chan_dung-ke_si

KHUYỂN ĐẾ - Truyện thiếu nhi Trần Tâm

10-07-2024

Lượt xem 1078

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Trần Tâm

KHUYỂN ĐẾ - Truyện thiếu nhi Trần Tâm

Nhà văn Trần Tâm

Chân Dung Kẻ Sĩ: KHUYỂN ĐẾ là truyện ngắn trong tập truyện cùng tên viết cho thiếu nhi in năm 2017 của nhà văn Trần Tâm, đứng bên cạnh một số lượng lớn những sáng tác cần mẫn ông viết về những người thợ mỏ vùng đất Quảng Ninh, trong đó có tiểu thuyết đồ sộ Đất Bỏng, dài 4 tập, thắng Giải Nhất cuộc thi viết về đề tài công nhân do Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.

    Bên bếp đốt bằng củi gộc, lửa đã vạc. Ông chủ nhà cao gày, dáng ốm yếu, với tay đặt lên lưng con chó đang ngồi, giọng trầm xuống:

     - Đen! Tao già rồi. Không còn theo mày vào rừng được. Phí tài mày đi. Tao giao mày cho ông chủ mới. Ông ấy ngồi kia. Về với chủ mới, mày được rộng cẳng cùng đồng loại, không bị đói, bị bỏ vạ vật, bị cùm trói tù túng đâu. Nhớ chưa? Đen!

     Rồi quay về phía người người khách ngồi đối diện qua đống than gộc lửa còn leo lét, ông nói giọng buồn hẳn:

- Thôi! Ông dẫn nó đi!

    Người khách chậm chạp đứng dậy. Con chó chăm chăm nhìn ông già giờ đã im như pho tượng. Rên lên một tiếng khe khẽ, nó vọt ra cửa, chờ người khách, lặng lẽ đi theo.

    Người và chó luồn rừng lội suối, đói ăn khát uống, mấy ngày sau mới về đến nhà. Nhà ông ở một vai núi. Thấy ông về, hai con chó thau tháu xô ra, mừng quấn quýt. Con Đen đi sau, lạnh lùng tách ra. Ông chủ gọi:

    - Đen! Lại đây!...Lao, Luốc...đây là anh mày. Còn Đen! Từ giờ  mày dạy dỗ, chỉ huy chúng nó.

    Ông tên là Tần. Ở bản Bắp La này từ nhỏ. Sau ngày vợ chết, ông lên núi, để lại cho bốn đứa con mỗi người một dinh cơ ba gian lợp vỏ ràng ràng đàng hoàng trong thị trấn. Ai cũng biết tiếng Tần săn. Ông săn bắn giỏi, có bày chó nghe và hiểu ý người.

    Chó nhà ông ba con. Ông chọn kỹ càng lắm. Nếu đúng chó quý, đắt mấy ông cũng tìm cách hỏi mua. Mấy năm trước, trong một trận quyết đấu với hổ mang hoa, con chó đầu đàn sơ suất bị rắn cắn. Nó chết, ông như người mất cánh tay. Hai con còn lại không kẻ hướng dẫn, sút kém hẳn. Ông vẫn đi săn nhưng bọn chó chỉ chạy nhảy lung tung, tha về rặt những kỳ nhông, rắn ráo, sóc nhãi, chồn hôi...Theo hỏi tìm kiếm nhiều nơi nhưng đến chỉ gặp chó xoàng, ông chán ngán, chả lẽ thôi nghề.

    Nhà ông ở nơi hẻo lánh nhưng người ra vào không ít. Sinh viên lâm nghiệp thực tập, thợ đường dây, dân địa chất...đủ cả. Có người chỉ tạt qua một lần trong đời. Người lâu nhất tới nửa năm. Bù lại, lại có lớp mới. Nhiều hôm hàng chục người rải vải nhựa, mắc tăng võng, ngủ nhờ nhà ông. Nhà chật nhưng lòng ông không chật.

