chan_dung-ke_si.

THÁNG BẢY – Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh

19-09-2024

Lượt xem 1328

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Phan Thị Vàng Anh

THÁNG BẢY – Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh

Nhà văn Phan Thị Vàng Anh

Chân Dung Kẻ Sĩ: Tháng Bảy là truyện không ngắn như những truyện ngắn khác mà nhà văn Phan Thị Vàng Anh thuờng viết, nó dài hơn hẳn. Truyện được viết khi tác giả tham dự chương trình viết văn của Đại học Iowa, Mỹ, đăng trên TTCT năm 1996.

Năm đó tôi mười bảy tuổi. Tháng bảy, chiều nào cũng mưa, sáng ra đã gió, ngày nào tôi cũng nghe mẹ ví von về loại thời tiết này: "Cậu ở, mợ đời". Tôi nhớ, khi nói câu này, mẹ đứng vịn cửa sổ nhìn ra vườn, ngày ấy ao mới lấp, bố về thăm nhà trồng cây hoa vàng anh, hoa to thồi thồi, vàng tươi, ngày nào cũng nở. Mẹ đứng như thế này, vươn cái cổ cao cao, áp mặt vào mấy song cửa gỉ, hai tay dài thò ra ngoài khung cửa, mẹ có dáng vẻ của một đứa trẻ bị khóa trong nhà muốn ra ngoài hơn là dáng của một phụ nữ ba mươi ba tuổi bị chồng bỏ. 

Ông ngoại bảo: "Mẹ mày còn ham chơi!". 

Khi ấy, tôi học lớp 12. Thỉnh thoảng mẹ rủ: "Mẹ với mày đi chơi?". Tôi đùa: "Ai chở ai?". Mẹ rất duyên dáng cười ma lanh: "Mẹ hơi đau lưng nhưng vẫn chở mày được?". Mẹ đánh phấn nâu, mặc áo đen, mắt mẹ long lanh, cười ngậm miệng mệt mỏi khi các chú đến tán tỉnh. Mẹ thích người ta nhầm mẹ và tôi là hai chị em để mẹ có cơ hội tự hào bảo: "Con gái tôi đấy!» Thể nào người ta cũng dấn thêm một bước tò mò bằng câu hỏi về tuổi tác, mẹ lại có thêm cơ hội gợi cho người ta lòng hiếu kỳ khi hình dung ra cảnh một con bé mười sáu tuổi vào phòng sinh. "Thế anh ấy làm gì?". Đến câu này, tuy lần nào mẹ cũng khẽ hạ mắt xuống, mỏi mệt đáp: "Chúng tôi ly dị", nhưng tôi vẫn thấy vẻ vui thích láu lỉnh ẩn nấp đâu đó sau tiếng thở dài. 

Ông ngoại nói mẹ tôi trẻ hơn tôi. 

Trong nhà, tôi sống cùng mẹ và ông ngoại. Từ một năm nay ông không chịu ở chung một nhà, ông làm một cái chòi ngay trong vườn. Từ chòi, ông mắc một cái chuông nối sang nhà tôi, mỗi khi muốn qua, ông giật chuông; mẹ (hoặc tôi) thò đầu ra cửa, thấy ông đứng ở cửa chòi, nói to: "Tao sang nhé ! ", nếu phe tôi gật đầu, ông sang. Dần dà, mẹ sợ hàng xóm nghe lại hiểu lầm trò này do mẹ bày ra, mẹ bảo ông  giật chuông rồi đừng hỏi to gì cả, mẹ sẽ ra hiên, nếu mẹ gật đầu ông qua. Được vài tháng. ông bảo mắt ông kém dần, mẹ phải thay cái gật đầu bằng cái vẫy tay cho nó rõ hơn. Từ đó, hễ chuông rung, chúng tôi ra hiên vẫy tay, và ông qua. Tôi hỏi sao không mắc một cái chuông ngược lại sang ông, để bọn tôi qua cũng phải xin phép. Ông cười, bảo thôi không cần, mẹ bảo nhưng các bà trong tổ hưu bạn ông cần chuông, ông trừng mắt âu yếm bảo im đi. "Các bà ấy, ngay từ hồi trẻ tao đã không thèm để ý!". 

