chan_dung-ke_si

THÁNG BẢY – Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh

19-09-2024

Lượt xem 1518

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Phan Thị Vàng Anh

THÁNG BẢY – Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh

Nhà văn Phan Thị Vàng Anh

Chân Dung Kẻ Sĩ: Tháng Bảy là truyện không ngắn như những truyện ngắn khác mà nhà văn Phan Thị Vàng Anh thuờng viết, nó dài hơn hẳn. Truyện được viết khi tác giả tham dự chương trình viết văn của Đại học Iowa, Mỹ, đăng trên TTCT năm 1996.

Năm đó tôi mười bảy tuổi. Tháng bảy, chiều nào cũng mưa, sáng ra đã gió, ngày nào tôi cũng nghe mẹ ví von về loại thời tiết này: "Cậu ở, mợ đời". Tôi nhớ, khi nói câu này, mẹ đứng vịn cửa sổ nhìn ra vườn, ngày ấy ao mới lấp, bố về thăm nhà trồng cây hoa vàng anh, hoa to thồi thồi, vàng tươi, ngày nào cũng nở. Mẹ đứng như thế này, vươn cái cổ cao cao, áp mặt vào mấy song cửa gỉ, hai tay dài thò ra ngoài khung cửa, mẹ có dáng vẻ của một đứa trẻ bị khóa trong nhà muốn ra ngoài hơn là dáng của một phụ nữ ba mươi ba tuổi bị chồng bỏ. 

Ông ngoại bảo: "Mẹ mày còn ham chơi!". 

Khi ấy, tôi học lớp 12. Thỉnh thoảng mẹ rủ: "Mẹ với mày đi chơi?". Tôi đùa: "Ai chở ai?". Mẹ rất duyên dáng cười ma lanh: "Mẹ hơi đau lưng nhưng vẫn chở mày được?". Mẹ đánh phấn nâu, mặc áo đen, mắt mẹ long lanh, cười ngậm miệng mệt mỏi khi các chú đến tán tỉnh. Mẹ thích người ta nhầm mẹ và tôi là hai chị em để mẹ có cơ hội tự hào bảo: "Con gái tôi đấy!» Thể nào người ta cũng dấn thêm một bước tò mò bằng câu hỏi về tuổi tác, mẹ lại có thêm cơ hội gợi cho người ta lòng hiếu kỳ khi hình dung ra cảnh một con bé mười sáu tuổi vào phòng sinh. "Thế anh ấy làm gì?". Đến câu này, tuy lần nào mẹ cũng khẽ hạ mắt xuống, mỏi mệt đáp: "Chúng tôi ly dị", nhưng tôi vẫn thấy vẻ vui thích láu lỉnh ẩn nấp đâu đó sau tiếng thở dài. 

Ông ngoại nói mẹ tôi trẻ hơn tôi. 

Trong nhà, tôi sống cùng mẹ và ông ngoại. Từ một năm nay ông không chịu ở chung một nhà, ông làm một cái chòi ngay trong vườn. Từ chòi, ông mắc một cái chuông nối sang nhà tôi, mỗi khi muốn qua, ông giật chuông; mẹ (hoặc tôi) thò đầu ra cửa, thấy ông đứng ở cửa chòi, nói to: "Tao sang nhé ! ", nếu phe tôi gật đầu, ông sang. Dần dà, mẹ sợ hàng xóm nghe lại hiểu lầm trò này do mẹ bày ra, mẹ bảo ông  giật chuông rồi đừng hỏi to gì cả, mẹ sẽ ra hiên, nếu mẹ gật đầu ông qua. Được vài tháng. ông bảo mắt ông kém dần, mẹ phải thay cái gật đầu bằng cái vẫy tay cho nó rõ hơn. Từ đó, hễ chuông rung, chúng tôi ra hiên vẫy tay, và ông qua. Tôi hỏi sao không mắc một cái chuông ngược lại sang ông, để bọn tôi qua cũng phải xin phép. Ông cười, bảo thôi không cần, mẹ bảo nhưng các bà trong tổ hưu bạn ông cần chuông, ông trừng mắt âu yếm bảo im đi. "Các bà ấy, ngay từ hồi trẻ tao đã không thèm để ý!". 