    Họ kể ông nghe. Ông kể họ nghe. Đêm dài ngắn cũng tùy nhưng chuyện về ông đi theo họ rất lâu, năm này sang năm khác.

    Nghe ông ao ước tìm được chó quý, một anh thợ địa chất vỗ đùi đánh bốp:

    - Bác Tần! Cháu biết! Con chó khôn cực kỳ, không tìm nổi con thứ hai. Nó nhanh như gió, khỏe như báo. Đâu như ở vùng Nha Trạo...

    - Từ đây lên, đi đường nào? Xa không?

    - Tắt rừng! Năm sáu ngày bác ạ!

    Anh công nhân nọ nói một lúc lâu về khả năng của con chó kỳ lạ rồi ngậm ngùi:

     - Kể để biết. Bác có đến cũng không mua nổi. Xin bác nhớ, đến vùng Nha Trạo, bác hỏi nhà có con chó khôn, tên Đen thì biết chứ chủ nhà cháu quên béng ngay từ khi chưa ra khỏi cửa. Không phải cháu vô tình mà vì con chó quá khôn.

     Hỏi thật kỹ càng, nửa tháng sau, ông Tần xách túi khoác bao ra đi. Hơn tuần nữa, ông về, tụ tập con cháu lại:

    - Phải nói là vua chó. Lông phía ngoài đen mượt, bụng trắng. bốn phía trong chân cũng trắng. Mõm khá dài. Hai bên má là hai vạch trắng kéo dài đều nhau từ hàm tới tai. Đầu mũi và chót đuôi màu lửa. Loài khuyển đế đấy. Ông chủ quá già ở với đứa cháu lên tám. Nguồn sống chính do chó kiếm từ rừng về. Ông đòi đổi trâu mộng với ngôi nhà gỗ năm gian lợp lá gồi. Còn chó có sang chủ mới cũng không được đổi tên.

    Ông ngừng lại chờ xem ý bốn thằng con và mấy đứa cháu lớn. Không gian lặng thinh. Họ đang chờ ý kiến ông. Ông thủng thẳng:

    - Không đắt đâu! Phải trông thấy mới biết. Ta quý chó, cần chó, lại biết thương chúng nên ông mới đổi ý, dành của cho cháu. Một mình á! Không bao giờ ông ấy chịu rời vật báu ra đâu!

    Sau gần hai năm, nhờ sự góp công của bốn cặp vợ chồng và sáu đứa cháu, ông được toại nguyện. Con chó sang tay ông. Nó đã không làm xấu hổ nòi giống, không phụ công ông. Ngay sáng hôm sau, Đen tỏ rõ phẩm chất khác thường. Con Lao, con Luốc phục tùng nó hoàn toàn. Nhìn Đen, ông hài lòng lắm. Nó nằm sấp, mắt lim dim, đầu đặt lên hai chân trước nhìn con Lao, con Luốc tập bò. Phải lấy bụng và đùi mà trườn. Con nào nhổm nhổm tý chút, Đen lại gự một tiếng như người dọn giọng. Lúc ông đổ cơm cho chúng, Lao, Luốc chen nhau ăn. Đen đứng yên. Ông giằng bát ra, đưa sát mặt, nó cũng lặng thinh. Sau ông phải trộn cơm khác, chặt từng lóng xương cả chín cả tái ném cho. Nó xốc xốc. Khúc xương sau hai lần buông bắt bằng hàm chui tuột vào bụng nó. Từ bữa ấy, khi Đen ăn, Lao Luốc y một phép dù đói cũng không dám bén mảng.