Bố bỏ đi khi tôi mười lăm tuổi. Tôi dùng chữ "bỏ đi" là không đúng, nghe có vẻ hoang đàng quá mà thực ra bố đi rất đàng hoàng. Một năm trước đó tôi không sống ở nhà. Tôi về với ngoại, khi đó ngoại còn sống cùng dì Tư. Trước đó nữa tôi chưa từng chứng kiến trận cãi nhau nào của bố và mẹ. Tôi nói bố đi rất đàng hoàng là có nhiều lý do, thứ nhất ngay cả ngoại, cả dì Tư đôi khi nói với nhau cũng để tôi nghe lén rằng bố đi là đúng, thứ hai khi trở về tôi thấy nhà cửa, đồ đạc còn nguyên, bố chẳng mang đi theo. Tôi rất không thích mỗi khi mẹ kết luận hiện tượng này bằng cái câu: « Đến mày mà bố còn không đòi chia thì đòi chia của cải làm gì!". Tôi bảo, à, hóa ra mẹ nuôi con chỉ vì bố không đòi chia con chứ cũng chẳng phải bỏ công giành giật gì mà được, phải không ? Mẹ bảo, không, nếu bố giành giật, bố sẽ thua, mẹ phải được nuôi con. Thỉnh thoảng tôi hồ nghi câu này. Thế nhưng, tôi vẫn yêu mẹ. Thứ ba (tiếp cái lý do cho là bố đàng hoàng), ngay cả bây giờ về chơi bố vẫn ung dung vào nhà, không giống như trong truyện trong phim, lén lút ngậm ngùi gặp con vài phút, mừng mừng tủi tủi bên dậu bên rào. Bố vào, đặt túi quà lên bàn, có khi là thức ăn, mẹ tự động mở túi giở ra rổ làm cơm. Bố uống trà với ông, lại bàn chiến sự nước này nước nọ, rồi gọi mẹ vào nhà, vài phút thôi nhưng ông ngoại nhìn theo cảm động, tôi biết bố cho mẹ tiền. Tối đến mẹ đếm, tôi ngồi cạnh mẹ trên giường, mẹ bảo chừng này đáng gì, bố mày bây giờ giàu lắm cơ. Tôi bảo mẹ buồn cười, đáng ra ngoài tiền nuôi con mẹ chẳng được xu nào, sao mẹ lại đòi chia một tỉ lệ 6/4 hoặc 5/5 như “hồi còn tại chức” thế... Mẹ tôi cười, đuôi mắt mẹ bắt đầu nhăn và ngay tuần sau bố lặng lẽ để trên bàn một hộp kem xoa mắt. 

Năm ấy mẹ và chú Lân cắt đứt. Cắt lần này cũng không khóc lóc mà cũng chẳng cãi nhau, chỉ thấy một tuần rồi hai tuần chú Lân không mang lăng quăng cho cá. Hỏi thì mẹ nói chú ấy còn trẻ thế, chắc mẹ chú ấy cấm chứ sao. Mẹ nói tỉnh rụi như chuyện của ai. Tôi nghĩ chú Lân đang ngồi góc nào đắc chí nghĩ mẹ đang đau thì phải một phen bẽ mặt. Tôi tự hào về mẹ tôi lắm. Tôi càng tự hào vì tập mãi không giống được mẹ tôi. Tôi đến lớp, trong giờ sử, Phước than cái bút máy không ra mực đành vứt ở nhà. Tôi ân cần dặn dò hôm sau nhớ mang theo để tôi đem đến sửa hiệu quen. Tôi đã đợi một đêm để hôm sau hỏi: "Bút đâu?". Phước ngơ ngác hỏi: "Bút nào? Để làm gì?". Tan học, tôi đạp xe về, cả đường nước mắt chảy. Nó không nhớ ra bút nào có nghĩa là nó quên mẩu đối thoại hôm qua, nó quên mẩu đối thoại hôm qua có nghĩa là về nhà nó quên mất mình. Nếu nó cũng nhớ mình như mình nhớ nó là phải nhớ đến mẩu đối thoại hôm qua, nếu nhớ đến mẩu đối thoại hôm qua thì không thể quên được chuyện hư bút máy mình tình nguyện sửa, nếu cảm động về chuyện mình tình nguyện sửa thì đã phải nhớ ra được cây bút nào.... Tôi đạp xe, nước mắt lem nhem. Gần đến đường rày, ngươi ta chắn tàu, tôi nhìn tàu hỏa chạy qua trong nhạt nhòa mũi dãi mà nghĩ mình chết bây giờ mới thỏa chí căm thù. Đến sân nhà, thấy mẹ đang cho đàn vịt con vàng ruộm ăn bèo tấm, mẹ nói chuyện vui vẻ mà không nhìn mặt tôi rằng hôm nay chú Lân tới, mượn cớ sợ cá đói mà mang theo một bịch lăng quăng. Mẹ nói trông chú gầy đi, hom hem và bạc nhược. Mẹ tung nắm bèo cuối cùng, phủi tay, nói: “Cắt đứt cũng vừa!”. Lúc ấy mẹ mới ngẩng mặt nhìn tôi, mẹ bối rối khi thấy mặt tôi đỏ, mắt tôi ướt. Mẹ lúng túng nói con đi tắm đi mẹ nấu sẵn nước rồi, xe cứ để đấy để mẹ dắt vào cho. Tôi thấy thương mẹ quá, lại buồn cười nữa, mẹ đã không già kịp bằng tôi lớn. 

