bình tĩnh bảo nhau mới được. Nếu cứ hung hăng thì ở đây tai vách mạch rừng, việc chưa thành đã lụy đến thân vô ích!...

- Ông cụ Nam nói phải đấy. Ta hãy bàn nhau kỹ đã mới được!

- Bây giờ, các anh hãy cứ đi làm đi. Cứ như không có chuyện gì cả. Rồi, có thế nào, tôi sẽ báo anh em sau.

Ai nấy khen phải, tản đi mỗi người một nơi. Tép thấy có sự bênh vực nên cũng yên lòng nín khóc.

- Chị Thuật nữa, hãy cữ ẵm cháu về để xem câu chuyện xoay ra thế nào đã?...

- Tép vâng lời ông già bế con về. Chị ngồi thừ ra ở ngưỡng cửa, cũng chẳng thiết gì đến ăn uống, cũng chẳng còn nhớ việc gì nữa.

Suốt ngày hôm ấy, ngoại vật đối với chị như bao phủ trong đám sương mù. Chị mệt mỏi rời rã cả thân thể; như một chấm đen trên nền u ám, cái hình ảnh của chồng chị mỗi lúc một xa mờ đi trên con đường mù bụi...

Chị loanh quanh trong mấy gian nhà, ngồi xuống bậc cửa, nhìn ra đường, đứng dậy và thở dài thườn thượt... Lắm lúc chị hoảng hốt nhìn quanh; đầu óc như rỗng không, chị tìm tòi luẩn quẩn mà thực ra chẳng biết là tìm vật gì...

Chị không đói nhưng khát lắm. Chị uống từng gáo nước lã một thế mà trong ngực chị vẫn như có cả một lò than rừng rực. Chị vừa lo lắng vừa tủi nhục...

- Làm thế nào bây giờ?...

Chị tự hỏi như thế rồi cũng không biết làm thế nào cho phải.

Hàng xóm sang thăm tấp nập. Họ khuyên giải chị, phàn nàn ái ngại cho chị và hứa chắc rằng nếu ai dám bắt nạt hay ức hiếp gì chị nữa họ sẽ bảo chồng con họ bênh vực chị một cách quyết liệt.

Tép nghe những lời êm ái đó cũng nguôi nguôi và được yên lòng. Chị không lo gì cho phần chị nữa mà chỉ lo cho chồng. Chị gượng nói chuyện với mọi người, gượng cười, gượng tươi tỉnh nét mặt lên.

Nhưng lúc mọi người ra về thì Tép lại thấy trong mình như trống rỗng, như lặng lẽ buồn tẻ thế nào ấy.

Chị ôm con ra ngồi ở ngưỡng cửa, nhìn hàng trống canh đằng trước mặt mà không thấy gì cả. Chị cứ ngồi ỳ ra như thế cho đến lúc trời tối sập xuống. Chị cũng chẳng buồn thắp đèn và cũng toan thôi không ăn nữa. Nhưng, vì sợ thiếu sữa cho con bú Tép phải quấy một niêu cháo hoa và khi ăn xong chị liền đóng cửa ngõ đoạn ẵm con vào buồng.

Chị ngủ một cách chập chờn, hoảng hốt... Lúc chị mơ thấy chồng chị được về hai vợ chồng lại thấy nhau xiết bao mừng mừng tủi tủi. Lúc thì chị thấy chồng chị phải tù tội, phải đày ải như những người nhà pha mà chị vẫn gặp ở đường phố: đầu trọc tếch như cái sọ dừa, mặt gầy guộc và xanh sao, hai mắt hõm lại, hai gò má dồ ra, môi nhợt, da xanh bủng. Mình mặc áo cộc có in số, quần ống xoăn như vòi voi, chân giẫm đất. Anh cò rò khiêng đá, khiêng gỗ, đi chẳng được mà còn bị lính tráng họ vụt roi vào đầu, vào cổ, vào mặt túi bụi... Có lúc chị nằm thấy ông chủ đem chồng chị và chị đi một nơi rõ xa, không cho làm mỏ nữa nhưng không làm hại. Chị cảm ơn quá, cảm ơn chính kẻ thù của chị rồi hai vợ chồng đưa nhau đi, lang thang trên đường gió bụi...

