chan_dung-ke_si

MI LÀ NGƯỜI BÌNH THƯỜNG – Truyện ngắn Lê Đạt

09-07-2024

Lượt xem 1927

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Lê Đạt

MI LÀ NGƯỜI BÌNH THƯỜNG – Truyện ngắn Lê Đạt

Nhà văn Lê Đạt (1929-2008)

Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà văn Lê Đạt (1929-2008) từng bị cấm viết ba mươi năm, từ 1958 đến năm 1988, năm ông được phục hồi tư cách hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đây là thời điểm Việt Nam bước vào thời mở cửa, và văn chương Việt Nam xuất hiện cơn bão do nhà văn Nguyến Huy Thiệp tạo ra với Tướng Về Hưu năm 1987.

Nhà văn Lê Đạt được trao Giải thưởng Nhà nước với các tập thơ: Bóng chữ, Ngỏ lời và tập truyện ngắn Hèn đại nhân vào năm 2007. Ngay cùng năm, ông cho xuất bản tập truyện ngắn Mi là người bình thường, trong đó có truyện ngắn cùng tên.

 

Lời rườm mơ ước rởm gửi ngoài kia

 

Vua Philippơ nước Maxêdoanơ là một người may mắn. May mắn trước hết là làm vua. Không những làm vua, còn đẹp trai, giỏi giang việc nước. Thôn xóm khắp nơi âu ca… Mấy nước láng giềng háu ăn và hỗn láo… đều một phép.

Những kỳ tích của nhà vua, Viện Hàn Lâm chép mãi không hết. Tôi xin dẫn ra đây một kỳ tích chưa xếp hạng.

Con tuấn mã đầu bò của nước Aten nổi tiếng dữ dằn. Chưa từng một kỵ sĩ nào chế ngự nổi. Nghe đồn vua Philippơ là tay giỏi ngựa, người Aten đem đến dâng vua. Vốn bậc phong lưu mã thượng, nhà vua không nhận quà biếu, mà chỉ đánh cuộc với chủ ngựa: Nếu nhà vua giáo dục được ngựa, ngựa sẽ thuộc về nhà vua; nếu thất bại, nhà vua sẽ mất cho chủ ngựa ngàn lạng vàng (nghĩa là gấp mười lần trị giá ngựa) và con tuấn mã vẫn thuộc sở hữu chủ cũ.

Ngày ngàn năm có một đã tới. Cả kinh thành lũ lượt kéo đến vận động trường vui như hội. Vua Philippơ ra bãi. Cả vận động trường bật dậy, tiếng hoan hô nổ như sấm. Vua khẽ giơ hai tay lên đầu đáp lễ (Lối đáp lễ này sau được các vận động viên bóng đá cải tiến và đại chúng hóa), rồi vua chỉnh tề nhung y oai phong lẫm liệt tiến về phía ngựa dữ. Sân bãi nín thở theo bước chân người anh hùng. Con ngựa bỗng rùng mình… hí lên. Nó sắp giở món đá hậu đặc sản đây. Vua Philippơ vẫn trực chỉ, hai con mắt quăng quắc. Con ngựa rung bờm thở phì phì. Sút!!! Không. Con ngựa từ từ quỳ hai chân trước xuống, và vua Philippơ ung dung bước lên lưng ngựa, chạy kiệu một vòng giữa những tiếng hoan hô long trời lở đất.

Các giới ngựa học hội thảo nát ra mà không thống nhất được ý kiến… Người thì cho là vua Philippơ có hổ uy. Người thì cho là con ngựa láu cá, biết phép tiến thân… Vì từ hôm đó ngựa được vua phong áo gấm, đeo lục lạc vàng và móng bịt bạc.

Nước Maxêdoanơ còn có một nhân vật nổi tiếng khác. Đó là ông già dở dở ương ương Xantốs mà thiên hạ quen gọi là nhà triết học. Ông thường ngồi độc tửu dưới gốc cây trắc bá cổ thụ, nói cho những ai muốn nghe những nghịch lý bông lơn sâu xa về đạo làm người.

Xantốs cũng có nhiều kỳ tích nhưng vì không làm vua nên không được ghi chép thành văn trong chính sử, chỉ được truyền miệng qua những bài hát của các thi sĩ mù lang thang, mà dân gian đặt cho một cái tên yêu mến là xẩm. Tôi cũng xin ghi lại đây một giai thoại.