Bố bỏ đi khi tôi mười lăm tuổi. Tôi dùng chữ "bỏ đi" là không đúng, nghe có vẻ hoang đàng quá mà thực ra bố đi rất đàng hoàng. Một năm trước đó tôi không sống ở nhà. Tôi về với ngoại, khi đó ngoại còn sống cùng dì Tư. Trước đó nữa tôi chưa từng chứng kiến trận cãi nhau nào của bố và mẹ. Tôi nói bố đi rất đàng hoàng là có nhiều lý do, thứ nhất ngay cả ngoại, cả dì Tư đôi khi nói với nhau cũng để tôi nghe lén rằng bố đi là đúng, thứ hai khi trở về tôi thấy nhà cửa, đồ đạc còn nguyên, bố chẳng mang đi theo. Tôi rất không thích mỗi khi mẹ kết luận hiện tượng này bằng cái câu: « Đến mày mà bố còn không đòi chia thì đòi chia của cải làm gì!". Tôi bảo, à, hóa ra mẹ nuôi con chỉ vì bố không đòi chia con chứ cũng chẳng phải bỏ công giành giật gì mà được, phải không ? Mẹ bảo, không, nếu bố giành giật, bố sẽ thua, mẹ phải được nuôi con. Thỉnh thoảng tôi hồ nghi câu này. Thế nhưng, tôi vẫn yêu mẹ. Thứ ba (tiếp cái lý do cho là bố đàng hoàng), ngay cả bây giờ về chơi bố vẫn ung dung vào nhà, không giống như trong truyện trong phim, lén lút ngậm ngùi gặp con vài phút, mừng mừng tủi tủi bên dậu bên rào. Bố vào, đặt túi quà lên bàn, có khi là thức ăn, mẹ tự động mở túi giở ra rổ làm cơm. Bố uống trà với ông, lại bàn chiến sự nước này nước nọ, rồi gọi mẹ vào nhà, vài phút thôi nhưng ông ngoại nhìn theo cảm động, tôi biết bố cho mẹ tiền. Tối đến mẹ đếm, tôi ngồi cạnh mẹ trên giường, mẹ bảo chừng này đáng gì, bố mày bây giờ giàu lắm cơ. Tôi bảo mẹ buồn cười, đáng ra ngoài tiền nuôi con mẹ chẳng được xu nào, sao mẹ lại đòi chia một tỉ lệ 6/4 hoặc 5/5 như “hồi còn tại chức” thế... Mẹ tôi cười, đuôi mắt mẹ bắt đầu nhăn và ngay tuần sau bố lặng lẽ để trên bàn một hộp kem xoa mắt. 

Năm ấy mẹ và chú Lân cắt đứt. Cắt lần này cũng không khóc lóc mà cũng chẳng cãi nhau, chỉ thấy một tuần rồi hai tuần chú Lân không mang lăng quăng cho cá. Hỏi thì mẹ nói chú ấy còn trẻ thế, chắc mẹ chú ấy cấm chứ sao. Mẹ nói tỉnh rụi như chuyện của ai. Tôi nghĩ chú Lân đang ngồi góc nào đắc chí nghĩ mẹ đang đau thì phải một phen bẽ mặt. Tôi tự hào về mẹ tôi lắm. Tôi càng tự hào vì tập mãi không giống được mẹ tôi. Tôi đến lớp, trong giờ sử, Phước than cái bút máy không ra mực đành vứt ở nhà. Tôi ân cần dặn dò hôm sau nhớ mang theo để tôi đem đến sửa hiệu quen. Tôi đã đợi một đêm để hôm sau hỏi: "Bút đâu?". Phước ngơ ngác hỏi: "Bút nào? Để làm gì?". Tan học, tôi đạp xe về, cả đường nước mắt chảy. Nó không nhớ ra bút nào có nghĩa là nó quên mẩu đối thoại hôm qua, nó quên mẩu đối thoại hôm qua có nghĩa là về nhà nó quên mất mình. Nếu nó cũng nhớ mình như mình nhớ nó là phải nhớ đến mẩu đối thoại hôm qua, nếu nhớ đến mẩu đối thoại hôm qua thì không thể quên được chuyện hư bút máy mình tình nguyện sửa, nếu cảm động về chuyện mình tình nguyện sửa thì đã phải nhớ ra được cây bút nào.... Tôi đạp xe, nước mắt lem nhem. Gần đến đường rày, ngươi ta chắn tàu, tôi nhìn tàu hỏa chạy qua trong nhạt nhòa mũi dãi mà nghĩ mình chết bây giờ mới thỏa chí căm thù. Đến sân nhà, thấy mẹ đang cho đàn vịt con vàng ruộm ăn bèo tấm, mẹ nói chuyện vui vẻ mà không nhìn mặt tôi rằng hôm nay chú Lân tới, mượn cớ sợ cá đói mà mang theo một bịch lăng quăng. Mẹ nói trông chú gầy đi, hom hem và bạc nhược. Mẹ tung nắm bèo cuối cùng, phủi tay, nói: “Cắt đứt cũng vừa!”. Lúc ấy mẹ mới ngẩng mặt nhìn tôi, mẹ bối rối khi thấy mặt tôi đỏ, mắt tôi ướt. Mẹ lúng túng nói con đi tắm đi mẹ nấu sẵn nước rồi, xe cứ để đấy để mẹ dắt vào cho. Tôi thấy thương mẹ quá, lại buồn cười nữa, mẹ đã không già kịp bằng tôi lớn. 

