chan_dung-ke_si

O TÔI - Truyện ngắn Lê Tri Kỷ

19-05-2023

Lượt xem 2294

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  truyện ngắn hayLê Tri Kỷ

O TÔI - Truyện ngắn Lê Tri Kỷ

Lê Tri Kỷ (1924-1993)

   Người đàn bà mặc áo ni-lông tím Huế dài bết gót, quần xa-tanh trắng rộng thùng thình, chít khăn nhiễu xanh, xô đẩy mọi người, ào vào nhà như cơn gió:

   - Thằng K. mô?... Thằng K. mô?... úi chao, răng mi giống cha mi rứa?

   Chưa nói xong, chưa hỏi xong đã ôm chầm lấy vai tôi, cười ra rả.

   Tôi nhận ra ngay o tôi, o Toản.

   Lạ thật! O tôi giống đúc như hồi tôi ra đi, từ khuôn mặt cởi mở, dáng điệu lúc nào cũng nhanh nhảu, đến tiếng cười giòn tan, cười đầu xóm, cuối xóm nghe được. Có lẽ đây là một trường hợp hiếm hoi trong những cuộc đời xưa nay chưa có đau khổ nào quật nổi chăng?

   Trước Cách mạng Tháng Tám, o tôi là một người nghèo rớt mồng tơi. Hầu như lúc nào, ở trong nhà, tôi cũng thấy o tôi chỉ mặc mỗi chiếc yếm, để dành chiếc áo cánh độc nhất cho những lúc ra đường. Không chịu đi ở, o tôi ở nhờ nhà cha tôi. Cũng không chịu cảnh làm tôi đòi gián tiếp cho anh, o tôi hàng ngày mò cua bắt ốc đem bán chợ kiếm tiền mua gạo, coi như chỉ nhờ cha tôi có cái mái nhà thừa tự của tổ tiên để lại. Vì vậy, o tôi không dám nghĩ tới chuyện lấy chồng. Mà có nghĩ tới, cũng chẳng ai lấy...

   Nhưng sự trớ trêu ấy không bao giờ làm cho o tôi bận tâm. Trái lại, hình như thỏa mãn với cuộc sống tự lập của mình, o tôi lạc quan yêu đời một cách lộ liễu, tuy rằng cuộc đời những người như o tôi trước cách mạng có gì để mà yêu đâu?... Một chuyện vui nho nhỏ nào cũng làm cho o tôi cười ra rả, điều mà đàn bà, con gái thời trước rất kiêng, nhưng o tôi thì không hề chú ý.

   Cách mạng Tháng Tám thành công, o tôi lấy một anh xã đội. Không bao lâu dượng tôi hy sinh. O tôi chỉ bỏ cười cho đến ngày sinh được đứa con trai, thì đâu lại vào đấy. Ngày tôi ra đi thì người em trai mới tròn một tuổi, còn o tôi thì trở về công việc mò cua, bắt ốc nuôi con...

   Nhìn bộ cánh sặc sỡ o đang mặc, tôi đùa:

   - Trông o diện quá!

   - Tội chi mà không diện? Tao còn định bán tấm ván lim trên nhà để sắm đôi dép cườm đi cho mát chân...

   Khoe chưa hết o đã cải chính ngay:

   - Nói cho vui cửa vui nhà chớ có phải mô? Nghe tin mi về, tạo chạy sang mượn áo quần của mụ Hội khoác vào cho mi khỏi khinh, chớ tao thì có... cứt!

   O lại cười toáng lên khiến mọi người cười theo.

   Bác dâu tôi mời o ngồi lên phản và xin o miếng trầu. O vén chiếc áo dài tím lên, để lộ ra chiếc yếm đầy cáu ghét. Thì ra o không có lấy một chiếc áo cánh. O kéo từ túi yếm ra một cái ví làm bằng bẹ chuối ép, móc ví lấy một nhúm sợi khô đét trông như cỏ và một lá trầu to rộng bằng hai ngón tay. O nhường lá trầu cho bác tôi, còn mình thì nhai nhúm cỏ. Bác tôi không chịu, bị o tôi mắng ngay:

   - Cứ ăn đi! Trời sinh voi sinh cỏ, vàng bạc chi mà quý?

   - O nhai thứ chi rứa? Trầu đâu? - Tôi hỏi.