Dân hai bên bờ một con suối nọ muốn thiên hạ chú mục đến địa phương mình bèn liên kết xây một cây cầu lớn nhất vùng Xalôniquơ. Cầu xây xong, đốt pháo ăn mừng, bánh pháo dài đến năm thước. Ai cũng khen cây cầu hoành tráng vĩ đại. Chỉ tiếc con suối lạc hậu không tiến kịp vẫn nông choèn một dòng nước nhỏ bé bất lịch sự. Nhưng chi tiết này không làm giảm được lễ khánh thành cực kỳ long trọng. Múa hát của đoàn văn nghệ địa phương tự biên tự diễn đã đành. Các vụ bô lão còn mời được cả thi quan của triều đình, cao thủ vừa giật được vành nguyệt quế trong cuộc thi ông Hoàng thơ năm trước. Vị thi quan đọc một bài thơ trường thiên bị ngắt quãng bởi những tràng vỗ tay nhiệt liệt, trong đó có những câu cẩm tú đại khái như:

Bồng lai cảnh sắc dị kỳ

Cong cong mấy nhịp cũng thì cầu xây.

Muốn cho lễ khánh thành thêm rôm rả, ban tổ chức có sáng kiến cho mời ông già Xantốs tới. Ông già vốn khó tính nhưng lại phải cái tật thèm rượu ngon, mà rượu ở vùng Cầu thì từ lâu đã nổi tiếng mỹ tửu không kém gì rượu Hiđrômen trên núi Ôlanhpơ.

Sự có mặt của ông già trong buổi lễ đã là hạnh ngộ, nhưng một vị chức sắc lại hứng lên xin ông mấy dòng “chữ vàng” lưu niệm. Ông già tuy là nhà triết học, nhưng cũng rất thực tế. Ông tranh thủ mấy suất rượu đúp rồi mới khai bút. Chữ bay múa như một nghệ sĩ thư pháp Trung Quốc.

“Dân hai bên bờ bán cầu đi lấy tiền mua nước”.

Viết xong, ông lăn ra ngủ. Mọi người lúc bấy giờ mới để ý đến con suối chậm tiến kia. Con suối chừng như sợ quá, càng co ro, càng nhỏ bé, thảm hại. Nhưng vì mâm tiệc còn đầy ắp, người ta thể tình cho ông lão về tội “tửu nhập ngôn bĩnh” và để đối trọng, kèn trống lại càng rộn rã nhịp Allegro hào hùng.

Vào thời tột đỉnh của mình, một hôm vua Philippơ bất chợt nghĩ đến ông già nhân sĩ kia và nảy ý muốn đến thăm lão.

Vua phải dụi mắt mấy lần mới tin rằng mình không mơ ngủ: Cái ông già quần áo rách mướp như thằng ăn mày kia là nhà triết học nổi danh thật sao? Nom lão còn xoàng hơn thằng chăn ngựa của triều đình.

Nhưng rất lạ quanh cái đầu bù xù của ông già ong bướm bay tấp nập… nhất là đàn ong thợ. Chúng nối đuôi nhau làm việc rất khẩn trương, như đương khai thác một vỉa nhụy cao cấp mà sau này người ta gọi là chất xám từ mớ tóc rậm rối, bụi bặm kia… tạo nên một thứ vòng hào quang sống động. Thành thử nom ông cụ vừa bẩn thỉu, vừa cao sang kỳ ảo, nó khiến vua Philippơ không dám coi thường. Vả lại đức vua có tiếng là một ông vua dân chủ.

Vua Philippơ:

-            Thưa thầy, mọi công việc nơi triều chính tôi đã hoàn thành xuất sắc. Thầy cho biết tôi cần phải làm gì nữa.

Ông già lấy tay xua lũ bướm văn công trả lời như không cần nghĩ:

- Cần làm… làm một người bình thường…

Vua Philippơ ngạc nhiên:

-            Trẫm tưởng làm anh hùng mới khó chứ làm một người bình thường thì khó gì…

Ông già cười xì xì… không nói.

Vua Philippơ:

-            Thầy có thể mách Trẫm biện pháp cụ thể để làm một người bình thường không?

Ông già:

-            Mỗi sớm khi tỉnh giấc, bước chân ra cửa, nhà vua cần cho bố trí một người túc trực tại đó nói lớn “Philippơ, mi là một người bình thường”.

Đúng là một ông già ấm đầu. Vua Philippơ hạ lệnh cho quan quân nhảy vào lửa chúng cũng nhắm mắt tuân theo, nữa là làm một việc quá ư dễ dàng này. Hai người đánh cuộc và hẹn sẽ gặp nhau sau một tuần trăng.