Năm ấy tôi quyết định không để ý ai nữa. Lý do thì đã nêu trên: cái bút. Tôi ngồi bàn cuối trong lớp, sát kẹt tường, suốt học kỳ hai không nhìn Phước trong giờ học nữa. Tuy nhiên luôn luôn có một đứa phản bội đứng trong góc mắt tôi, nó mách tôi: Phước quay xuống mượn thước, Phước leo bàn nhảy qua cửa sổ, Phước kẻ lông mày cho Lan Chi... Phước, đúng hơn, cái bóng của Phước... Tôi muốn mà không thoát được cái bóng ấy. Tôi đặt tên cho cái góc không nhìn mà thấy ấy là "góc tình cảm", có lẽ nó nằm ở khoảng một phần hai đuôi mắt, năm kia Hùng rơi vào góc ấy, hai năm nay là Phước. Cái góc nhìn ấy không nằm trong tầm kiểm soát của tôi, mà như mẹ tôi vẫn bảo, cái gì thuộc về tình cảm thì chính mình cũng không quản được. . . Tôi quyết định từ đây cả  đời chỉ có học, mẹ rất tán thành. (Nhưng nếu hôm sau tôi định cả đời phải chơi, tôi chắc mẹ cũng tán thành. Tán  thành, đó là cái cách nhanh nhất để mẹ tôi đi qua một câu  chuyện). Tôi bảo: “Con phải đậu đại học”. Mẹ thuê về một “gia sư”. Đầu tiên là một chị đeo kính cận, có phong cách vú em hơn là gia sư, luôn sẵn sàng thỏa hiệp với những lười  nhác của tôi. Tôi đề nghị mẹ tìm người khác, một người  nghiêm khắc hơn. Hai tuần sau, mẹ bảo: “Thôi nhé, từ nay  mày hết chơi !”, và giới thiệu thầy mới với tôi, cảm tưởng đầu tiên của tôi là thầy buồn và lạnh lẽo. 

 Thầy tên Thăng, không ai biết nhiều về đời thầy. Ngay từ  đầu ông đã có vẻ không thích thầy. Tôi hỏi ông có phải tại  thầy ít nhìn thẳng, thầy hay cúi mặt hay thầy ít nói mà ông ghét không? Ông bảo không, ông chỉ thấy không ưa chứ không biết giải thích thế nào. “Có thể tại da nó tai tái - Ông nói - Cũng có thể tại quầng mắt nó thâm – Ông loay hoay - Nhưng nói  chung là tao không thích!”. Khi ông  thích ai, ông đanh thép liệt kê những dẫn chứng vì sao ông thích; khi ông ghét ai, ông nói cùn, cái kiểu khịt mũi xua tay, người nghe có muốn bênh vực kẻ bị ghét cũng bằng thừa, thế nên dù tôi đã nói: “Thầy Thăng dạy hay, thầy Thăng đúng giờ, thầy Thăng nghiêm túc không bao giờ đùa…” thì ông vẫn ghét. 

