chan_dung-ke_si

PHÍA SAU CHÂN TRỜI - Truyện ngắn Tạ Duy Anh

16-09-2023

Lượt xem 1049

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

PHÍA SAU CHÂN TRỜI - Truyện ngắn Tạ Duy Anh

Nhà văn Tạ Duy Anh

 

 

Đã là ngày thứ năm lão Đình ngồi bên cạnh vợ. Vợ lão đang vật lộn với những ngày sống cuối cùng. Thỉnh thoảng bà mới có vài phút ra khỏi cơn hôn mê. Bà cựa quậy như người bị mỏi. Lão chỉ chờ khi ấy để giúp vợ thay đổi thế nằm. Mỗi lần như vậy lão Đình lại thì thầm: "Bà dậy thôi chứ, sao cứ ngủ mãi thế. Bà định bỏ tôi lại một mình ư?". Có lẽ vợ lão không còn nghe được những lời của lão nữa. Hoặc bà nghe và hiểu nhưng không sao đáp lại được. Bởi chỉ sau vài phút bà lại chìm vào cơn hôn mê. Lão tiếp tục áp cằm vào gối, đăm đăm nhìn người hấp hối. Mặt bà bắt đầu phù nề, hơi thở dồn dập từng chặp. Lão biết rằng vợ lão không còn mấy thời gian nữa. Lão chỉ sợ vào đúng giây phút vợ trút hơi thở cuối cùng, vì lý do nào đó mà không có lão bên cạnh. Lão sẽ không thể tha thứ cho mình nếu việc đó xảy ra. Vì thế lão không thể rời bà nửa bước.

Mặc dù thức trắng đã năm đêm, lão không thấy mệt mỏi, mà lão cô đơn. Không chỉ vì sắp tới lão còn lại một mình mà vì thấy thấm thía tận gan ruột nỗi buồn chung cho kiếp nhân sinh. Cuối cùng thì thời gian cũng xoá đi tất tật. Rốt cuộc thì cái ý nghĩa đích thực của việc ra đời một con người là gì? Vì ngay như cuộc đời lão chẳng hạn, ngày nối ngày trôi qua là vô vàn tai ương, hoạn nạn. Lão ra đời trong cái ổ chó. May mà lũ kiến chưa kịp tha đi. May mà đêm tối, rắn rết, chuột bọ chưa đánh hơi thấy. Chỉ có trời biết vì sao sự sống vẫn dai dẳng bám, để cuối cùng còn là lão Đình bây giờ. Những kỷ niệm về người vợ sắp mất của lão ùa về, bắt đầu từ sự đưa đẩy của số phận.

Lần ấy, sau khi viên quan ba Pháp bỏ mạng trên đường từ Hà Đông về Xuân Mai, lính Pháp nống ra các vùng phụ cận lùng bắt du kích... Đẩy đám dân chạy loạn tìm đến nơi nương náu là gò anh chăn vịt. Trong số những người đến tá túc có một thôn nữ không phải dân địa phương. Cô từ Hưng Yên, do không chịu nổi ông bố dượng hà khắc, bỏ đi buôn hàng xén rồi phiêu dạt đến vùng này. Cô có khuôn mặt nhẹ nhõm. Đến khi bọn Pháp tiến ra Đồng Lác rồi về, mọi người đã ai trở về nhà nấy thì cô dường như không biết đi đâu.

Chiều hôm ấy gã về muộn. Chỉ muốn lăn ngay ra đánh một giấc. Nhưng khi lầm lũi bước vào lều, thấy cô gái ngồi gục đầu, toàn thân rung lên từng chặp, gã phát bẳn lên: "Định ăn vạ ai ở đây?". Cô gái ngẩng lên nhìn gã, không có vẻ gì là sợ, dù giọng run run: "Cháu xin cậu! Cháu chẳng có chỗ nào mà về".

- Cô không sợ tôi à? - Giọng gã đã mềm hơn.

- Cháu cũng chả biết. Cùng đường thì liều thân, cậu không thương... thì cũng còn hơn chết đường, chết chợ.

- Nếu tuần bắt gặp thì biết ăn nói thế nào?

Gã lấy hết can đảm hỏi cái điều gã vẫn lo sợ. Nào ngờ cô gái như có sẵn lối thoát cho gã.

- Thì cậu cứ nhận cháu là vợ...

Đêm tân hôn của vợ chồng lão Đình đáng để cả hai cùng đem theo xuống mồ. Lão vụng về tập làm chồng. Vợ lão, dù đã được các bà mụ dạy, vẫn không giúp gì được lão. Mãi gần sáng, khi bất ngờ điều ấy xảy ra, tuyệt đối bí hiểm, thì cũng bất ngờ vợ lão chồm bật dậy, chân tay khua khoắng loạn xạ. Có tiếng quăng mình phần phật của con rắn nào đó đang hốt hoảng bỏ chạy...