Năm ấy tôi quyết định không để ý ai nữa. Lý do thì đã nêu trên: cái bút. Tôi ngồi bàn cuối trong lớp, sát kẹt tường, suốt học kỳ hai không nhìn Phước trong giờ học nữa. Tuy nhiên luôn luôn có một đứa phản bội đứng trong góc mắt tôi, nó mách tôi: Phước quay xuống mượn thước, Phước leo bàn nhảy qua cửa sổ, Phước kẻ lông mày cho Lan Chi... Phước, đúng hơn, cái bóng của Phước... Tôi muốn mà không thoát được cái bóng ấy. Tôi đặt tên cho cái góc không nhìn mà thấy ấy là "góc tình cảm", có lẽ nó nằm ở khoảng một phần hai đuôi mắt, năm kia Hùng rơi vào góc ấy, hai năm nay là Phước. Cái góc nhìn ấy không nằm trong tầm kiểm soát của tôi, mà như mẹ tôi vẫn bảo, cái gì thuộc về tình cảm thì chính mình cũng không quản được. . . Tôi quyết định từ đây cả  đời chỉ có học, mẹ rất tán thành. (Nhưng nếu hôm sau tôi định cả đời phải chơi, tôi chắc mẹ cũng tán thành. Tán  thành, đó là cái cách nhanh nhất để mẹ tôi đi qua một câu  chuyện). Tôi bảo: “Con phải đậu đại học”. Mẹ thuê về một “gia sư”. Đầu tiên là một chị đeo kính cận, có phong cách vú em hơn là gia sư, luôn sẵn sàng thỏa hiệp với những lười  nhác của tôi. Tôi đề nghị mẹ tìm người khác, một người  nghiêm khắc hơn. Hai tuần sau, mẹ bảo: “Thôi nhé, từ nay  mày hết chơi !”, và giới thiệu thầy mới với tôi, cảm tưởng đầu tiên của tôi là thầy buồn và lạnh lẽo. 

 Thầy tên Thăng, không ai biết nhiều về đời thầy. Ngay từ  đầu ông đã có vẻ không thích thầy. Tôi hỏi ông có phải tại  thầy ít nhìn thẳng, thầy hay cúi mặt hay thầy ít nói mà ông ghét không? Ông bảo không, ông chỉ thấy không ưa chứ không biết giải thích thế nào. “Có thể tại da nó tai tái - Ông nói - Cũng có thể tại quầng mắt nó thâm – Ông loay hoay - Nhưng nói  chung là tao không thích!”. Khi ông  thích ai, ông đanh thép liệt kê những dẫn chứng vì sao ông thích; khi ông ghét ai, ông nói cùn, cái kiểu khịt mũi xua tay, người nghe có muốn bênh vực kẻ bị ghét cũng bằng thừa, thế nên dù tôi đã nói: “Thầy Thăng dạy hay, thầy Thăng đúng giờ, thầy Thăng nghiêm túc không bao giờ đùa…” thì ông vẫn ghét. 