    Cứ thế, Đen ở cùng ông Tần được gần chục năm. Nó thành chỗ dựa tin cậy, vững chắc cho ông và mấy con chó cùng nhà. Ông Tần cũng đỡ vất vả, không phải hao tâm tổn sức nhiều như trước. Mấy con chó tự đi săn. Ông chỉ làm kẻ hỗ trợ, khuân vác về, giải quyết hậu quả khi con mồi đã hết khả năng tự vệ. Nhiều hôm, chó săn được thú về gọi, sủa ầm ĩ, ông mới vác dao theo chúng vào rừng. Trước còn quanh bản Bắp La sau rồi khắp vùng núi cao bản xa đồn thổi ầm ầm. Nhà ông Tần có chó khôn. Tay Phàn chột từ Lục Thanh Hòa Bình nghe tiếng, cơm đùm cơm nắm lặn lội hơn năm trăm cây số đến xem, tấm tắc mãi. Nài mua không được, gã ở nhà ông, nửa đùa nửa thật giăng bẫy, đặt bả, thả rắn độc suốt tháng trời. Cuối cùng, gã xin phép ông ra về tay không trong tiếc nuối.

    Gần chục năm ở với ông Tần, Đen đã làm cho ông sung túc, phát đạt. Chiến công của Đen nhiều lắm, kể không hết.

    Hôm đó, trời bật nắng sau những trận mưa thối đất thối cát. Những con chó cuồng cẳng cũng rít lên mừng rỡ. Đen dẫn Lao, Luốc vào rừng. Ông Tần lúc đầu không để ý nhưng rồi đêm xuống không thấy chó. Ông ra đầu núi, ngóng vào khoảng vắng, cuối cùng phải ngủ trong thấp thỏm. Sáng hôm sau, ông vào rừng vừa đi vừa gọi. Qua ba ngọn núi, ông chợt thấy con Luốc quấn vào chân. Ông theo nó hơn nửa giờ gặp trên bãi trống, con Đen, con Lao xơ xác ngồi gườm gườm nhìn khỉ độc. Con khỉ độc máu me choe choét, lê lết nhưng sức vẫn chưa hết đang cố thủ, chống trả tuyệt vọng với mấy con chó dữ đã mệt lả. Ông Tần mừng lắm, không phải mừng vì có được thú đâu. Chuyện ấy thường rồi. Ông mừng vì con Đen khôn khéo, mưu mẹo lừa được khỉ độc - một loài khôn ngoan ranh mãnh, đầy kinh nghiệm kiếm ăn, chống đỡ, chiến đấu với kẻ thù – ra vùng bãi trống mới tấn công chứ trong rừng, cây cối nhằng nhịt đan xen đến cái lông khỉ, Đen cũng đừng hòng động tới được. Con khỉ ấy da nhăn nhúm lùng nhùng. Ông gánh xuống thị trấn, cân được năm mươi bảy cân, bán cho người ta nấu cao.

    Một dạo đầu xuân. Sương ùa từ thung núi ra dày đặc. đất trời nhớp nháp nước. ông đang ở nhà. Con Luốc chạy bổ từ rừng về, giật kéo đi. Bên gốc cây to, đất bị quần nhừ. Con kỳ đà đã kiệt sức nhưng chưa chết. Phần đầu con Đen cắn lôi, phần đuôi con Lao giữ chặt. Hai con chó kéo kỳ đà về hai phía quanh gốc cây to. Kỳ đà nằm ngửa, phơi bụng sáng màu đất, nham nhở vết cắn cứa. Ông phải về phố, gọi mấy đứa con đi theo chó, khiêng kỳ đà về. Nhờ con kỳ đà ấy, mấy ông cháu bố con ăn cái tết linh đình kéo dài ngót tháng trời.

    Một lần ông từ rừng về. Con Đen đang đi trước, “hức” nhẹ một tiếng. Lao luốc cũng im, cúi thấp lết đến gần Đen. Thoáng chốc, Đen vụt đi. Hai con còn lại rẽ sang hai ngả. Ông Tần biết có thú, không gọi, chỉ lần theo. Lũ chó mất hút trong rừng cây rậm rạp. Ông tựa gốc cây, giở thuốc ra hút rồi lơ mơ ngủ quên. Lâu lắm, ông tỉnh dậy. Nghe miên man tiếng gió chảy trên mặt lá, linh tính người thợ săn mách bảo phía ấy mơ hồ có tiếng động lạ. Ông dò dẫm cầm dao lần theo. Sườn núi bên kia, ba con chó đang giao tranh với con lợn độc. Con lợn xoay xở, hộc lên giận dữ nhưng không thoát khỏi vòng vây như kín như hở của ba con chó nòi. Ông thấy Đen thường đối mặt với lợn lòi, tung dứ cho lợn hồng hộc, dữ dằn hất lên. Mặt đất bị hai răng nanh cong như vành trăng khuyết và chân lợn, chân chó cào nát. Mỗi khi lợn hung hãn hất đầu lên, Đen đã chờ dịp cắm hai hàm răng cứng như vành đai thép vào yết hầu kẻ địch mà nhay nhay, xé hất ra trước khi lợn kịp chống đỡ.