   - Mần chi có trầu? Trầu phải mua từ Vĩnh Linh vô, đắt hơn vàng lá. Cả làng bây chừ đều nhai thứ cỏ ni cả.

   O tôi lại cười, mặc dầu chuyện ấy cứ làm tôi nhói ở tim. Manh áo, điếu thuốc, miếng trầu có khi làm khổ con người hơn miếng cơm. Càng hiểu điều ấy, tôi càng ngạc nhiên thấy những thiếu thốn day dứt ấy không hề làm cho o tôi bận tâm, như là cả cuộc đời mình, o tôi không biết lo là gì.

   Chuyện trò một lúc, tôi mới biết o tôi cũng có một điều lo lắng ám ảnh suốt hai mươi năm: lo cho con.

   Người con trai độc nhất ấy, o tôi để gần hết đời mình ra lo cho nó thoát khỏi kiếp đi lính và có một nghề làm ăn. Xin được một chân lao công cho sở Mỹ, o tôi mừng rơn. Nhưng chỉ tháng sau, bị tố giác là con xã đội, người con suýt bị tù. O tôi đem con về làng, bán nửa mảnh vườn nhà chồng, đút tiền xin được cái giấy chứng nhận là con "tư sinh", có nghĩa là con chửa hoang. Yên trí về lý lịch rồi, o đem con sang huyện khác xin việc. Lại một người quen khác tình cờ đi qua huyện đó. Việc lộ. O đem con lên tỉnh. Tất nhiên là cũng không trốn tránh được bao lâu vì tỉnh lỵ là nơi dân các xã, huyện hay về. Từ đó, o tôi sang hẳn các tỉnh khác. Huế, Ðà Nẵng, Phan Thiết, Nha Trang, nơi lâu thì dăm năm, nơi chóng thì dăm bảy tháng là bị lộ. Cái khổ để kiếm miếng ăn không thấm chi bên cạnh cái khổ bị hắt hủi. Một người mẹ với đứa con "tư sinh"!. Tội thì giả, nhưng nhục thì thật. Với bản tính lúc nào cũng cười được của o tôi, thiên hạ mỉa mai "một đứa con tư sinh còn là ít"! Không ai thèm giúp đỡ. Ðến khi hàng xóm láng giềng bắt đầu hiểu ra, và nhìn hai mẹ con với đôi mắt tình cảm hơn, thì cũng là lúc o tôi tính đường đem con đi nơi khác. Hai mươi năm dài chỉ biết có khinh bỉ!

   Ngày giải phóng (1) o tôi mới trở về quê, dựng cái mái lán trên nửa mảnh vườn còn lại của nhà chồng bên kia sông Thạch Hãn. Người con đã 25 tuổi, không có một nghề trong tay, nhưng vẫn mừng là đã thoát được nghề cầm súng cho Mỹ ngụy. Giấy khai sinh vẫn ghi là con "tư sinh".

   - Mi nghĩ có ức không? Con liệt sĩ phải khai con chửa hoang. Tao mà muốn chửa hoang thì con đã khắp xứ!

   O tôi cười rộ lên.

   Bác tôi mắng yêu:

   - Gần miệng lỗ rồi mà cứ như con nít!

   O tôi phản công lại ngay:

   - Chết à! Ði tứ xứ không chết thì thôi, nay về đến làng rồi mà chết được tui còn khó!

   Thì ra cuộc đời của o tôi cũng không thoát khỏi bi kịch. Một bi kịch kéo dài như vậy, mà o tôi vẫn sống cho đến lúc hạ màn, không hề giảm một chút nào tính lạc quan, yêu đời, thì quả là một sự lạ rất khó giải thích.

   Cuối cùng, điều duy nhất o cần đến tôi là:

   - Chừ mi về đây, mi phải lo cho tao việc đó!... Tao đã trót khai hắn là con tư sinh!... Thành giấy tờ nhà nước rồi... Chừ phải khai lại cho hắn. Chính phủ mình, tao chắc là được. Nhưng làm thế nào, mi làm cán bộ thì phải bày vẽ cho em mi... Mai, mi sang nhà tao, tao sẽ cho mi ăn một bữa no nê. Cua lột hẳn hoi... Chi chớ cua lột thì tối nay tao chỉ xách nơm đi một lúc là đầy một nồi ba!