Sau cùng Tép nằm mê thấy cả mỏ nổi lên để bênh vực Thuật. Bọn culi nhất định đình công như Dương đã thuật lại hồi anh còn ở mỏ Vàng Danh 1. Họ không đi lò, không vào nhà máy nữa. Họ tụ họp nhau ở ngoài đường thành ra như một cái bể người nổi sóng. Giữa lúc ấy cai Tứ hiện ra. Bọn phu nhao nhao:

- Thả ngay Thuật ra!

- Lại cho anh ấy đi làm và không được kiếm chuyện gì với anh ấy nữa!...

Cai Tứ quát tháo chửi mắng mọi người.

Tức thì một tiếng reo hò như sấm sét. Hàng nghìn người cùng vây quanh lấy cai Tứ. Rồi không biết từ đâu Thuật nhảy xổ ra, tay cầm một thanh sắt lớn. Anh nhằm giữa đầu cai Tứ mà giáng xuống một cái thật lực. Một tiếng kêu khủng khiếp. Cai Tứ ngã lăn ra, máu me lênh láng...

Ngay lúc ấy thì ông cẩm đến cùng với vô số là lính tráng. Người nào cũng mang súng có gắn lưỡi lê sáng quắc. Họ vây đám đông vào giữa, đánh đập lung tung. Tiếng người kêu, tiếng gậy gộc đập chí chát nghe rất ghê rợn. Bỗng tiếng Thuật vẳng lên:

- Anh em, đánh cho chết cả chúng nó đi!

Ông cẩm trông thấy Thuật vội hô một câu rắn rỏi.

Tức thì một loạt súng nổ.

Thuật ngã lăn ra đất, ngực thủng như một cái tổ ong và từ những vết thương ấy, máu đỏ phun ra như cống thụt...

Tép rú lên một tiếng, giật mình tỉnh dậy. Khắp người chị, mồ hôi vã ra lạnh ngắt. Chị hoảng kinh, ngồi nhỏm lên ở giữa giường, đưa mắt nhớn nhác nhìn quanh...

Tối tăm và im lặng...

Trong bóng tối đầy những hãi hùng khủng khiếp, cái đồng hồ nhà ai thong thả buông bốn tiếng rè rè như đẫm nước mắt...

--------------------------------

1

Bản gốc in nhầm là Vàng Xanh, chúng tôi chỉnh lại là Vàng Danh - Theo đề nghị của cụ Hà Thị Minh Kim.

 

XVII


Người ta dẫn Thuật vào một gian buồng hẹp ở trong một xó sở Cẩm. Gian buồng đo mỗi bề độ hai thước, trần rất cao. Trong buồng có một cái sàn gỗ liền tịt vào ba phía tường trong. Ở mép sàn ngay cửa vào đóng một cái cùm sắt lớn dài theo bề dài của sàn lim.

- Vào đây!

Thuật lẳng lặng bước vào yên trí rằng mình đã không có tội gì thì pháp luật sẽ minh xét và rồi thể nào cũng được tha bổng.

Tin như thế nên khi cánh cửa sắt khép lại, Thuật điềm nhiên nằm xuống cái phòng ẩm sì và lạnh lẽo. Không khí tù hãm trong bóng tối sặc sụa những mùi mốc, mùi nước đái rất khó chịu. Thuật nhăn mặt, tự hỏi sao người ta lại có quyền giam người vào một nơi bẩn thỉu dường này, nhất là khi người bị giam không phạm tội lỗi gì hết? Anh nằm trơ ra đó, thân thể mệt nhừ, song tinh thần rất tỉnh táo. Có điều những ý nghĩ của anh không có mạch lạc gì hết. Anh nghĩ vẩn vơ đến vợ, đến con, đến cảnh mình bị ức hiếp: Anh nhớ lại cảnh tượng ở nhà cai Tứ đêm hôm qua, những lời hắn dỗ dành anh. Thuật rùng mình ghê tởm và tự hỏi sao lại có người can đảm đến dám nói những câu như cai Tứ đã nói với một người mà không ngượng nghịu, không hổ thẹn! Anh ôn lại cái cảnh tượng anh bị bắt sáng nay. Sau cùng, Thuật cố tưởng tượng ra những câu hỏi mà quan tòa có thể đem ra hỏi anh được. Anh lẩm bẩm:

- Nó vu cho mình chực cướp tiền? Hừ, quân đểu thật!... Ra tòa, nếu quan trên có hỏi, ta cứ thực ta khai xem nó ra sao. Vẫn biết phe nó mạnh thật nhưng lẽ phải về ta, chả nhẽ quan tòa lại cứ nghe nó mà bỏ tù ta hay sao?

