chan_dung-ke_si

Đâu là sự thật lịch sử?

19-09-2023

Lượt xem 1556

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

Đâu là sự thật lịch sử?

Chân Dung Kẻ Sĩ: Trong truyện ngắn Truyện thầy Lazaro Phiền (1887) của nhà văn Nguyễn Trọng Quản mà Chân Dung Kẻ Sĩ giới thiệu gần đây, có chi tiết về việc cấm đạo vào thời Nhà Nguyễn. Chi tiết này được nhà văn Nguyễn Trọng Quản mô tả khá dài, thông qua cuộc đời của nhân vật chính là thầy Lazaro Phiền, cùng với lời kể từ chính mẹ của nhà văn. Các thông tin về cấm đạo này chiếm tới một phần ba số chữ của truyện.

Gần đây, một số tác giả, phóng viên, trong đó có Nguyễn Văn Trung, trong cuốn "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN) đều chép lại câu chuyện giống như trong tác phẩm Truyện thầy Lazaro Phiền, trong đó nói rằng quan quân Nhà Nguyễn đã bỏ chạy và đã thiêu chết hàng trăm tù nhân trước khi thực dân Pháp chiếm được thành Biên Hòa, từ đây để thực dân Pháp mở ra cánh cổng biến Nam Kỳ nước ta thành thuộc địa. Tuy nhiên, các bài viết đều dựa trên các lời truyền miệng, hoặc như của Nguyễn Văn Trung, dựa trên các tài liệu của các xứ đạo, đều không khác cách nhà văn Nguyễn Trọng Quản tiếp nhận được thông tin và đưa vào tác phẩm hư cấu của ông là mấy.

Vậy, thực hư câu chuyện nói trên ra sao?

Nhằm cung cấp thêm một cách tiếp cận khác, Chân Dung Kẻ Sĩ giới thiệu lại bài viết Đâu là sự thật lịch sử đăng trên Tạp chí Xưa và Nay của tác giả Tôn Thất Thọ (Tôn Châu Quân), nói về sự kiện trên. Bài viết có các cứ liệu gồm sách sử của Nhà Nguyễn ghi chép lại, và đặc biệt là báo chí đương thời của thực dân Pháp đưa tin về sự kiện chỉ vài tháng sau khi họ đánh phá thành Biên Hòa.

Bài viết dưới đây:

 

Đâu là sự thật lịch sử?

untitled

Ảnh khu “Mả tù”của VTC New

Tôn Thất Thọ

Trên trang thông tin điện tử của VTC New ngày 03-06-2016 đăng bài viết của tác giả Trí Bùi có tựa là “Bí ẩn chưa biết về dấu tích mộ tập thể dựng tóc gáy ở Biên Hòa”. Nội dung liên quan đến một sự kiện lịch sử trong thời gian quân Pháp đánh chiếm tỉnh Biên Hòa cuối năm 1861. Nguyên văn như sau:

 “Nếu như giữa trung tâm Sài Gòn (khu vực vòng xoay Dân Chủ: quận 10 và 3) từng là nghĩa địa lớn nhất Sài Gòn vì có ngôi mộ tập thể (dân Sài Gòn xưa gọi “Mả ngụy”) chôn hàng ngàn người già, trẻ, trai, gái bị xử tử vì tội phản nghịch trong cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (1833-1835) dưới thời vua Minh Mạng, thì cũng ngay tại trung tâm TP. Biên Hòa (Đồng Nai) cũng từng tồn tại một khu nghĩa địa có ngôi mộ lớn chôn chung hàng trăm người mà dân Biên Hòa xưa gọi là “Mả tù” dưới thời vua Tự Đức.

Ngày nay, khi nhắc đến đến địa danh “Mả tù” không nhiều người dân Biên Hòa nào còn biết rõ tận tường, chỉ có những lão dân kỳ cựu sống ở khu vực Dốc Sỏi, Ngã Ba Thành, chợ nhỏ Cây Chàm (thuộc phường Quang Vinh) thì có thể còn nhớ chút ít. Dấu tích “Mả tù” xưa nay đã bị xóa mờ. Nhân dịp Giáo xứ Biên Hòa kỷ niệm 150 thành lập, chúng tôi thử dò tìm manh mối từ những trang sử liệu công giáo để làm sáng tỏ thêm những bí ẩn của “Mả tù”.

Trong cuốn kỷ yếu “Giáo xứ Biên Hòa 150 năm thành lập” viết, vào thế kỷ 18 “lệnh cấm đạo” gắt gao của chúa Nguyễn ở Đàng Trong ban hành nên các nhà thờ bị đốt phá, nhiều giáo sĩ và giáo hữu phải chết rũ trong tù.

Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi, vì đã chịu ơn Đức cha Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) giúp đỡ ông thời lưu vong nên vua đã ban hành tự do tôn giáo. Nhưng đến đời vua Minh Mạng, cấm đạo trở lại càng ác nghiệt.

Đến thời vua Tự Đức còn hơn thế nữa, vua đã ban hành chính sách tàn sát với 13 sắc chỉ cấm đạo đối với những đồng bào tôn thờ Thiên Chúa. Các tín hữu và họ đạo ở  Mỹ Hội, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một (tỉnh Bình Dương), Tân Triều (Biên Hòa) tổng cộng 600 người đã bị bắt giam vào ngục thất Biên Hòa. Con số người bị hành quyết tại pháp trường Dốc Sỏi lên tới hàng trăm người.

Ngày 17-12-1861, khi quân Pháp tấn công và chiếm tỉnh Biên Hòa thì tại nhà lao Biên Hòa còn 407 giáo hữu vẫn bị nhốt trong nhà lao. Vì không chống trả nổi trước sự tấn công mạnh mẽ của quân Pháp nên quan quân triều đình nhà Nguyễn đành bỏ thành rút lui.

Trước khi rút chạy, triều đình nhà Nguyễn còn ra lệnh cho lính phóng hỏa thiêu rụi nhà lao Biên Hòa. Hàng trăm tiếng gào thét, tiếng la cứu thất thanh của những người bị nhốt vang vọng khắp thành Biên Hòa. Nhưng ngọn lửa hung bạo cháy suốt ngày đêm đã thiêu rụi tất cả, chỉ có 7 người thoát thân được. 400 người chịu “tử đạo”.

Sau khi quân Pháp chiếm được thành Biên Hòa và bình định xong, thì giáo dân Biên Hòa di tản tứ phương do chiến tranh, đã trở về. Dân chúng mới moi tìm trong mớ tro tàn thi hài của những người giáo dân vô tội bị thiêu cháy đen, co quắp, không nhận được dạng, nên đem chôn chung một nấm mồ, tại vị trí chính nơi họ bị thiêu chết.

Đến năm 1875, cha cai quản giáo xứ Biên Hòa người Pháp tên là Louvet (cha Ngôn) mới cho dựng tại nơi chôn một cây bia đá có khắc hình thánh giá để ghi nhớ cuộc thảm sát tàn khốc đó rồi chọn khu đất này làm “nghĩa trang đất thánh”. Địa danh “Mả tù” có từ đây…” (nguồn: http://www.vtc.vn/bi-an-chua-biet-ve-dau-tich-mo-tap-the-dung-toc-gay-o-bien-hoa-d259658.html).

***

Trước thông tin về sự kiện nghiêm trọng này được phổ biến công khai trên trang thông tin điện tử của một đài truyền hình lớn, và đã được phát sóng truyền hình trên cả nước, chúng tôi đã tìm hiểu để tìm sự thật về câu chuyện lịch sử này:

      1- Trong sách “Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861”, tác giả là Léopold Pallu; trong thời gian Pháp đánh chiếm Gia Định và Biên Hòa (1859-1861), ông là trung úy Hải quân và là sĩ quan tùy viên tổng hành dinh của Phó đề đốc Charner, chính ông là người chỉ huy đội thủy quân lục chiến xung kích đánh vào đại đồn Chí Hòa,và sau đó tiến đánh truy đuổi quân nhà Nguyễn về đến tận Biên Hòa. Cuốn sách của ông được in năm 1864, chỉ 3 năm sau khi liên quân Pháp-Tây Ban Nha đánh chiếm Biên Hòa của nước ta. Trong tập sách này, tác giả không có một dòng nào đề cập đến sự kiện nói trên xảy ra năm 1861.

Tại sao một sĩ quan có chân trong đoàn quân xâm lược đó lại không ghi chép gì hành động “tàn ác” của đối phương (quan quân nhà Nguyễn) ?

   2- Đề cập đến sự kiện Pháp đánh chiếm Biên Hòa thời gian trên, Sách Đại Nam thực lục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đã chép như sau:

Người Tây dương đánh lui quân thứ Biên Hòa, vào chiếm đóng tỉnh thành…

Quân Tây Dương dùng thuyền  quân chặn  đóng con đường ở Gia Định, Định Tường đi đến; lại đánh giữ hai cửa biển Cần Giờ và Phúc Thắng. Luôn mấy ngày đánh phá vào xứ Thạch Hãn (các ngày 15 và 16), quân thứ lui giữ phủ Phước Tuy. Thuyền của quân Tây dương nhân nước triều thẳng tiến đến tỉnh thành (ngày 17) dùng súng lớn bắn phá vào thành…

Quân Tây dương vào chiếm lấy thành, lại tiến sát phủ Phước Tuy đánh bắn. Bá Nghi lại lùi về đóng ở phận rừng Long Kiên, Long Lập, thuộc phủ Phước Tuy…” (ĐNTL, sđd, tr.743).

