Đào Đăng Vỹ sinh ngày 1-2-1908 tại Huế (có tài liệu nói ông mất ngày 7-4-1987 tại California - Mỹ). Thuở nhỏ học ở Huế, sau đó học Đại học Y khoa, Luật khoa Hà Nội. Tốt nghiệp, ông trở về Huế làm giáo sư rồi hiệu trưởng Trường Việt Anh, Hồng Đức (Huế). Với kiến thức uyên bác, ông viết rất sung sức và để lại cho đời nhiều công trình, tác phẩm giá trị cả tiếng Việt, tiếng Pháp.

Tác giả bộ từ điển bách khoa đầu tiên của Việt Nam

Riêng bộ từ điển có tên “Việt Nam Bách khoa Từ điển”, khổ in 28x22 cm, có hình minh họa và bản đồ đen trắng và màu, có phụ chú tiếng Hán, tiếng Anh và tiếng Pháp là do Đào Đăng Vỹ biên soạn xuất bản từ những năm 1959-1963 với sự cộng tác của một nhóm văn sĩ, giáo sư, trí thức đủ mọi ngành chuyên môn. Nhà từ điển Đào Đăng Vỹ kể: Bộ “Việt Nam Bách khoa Từ điển” được thành hình “là do lời khuyến khích nồng nhiệt của nhiều bạn trong văn giới và học giới, nhất là do sự cộng tác đầy công tâm và chân thành của những bằng hữu (...) đã giúp đỡ chúng tôi mỗi người một phần hoặc ít hoặc nhiều trong mọi phương diện”. Những “bằng hữu” được liệt kê trong bộ sách có: Phan Khoang (nghiên cứu lịch sử Trung Quốc và Việt Nam); Nguyễn Khoa Chi (kỹ sư canh nông); bác sĩ Nguyễn Hy Vọng; Nguyễn Phước Thiện (tiếng Anh); bác sĩ Phan Huy Quát; Bửu Đôn (kỹ sư cầu đường); Thái Văn Kiềm (nhà văn); Nguyễn Đăng Thục (giáo sư triết học); Nguyễn Xuân Hy (giáo sư văn học)...

dao-dang-vy
Học giả, nhà nghiên cứu Đào Đăng Vỹ

Bộ từ điển được biên soạn dựa theo các chủ đề chính sau: Lịch sử loài người; Lịch sử các dân tộc, các quốc gia, miền tỉnh; Địa lý các châu, các nước, các miền, các xứ trên thế giới; Các vấn đề về thiên văn học; Các vấn đề thuộc về cổ học, địa chất học...; Các tôn giáo; Các vấn đề văn học; Các vấn đề mỹ thuật; Khoa học và kỹ thuật; Y học, vệ sinh; Luật học; Những vấn đề thường thức; Các quốc gia lớn trên hoàn cầu; Các đô thị lớn nhất hoàn cầu; Kinh tế hoàn cầu; Những điều cần biết về các tỉnh, quận, thị xã của Việt Nam; Các nhân vật danh vọng trong lịch sử và hiện đại; Các cổ tích; Các văn phẩm; Các hình ảnh cần ích, các địa đồ quan trọng.

Mỗi một chủ đề bao gồm những bài viết cộng với các phụ trương có liên quan, rất công phu và uyên bác. Các mục được đưa vào bộ từ điển bao gồm 2 loại chủ yếu: Các danh từ gồm danh từ thông dụng và danh từ khoa học; các tên riêng.

Các danh từ thông dụng, như ý đồ tác giả: “Mỗi danh từ đều giảng giải rõ ràng và mỗi nghĩa riêng đều có 1 hay 2 thí dụ thông thường kèm theo hoặc những danh văn cổ kim, những tục ngữ, ca dao việc dẫn để cho thêm sánh nghĩa hoặc để chỉ rõ sự tiến triển ý nghĩa của mỗi chữ qua các thời đại”. Các danh từ khoa học (ngày nay gọi là thuật ngữ) ngoài mục định nghĩa chính còn chú thêm nguyên ngữ, có chú thêm tiếng Hán (với các danh từ gốc Hán), tên ngành, công thức hóa học. Các tên riêng: Bao gồm các tên riêng về lịch sử, địa lý và tên các nhân vật, tổ chức, tác phẩm... được xử lý như các mục giải thích trong từ điển bách khoa.