Thuật tưởng tượng như mình đứng giữa tòa án và đương bị quan tòa hỏi:

- Tại sao anh dám vào nhà người ta để ăn cướp? Và khi bị bắt quả tang anh lại hành hung?

- Bẩm quan lớn!...

Thuật chưa kịp nghĩ nốt câu trả lời thì chợt nghe tiếng động khóa rồi cửa mở; một người phú-lít gọi:

- Ra!

Thuật nhỏm dậy, theo người lính ra ngoài.

Người ta xích tay anh lại đoạn người ta dẫn anh đi và quả nhiên lần này anh bị đem ra hỏi.

Nghe giọng nói bình thường và nhìn vẻ mặt thản nhiên của quan tòa. Thuật hơi vững dạ, anh cố nén sự xúc động cho giọng khỏi run:

- Bẩm quan tòa, chúng tôi bị người ta vu oan cho như thế chứ thực ra chúng tôi không có ăn cướp của ai...

- Hừ! Ông chủ mỏ còn bắt được quả tang anh đương hành hung với sự chủ mà lại!

- Bẩm đầu đuôi việc này dài lắm. Tôi xin phép quan tòa cho tôi được kể lại rành mạch.

- Anh cứ nói nhưng phải nói cho thực.

- Chiều hôm qua, khi tôi ở nhà máy về và mới vừa ăn cơm xong thì có người nhà tên cai Tứ đến bảo tôi lại cho nó hỏi việc gì cần lắm. Tôi lại mới hay rằng tên cai Tứ chẳng hỏi chuyện gì cả. Nó bảo tôi nằm hút thuốc phiện với nó rồi nó nói chuyện dông dài mãi đến gần khuya. Sau cùng nó bảo tôi rằng nếu muốn được ông chủ yêu, cho công việc nhàn mà làm thì tôi phải để vợ tôi đi lại với ông chủ. Tôi giận quá, hỏi vặn lại nó: "Tại sao vợ mày thì mày lại không chịu đưa lên cho ông chủ mà lại giục tao làm như thế?" Nó chửi tôi, lại vác chai định đánh tôi. Tức quá, tôi có đánh nó thì vừa lúc ấy ông chủ vào...

- Ông chủ vào bắt được quả tang mày đương ăn cướp và hành hung chứ gì?

- Không phải thế! Tôi đang đánh nó thực nhưng không phải là để cướp tiền của nó. Việc này chỉ là một việc nó bịa đặt ra để buộc tội cho tôi. Bẩm quan lớn đèn trời xét cho, tôi có công ăn việc làm, có vợ con, không đói rách gì, không cờ bạc và trộm cắp bao giờ, cớ sao tôi lại chịu ăn cướp mới được chứ?

- Nhưng, ông chủ làm chứng như thế mà lại!

- Ông chủ tôi bênh cai Tứ mà nói oan cho tôi như thế chứ thực tình tôi oan lắm, xin quan lớn minh xét cho!

- Hừ! Mày oan? Thế ông chủ mỏ thù oán gì mày mà vu oan cho mày?

- Bốm, thực tình tôi oan! Tôi là người làm ăn lương thiện, xưa nay không có tai tiếng gì bao giờ...

- Mày thú thực đi. Nếu mày cứ nói dối quanh thì tòa sẽ làm án mày về hai tội: chực cướp tiền và hành hung là một; vu khống cho người trên là hai.

- Bẩm quan lớn, tôi không nói dối.

- Mày nhất định chối?

- Tôi không chối vì tôi không có tội gì cả!

- Được. Lính đâu giải nó đi!

Người lính dẫn Thuật ra khỏi tòa nhưng không đem anh về cái buồng giam chật hẹp ở sở cẩm nữa. Người ta đưa thẳng anh vào nhà pha vì quan tòa đã ký trát tống giam anh rồi.

Đi đường, người phú-lít hỏi Thuật:

- Thế nào, mày có nhận là đã ăn cướp không?

- Không, tôi có ăn cướp của ai bao giờ mà tôi nhận?

- Nhưng có chứng tá rồi kia mà!

- Chứng tá gì, chúng nó cùng một tụi ăn hiếp kẻ nghèo hèn cả.

- Quan tòa đã ký giấy tống giam mày vào nhà pha. Thể nào mày cũng bị, không thoát được nữa!