     Phân lợn, phân chó vãi lung tung. Mùi chiến trận nồng nặc. Biết gặp địch thủ dữ tợn, lợn quay sang nhằm vào con Lao, con Luốc tấn công, tìm hướng thoát thân. Đen xông lên, cắn dái, bắt lợn quay lại chiến đấu với mình. Hai con chó còn lại cũng không dám đánh mạnh, chủ yếu lừa cắn hai chân sau. Con lợn khỏe khủng khiếp nhưng không chống lại được, không tìm nổi đường chạy. Các con ông phải vất vả gần hai đêm ba ngày mới mang được về chợ thị trấn. Con lợn lòi, cân vội vã đã có một tạ hai.

    Nghĩ về Đen, ông Tần vẫn âm thầm tiếc rừng này hết hổ báo. Con Đen không có đất dụng võ, hao phí tài năng, không khác nhà lực sĩ nổi danh đi làm nghề gõ trống. Chẳng gặp kỳ phùng địch thủ, danh tiếng không truyền được xa như ông vua giỏi võ công trị vì đất nước thanh bình, không ai màng tới chiến tranh. Con công đẹp lẫn trong đám gà trống xanh đỏ. Ông buồn một nỗi buồn dai dẳng âm ỉ, không phương cách chữa.

    Mấy hôm nay, ông Tần ngủ không ngon giấc, hễ thấy động mạnh là bật dậy. Đã bốn đêm, Đen không về. Hai con Lao Luốc uể oải ngoài sân. Từ khi Đen đến nhà ông, bọn chó theo nhau không sủa. Như người kém cỏi hay khuếch khoác, to mồm, chó giỏi sủa là chó hỏng. Con nào bền lắm, sủa dai lắm cũng chỉ mươi, mười lăm phút là mỏi miệng, không dám há mõm. Lúc ấy, thấy người lạ, thấy động mạnh cũng tìm đường lủi. Người có mỗi miếng võ, xổ ra không thấy hiệu quả thì cao chạy xa bay là thượng sách. Con Đen về nhà gặp sự bất bình chỉ “hực” một tiếng gọn ghẽ. Lao Luốc học theo, không sủa nữa. Lần Đen bỏ nhà hai đêm. Con Lao, con Luốc cùng đi nhưng gặp mưa, tìm về nhà trước. Ông đã chuẩn bị theo dấu thì sáng hôm thứ ba, Đen về. Người nó nhàu nát, xây xước, ướt lướt thướt. Ăn vội vàng cho xong, nó ngoạm hờ ống chân ông ra hiệu. Ông biết có thú to rồi, giục con Lao xuống phố gọi người. Vài hôm sau, dân bản thấy bố con ông khiêng con nai to, hai chân bị dập. Ông Tần hiểu con Đen lùa nai vào sâu trong thung lũng, cắn gẫy chân. Thú rừng có sức sống mãnh liệt, dù gẫy, thậm chí cả hai chân, chúng cũng chạy thoát dù có mang di tật suốt đời. Có con dũng cảm, dùng răng cắn đứt phần xương thịt mình bị cắm giữ trong cạm bẫy, chạy thoát. Đen khôn hơn. Nó cắn vỡ hai gối chân nai cùng một phía. Nai không đi được nằm thở ở lòng thung. Đen mới trở về gọi ông.

