chan_dung-ke_si

O TÔI - Truyện ngắn Lê Tri Kỷ

19-05-2023

Lượt xem 2262

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  truyện ngắn hayLê Tri Kỷ

O TÔI - Truyện ngắn Lê Tri Kỷ

Lê Tri Kỷ (1924-1993)

   Người đàn bà mặc áo ni-lông tím Huế dài bết gót, quần xa-tanh trắng rộng thùng thình, chít khăn nhiễu xanh, xô đẩy mọi người, ào vào nhà như cơn gió:

   - Thằng K. mô?... Thằng K. mô?... úi chao, răng mi giống cha mi rứa?

   Chưa nói xong, chưa hỏi xong đã ôm chầm lấy vai tôi, cười ra rả.

   Tôi nhận ra ngay o tôi, o Toản.

   Lạ thật! O tôi giống đúc như hồi tôi ra đi, từ khuôn mặt cởi mở, dáng điệu lúc nào cũng nhanh nhảu, đến tiếng cười giòn tan, cười đầu xóm, cuối xóm nghe được. Có lẽ đây là một trường hợp hiếm hoi trong những cuộc đời xưa nay chưa có đau khổ nào quật nổi chăng?

   Trước Cách mạng Tháng Tám, o tôi là một người nghèo rớt mồng tơi. Hầu như lúc nào, ở trong nhà, tôi cũng thấy o tôi chỉ mặc mỗi chiếc yếm, để dành chiếc áo cánh độc nhất cho những lúc ra đường. Không chịu đi ở, o tôi ở nhờ nhà cha tôi. Cũng không chịu cảnh làm tôi đòi gián tiếp cho anh, o tôi hàng ngày mò cua bắt ốc đem bán chợ kiếm tiền mua gạo, coi như chỉ nhờ cha tôi có cái mái nhà thừa tự của tổ tiên để lại. Vì vậy, o tôi không dám nghĩ tới chuyện lấy chồng. Mà có nghĩ tới, cũng chẳng ai lấy...

   Nhưng sự trớ trêu ấy không bao giờ làm cho o tôi bận tâm. Trái lại, hình như thỏa mãn với cuộc sống tự lập của mình, o tôi lạc quan yêu đời một cách lộ liễu, tuy rằng cuộc đời những người như o tôi trước cách mạng có gì để mà yêu đâu?... Một chuyện vui nho nhỏ nào cũng làm cho o tôi cười ra rả, điều mà đàn bà, con gái thời trước rất kiêng, nhưng o tôi thì không hề chú ý.

   Cách mạng Tháng Tám thành công, o tôi lấy một anh xã đội. Không bao lâu dượng tôi hy sinh. O tôi chỉ bỏ cười cho đến ngày sinh được đứa con trai, thì đâu lại vào đấy. Ngày tôi ra đi thì người em trai mới tròn một tuổi, còn o tôi thì trở về công việc mò cua, bắt ốc nuôi con...

   Nhìn bộ cánh sặc sỡ o đang mặc, tôi đùa:

   - Trông o diện quá!

   - Tội chi mà không diện? Tao còn định bán tấm ván lim trên nhà để sắm đôi dép cườm đi cho mát chân...

   Khoe chưa hết o đã cải chính ngay:

   - Nói cho vui cửa vui nhà chớ có phải mô? Nghe tin mi về, tạo chạy sang mượn áo quần của mụ Hội khoác vào cho mi khỏi khinh, chớ tao thì có... cứt!

   O lại cười toáng lên khiến mọi người cười theo.

   Bác dâu tôi mời o ngồi lên phản và xin o miếng trầu. O vén chiếc áo dài tím lên, để lộ ra chiếc yếm đầy cáu ghét. Thì ra o không có lấy một chiếc áo cánh. O kéo từ túi yếm ra một cái ví làm bằng bẹ chuối ép, móc ví lấy một nhúm sợi khô đét trông như cỏ và một lá trầu to rộng bằng hai ngón tay. O nhường lá trầu cho bác tôi, còn mình thì nhai nhúm cỏ. Bác tôi không chịu, bị o tôi mắng ngay:

   - Cứ ăn đi! Trời sinh voi sinh cỏ, vàng bạc chi mà quý?

   - O nhai thứ chi rứa? Trầu đâu? - Tôi hỏi.

   - Mần chi có trầu? Trầu phải mua từ Vĩnh Linh vô, đắt hơn vàng lá. Cả làng bây chừ đều nhai thứ cỏ ni cả.

   O tôi lại cười, mặc dầu chuyện ấy cứ làm tôi nhói ở tim. Manh áo, điếu thuốc, miếng trầu có khi làm khổ con người hơn miếng cơm. Càng hiểu điều ấy, tôi càng ngạc nhiên thấy những thiếu thốn day dứt ấy không hề làm cho o tôi bận tâm, như là cả cuộc đời mình, o tôi không biết lo là gì.