Thuật nghe câu ấy bỗng nhủn cả người. Không phải anh sợ quá đến nỗi thế đâu nhưng là anh không thể ngờ rằng quan trên lại thiên vị quá. Anh ngã lòng thất vọng, hai chân như mềm ra; trái tim tựa hồ tan lỏng thành nước mắt...

Cánh cửa nhà pha mở hé; người phú-lít đẩy anh vào.

Viên coi ngục hỏi:

- Thằng này tội gì thế này?

Người lính đáp:

- À, chực ăn cướp và hành hung.

- Thế thì bỏ mẹ! Nhưng bộ dạng này thì cướp với bóc chó gì!

Thuật cho rằng viên coi ngục tinh mắt hiểu cho mình là bị oan, nên anh vội vàng kể lể hết câu chuyện của anh một lần nữa.

Mấy người lính gác cũng xúm lại nghe. Họ kết luận:

- Thế thì chúng nó ăn hiếp người ngay thẳng một cách chó đểu quá!

Thuật náo nức:

- Thưa các ông, thực chúng nó đểu quá. Ai ở vào tình thế tôi thì cũng phải đánh chứ nhịn thế nào được?

- Thế quan tòa bảo sao?

- Quan trên cứ tin lời bọn kia là thực và cho tôi là nói dối. Thực tôi không ngờ mà bề trên lại cố tình làm oan uổng tôi như vậy.

- Chuyện!... Bao giờ người ta chẳng vị nhau! Ai lại vị một thằng khố rách bao giờ.

Tuy họ phàn nàn cho Thuật mà anh cũng phải gắn số, phải đo người và phải thả vào trong sân nhà pha.

Lần đầu bỡ ngỡ, Thuật cứ ngớ ra nhìn quanh, nhìn quẩn, mơ hồ như sống trong một giấc mộng...

Mà có lẽ chỉ là một giấc mộng!

Những việc đã xảy ra thực vô lý và không thể nào lại có thể xảy ra được, trừ phi trong cảnh chiêm bao!...

Nhận thức như vậy,Thuật càng ngao ngán. Thôi, thế là xong. Từ đây anh sẽ là một đầu người trong cái địa ngục nhân gian nọ. Từ đây thế là anh đành ôm một mối oan khuất không bao giờ tỏ được. Từ đây thế là anh phải lìa vợ, lìa con, sống không ai hay, chết không ai biết và bị chửi bới, đánh đập như một con chó ghẻ.

Rồi anh tự hỏi không biết liệu lúc này vợ anh ở nhà đương làm gì?... Câu hỏi ấy làm cho tưởng tượng anh bối rối. Anh thấy vẽ rõ trước mặt cái hình ảnh cô đơn của Tép sống lo sợ giữa một đám kẻ thù dọa nạt, chẳng khác một con hươu giữa đoàn thợ săn. Anh trông thấy nét mặt chó má của cai Tứ, nhân lúc anh bị giam chấp, lẩn vào nhà anh để tán tỉnh, nài ép vợ anh. Rồi Tép không thuận lại chửi mắng cai Tứ. Rồi nó đánh đập Tép, bắt phải ra khỏi địa phận của mỏ và giỡ nhà anh đi...

Thuật nắm chặt bàn tay, nghiến răng lại. Bao nhiêu phẫn uất trong người đều dồn lên cổ làm cho hơi thở của anh như nghẹn lại.

- Trời ơi!... Sao trời lại bắt tôi phải chịu oan uổng như thế này?...

Thuật hối hận sao hôm đó anh đã không vớ ngay cái gì nhọn sắc mà đâm chết cai Tứ đi như người ta giết một con vật nguy hiểm có phải là xong không! Đằng nào cũng tù, thì giết được kẻ làm hại mình bao giờ cũng vẫn hả dạ.

Thuật ngao ngán tiếp. Anh thừ người ra ở cạnh gốc soan tây, mải tư lự đến nỗi không biết rằng chung quanh mình anh, bọn tù tội đã xúm đen lại và hỏi han rầm rĩ.

Mãi khi tiếng kẻng gọi giờ cơm nổi lên lanh lảnh, Thuật mới bàng hoàng như tỉnh ngủ.

Họ ghép anh vào một thùng cơm với mấy tay trộm trâu nữa. Nhưng Thuật còn thiết gì ăn uống lúc bấy giờ. Anh bần thần nhìn các người tù kia ăn vội vàng và tranh cướp nhau chẳng khác đàn gấu đói. Thuật ngạc nhiên, không hiểu tại sao ở đây người ta lại có thể trở nên thô tục, độc dữ như thế được? Thuật không thể nào tưởng tượng được rằng chỉ cách nhau có một bức tường mà hai nhân loại cách xa nhau đến thế?

