Càng vào những giờ Pháp văn, tôi càng bâng khuâng với các câu thơ mới của ta. Một tai thì vang vang những câu thơ của Vich-to Huy-gô hay những doạn văn của Pát-scan, Rút-xô, An-phông-Xơ Đô-đê và của cả mấy tây đoan, quan hai khố xanh kiêm viết về thuộc địa thời đó; một tai tôi nghe gió, nghe đàn, nghe mây, nghe chim, nghe rừng, nghe thác, nghe sóng, nghe thơ của Việt Nam, với những tên tuổi đối với tôi sao mà đẹp, mà quý, mà trọng và thiêng liêng:
Rồi một thế giới. Không! Những thế giới khác, mở ra ở ngoài kia. Phải! Ở ngoài ba khung cửa số và cửa ra vào phía tay trái tôi mà khoảng sân và vòm trời lúc nắng cũng như mưa, cứ trong giờ học im ắng thì lại có một sức quyến rũ rất lạ.
Thấm thoắt sắp hết chín năm, sáu lớp học; thì tám năm, năm lớp tôi học trường đây, chơi ở sân đây. Nhiều buổi các thằng bạn đã nằm, ngồi quây kín lấy tôi ở dưới những gốc cây sấu, cây cơm nguội để nghe tôi kể những chuyện năm xưa về nhà trường và mấy thời kì đặc biệt từ những ngày xa lắc như ngày đầu kỉ nguyên theo tuổi chúa Giê-su ấy. Trường lớp, sân chơi, nhà loong-toong, cổng và đường đi lối lại quanh trường, với các thứ kỉ niệm, các thứ chuyện, nếu không phóng đại thì cũng một tấc đến giời, hoang tưởng, kì ảo hơn cổ tích!
Cảnh vật làm đầu đề các chuyện, các kỉ niệm vẫn là cái sân cùng mấy cây to còn lại, mấy cây to mới lớn và cái cổng trường liền với dãy nhà của hai người loong-toong gác trường và bán quà bánh cho học trò. Không còn những lớp bét, lớp tư nữa, không còn những lũ bé lóc nhóc nữa, cái sân dần dần thành của riêng mấy lớp lớn. Một dạo có những hai bàn đánh quần vợt chiếm gần hết sân trường. Sau đó thì thành bãi bóng. Hai cây ổi và hai cây bàng ở hai đầu làm cột gôn. Cây ổi và cây bàng to ở giữa sân làm mốc giao bóng mở trận đấu. Mấy khoảng rìa sân và góc sân là các bàn bi, bàn đáo.
Từ năm lớp nhì, có thời kì tôi đã mê đá bóng hơn cả mê sách, nhất là tới năm bao nhiêu truyện của cửa hàng cho thuê tôi đã đọc hết, còn những truyện mới, sách mới thì vừa đắt vừa không hay. Phải đến dạo có mấy tờ báo có những bài lạ, như Phụ nữ tân văn, Đông tây, Ngọ báo, Phong hóa, tôi mới giảm được phần thời giờ ở ngoài đường, ở sân trường và ở bãi cỏ thành phố đến quên cả ăn, với quả bóng quần và mấy bạn bóng học cùng trường, ở gần nhà.
Sau những buổi ra chơi, tôi lại vào lớp học, bụng căng nước máy, mồ hôi cứ long tong ở trán, ở cổ, ở cánh tay, gạt không kịp, chảy cả xuống bàn, xuống sách. Nhưng chỉ lúc sau, nhìn ra ngoài sân im lặng và vùng trời nắng tôi lại mát dịu hẳn trong người.
Những câu thơ mới lại ru vỗ tâm trí tôi cùng với những câu thơ và những đoạn văn ngân vang của bài tập đọc, bài học thuộc lòng và bài ám tả thầy giáo bình giảng.
Bài học thuộc lòng lấy một đoạn trong bài thơ Đại dương đêm tối (Océano-nox) của Vích-to Huy-gô và bài ám tả cũng lấy một đoạn trong truyện ngắn Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê, là hai bài cuối cùng tôi nhớ mãi trong đời học sinh.
Sau khi thôi học, tôi ra Hải Phòng rồi đi Hòn Gai xin việc. Tôi đã thật được nghe biển sóng cả ban ngày, cả đêm trăng và cả tối khuya mà tưởng tượng thêm về đời sống gian lao, dũng cảm của những người thủy thủ trong trích đoạn thơ của Vích-to Huy-gô.
Và bắt đầu được nghe thật sóng gió của cuộc đời nữa! Cuộc đời phải đổ mồ hôi mình mà sống, để giữ nhân phẩm, tiến đến tương lai, có một lí tưởng cao quý và một sự nghiệp chân chính trọn tình yêu dấu…
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com