    Lần này, linh tính nhắc ông, Đen không về nữa. Ông phải theo tìm. Biết tìm đâu giữa rừng núi mênh mông?

    Thế rồi sau mấy đêm trằn trọc, ông quyết định rời Bắp La về Nha Trạo tìm Đen. Chuẩn bị đầy đủ thức ăn tiền bạc, mang theo hai con Lao Luốc, ông đi.

    Tới bản ông già, nhìn quang cảnh, ông biết chủ cũ của Đen vừa qua đời. Quay lại chợ, sắm sửa một ít đồ cúng lễ, ông tìm vào nhà.

    Đứa bé trước kia đã thành tay thanh niên vạm vỡ, tiếp đón ông tử tế dù chả nhớ gì chuyện xưa. Nghe ông kể về con chó, người thanh niên reo lên:

    - Trước hôm ông cháu đi, có con chó Đen già cào cửa, tìm đến chỗ ông cháu. Lúc ấy không nói được nhưng thấy nó, ông cháu rướn người, nhướng mắt lên. Ông cháu khóc. Con chó nằm phủ phục quanh đấy đến lúc ông cháu qua đời. Nó rền rĩ nhưng người ta sợ là chó dại, đuổi nó đi mấy hôm rồi.

    Người thanh niên dẫn ông ra chỗ mộ ông già. Theo phong tục địa phương người chết chưa đủ trăm ngày, người nhà không được đến mộ. Anh chỉ đứng từ xa chờ ông. Ông Tần đến, chợt nhận thấy con Đen nằm úp cái mõm dài trên ngôi mộ ấy. Nó ngước nhìn ông bằng cặp mắt nhòa nước. Hình như nó không nhận ra ông. Hai con Lao Luốc xô lại gần Đen nhưng rồi cùng nằm toài, lùi dần ra. Phía trước Đen, nắm cơm quả trứng còn nguyên. Ông thận trọng đặt miếng thịt luộc lên đĩa, thắp hương vái ba vái. Con chó không nhúc nhích. Bất thần ông nhìn nó, vái một vái dài. Ngước lên, ông thấy Đen khẽ khàng chớp mắt. Giọt nước từ trong tràn ra, đọng giọt lớn ở bờ mi.

    Đêm ấy, ngủ lại nhà người thanh niên, những kỷ niệm xa xưa hiện về rõ nét trong mắt ông Tần. Những buổi luyện chó, những con chó khôn, cách đặt tên… Muốn gọi cho vang cho xa, tên chó phải không dấu hoặc dấu sắc. Thức ăn không được cho hành ớt tỏi gừng và các loại rau thơm làm hỏng khứu giác chúng. Thưởng phạt phải công minh, không coi thường, không thiên vị mới mong chúng gắng sức. Phải đầy lòng thương yêu, tận tụy tận tâm săn sóc mới mong chúng giúp đỡ, làm việc cho mình. Luẩn quẩn thế nào rồi hình ảnh con Đen vẫn hiện lên rõ ràng, to lớn, choán đầy trong mắt ông.

    Trước lúc ra về, ông Tần nắm lấy tay người thanh niên dặn dò:

    - Tôi nhờ anh, Đen sẽ đi thôi. Nhìn mũi nó khô, tôi biết. Nó tìm được chủ cũ sau mười năm trời ở cách hơn ba trăm cây số đường núi. Trên đời này không tìm được con chó khác đâu. Nó là loài khuyển đế mà nhà tôi mấy đời ao ước. Chỉ sớm mai, anh chỉ người ra đó mang xác nó về. Anh cầm số tiền này nhờ người đào hố chôn nó giúp tôi thật cẩn thận cho nó được mát mẻ. Đây là chút nghĩa tình của tôi với nó. Nó đã tìm về để ông cụ đi thanh thản. Giờ tôi phải đi để nó khỏi day dứt khi thấy tôi trong lúc nó lìa đời.

    Rồi ông cắm cúi bước. Con Lao con Luốc lặng lẽ theo sau.  

 

                                                                                                  T.T

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.