"Bây giờ bà ấy chẳng biết gì nữa" - Lão Đình thở dài như trút ra những năm tháng vẫn nén chặt trong lồng ngực. Lão chăm chăm nhìn vào mặt vợ như để tìm lại nét thôn nữ ngày nào. Lão thì thầm: "Chúng ta đã có nhau ngần ấy năm. Ví thử không có mình làm sao tôi sống nổi. Đã hẹn nhau cùng sống cùng chết kia mà".

Vợ lão vẫn chìm sâu vào cơn hôn mê. Lão lại lang thang ngược thời gian về với những kỷ niệm.

Năm sau, lão Đình thôi không chăn vịt nữa. Có được ít vốn, lão đưa vợ về quê chuộc lại ruộng vườn bị bố lão gán mất vì thua bạc. Em lão, ba đứa chết mất hai. Mẹ lão vẫn phiêu dạt theo những người nhà quê ra phố làm vú nuôi. Lão bắt tay gây dựng lại từ đầu. Ngoài làm ruộng, vợ chồng lão đi buôn chuyến. Lão mò lên tít vùng Kim Bôi, Lạc Thuỷ mua sa nhân về bán cho các lái buôn người Tàu. Có đêm cả hai vợ chồng lão xuýt bị hổ ăn thịt ở dốc Cun. Khi con hổ chồm chỗm hiện ra, đuôi quật xuống đất, lão cầm chắc chết cả mười phần, nhưng chả hiểu sao con hổ nhìn vợ chồng lão ôm nhau thì bỏ đi.

Rồi lão Đình gia nhập đội du kích Cửa Đền, phụ trách một tổ quay trở lại địa bàn cũ hoạt động bí mật. Hồi này vùng quê lão Pháp đã lập tề nên lão ở dưới hầm suốt ngày. Mọi tiếp tế đều trông vào vợ lão. Có lần mưa to suốt cả tháng ròng, nước ngập lênh láng, nhóm du kích của lão phải đội hầm chui lên rút vào ẩn náu ở cánh đồng Soi Hạ, kiệt sức dần vì đói và rét. Bên ngoài bọn lính Tây và đám tuần đinh sục sạo suốt ngày đêm. Vậy mà không hiểu bằng cách nào vợ lão vẫn lọt được qua mắt chúng, lội suốt đêm trong mưa tiếp tế kịp thời cho chồng và anh em trong đội. Lão nhớ hôm đó lão cứ ôm chặt lấy vợ mà khóc...

Những giọt nước mắt sót lại suốt năm chục năm, tìm đường bò nốt ra khỏi mắt lão Đình. Có phải vì những khổ cực, cơ hàn ngày ấy mà giờ đây vợ lão thành ra thế kia. Lão lại thì thầm: "Mình còn chưa nói cho tôi biết bằng cách nào, với chỉ một con dao cùn mà mình chẻ thành củi hết số cột gỗ lim cháy dở tịch thu của chánh tổng. Tôi thì ngồi tù trong khi một nách mình hai đứa con dại". Đến đây thì lão Đình không còn cầm lòng được khóc nấc lên...

Lão an táng vợ trên một gò đất cao ráo nhìn thẳng ra cánh đồng. Những cây bạch đàn do chính tay vợ chồng lão chăm sóc, quanh năm rì rào như hát ru người dưới mồ. Lão cảm thấy hài lòng về chỗ yên nghỉ của vợ. Hầu như chiều nào, vào lúc mặt trời gác núi, lão Đình cũng ra thăm mộ vợ. Lão ngồi hàng giờ đồng hồ ôn lại với vợ hàng trăm kỷ niệm đã xưa cũ, những kỷ niệm thành cuộc sống của họ. Lão nói bằng thứ giọng say đắm, tựa như vợ lão vẫn đang vừa khâu vá vừa nghe. Lão thú nhận với vợ cả những việc làm mà khi bà còn sống lão vẫn giữ bí mật. Chẳng hạn có lần suýt nữa thì lão phản bội vợ với bà hội trưởng hội phụ nữ goá chồng. Vợ lão biết nhưng không hé răng trách cứ nửa lời. Lão bảo lão biết ơn bà và thấy xấu hổ nên tuyệt không dám chàng màng khuất tất nữa. Lão thề độc với vợ rằng chưa xảy ra "chuyện ấy". "Tôi thề có 6 đứa con... còn nếu bà không tin thì tôi cũng chẳng biết làm thế nào". Mọi việc vui buồn trong ngày, lão đều nói với vợ dưới mồ. Chẳng hạn có lần các con lão muốn bố đi du lịch cho khuây khoả, lão hỏi vợ. "Bà bảo có nên đi không? Sao hồi còn, bà lại không nghĩ ra nhỉ". Rồi lão nói luôn: "Tôi chả đi".