Anh nghĩ ngợi lấy làm đau đớn và cứ nhìn bọn kia chằm chặp, tỏ ý lạ lùng lắm. Cơm canh trong nhà pha anh không chú ý vì anh cũng thuộc hạng nghèo, ăn kham khổ đã quen rồi. Anh chỉ đau đớn bởi sự thay đổi rất khó hiểu của bọn người cũng là người như anh. Thuật băn khoăn tự hỏi không biết rồi ra mình có đến nỗi như họ không, nếu anh cũng sẽ trở nên như họ thì cái đời tù tội của anh còn đáng buồn không biết chừng nào...

Bọn tù đã ăn xong, họ xôn xao thu dọn và lo rửa ráy những mảnh bát vỡ, những đôi đũa tre, những chiếc ống bơ hoen gỉ.

Họ làm một cách vội vã để kịp tầm vào buồng giam. Thuật cứ ngây ra lăn từ cái bàng hoàng này đến cái bàng hoàng khác. Mỗi cử động quanh mình anh là một bí mật. Mỗi cái bí mật mà anh hiểu được lại thêm cho anh một cảm giác thê thảm thấy mình trở nên thằng tù thêm một bậc...

Rồi đêm hôm ấy, Thuật lại mất ngủ, mặc dầu anh mệt mỏi rã rời...

 

XVIII


Sau khi nghe Thuật bảo cho biết rằng phiên tòa hôm ấy, quan trên đã phạt anh mười tám tháng tù, Tép ôm con từ cổng đề lao về nhà, vừa đi vừa khóc như mưa như gió.

Mười tám tháng tù!... Tép coi mười tám tháng tù của chồng chị bằng mười tám năm.

- Biết bao giờ cho hết mười tám tháng hở trời!...

Một ý nghĩ ghê gớm hơn nữa đột hiện trong óc chị:

- Mà chắc đâu chồng ta sống được tới ngày mãn hạn?

Thực thế, một người như Thuật, hay cả nghĩ, hay buồn một cách ngấm ngầm, làm thế nào sống được với những sầu khổ uất ức nó đầy chứa trong lòng anh. Ấy là chưa kể những cái khổ sở của đời tù mà Tép đã được người ta kể lại cho nghe y như những chuyện dưới âm phủ. Ấy là chưa kể những khi giở trời trái gió, chưa kể những nông nỗi dãi nắng dầm mưa, chưa kể những cái buồn do sự thương vợ nhớ con nó hun đốt lòng người chẳng khác mớ than hồng vùi trong tro trấu.

Như thế thì chồng chị nhất quyết là sẽ không toàn vẹn được cho tới ngày mãn hạn. Chị đau lòng nhớ đến những đám ma tù mà chị đã từng nom thấy khi ra chợ hay ở chợ về.

Người tù chết ở trong nhà pha lúc nào, thân nhân cũng không thể biết ngay được trừ phi đã ăn cánh với bọn ngục lại. Mà, muốn ăn cánh được với bọn này thì phải có nhiều tiền. Vợ chồng chị nghèo khổ, còn hy vọng gì!...

Chị tưởng tượng một hôm trời đất u ám, chồng chị tắt thở trong nhà thương làm phúc. Người ta bỏ thây chồng chị vào một cái săng gỗ gạo mỏng chừng hai phân tây. Người ta đóng ván thiên lại rồi lùa hai cái quang nứa vào hai đầu cho bốn anh tù khác khiêng đi. Một bác quyền khố xanh lẽo đẽo theo sau, thỉnh thoảng lại nhổ nước bọt vì từ chiếc hòm gỗ ọp ẹp kia thoảng ra một mùi gây gây khăn khẳn.

- Tiên sư cha nhà nó!...

Đám ma đi lặng lẽ trên con đường dài, dưới một vòm trời ảm đạm. Không một tiếng kèn, không một tiếng trống, không một tiếng khóc, trừ câu tiên sư cha nhà nó mà bác quyền thỉnh thoảng văng ra.

Một vài người khách đi đường, thấy đám ma tù đi qua, khẽ liếc nhìn với một vẻ ghê tởm:

- Thế là bớt một thằng gian ác!...