   Chuyện trò một lúc, tôi mới biết o tôi cũng có một điều lo lắng ám ảnh suốt hai mươi năm: lo cho con.

   Người con trai độc nhất ấy, o tôi để gần hết đời mình ra lo cho nó thoát khỏi kiếp đi lính và có một nghề làm ăn. Xin được một chân lao công cho sở Mỹ, o tôi mừng rơn. Nhưng chỉ tháng sau, bị tố giác là con xã đội, người con suýt bị tù. O tôi đem con về làng, bán nửa mảnh vườn nhà chồng, đút tiền xin được cái giấy chứng nhận là con "tư sinh", có nghĩa là con chửa hoang. Yên trí về lý lịch rồi, o đem con sang huyện khác xin việc. Lại một người quen khác tình cờ đi qua huyện đó. Việc lộ. O đem con lên tỉnh. Tất nhiên là cũng không trốn tránh được bao lâu vì tỉnh lỵ là nơi dân các xã, huyện hay về. Từ đó, o tôi sang hẳn các tỉnh khác. Huế, Ðà Nẵng, Phan Thiết, Nha Trang, nơi lâu thì dăm năm, nơi chóng thì dăm bảy tháng là bị lộ. Cái khổ để kiếm miếng ăn không thấm chi bên cạnh cái khổ bị hắt hủi. Một người mẹ với đứa con "tư sinh"!. Tội thì giả, nhưng nhục thì thật. Với bản tính lúc nào cũng cười được của o tôi, thiên hạ mỉa mai "một đứa con tư sinh còn là ít"! Không ai thèm giúp đỡ. Ðến khi hàng xóm láng giềng bắt đầu hiểu ra, và nhìn hai mẹ con với đôi mắt tình cảm hơn, thì cũng là lúc o tôi tính đường đem con đi nơi khác. Hai mươi năm dài chỉ biết có khinh bỉ!

   Ngày giải phóng (1) o tôi mới trở về quê, dựng cái mái lán trên nửa mảnh vườn còn lại của nhà chồng bên kia sông Thạch Hãn. Người con đã 25 tuổi, không có một nghề trong tay, nhưng vẫn mừng là đã thoát được nghề cầm súng cho Mỹ ngụy. Giấy khai sinh vẫn ghi là con "tư sinh".

   - Mi nghĩ có ức không? Con liệt sĩ phải khai con chửa hoang. Tao mà muốn chửa hoang thì con đã khắp xứ!

   O tôi cười rộ lên.

   Bác tôi mắng yêu:

   - Gần miệng lỗ rồi mà cứ như con nít!

   O tôi phản công lại ngay:

   - Chết à! Ði tứ xứ không chết thì thôi, nay về đến làng rồi mà chết được tui còn khó!

   Thì ra cuộc đời của o tôi cũng không thoát khỏi bi kịch. Một bi kịch kéo dài như vậy, mà o tôi vẫn sống cho đến lúc hạ màn, không hề giảm một chút nào tính lạc quan, yêu đời, thì quả là một sự lạ rất khó giải thích.

   Cuối cùng, điều duy nhất o cần đến tôi là:

   - Chừ mi về đây, mi phải lo cho tao việc đó!... Tao đã trót khai hắn là con tư sinh!... Thành giấy tờ nhà nước rồi... Chừ phải khai lại cho hắn. Chính phủ mình, tao chắc là được. Nhưng làm thế nào, mi làm cán bộ thì phải bày vẽ cho em mi... Mai, mi sang nhà tao, tao sẽ cho mi ăn một bữa no nê. Cua lột hẳn hoi... Chi chớ cua lột thì tối nay tao chỉ xách nơm đi một lúc là đầy một nồi ba!

   Sau khi dặn lui dặn tới tôi thế nào cũng phải sang sớm, o tôi vội vã ra về "để trả quần áo cho mụ Hội kịp đi chợ", điều mà o tôi vừa giải thích vừa cười ra rả.

   Hôm sau tôi sang nhà o tôi rất sớm.

   Chắc chắn là đêm qua o tôi đã vác nơm, dọc theo bờ sông Thạch Hãn, kiếm thừa nồi cua bể. Thời cha con tôi ở nhà, o tôi cũng hay mời cha tôi sang ăn như thế.

   Vừa đến cổng tôi đã nghe trong nhà có tiếng khóc thảm thiết và nhiều bóng người đi lại khác thường.

   Người con trai - đứa con "tư sinh" - ra đón tôi òa khóc.

   O tôi vừa chết.

   Lúc bổ củi luộc cua, lưỡi dao của o tôi vấp phải một quả bom bi Mỹ lẫn trong cỏ...

   Tôi đã gặp lại một trong những người thân cuối cùng trên quê hương như thế đó.

   (1) Quảng Trị được giải phóng từ đầu năm 1973.

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.