chan_dung-ke_si

NHÀ THƠ BẢO ĐỊNH GIANG: TÔI BẮT ĐẦU YÊU THƠ VĂN VÀ TẬP LÀM THƠ VĂN TỪ ẤY​

11-11-2023

Lượt xem 897

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Bảo Định Giang

NHÀ THƠ BẢO ĐỊNH GIANG: TÔI BẮT ĐẦU YÊU THƠ VĂN VÀ TẬP LÀM THƠ VĂN TỪ ẤY​
BẢO ĐỊNH GIANG​ (1919-2005)

Tên thật là Nguyễn Thanh Danh, sinh ngày 10.11.1919 tại xã Mĩ Thiện, huyện Cái Bè, Tiền Giang. Từng giữ các chức vụ phó tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam, vụ phó vụ văn nghệ ban tuyên huấn TW, tổng biên tập báo Văn nghệ, chủ tịch Liên hiệp văn học nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh, tổng biên tập báo Văn nghệ TP Hồ chí Minh. Ông có câu ca dao nổi tiếng: Tháp mười đẹp nhất bông sen. Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ, ai cũng thuộc.

Tác phẩm chính đã in: Gồm 30 tập sách trong đó đáng chú ý có Thơ Bảo Định Giang, Ca dao Bảo Định Giang, Câu đối Bảo Định Giang và nhiều tập nghiên cứu về thơ văn Nam Bộ, về các nhân vật lịch sử, các văn nghệ sĩ như Đồ Chiểu, Phan Văn Tự, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Thông, Hoàng Việt, Huỳnh Văn Nghệ v.v…​




TÔI BẮT ĐẦU YÊU THƠ VĂN
VÀ TẬP LÀM THƠ VĂN TỪ ẤY​

Năm tôi lên mười bốn tuổi, gia đình quá sa sút không thể tiếp tục học trường Tây. Nghỉ học về nhà ở một xã ven Đồng Tháp Mười, nơi nổi tiếng là chốn ‘khỉ ho cò gáy’, nông dân ở đây chẳng những thiếu đói quanh năm mà còn mắc nạn mù chữ rất trầm trọng.

Từ 14 đến 16 tuổi ở làng, ngoài đi giăng câu, đặt lọp kiếm cá, tôi không biết làm gì hơn. Tuy không nói ra, nhưng cả gia đình ai cũng biết tôi rất buồn. Điều an ủi duy nhất đối với tôi trong những năm ấy là đọc truyện thơ Lục Vân Tiên cho cha mẹ và các nhà ở xung quanh nghe. Đọc đi, đọc lại mãi đến thuộc lòng, vẫn không biết chán. Người nghe gặp người đọc ở điều ấy – dù về đêm muỗi mòng đốt sần cả da thịt. Để bớt muỗi, không còn cách nào khác là phải bện rơm hun khói làm cho đôi mắt cay xè không nhìn thấy chữ nữa.

Do mù mắt, toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu đều sáng tác bằng mồm do môn sinh hoặc con cái ghi lại. Lục Vân Tiên là truyện thơ đầu tay của Nguyễn Đình Chiểu sáng tác theo cách ấy. Cốt truyện đề cao nhân nghĩa, thủy chung được diễn tả bằng những lời thơ giản dị, mang tính đại chúng, rất dễ đi vào lòng nông dân và nó có sức sống lâu bền trong các tầng lớp nhân dân – nhất là trong nông dân lao động là vì thế.

Riêng đối với tôi lúc bấy giờ, việc nhân vật Lục Vân Tiên bị mù mắt, thi cử dở dang v.v… sao mà phù hợp với số phận của tôi đến thế. Có thể nói truyện thơ Lục Vân Tiên là tác phẩm chuẩn bị cho tôi vào đời, bài học vỡ lòng của tôi trong cuộc sống và trong công việc sáng tác. Một vài bạn thân của tôi ở Hà Nội, khi đọc thơ của tôi, họ thường có nhận xét: “Cậu viết giản dị như truyện thơ Lục Vân Tiên”.

Tôi cười không trả lời, nhưng trong bụng nghĩ: “Đúng quá, còn gì phải nói”. Ngoài truyện thơ Lục Vân Tiên, những câu hò cấy, những câu hò đối đáp giữa các chàng trai, cô gái nông thôn trên đồng áng, nhất là những câu hát ru con của mẹ tôi cũng đi vào tôi theo từng tháng năm rất sâu sắc.