Ông ghét và bố cũng ghét, tuy nhiên bố bất lực vì tuy bằng tuổi thầy nhưng kiến thức toán của bố rơi rớt hết chỉ còn lại vài công thức căn bản của chương trình cấp hai. Thỉnh thoảng bố cũng mở vở tôi ra xem, thử moi móc may ra nhặt được dăm điều lẩn thẩn của thầy, nhưng tôi đã nói, bố bất lực. Những lúc ấy nhìn bố bé lại hẳn, và lạ lẫm nữa. Bố bé lại đến mức tôi cũng thấy ghét thầy Thăng, thầy vẫn cứ ngồi điềm nhiên, giảng đều đều, mắt buồn buồn nhìn xuống vở, và bố tôi chợt giống như một đứa nhỏ rình rập xung quanh tìm cách phá không xong. Tôi hỏi mẹ sao bố không có cái kiểu đó với chú Lân, mẹ bảo: “Không biết!”, rồi không nói gì thêm. Mẹ không nói gì đến thầy, cái này cũng không giống mẹ trước đây. Khi thầy đến mẹ hay xách xe đi, đi một chút về ngay rồi giữ nguyên quần áo đẹp cùng phấn son chạy qua chạy lại lên nhà xuống bếp. Thầy không nhìn mẹ, còn tôi không tập trung học được. Khi đó tôi thắc mắc không hiểu mẹ có lọt được vào “góc tình cảm” của thầy không. Một đêm, tôi ôm mẹ, hỏi giọng bè bạn: “Mẹ có thích thầy không?” Mẹ đắn đo rồi nói: “Không !”, xong nhắm mắt giả vờ ngủ tiếp. Tôi hơi phật ý vì mẹ không coi tôi như bạn. Tôi nói: “Nếu không thích thì mẹ đã phải mắng con!”. Mẹ lưỡng lự, vẫn nhắm mắt, bảo: “Nhưng thầy có thích mẹ đâu!”. Giọng mẹ hoang mang, tôi thấy đáng thương và cả đáng ghét. 

... Tôi đậu đại học. Tiệc ăn mừng chỉ có bốn người: ông, mẹ, thầy và tôi. Tôi đã dẫn bạn bè ra ngoài quán. Tôi đã xin bố tôi chỉ hai bố con vào nhà hàng để tôi gọi món ăn và uống bia như người lớn. Tôi không muốn những người ấy trong bàn tiệc thấy mắt mẹ long lanh nhìn thầy Thăng lạnh lẽo. Mở đầu tiệc, tôi nói cám ơn thầy một năm qua đã hết lòng với tôi Thầy không nói gì, chỉ nhìn mặt bàn mỉm cười bâng quơ. Tôi rành rọt xin thầy cho số nhà, hằng năm lễ tết rảnh em sẽ ghé thăm. Thầy ngẩng lên nhìn, mắt thầy tình cảm nhưng tôi hiểu ngay cái nhìn này chỉ gửi nhờ vào mắt tôi và dành cho mẹ. Thầy nói thỉnh thoảng thầy sẽ ghé thăm. Cuối câu, mắt thầy lạnh lại, tôi biết, cái nhìn này thầy dành cho tôi, nó như cái cười khẩy: “Mày muốn tao đi luôn chứ gì?” Ông ngoại nghe thầy nói thỉnh thoảng sẽ ghé thăm thì thần cả người, ông bẻ bánh mì mà quên cả lột vỏ. Mẹ cũng ăn bánh mì không, chẳng chấm cà ri gì cả. Nếu cứ căn cứ vào cách ăn thì tôi dám chắc thầy không thích mẹ bằng mẹ thích thầy. 

Tôi vào đại học và đi suốt ngày. Tôi ngoái đầu nhìn lại những chuyện phổ thông giống như chuyện kiếp trước. Tôi thích Biên, một sinh viên ở tỉnh lên nên tôi quẩn quanh ký túc. Buổi trưa đứng trên lầu nữ, nhìn xuống thấy Biên xách ca ngang sân bóng chuyền đi mua nước đá là tôi phóng vội xuống căn tin giả vờ lơ láo mua kem... Tôi tìm trên bản đồ ở đâu cái tỉnh của Biên; đọc báo hôm nay lụt, mai bão... tôi hỏi lại, Biên nói hiền lành: “Tui sống ngay thị xã”. Dù thị xã tôi cũng mơ màng được, thể nào cũng phố chợ ven sông, và cái nhà ủy ban to đùng trên những con đường vắng... Tôi rủ mẹ cuối tuần xuống đó với tôi, mẹ lắc đầu; tôi rủ hay hai mẹ  con mình ra đường chơi, mẹ nói ngày khác đi. Tôi tì cằm lên  bàn hỏi mẹ: “Mẹ yêu rồi phải không?” Mẹ nhìn như thể ước lượng xem tôi đã đủ lớn chưa để gật đầu nên tôi gật đầu hộ mẹ. Mẹ phì cười, tôi hỏi: “Nhưng người ta có yêu mẹ không?” Mẹ nói: “Có”. Tôi hỏi: “Người ta có muốn cưới mẹ không?” Mẹ gật đầu. Tôi nói: “Mẹ lấy chồng đi, con chẳng cần đâu!”. Tôi đã phải nói bằng giọng chân thành nhất nhưng mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra cây vàng anh hoa vàng thồi thồi, mẹ lắc đầu: “Rắc rối lắm”. Tôi nói: “Mẹ lấy chồng đi, lấy ai con cũng hứa sẽ không hỗn hào, mẹ sinh em bé con không phải học thì con sẽ ẵm…” Mẹ đứng vụt lên, bám khung cửa sổ nhìn ra vườn rồi mẹ khóc. Tôi hoang mang quá tôi lại gần mẹ, mẹ vẫn không nhìn tôi. Tôi nhìn ra vườn cây, trời mưa, tôi đắn đo: “Con hiểu rồi! Người ta không thích con ở cùng nhà, phải không mẹ?” Rồi tôi khóc, vừa khóc vừa nghĩ mình đã dự tính trước rồi mà, sao lại khóc. Nhưng tôi đã không hình dung được mẹ lại đồng ý để bị bứt khỏi tôi, tôi không hình dung được mẹ sẽ có em bé khác để mẹ yêu, tôi không chịu đựng được tôi đến thăm, mẹ sẽ ra mở cửa cho tôi vào phòng khách... 