Phần minh họa và bản đồ trong bộ từ điển bao gồm các loại bản đồ hành chính các châu, quốc gia trên thế giới và các tỉnh, quận của Việt Nam; tranh, ảnh, hình vẽ minh họa; một số phụ bản màu.

 

Nhà nghiên cứu Trần Trung Thuần (Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam) đánh giá bộ sách là công trình pha trộn giữa 3 thể loại từ điển: từ điển ngữ văn, từ điển đối chiếu, từ điển bách khoa. Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam mang tính chất của loại hình từ điển bách khoa. Ông viết: “Chúng tôi mạnh dạn cho rằng đây chính là bộ từ điển bách khoa đầu tiên của Việt Nam, đồng thời đó cũng chính là giá trị lớn nhất của bộ sách… Công sức bỏ ra của tác giả cùng các cộng sự khi biên soạn bộ sách, trong điều kiện tự trang trải kinh phí để bộ từ điển này có thể ra mắt được một cách chững chạc như vậy là hết sức lớn và đáng trân trọng”.

Cần nhớ lại bối cảnh Việt Nam những năm 1950 phân ly 2 miền Nam Bắc, tình hình rất khó khăn, vậy mà Đào Đăng Vỹ vẫn chuyên chú làm cuốn từ điển bách khoa đồ sộ đầu tiên của đất nước để từ đó có những đóng góp nền tảng to lớn trong lĩnh vực từ điển học và bách khoa thư của nước nhà.

Những minh định thuyết phục, tinh tường

Không chỉ tiên phong ở lĩnh vực từ điển, ông còn là nhà văn, nhà nghiên cứu uyên bác. Với tác phẩm “Nguyễn Tri Phương” (1974), ông đã phác họa nên chân dung một vị anh hùng. Chúng ta còn nhớ mục đích chính của J. Dupuis - một sĩ quan quân đội Pháp bấy giờ - là đi buôn. Cụ thể với đường thủy sông Hồng, J. Dupuis đã tính chuyện đưa vải vóc, gạo muối, vũ khí lên bán cho các tỉnh phía Nam Trung Quốc và chở các loại quặng về bán lại. Điều đó đã vi phạm những quy tắc lãnh thổ của triều đình Huế. Các quan sở tại không giải quyết được, Nguyễn Tri Phương phải thân chinh ra Hà Nội và ngay sau đó lại gặp vấn đề với J. Dupuis khi không thể chấp nhận những yêu sách quá đáng của viên sĩ quan này như mở cửa thông thương, thuế quan... Sự mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khi thống đốc Nam Kỳ Dupré cử đại úy hải quân Francis Garnier lấy danh nghĩa ra “xử” kẻ quấy rối J. Dupuis nhưng thực chất là dẫn pháo hạm đánh chiếm Hà thành.

Garnier đã kể lại cuộc tái chạm trán với đối thủ cũ ở đồn Kỳ Hòa - danh tướng Nguyễn Tri Phương: “Tôi phải nhìn nhận ông đã 74 tuổi vẫn cư xử rất lanh trí, nói vài tiếng Pháp, che giấu uất hận của ông dưới nụ cười”. Nghiên cứu của Đào Đăng Vỹ cho chúng ta biết rằng Garnier đã lễ phép với Nguyễn Tri Phương: “Thưa ngài, chắc chúng ta có gặp nhau ở trận Kỳ Hòa và từ đó tôi vẫn tỏ lòng ngưỡng mộ ngài nhiều”. Tuy nhiên, các yêu sách của Pháp tỏ ra xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ cùng danh dự của triều đình Huế, buộc Nguyễn Tri Phương phải cực lực bác bỏ. Vì thế cuối cùng, chiến tranh đã nổ ra.

