Nhà văn Chu Lai
Chân Dung Kẻ Sĩ: Tên thật Chu Văn Lai, sinh ngày 5.2.1946 tại Hà Nội, quê gốc Hưng Đạo, Phù Tiên, Hải Hưng; là con trai nhà viết kịch Học Phi, từng là lính đặc công những năm chống Mĩ.
Nhà văn Chu Lai đã được trao giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007.
NỖI BUỒN THƠ ẤU
Hồi đi học cấp một, tôi vốn là một người dốt văn. Dốt đến nỗi bố tôi phải bắt tội mỗi tuần đi bộ từ phố Nguyễn Bỉnh Khiêm lên tận Hàng Đậu, tức là khoảng gần 6 cây số để theo học một ông giáo già về cách tả mưa, tả nắng, về cách cảm nhận một câu thơ, câu văn ở dạng sơ lược.
Tôi chỉ thích học võ vì tự thân vốn có một sức khỏe khác thường. Đối với tôi lúc ấy, giữa phố phường Hà Nội còn thưa thớt, còn nhiều khoảng đất trống để đá bóng, chơi khăng, chỉ có chạy nhảy và thể thao là cuốn hút nhất. Tôi coi thường môn văn và cũng khác với mọi đứa trẻ nhỏ, tôi không bao giờ xin tiền (hay ăn cắp tiền) của bố mẹ ra phố thuê sách đọc.
Sang cấp hai, tình hình khả dĩ hơn một chút nhưng tôi chưa bao giờ vượt quá được điểm trung bình về môn văn. Điều đó cắt nghĩa, việc được cử đi thi văn toàn trường, toàn thành, toàn miền Bắc đối với tôi là hoàn toàn xa lạ và thực lòng tôi cũng chưa bao giờ quan tâm. Các môn bình luận, nghị luận, ngữ pháp, tập làm văn, bình giảng với tôi hồi ấy sao nặng nề, nhạt nhẽo đến thế? Tôi càng chán, điểm văn càng không nhấc lên được. Đến nỗi có lần cô giáo chủ nhiệm phải thốt lên: “Buồn cười nhỉ? Em là con nhà văn mà sao điểm văn của em… ấy thế?” Cô tế nhị cũng chỉ sử dụng từ “ấy” thôi. Tôi không thấy trong lòng buồn rầu chút nào. Giỏi văn có gì là giỏi, sao cứ chúi đầu vào cái môn tôi rất ngán ngẩm này?
Tuy nhiên, trong những tiết làm văn miệng, tôi lại tỏ ra khá là liến láu. Ví dụ kể về một chuyện học sinh đi tham gia chống bão lụt, tôi có thể đứng giữa lớp, mắt nhìn lên trần nhà nói một thôi một hồi, nào là tiếng bão gió, nào là tiếng con nước lên, nào là màu quần áo, màu trời đất vần vũ… đủ cả. Lại còn diễn cảm, lên bổng xuống trầm đàng hoàng. Những lần ấy, bao giờ tôi cũng được điểm cao. Bạn bè còn bảo: “Cậu có khi lớn lên đi đóng kịch được đấy.” (Ai dè, mấy năm sau, tò mò đi thi thử, tôi được trúng tuyển vào trường nghệ thuật sân khấu quân đội thật).
Vậy thì cái sự mê văn và trở thành người chỉ sống bằng nghề văn của tôi hiện nay nó được bắt rễ từ bao giờ?
Nghiệm lại, tôi thấy có lẽ là do môi trường gia đình. Bố tôi là người viết kịch, hồi đó kiêm giám đốc Nhà hát lớn nên khách làng văn, làng kịch vào chơi đông lắm. Lúc thì ông Thế Lữ vào bàn việc dựng Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng; lúc ông Lộng Chương vào đọc vở Quẫn, rồi lại ông Đào Mộng Long đến nói say sưa hàng giờ về ý tưởng của vở Câu chuyện Iếc Cút hay Lưu Ba, rồi cố Trúc Quỳnh, cô Song Kim và cả ông Tào Mạt nữa… đủ các thành phần. Cả nhà có hơn chục thước vuông ở tầng hai một nhà thuộc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, lại đông anh em, nên bố có khách, và thường xuyên có khách, toàn thứ khách ngồi rất lâu, chúng tôi thường phải bỏ ra ngoài sân, ngoài hiên, thậm chí ra tận cổng ngồi. Có bận phải ngồi lâu quá, mấy anh em rủ nhau vào những cái ống cống xi măng chất đống cạnh đó, ôm nhau co quắp ngủ ngon lành. Hết khách, mẹ tôi phải đi gọi từng đứa về. Khổ thế, chật thế, bữa nào cũng đói thế nhưng tôi không biết rằng những chuyện trao đổi, cãi cọ nhau về văn chương nghệ thuật kia đã ngấm vào lục phủ ngũ tạng mình hồi nào không hay. (Hồi này anh Hồng Phi, người anh cả còn lại trong gia đình vẫn còn đang trọc đầu tiễu phỉ ở Hà Giang, thỉnh thoảng lại gửi một cái truyện ngắn về đăng ở tạp chí Văn nghệ quân đội chỗ đồng chí Văn Phác.).