Đi đâu, làm gì tôi vẫn không quên giọng hát ru em của mẹ ngân nga kéo dài hòa trong tiếng võng kẽo kẹt:


Tưởng giếng sâu em thả sợi dây dài
Ngờ đâu giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây


Hoặc:

Đường dài gió chạy, cát bay
Nghĩa nhân thăm thẳm mỗi ngày một xa


Hay là:

Đôi ta là nghĩa tao khang
Xuống khe bắt ốc, lên ngàn hái rau


v.v… và v.v…

Rất ham học, tôi không thể sống kéo dài như thế mãi. Nghe nói ở ngoại ô tỉnh lị Mĩ Tho (Tiền Giang ngày nay) có một ông đồ xứ Nghệ bị thực dân Pháp đưa đi an trí ở đây. Từ làng của tôi đến nơi ông đồ dạy học khoảng 50 cây số. Tôi rủ một người bạn ở xã lân cận cùng đi tìm thầy. Đúng như lời đồn đại. Ông đồ Nghệ mà người ta nói, chính là cụ Phan Văn Viễn, biệt hiệu Tòng Am, người trong thân tộc của ông Phan Đình Phùng, bạn học với cụ Huỳnh Thúc Kháng, là một bậc thâm nho.

Chúng tôi xin vào học. Bạn tôi nhà có tiền, ở trọ phố hàng ngày đi xe đạp vào học, còn tôi nghèo ngặt quá phải nương ngụ ở một ngôi chùa, ăn chay nhiều năm ròng để đi học. Thiếu thốn quá đến nỗi không có đủ mấy cắc (hào) để về thăm quê và cha mẹ trong mỗi dịp Tết. Ba năm liền như vậy. Năm ấy tuổi mười chín tôi đã bước qua. Mấy câu thơ nôm na sau đây là những câu thơ đầu tiên của tôi, khi bước chân vào đời đầy sóng gió. Ở tỉnh lị Mĩ Tho, có cây cầu sắt bắc ngang sông Bảo Định. Mỗi lần thuyền to đi qua thì người ta quay nhịp giữa cho cầu cất cao lên, nên nhân dân gọi là cầu Quay. Từ nơi tôi ngụ - chùa Vĩnh Tràng – sáng ba mươi Tết, tôi ra tỉnh đứng trên cầu Quay, nhìn nước trôi lững lờ trên sông Tiền mà đem lòng nhớ nơi chôn nhau, cắt rốn, nhớ mẹ, nhớ cha hết sức. Tôi ngầm đọc:

Cầu Quay nước chảy qua cầu
Nhớ cha, nhớ mẹ, lòng sầu không ngăn
Tết này tính đã ba năm
Không tiền nên chẳng về thăm quê nhà
Tết này con ở chốn xa
Thương cha, thương mẹ tuổi già héo hon
Người vui ta những thấy buồn
Mẹ cha thế đó, phận con làm gì!


Ở sát thành thị, nhờ dạy Quốc ngữ cho các em quanh chùa, cuộc sống vật chất của tôi không còn khó khăn như những năm đầu. Tôi tằn tiện dành dụm ít tiền để mua sách. Cuốn sách đầu tiên tôi có là quyển Ca dao Việt Nam của Ôn Như – Nguyễn Văn Ngọc, tiếp đó là cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân và Thơ Đường của Trung Quốc. Tôi đọc những cuốn này không biết chán và giới thiệu cho bầu bạn cùng lứa đọc.

Học chữ Hán suốt 9 năm như vậy, chịu ảnh hưởng truyện thơ Lục Vân Tiên lúc thiếu thời và thích ca dao Việt Nam, nên khi vào Đồng Tháp Mười tham gia bộ đội chống Pháp, cuối năm 1945, thì theo yêu cầu của bộ đội và nông dân những nơi chúng tôi đóng quân, tôi liên tục làm thơ và ca dao để tuyên truyền kháng chiến.

Năm 1946, tại nhà một bà cụ nông dân, trên bờ kinh Dương Văn Dương, sáng thức dậy sớm, tôi ra ngồi trên chiếc võng quấn thuốc hút để phóng tầm mắt nhìn ra cánh đồng sau nhà. Đã bình minh, mặt trời vừa hé mọc, trước mắt tôi hiện lên một đồng sen bát ngát. Hàng nghìn, hàng vạn đóa sen hồng đong đưa trong gió sớm sao mà đẹp khác thường, lòng tôi bỗng dấy lên một sự rạo rực khó tả, trước một cảnh vật bất chợt, tình cờ, tôi ngẫu hứng ngâm se sẽ:

Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ
Bông sen dành để lễ chùa
Cụ Hồ mãi mãi tôn thờ trong tâm


Điều thú vị là trong Nam, ngoài Bắc người ta chỉ lấy hai câu đầu, tước hai câu cuối. Cho đến nay nhiều nơi chỉ biết có hai câu đầu, cho như thế là gọn và đầy đủ ý nghĩa. Ca dao xưa nay bao giờ cũng vậy, nó sống được và tốt thêm nhờ đông tay chăm sóc, sửa chữa, thêm bớt cho đến lúc viên mãn mới thôi.

Trên đây là những nét đại khái về cuộc đời tập tễnh làm thơ văn của tôi. Nó không có gì đáng kể, nhưng dù sao đối với tôi, nó vẫn là những kỉ niệm không thể nào quên.


Hà Nội, 1.5.1993
BẢO ĐỊNH GIANG

Bài liên quan