Hay như nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ, nhiều sách báo đã nói hơi quá về các bản điều trần, Đào Đăng Vỹ đã có những đính chính cần thiết. Bởi theo ông, phải nói cho đúng những gì Nguyễn Trường Tộ đã làm thì các giá trị những việc làm đó mới giàu sức thuyết phục. Ví dụ có sách báo nói quá lên rằng Nguyễn Trường Tộ là một nhà tiên tri, biết trước đại chiến thế giới thứ hai sẽ nổ ra và quân đội Nhật hùng mạnh sẽ sang chiếm Việt Nam. Thực tế, Nguyễn Trường Tộ mất năm 1871, trong khi năm 1872 nước Nhật mới bắt đầu làm đường xe lửa Tokyo - Osaka, còn năm 1871 phái đoàn lãnh đạo thượng tầng của Nhật gồm 50 người mới bắt đầu đi tham quan ở Tây phương trong 1 năm 10 tháng học hỏi để xúc tiến kế hoạch canh tân. Lúc đó, nước Nhật chưa bắt đầu canh tân thì làm sao Nguyễn Trường Tộ biết trước được nước Nhật sẽ hùng mạnh? Vấn đề này, 30 năm sau, ông Đào Đăng Vỹ đã viết: “Xã hội Nguyễn Trường Tộ và xã hội Y Đằng Bác Văn (Ito Hirobumi, Nhật Bản) - NV” (in trong Bách khoa số 359 ngày 15-12-1971) để đính chính về việc Y Đằng Bác Văn và Nguyễn Trường Tộ gặp nhau chỉ là truyền thuyết do các cụ kể lại không có gì chính xác và cho biết hoàn cảnh nước Việt lúc bấy giờ thì dầu không bị xâm chiếm cũng khó tiến bộ mau chóng và hùng mạnh như Nhật Bản được.

“Vua” từ điển

Học giả Đào Đăng Vỹ từng trải qua các chức vụ: Hội trưởng Hội Quảng Trị ở Huế, Phó Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ Trung Kỳ, Phó Chủ tịch Hội Bảo tồn cố đô Huế, Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ Đại học Vạn Hạnh, cố vấn và sáng lập viên Hội Terre des Hommes ở Việt Nam (tạm dịch Đất lành hay Cõi người ta - danh từ của nhà văn Pháp A. S. Exupéry) - hội chuyên làm công tác xã hội, từ thiện…

Bộ “Việt Nam Bách khoa Từ điển” của Đào Đăng Vỹ
Bộ “Việt Nam Bách khoa Từ điển” của Đào Đăng Vỹ

 

Ông để lại cho đời nhiều công trình có giá trị, bao gồm: Le Culte des Ancêtres (1932), Enquête sur la Jeunesse Vietnamienne (1932-1934), Les Ecrivains et les Artistes Vietnamiens contemporains (1935), Nguyễn Trường Tộ et son Temps (1936-37), L’Annam qui nait (1938), Thất thủ kinh đô (kịch lịch sử 5 hồi, 1945), Thế giới chiến tranh lần thứ ba (1946), Nước Mỹ và nền hòa bình thế giới (1946), Nước Nga và nền hòa bình thế giới (1946), Evolution de la Littérature Vietnamienne contemporaine (1949), Nguyễn Trường Tộ et l’Empereur Tự Đức (1951), Khúc nhạc Đồng quê (1954 - bản dịch La Symphonie Pastorale của A. Gide), Pháp Việt Đại Từ điển (1949-52, 1963, 1970), Papillons Blancs (bản dịch “Bướm Trắng” của Nhất Linh 1959), Việt Pháp Đại Từ điển (1956, 1963, 1970), Pháp Việt Từ điển Phổ thông (1954-1956, 1960, 1963, 1965, 1967), Pháp Việt Tiểu Từ điển (1961, 1963, 1966, 1970), Việt Pháp Tiểu Từ điển (1962, 1964, 1966, 1970), Việt Nam Bách khoa Từ điển: Cuốn I cuốn II, III... (1959-1963), Ông già Goriot (le Père Goriot của H. de Balzac dịch ra Việt văn: (1962), Sức mạnh của Bất bạo động (1965), Thúy Kiều và Định mệnh (1966)…

Hà Nguyên