   Sau khi dặn lui dặn tới tôi thế nào cũng phải sang sớm, o tôi vội vã ra về "để trả quần áo cho mụ Hội kịp đi chợ", điều mà o tôi vừa giải thích vừa cười ra rả.

   Hôm sau tôi sang nhà o tôi rất sớm.

   Chắc chắn là đêm qua o tôi đã vác nơm, dọc theo bờ sông Thạch Hãn, kiếm thừa nồi cua bể. Thời cha con tôi ở nhà, o tôi cũng hay mời cha tôi sang ăn như thế.

   Vừa đến cổng tôi đã nghe trong nhà có tiếng khóc thảm thiết và nhiều bóng người đi lại khác thường.

   Người con trai - đứa con "tư sinh" - ra đón tôi òa khóc.

   O tôi vừa chết.

   Lúc bổ củi luộc cua, lưỡi dao của o tôi vấp phải một quả bom bi Mỹ lẫn trong cỏ...

   Tôi đã gặp lại một trong những người thân cuối cùng trên quê hương như thế đó.

   (1) Quảng Trị được giải phóng từ đầu năm 1973.

Bài liên quan
  • CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: CHUYỆN Ở BẢN PIÁT là một trong chùm ba truyện ngắn của nhà văn Tuyên Quang “viết văn phải có văn” Vũ Xuân Tửu, thắng Giải Nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2005-2006.
  • MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Một bữa no là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 480, ngày 25 tháng Chín năm 1943. Tác phẩm, là một tiếng kêu cứu về nhân cách của người dân Nước Nam đang bị sự bần cùng, cái đói, cái rét, do thực dân Pháp tạo ra, hủy diệt.
  • NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nắng trong vườn là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Thạch Lam, Đời Nay xuất bản năm 1938.
  • HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai hào là truyện ngắn trong tập truyện đầu tay Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích của nhà văn Lê Văn Trương, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934.
  • TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trẻ con không được ăn thịt chó là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao, in lần đầu trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 444, 19 Tháng Mười Hai 1942.
  • CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chim khách kêu là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Kiên, được trao giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 và giải thưởng Văn học Đông Nam Á (Thái Lan) năm 2002.
  • ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Đôi mắt là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao in lần đầu trên Văn Nghệ số 2 năm 1948. Đây là một trong những tác phẩm giá trị nhất của nhà văn Nam Cao. Năm 1996, ông đã được nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I cho truyện ngắn nói trên cùng với các tác phẩm Nhật ký Ở rừng, Chí Phèo và Sống mòn.
  • TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trước cảnh hoang tàn đế thiên đế thích là truyện ngắn in trong tập truyện ngắn đầu tay cùng tên của nhà văn Lê Văn Trương, gồm 11 tác phẩm, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934. Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964) được xem là nhà văn có số lượng tác phẩm lớn nhất Việt Nam với 200 tác phẩm đã in và 40 tác phẩm chưa in bao gồm truyện ngắn và tiểu thuyết. Lê Văn Trương là thành thành viên quan trọng hàng đầu của nhà xuất bản Tân Dân, cùng với các nhà văn nổi tiếng như Tản Đà, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Lan Khai, Thanh Châu, Ngọc Giao, Tchya Đái Đức Tuấn, Trần Huyền Trân, Nam Cao, Bùi Hiển…
  • NƯỚC ĐỜI LẮM NỖI – Truyện ngắn Phạm Duy Tốn

    NƯỚC ĐỜI LẮM NỖI – Truyện ngắn Phạm Duy Tốn

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nước đời lắm nỗi là truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Tốn, một trong những thành viên sáng lập của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, đăng trên Nam Phong số 23, Tháng 5 – 1919.
  • CÂU CHUYỆN MỘT TỐI CỦA NGƯỜI TÂN HÔN – Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

    CÂU CHUYỆN MỘT TỐI CỦA NGƯỜI TÂN HÔN – Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Câu chuyện một tối của người tân hôn là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Bá Học đăng trên Nam Phong số 46 – năm 1921. Đây có thể nói là truyện ngắn tiên phong của văn học hiện đại Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ viết về đời sống công nhân cơ cực dưới thời thực dân Pháp cai trị nước ta.