Đó là năm ấy... Bây giờ tôi ở với ông. Tháng bảy chiều nào cũng mưa, hai ông cháu rủ nhau qua đánh cờ bên cái chòi dây chuông đã đứt.

TTCN, 1-12-1996

Bài liên quan
  • TRI KỶ - Truyện ngắn Thanh Châu

    TRI KỶ - Truyện ngắn Thanh Châu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Tri kỷ là truyện ngắn hóm hỉnh, hơi khác so với các tác phẩm trữ tình lãng mạn vốn xuyên suốt các tác phẩm của nhà văn Thanh Châu. Truyện, góp phần tạo ra một Thanh Châu đa dạng, tài năng, không hẳn chỉ là "một con dế chuyên kể đẹp chuyện đêm khuya” như nhà văn tự nhận.
  • NHẬT KÝ Ở RỪNG – Nam Cao

    NHẬT KÝ Ở RỪNG – Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: “Sống đã rồi hãy viết… góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn…” là một tuyên ngôn về văn chương trích từ Đường Vô Nam và Nhật ký Ở rừng, được khắc trên trang sách bên phải bằng đá tại khu lưu niệm về nhà văn Nam Cao tại làng Đại Hoàng, Hà Nam. Nhật ký Ở rừng cũng là một trong các tác phẩm xuất sắc của ông được Nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.
  • CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: CHUYỆN Ở BẢN PIÁT là một trong chùm ba truyện ngắn của nhà văn Tuyên Quang “viết văn phải có văn” Vũ Xuân Tửu, thắng Giải Nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2005-2006.
  • MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Một bữa no là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 480, ngày 25 tháng Chín năm 1943. Tác phẩm, là một tiếng kêu cứu về nhân cách của người dân Nước Nam đang bị sự bần cùng, cái đói, cái rét, do thực dân Pháp tạo ra, hủy diệt.
  • NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nắng trong vườn là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Thạch Lam, Đời Nay xuất bản năm 1938.
  • HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai hào là truyện ngắn trong tập truyện đầu tay Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích của nhà văn Lê Văn Trương, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934.
  • TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trẻ con không được ăn thịt chó là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao, in lần đầu trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 444, 19 Tháng Mười Hai 1942.
  • CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chim khách kêu là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Kiên, được trao giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 và giải thưởng Văn học Đông Nam Á (Thái Lan) năm 2002.
  • ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Đôi mắt là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao in lần đầu trên Văn Nghệ số 2 năm 1948. Đây là một trong những tác phẩm giá trị nhất của nhà văn Nam Cao. Năm 1996, ông đã được nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I cho truyện ngắn nói trên cùng với các tác phẩm Nhật ký Ở rừng, Chí Phèo và Sống mòn.
  • TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trước cảnh hoang tàn đế thiên đế thích là truyện ngắn in trong tập truyện ngắn đầu tay cùng tên của nhà văn Lê Văn Trương, gồm 11 tác phẩm, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934. Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964) được xem là nhà văn có số lượng tác phẩm lớn nhất Việt Nam với 200 tác phẩm đã in và 40 tác phẩm chưa in bao gồm truyện ngắn và tiểu thuyết. Lê Văn Trương là thành thành viên quan trọng hàng đầu của nhà xuất bản Tân Dân, cùng với các nhà văn nổi tiếng như Tản Đà, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Lan Khai, Thanh Châu, Ngọc Giao, Tchya Đái Đức Tuấn, Trần Huyền Trân, Nam Cao, Bùi Hiển…