Những trận mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống. Chỉ trong vòng vài hôm mà nước ngập lênh láng. Nơi bà lão nằm, mặc dù cao hơn mặt ruộng nhưng cũng ngập tủm. Chẳng còn thấy bất cứ cái gì ngoài nước. Lão Đình gần như phát điên, không ngớt nguyền rủa trời đất. Nhưng bất chấp lời rủa sả của lão, nước vẫn cứ tuôn xuống. Lão Đình rũ xuống như lá ngập sâu trong nước. Lão thương vợ lão một mình giữa mênh mông nước, chết rồi vẫn chưa hết khổ.
Lão thầm trách các con lão, mới có vài tháng mà dường như cuộc sống của mẹ chúng đã không còn hiện diện hàng ngày. Chúng đã lại lao vào trăm ngàn việc mưu sinh, đã lại hào hứng với những dự định, đã lại lo gây dựng, cãi cọ, ghen tuông... Lão cảm thấy có gì đó thật vô tình, bội bạc. Điều đó càng khiến lão đau buồn, thất vọng và cô độc. Đêm đêm lão nằm nghe tiếng gà gáy eo óc, bồi hồi tưởng tượng như vợ lão sắp trở dậy, lục cục nấu nướng, trong đó nhất thiết phải có phích nước sôi già cho lão uống trà sáng. Và những hồi ức lại đưa kỷ niệm hối hả tìm về, bất chấp cuộc sống cứ náo nức một cách đáng ghét. Lão thù ghét luôn cả đám con cháu khi chúng ráo hoảnh khuyên lão nên quý trọng những tháng ngày ít ỏi còn lại. Lão cần gì nữa kia chứ? Một nửa cuộc đời lão đang ở dưới mồ, lão chả thiết để một nửa vật vờ lâu hơn nữa.

Nỗi tuyệt vọng của lão Đình khiến các con lão buồn phiền. Chúng cảnh giác cắt cử nhau theo dõi bố, đề phòng lão làm cái việc điên rồ là tự vẫn. Quả là lão đang nung nấu tìm cách sớm về với vợ. Cuộc sống với lão hoàn toàn lạnh lẽo, ảm đạm, không còn chút ý nghĩa nào nữa. Lão thèm chết kinh khủng. Lão âm thầm chuẩn bị cho cái chết đó. Lão chỉ còn băn khoăn xem chọn cách nào để cái chết bớt thê thảm.

Cuối cùng thì lão đã có một kế hoạch cho mình. Lần này thì các con lão có tài thánh cũng chẳng thể đoán ra.
Một buổi sáng khi chị con cả của lão Đình trở dậy, phát hiện ra có một tờ giấy gài ở cổng. Lão Đình ngoệch ngoạc viết lại mấy chữ: "Đừng đi tìm bố, vô ích, vì bố đã quyết. Vĩnh biệt các con!". Chị vội hô hoán các em, phân công mỗi đứa toả đi một hướng để tìm bố. Chị chỉ hy vọng tìm được xác bố nữa thôi. Vẫn biết bố đau buồn, tuyệt vọng nhưng chị không nghĩ bố lại cùng quẫn đến thế. Các tin nhắn cũng được phát đi nhưng chẳng thể lần ra tăm hơi lão Đình. Chỉ có thể là lão chui xuống mồ với bà Đình mới biến mất nhanh như thế. Một ông già bảy mươi tuổi, chẳng đem theo chút của nả nào, làm sao tránh khỏi một cái chết mất xác hoặc chết đường chết chợ ở nơi nào đó.
Càng tìm kiếm họ càng vô vọng.

Thấm thoát đã đến ngày giỗ đầu bà Đình. Những đứa con tụ tập tưởng niệm mẹ, sẽ cùng ra thăm mộ để xin bà tha thứ về việc để bố mất tích. Bữa cơm tối dọn ra đã lâu nhưng chẳng ai nuốt được khi cô con gái út cứ ngồi khóc dấm dứt. Trời u ám bởi những cột mây đen sì đang đùn lên từ phía đông. Không hiểu sao tâm trạng của những đứa con lão Đình cứ hướng cả về phía chân trời, nơi đang nháng lên từng đợt ánh sáng, giống như lửa của những đám cháy mô tả ngày tận thế. Hình như với họ, bố ra đi và mất tích sau những đám cháy ấy.

Dù không ai nói ra, trong họ vẫn le lói một hy vọng vào điều kỳ diệu nào đó. Chị con cả là người đầu tiên đủ can đảm đi ra cổng, nơi rõ ràng chị và mọi người nghe thấy tiếng đập rầm rầm.

Dưới ánh sáng đèn, lão Đình hiện ra như viên tướng cướp về già bị đàn em bóc lại hết sạch. Cũng có thể nghĩ lão vừa chui lên từ những hố đào vàng, ngoại trừ vẻ mặt sáng lên sự ranh mãnh. Có tới bảy chiếc tay nải được lão đeo lủng lẳng trên mình kèm theo chiếc hòm có bánh xe kéo ở phía sau. Và lùi lại hơn một chút, nơi vừa đủ tối để những người phía trong không nhận ra ngay, một bà lão quãng sáu mươi tuổi đang đứng im chờ đợi.
Không cho các con lão kịp kinh ngạc và thay mọi lời giải thích, lão Đình quay lại, giọng thản nhiên:

- Đến nhà rồi, mình ạ!


Hà Nội 5.2001

Cùng tác giả:

BẾN THỜI GIAN - Truyện ngắn Tạ Duy Anh

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.