Ông già nghiêm trang:

-            Nếu tôi thua, tôi sẽ mất chỗ ngồi của tôi cho nhà vua…

Vua Philippơ cười thầm thú vị. Ông làm như chỗ ngồi của ông báu lắm không bằng. Nhưng theo phép lịch sự, nhà vua không nói gì… Không những thế còn tỏ ra cực kỳ hào phóng.

-            Nếu ta thua, thầy muốn gì… trong phạm vi ta có thể làm được ta cũng sẽ làm vừa lòng thầy.

     Trên đường về, vua bụng bảo dạ: Thì ra thiên hạ chúa là hay đồn nhảm. Cái lão già dở người kia mà cũng triết ra với triết vào!

     Nhưng vua Philippơ là người trọng lời hứa… ngài lập tức hạ lệnh cho quan nguyên soái (ông này quen hô ba quân nên giọng nam cao sang sảng như kèn đồng) thực hiện nhiệm vụ nói trên. Sớm hôm sau vừa thức giấc bước chân ra cửa vua đã thấy quan nguyên soái chờ sẵn đó. Ông vươn thẳng tấm thân hai thước, dọn giọng. Và dõng dạc hô lớn:

- Kính chúc bệ hạ vạn thọ vô cương.

Vua Philippơ chán quá nhưng không nỡ làm phật lòng người bề tôi trung thành (xét cho cùng vị tướng kia có tội gì đâu) vua ban cho nguyên soái một chén ngự tửu.

Lần này vua phân công cho một gián quan có tiếng kiên nghị.

Sáng hôm sau vừa thức giấc bước ra cửa đã thấy vị gián quan chờ sẵn đó… Ông đứng thẳng người như một cây ngay. Bỗng đầu gối ông như bị ai chém đứt ông khuỵu xuống, miệng lắp bắp.

Nhà vua bỗng phì cười một mình.

- Lão đúng là một kẻ thức giả mà ngủ thật!

- Thánh thượng vạn tuế…

Vua Philippơ đã luân phiên hầu hết các cận thần, nhưng không vị nào làm tròn nhiệm vụ.

Sau một đêm suy nghĩ rất lung, (đêm tối vốn là vị cố vấn tốt) vua Philippơ bèn chọn một người lính thường.Vua lập luận như sau: Một người lính thường hầu như không có bổng lộc gì, nên dễ hư tâm làm việc đó hơn. Sáng hôm sau vừa thức giấc bước ra cửa vua đã thấy người lính chờ sẵn đó trong bộ quân phục mới. Anh ta ưỡn ngực thét…

- Vua Philippơ, mi…

Một phản xạ tự nhiên thoáng làm vua tức giận. Lần đầu có người dám gọi vua như vậy. Philippơ cau mày, mắt hình như lóe lửa. Nhưng chỉ một tích tắc ngài tự chế ngự được ngay và mỉm cười. Nhà vua chờ đợi, chờ đợi, chờ đợi mãi không thấy tên lính hô tiếp…

Thì ra hắn sợ quá, lưỡi đã rụt lại từ bao giờ, cấm khẩu.

Thế là vua Philippơ thua cuộc. Cái việc thoạt nhìn dễ ợt ai ngờ lại khó đến thế. Nhà vua vừa tức giận, vừa vui. Giận vì mình thua cuộc, nhưng vui vì trăm họ vẫn khiếp oai trời.

Khi nhà vua đến, vị thức giả đang ngủ ngon, ngáy giòn giã. (Người ta đồn rằng các triết gia thực thụ, trong giấc ngủ có khả năng hồi tưởng lại tiền kiếp!). Gọi đến mấy lần ông già mới thức giấc. Nhà vua nói:

- Thầy được cuộc rồi… Vậy nhà thầy muốn gì?

Nhà triết học như vẫn chưa tỉnh ngủ nói:

-            Ta muốn nhà vua đứng xê ra đừng che mất ánh mặt trời của ta.

     Và ông lại nằm xuống trên nệm lá tiếp tục giấc điệp bỏ dở. Vua Philippơ sững sờ. Vua nhìn trời. Trời nắng đẹp quá. Nhìn ông già. Ông già ngủ ngon quá. Cỏ thì xanh. Gió thì mát.

     Vua bỗng ngồi bệt xuống bãi cỏ, một tiếng nói như từ thâm tâm vọt ra cực kỳ sảng khoái:

- Philippơ, mi là một người bình thường.

Đám quan hầu ngơ ngác không biết xử trí ra sao. Theo thói quen thuận tiện chúng nhất tề quỳ xuống tung hô:

- Thánh thượng vạn thọ vô cương.

     Giọng tênô của vua và giọng nam thấp của đám quần thần như một khúc hợp xướng hai bè ngân vang trong nắng thu.

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.