Ông ghét và bố cũng ghét, tuy nhiên bố bất lực vì tuy bằng tuổi thầy nhưng kiến thức toán của bố rơi rớt hết chỉ còn lại vài công thức căn bản của chương trình cấp hai. Thỉnh thoảng bố cũng mở vở tôi ra xem, thử moi móc may ra nhặt được dăm điều lẩn thẩn của thầy, nhưng tôi đã nói, bố bất lực. Những lúc ấy nhìn bố bé lại hẳn, và lạ lẫm nữa. Bố bé lại đến mức tôi cũng thấy ghét thầy Thăng, thầy vẫn cứ ngồi điềm nhiên, giảng đều đều, mắt buồn buồn nhìn xuống vở, và bố tôi chợt giống như một đứa nhỏ rình rập xung quanh tìm cách phá không xong. Tôi hỏi mẹ sao bố không có cái kiểu đó với chú Lân, mẹ bảo: “Không biết!”, rồi không nói gì thêm. Mẹ không nói gì đến thầy, cái này cũng không giống mẹ trước đây. Khi thầy đến mẹ hay xách xe đi, đi một chút về ngay rồi giữ nguyên quần áo đẹp cùng phấn son chạy qua chạy lại lên nhà xuống bếp. Thầy không nhìn mẹ, còn tôi không tập trung học được. Khi đó tôi thắc mắc không hiểu mẹ có lọt được vào “góc tình cảm” của thầy không. Một đêm, tôi ôm mẹ, hỏi giọng bè bạn: “Mẹ có thích thầy không?” Mẹ đắn đo rồi nói: “Không !”, xong nhắm mắt giả vờ ngủ tiếp. Tôi hơi phật ý vì mẹ không coi tôi như bạn. Tôi nói: “Nếu không thích thì mẹ đã phải mắng con!”. Mẹ lưỡng lự, vẫn nhắm mắt, bảo: “Nhưng thầy có thích mẹ đâu!”. Giọng mẹ hoang mang, tôi thấy đáng thương và cả đáng ghét. 

... Tôi đậu đại học. Tiệc ăn mừng chỉ có bốn người: ông, mẹ, thầy và tôi. Tôi đã dẫn bạn bè ra ngoài quán. Tôi đã xin bố tôi chỉ hai bố con vào nhà hàng để tôi gọi món ăn và uống bia như người lớn. Tôi không muốn những người ấy trong bàn tiệc thấy mắt mẹ long lanh nhìn thầy Thăng lạnh lẽo. Mở đầu tiệc, tôi nói cám ơn thầy một năm qua đã hết lòng với tôi Thầy không nói gì, chỉ nhìn mặt bàn mỉm cười bâng quơ. Tôi rành rọt xin thầy cho số nhà, hằng năm lễ tết rảnh em sẽ ghé thăm. Thầy ngẩng lên nhìn, mắt thầy tình cảm nhưng tôi hiểu ngay cái nhìn này chỉ gửi nhờ vào mắt tôi và dành cho mẹ. Thầy nói thỉnh thoảng thầy sẽ ghé thăm. Cuối câu, mắt thầy lạnh lại, tôi biết, cái nhìn này thầy dành cho tôi, nó như cái cười khẩy: “Mày muốn tao đi luôn chứ gì?” Ông ngoại nghe thầy nói thỉnh thoảng sẽ ghé thăm thì thần cả người, ông bẻ bánh mì mà quên cả lột vỏ. Mẹ cũng ăn bánh mì không, chẳng chấm cà ri gì cả. Nếu cứ căn cứ vào cách ăn thì tôi dám chắc thầy không thích mẹ bằng mẹ thích thầy. 