Ông Thế lữ dáng cao và gầy, lúc nào cũng đi lại suy tư như một vị linh mục hồi thế kỷ XIX. Tính tôi hồi nhỏ vốn nghịch ngợm và hỗn láo. Có lần do muốn chơi khăm một đứa con gái ở cùng nhà, tôi đã lấy giấy báo bọc một gói tro, chờ tối đến đặt lên đầu cánh cổng sắt để khi cô bé đi chơi về, láu táu mở cổng ra, tro sẽ đổ đầy tóc. Rủi là hôm ấy, ông Thế Lữ lại đi về trước. Thế là cái chuyện không cần xảy ra đã xảy ra. Biết chuyện, ông chỉ nói nhẹ bằng giọng rất ư khúc triết: “Cháu ạ! Dù bất kể là trường hợp nào, đi bắt nạt con gái như vậy là không đúng với tính cách con trai”. Tuổi thơ tôi thấm câu đó. Thấm đến nỗi là cho đến tận bây giờ, khi đã gần năm mươi tuổi rồi, tôi không bao giờ chơi bời, đùa nghịch cũng như có bạn bè là người khác giới. Còn ông Đào Mộng Long thì thật nhộn. Dáng ông nhỏ bé tí tẹo, nói chuyện như đang đóng kịch, rất có duyên, lao động cần mẫn và tài hoa đến nỗi các vai phụ ông đóng đều át đi những vai chính. Anh Tào Mạt khi đó ở quân khu Tả ngạn lên, trẻ măng, trông như người cấp dưỡng, quân phục rộng thùng thình và đánh cờ rất giỏi. Anh có thể nằm trên giường mà đánh thầm trên bốn bàn cờ mà bàn nào cũng xiêu diêu với anh. Anh hát chèo lại hay nữa. Những tối mùa đông võng vãnh muỗi bay đầu hè, nằm nghe anh vừa tự đệm nhịp vừa hát mà cứ thấy buồn nẫu ruột. Đại khái như thế. Những tối bị hất ra ngoài phòng lại là những tối mọi cảm xúc văn chương chảy vào trong người.
Hồi đó đoàn kịch Trung ương chưa có sàn diễn tập nên phải tập ngay trong khu tập thể. Thế là tôi tha hồ mà trớn mắt lên xem. Những buổi tập kịch này nó cũng dội vào trong tôi những đam mê về nghệ thuật, về cuộc đời vừa mơ hồ lại vừa rất cụ thể, rất lạ.
Cái lẽ thứ hai nữa là, tuy dốt văn, ngại học văn nhưng tôi lại là một đứa trẻ hay mơ mộng. Nhà tôi về sau có cái sân thượng, vào những tối mùa đông, tôi hay một mình âm thầm leo lên đó để mặc cho mùi hoa sữa ngan ngát thổi dọc phố tràn lên người. Mùi hoa hắc, dáng hoa không đẹp, lại chỉ thơm vào mùa đông nhưng cho đến tận bây giờ và có lẽ cả mãi sau này, cái mùi hoa ít người thích đó đối với tôi vẫn là loài hoa thơm nhất, đẹp nhất trên đời. Mùi hoa gắn bó với cả một tuổi thơ nhọc nhằn.
Tôi tả cảnh không được, đến bây giờ nếu trong trang viết có phải tả một câu cảnh nào cũng chán ngán cả người nhưng hồi đó tôi lại rất yêu cảnh vật. Phố xá bụi bặm quá, tôi thường rủ mấy đứa bạn thân trốn học ra bờ sông Hồng bẻ mía ăn. Bãi sông mùa nào cũng buồn. Đông về lại càng đìu hiu hơn. Dường như cái bến sông toàn mía với ngô xanh đến ngút ngàn đó, đã sớm dội vào trong tôi một nỗi buồn khó bề cắt nghĩa. Và tôi bắt đầu mơ mộng. Mơ mộng nào cũng gắn đến cái sự buồn cả. (Không ngờ sau này khi cầm súng vào chiến trường miền Nam, tôi lại có dịp trải qua hết gần chục năm bên sông Sài Gòn nữa.) Có lẽ chính cái nét đa cảm của những con sông đã đánh thức cái cảm xúc văn chương của tôi sau này. Bởi lẽ, trong hầu hết những tác phẩm, mặc nhiên tôi đều viết về sông, không sông thì biển, nói chung là những cảnh buồn. Từ đó nghĩ thêm, phải chăng cái buồn dìu dịu lại chính là cái hồn văn chương, cái hạt nhân của mọi cảm xúc sáng tạo.
Và lên cấp ba, tôi chưa kịp triển khai cái nội tâm man mác, hay rung động vẩn vơ của mình vào bài văn thì chiến tranh đã bùng nổ. Thế là ra đi. Ra đi để cảm nhận tận cùng mọi cảm xúc của cuộc đời. Thiết nghĩ, nếu tôi cứ ở lại thành phố, cứ ngày ngày va đập với số đông dân cư thì chắc chắn bây giờ tôi đã làm nghề khác. Thiên nhiên, vâng, chỉ có sống ngập vào thiên nhiên man mác thì anh mới có điều kiện để khởi đầu một nghiệp văn.
CHU LAI
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com