Họ nói thế một cách hoan hỉ như đã vô tình nói thay cho tất cả sự công bình ở đời. Họ không bao giờ lại ngờ rằng mình đã phỉ thui cái xác chết của một người cũng lương thiện và có khi lương thiện hơn chính họ. Họ không ngờ đã hắt hủi một linh hồn phải ngậm hờn nuốt tủi mà từ bỏ cuộc đời đầy rẫy những bất công, gian xảo, thâm độc, từ bỏ một lũ đồng loại tham tàn hơn loài hổ lang...

Tép cứ dùng cái tưởng tượng đi theo cái đám ma, tưởng tượng ấy ra tới cánh đồng hoang. Bọn tù hạ chiếc quan tài xuống cỏ, hì hụi đào một cái hố đoạn vùi nông một người bạn cùng chung cảnh ngộ với họ nhưng thảm nỗi họ không biết xót thương...

Nấm mả mới ấy chẳng bao lâu sẽ bị xóa hết dấu dưới lớp cỏ xanh của tạo hóa vô tình. Vợ con không biết đâu mà tìm nữa. Kẻ chết oan thế là đành phải làm một u hồn lưu lạc...

Tép gục đầu bật tiếng khóc. Chị khóc rít lên như muốn xé ngực để cho bao nỗi thống khổ bay tới một đấng thiêng liêng nào đó...

Bỗng, một bàn tay khẽ vỗ lên vai chị.

Tép giật mình, ngẩng trông lên: cai Tứ!

Chẳng khác người đụng phải con rắn, Tép đứng phắt dậy, xuýt đánh rơi con thơ.

- Ông... còn đến đây làm gì?...

Tép muốn gào lên những câu chửi rủa để hả cơn oán hận nhưng Tép chỉ hỏi được một câu như thế.

Cai Tứ ngọt ngào:

- Thôi, chị khóc làm gì nữa! Tôi nghĩ tình cảnh chị, tôi cũng ái ngại lắm nhưng chỉ vì chồng chị hỗn láo quá, không sao tha thứ được! Ai lại dám đánh cả tôi, cả ông chủ, không còn coi người trên ra gì nữa. Mà tôi có làm gì anh ấy cho cam, tôi chỉ vạch đường vẽ lối cho anh ấy đi tới sự giàu có sung sướng mà thôi...

Cai Tứ cứ nói, Tép cứ giương trừng trừng hai mắt nhìn nhưng không thấy gì mà tai chị cũng không nghe rõ gì cả.

- Mẹ kiếp, ở đời này hễ cứ dại là chết. Những quân đã ngu lại còn hay bướng ấy ai mà thương được! Tôi như chị, tôi mặc quách nó, chẳng tội gì mà nghĩ ngợi cho khổ thân. Nói vô phép chị chứ chính chuyên chết cũng ra ma, chẳng bằng cứ tiền cho nhiều, kẻ vâng người dạ cho lắm, ăn cao lương mĩ vị, mặc gấm vóc lụa là cho nó sướng một đời có hơn không. Như chị bây giờ, nếu cứ giữ cái túp nhà rách này, cứ ôm cái thằng nhãi kia thì rồi lấy gì mà ăn, lấy gì mà mặc, khi ốm đau lấy ai hầu hạ xem nom? Tôi lấy làm lạ rằng hai đường lợi hại đã rõ ràng như thế mà chị còn chưa nhận thấy! Vả lại, trước kia chị cũng đã có lần gần gụi với người ta rồi kia mà! Nào có mới lạ gì bảo rằng khó khăn hay ngượng nghịu?...

Tép vẫn im lặng như một pho tượng đá.

Cai Tứ khẩn khoản:

- Thế nào?... Chị thuận chứ? Tôi về nói với ông chủ nhé? Đây, chị hãy cầm tạm chục bạc này mà tiêu.

Tép bỗng hoạt động hẳn lên, dữ dội một cách phi thường. Chị giật phăng lấy tập giấy bạc và ném vào mặt cai Tứ.

- Mẹ anh, chị anh, em gái hay vợ nhớn vợ bé anh, anh để làm gì! Bước ngay đi, đồ chó!

Theo bản Lầm than lần đầu 1938, do Tiểu thuyết Thứ Bảy xuất bản.

 

LẦM THAN - Truyện dài Lan Khai Phần 1

 

Cùng tác giả:

TRUYỆN ĐƯỜNG RỪNG - Tập truyện Lan Khai Phần 1

TRUYỆN ĐƯỜNG RỪNG - Tập truyện Lan Khai Phần 2

 

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.