Tôi vào đại học và đi suốt ngày. Tôi ngoái đầu nhìn lại những chuyện phổ thông giống như chuyện kiếp trước. Tôi thích Biên, một sinh viên ở tỉnh lên nên tôi quẩn quanh ký túc. Buổi trưa đứng trên lầu nữ, nhìn xuống thấy Biên xách ca ngang sân bóng chuyền đi mua nước đá là tôi phóng vội xuống căn tin giả vờ lơ láo mua kem... Tôi tìm trên bản đồ ở đâu cái tỉnh của Biên; đọc báo hôm nay lụt, mai bão... tôi hỏi lại, Biên nói hiền lành: “Tui sống ngay thị xã”. Dù thị xã tôi cũng mơ màng được, thể nào cũng phố chợ ven sông, và cái nhà ủy ban to đùng trên những con đường vắng... Tôi rủ mẹ cuối tuần xuống đó với tôi, mẹ lắc đầu; tôi rủ hay hai mẹ  con mình ra đường chơi, mẹ nói ngày khác đi. Tôi tì cằm lên  bàn hỏi mẹ: “Mẹ yêu rồi phải không?” Mẹ nhìn như thể ước lượng xem tôi đã đủ lớn chưa để gật đầu nên tôi gật đầu hộ mẹ. Mẹ phì cười, tôi hỏi: “Nhưng người ta có yêu mẹ không?” Mẹ nói: “Có”. Tôi hỏi: “Người ta có muốn cưới mẹ không?” Mẹ gật đầu. Tôi nói: “Mẹ lấy chồng đi, con chẳng cần đâu!”. Tôi đã phải nói bằng giọng chân thành nhất nhưng mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra cây vàng anh hoa vàng thồi thồi, mẹ lắc đầu: “Rắc rối lắm”. Tôi nói: “Mẹ lấy chồng đi, lấy ai con cũng hứa sẽ không hỗn hào, mẹ sinh em bé con không phải học thì con sẽ ẵm…” Mẹ đứng vụt lên, bám khung cửa sổ nhìn ra vườn rồi mẹ khóc. Tôi hoang mang quá tôi lại gần mẹ, mẹ vẫn không nhìn tôi. Tôi nhìn ra vườn cây, trời mưa, tôi đắn đo: “Con hiểu rồi! Người ta không thích con ở cùng nhà, phải không mẹ?” Rồi tôi khóc, vừa khóc vừa nghĩ mình đã dự tính trước rồi mà, sao lại khóc. Nhưng tôi đã không hình dung được mẹ lại đồng ý để bị bứt khỏi tôi, tôi không hình dung được mẹ sẽ có em bé khác để mẹ yêu, tôi không chịu đựng được tôi đến thăm, mẹ sẽ ra mở cửa cho tôi vào phòng khách... 

Đó là năm ấy... Bây giờ tôi ở với ông. Tháng bảy chiều nào cũng mưa, hai ông cháu rủ nhau qua đánh cờ bên cái chòi dây chuông đã đứt.

TTCN, 1-12-1996

Bài liên quan
  • Ở XỨ VÔ LOÀI – Truyện ngắn Nguyễn Đình Tú

    Ở XỨ VÔ LOÀI – Truyện ngắn Nguyễn Đình Tú

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ở xứ vô loài là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Đình Tú in trong tuyển tập Hoa Cúc Vàng, gồm các truyện ngắn hay đăng trên Tạp Chí Nhà Văn, do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2007.
  • XÓM CHUỒNG NGỰA – Truyện ngắn Nguyễn Đức Sơn

    XÓM CHUỒNG NGỰA – Truyện ngắn Nguyễn Đức Sơn

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà văn Nguyễn Đức Sơn (bút danh Sao Trên Rừng - 1937-2020), một trong ba kỳ nhân của làng văn, tức ba người có cá tính kỳ dị bậc nhất làng văn, gồm Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện. Về tài năng, giới văn chương xếp Nguyễn Đức Sơn cùng với Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên là tứ trụ thi ca miền Nam. Đang học Đại học Văn khoa Sài Gòn, Nguyễn Đức Sơn nghỉ ngang và tuyên bố: "Nếu trường Đại học Văn khoa Sài Gòn sản sinh ra được một nhà văn nhà thơ nổi tiếng tôi xin chịu chặt đầu." Năm 1979, Nguyễn Đức Sơn đưa vợ con lên đồi Phương Bối, Bảo Lộc, Lâm Đồng lập nghiệp. Trên quả đồi do nhà sư Nhất Hạnh tặng, ông trải qua bốn mươi năm cùng vợ con sống như những sơn nhân. Năm 2020, ông ra đi và để lại cho Bảo Lộc một đồi thông Phương Bối tuyệt đẹp rộng 15ha do chính tay ông trồng, canh giữ, và thậm chí đổ máu để bảo vệ.
  • NGÔI ĐỀN VÀ ÔNG GIÀ CÂM - Truyện ngắn Trần Tâm

    NGÔI ĐỀN VÀ ÔNG GIÀ CÂM - Truyện ngắn Trần Tâm

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngôi đền và ông già câm là truyện ngắn trong tập truyện Khuyển Đế của nhà văn Trần Tâm xuất bản năm 2017.
  • SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư - Phần cuối

    SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư - Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Sống Nhờ là tác phẩm của nhà văn Mạnh Phú Tư in trên Phổ Thông Bán Nguyệt San năm 1942. Giữa những nhà văn hiện thực xuất sắc khác trước năm 1945, Mạnh Phú Tư tạo ra một thế giới riêng với các tác phẩm cất lên tiếng nói phê phán mạnh mẽ các lề thói cũ, ông dùng cây cọ văn chương, đưa những nét vẽ, rồi ở đấy, trong thế giới của ông, đã để lại những nhân vật, những cảnh đời đẫm máu và nước mắt.
  • SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư

    SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Sống Nhờ là tác phẩm của nhà văn Mạnh Phú Tư in trên Phổ Thông Bán Nguyệt San năm 1942. Giữa những nhà văn hiện thực xuất sắc khác trước năm 1945, Mạnh Phú Tư tạo ra một thế giới riêng với các tác phẩm cất lên tiếng nói phê phán mạnh mẽ các lề thói cũ, ông dùng cây cọ văn chương, đưa những nét vẽ, rồi ở đấy, trong thế giới của ông, đã để lại những nhân vật, những cảnh đời đẫm máu và nước mắt.
  • TÔI KÉO XE - Phóng sự Tam Lang

    TÔI KÉO XE - Phóng sự Tam Lang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Tôi kéo xe là thiên phóng sự mẫu mực của nhà báo Tam Lang, in lần đầu trên Hà Thành Ngọ Báo năm 1932. Dù đã gần một thế kỷ trôi qua, giá trị văn học của tác phẩm vẫn nóng hổi cho tới tận ngày nay, thời mà truyền thông, mạng xã hội bùng nổ chưa từng thấy. "Nghề viết văn viết báo ở xã hội VN là nghề bạc bẽo và bấp bênh nhất. Đâm đầu vào nghề mà không có được người vợ đảm đang tháo vát, tần tảo nuôi nổi gia đình trong thời gian mình thất nghiệp vì bất mãn, vì báo bị đình bản có giới hạn hoặc thu hồi giấy phép thì chuyện treo niêu gác bếp là chuyện rất thường" - Tam Lang.
  • MŨI TỔ - Truyện ngắn Lý Văn Sâm

    MŨI TỔ - Truyện ngắn Lý Văn Sâm

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trong suốt năm mươi năm cầm bút, nhà văn tài hoa của Miền Đông Lý Văn Sâm đã để lại một số lượng tác phẩm khá đồ sộ, bao gồm nhiều tác phẩm được độc giả yêu thích như Kòn Trô (1941), Nắng bên kia làng (1948), Sương gió biên thùy (1948), Sau dãy Trường Sơn,... Năm 2007, nhà văn Lý Văn Sâm được trao Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật cho các tác phẩm; Sau dãy Trường Sơn, tập truyện ngắn Sương gió biên thùy và Toàn tập Lý Văn Sâm.
  • CHUỒNG NUÔI NGỰA – Truyện ngắn Như Phong

    CHUỒNG NUÔI NGỰA – Truyện ngắn Như Phong

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chuồng nuôi ngựa là truyện ngắn của nhà văn Như Phong in trên Báo Mới số 2 (ngày 15-5-1939) và số 3 (ngày 1-6-1939). Nhà văn Như Phong được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt 2 Năm 2007.
  • NGƯỜI THÀY THUỐC - Truyện ngắn Thanh Châu

    NGƯỜI THÀY THUỐC - Truyện ngắn Thanh Châu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Người Thày Thuốc là truyện ngắn trong tập truyện cùng tên của nhà văn Thanh Châu, Tân Dân xuất bản năm 1938. Ông chính là tác giả của truyện ngắn Hoa Ti-gôn, vốn là khởi đầu cho một cuộc tranh luận bất tận cho tới tận ngày nay về bài thơ  “Hai sắc hoa Ti-gôn”, của nhà thơ “bí ẩn” T.T.Kh.
  • ÔNG CẢN NGŨ – Truyện ngắn Kim Lân

    ÔNG CẢN NGŨ – Truyện ngắn Kim Lân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Từ lời khuyên của nhà văn đàn anh Vũ Bằng: “Ông viết về nông thôn không bằng cụ Tố (Ngô Tất Tố), Nam Cao, ông nên viết về nông thôn kiểu Đôi Chim Thành.", nhà văn Kim Lân đã viết một loạt truyện ngắn phóng sự rất thành công in trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy về nông thôn,  Ông Cản Ngũ, như loạt truyện khác của ông, đã lưu giữ cho đời sau biết được rằng; vào thời bị thực dân Pháp cai trị, dân ta dù bị áp bức bóc lột, vẫn có những hoạt động văn hóa, những kiến thức dân gian vô cùng sâu sắc.