 Qua đó ta thấy quân Pháp đã liên tục bắn phá bằng đại pháo để tiến công và xâm chiếm Biên Hòa. Tác giả Phạm Văn Sơn trong Việt sử tân biên cho biết thành Biên Hòa không hề bị bỏ ngỏ, mà đã chống trả quyết liệt mới cam chịu thất thủ:

        “Sáng sớm ngày 16 tháng 12, quân Pháp tấn công quân ta trên cả hai mặt đường. Chiến hạm Pháp lợi dụng nước lên, Trung tá Trung tá Domenech Diégo được lệnh xung phong cho quân ào ạt bức thành, nã đại bác vào trong như long trời lở đất, yểm trợ cho quân thủy và quân bộ kéo lên. Tuần Phủ Nguyễn Đức Duy, Án sát Lê Khắc Cẩn chống đỡ suốt ngày, xét thấy giữ không xong, nhờ đêm tối lui quân về Hồ Nhĩ…Ngày 17 tháng 12 năm 1861, liên quân vào trong thành”.(Việt sử tân biên Q5, sđd, tr. 141).

Untitled 2

Pháp đánh chiếm Biên Hòa ngày 17 tháng 12 năm 1861 (nguồn: L’Illustration, 1862)

3- Sách Đại Nam Quốc lược sử (Abrégé de l;Histoire d’Annam) do Alfred Schreiner soạn và xuất bản tại Sài Gòn năm 1905 (Nguyễn Văn Nhàn dịch) viết về chiến sự này như sau:

            “Khi quan thủy sư làm chủ được từ huyện đó cho tới sông Đồng Nai rồi, người liền sắp đặt cách thế mà độ binh qua mé tả; chính vì người có ngồi tàu Ondine mà đi với một chiếc canonnière (thuộc chúa tàu Jonart cai) đặng đến trước thành Biên Hòa, thành này bị cây cối án khuất, thấy đặng có một mình cột cờ mà thôi. Hai chiếc tàu bắn ba hiệp sung lớn mà không bị thệt hại chi, song khi chiếc canonnière đối xạ phát thứ ba thì bên An- nam ngưng bắn; rồi thấy một vầng lửa lớn cháy đỏ hực lên trên thành…” (ĐNQLS…, sđd, tr. 383).

  4- Sự thật càng rõ ràng hơn: trên tờ tuần báo của Pháp là Le Monde Illustré số 254, năm thứ 6, ra ngày 22-2-1862(*), tức sau sự kiện trên chỉ vài tháng có đăng bài viết có tựa “Expédition de Cochinchine” (Cuộc chinh phục xứ Nam Kỳ), qua mục “Correspondance particulière ” (Thư tín đặc biệt), tờ báo này đã đăng lời của Mac Vernoll, mà đoạn liên quan có nguyên văn như sau:

1

Sách Đại Nam Quốc lược sử

2

Báo Le Monde Illustré số 254:

3

Bài báo về việc Pháp chiếm Biên Hòa

Nguyên văn đoạn liên quan bằng tiếng Pháp do Mac Vernoll viết.

La petite canonnière ouvrit le feu, et immédiatement un violent incendie se déclara. Les mandarins fuyaient et livraient aux flammes deux cent soixante-quinze chrétiens. Nous fûmes assez heureux pour sauver deux cents de ces malheureux, mais nous eûmes à regretter la mort de soixante-quinze femmes ou enfants étouffés et calcinés par les flammes.”

Tạm dịch : Một chiếc pháo hạm nhỏ đã khai hỏa và ngay sau đó một đám cháy dữ dội bùng lên. Các viên quan đã tháo chạy và để mặc hai trăm bảy mươi lăm con chiên trong ngọn lửa. Chúng tôi sung sướng vì đã cứu được hai trăm người trong số những kẻ bất hạnh đó, nhưng cũng lấy làm tiếc về cái chết của bảy mươi lăm đàn bà hoặc trẻ em đã bị chết ngạt, hoặc bị ngọn lửa thiêu cháy.

Như thế đã rõ. Sự thật lịch sử đã được tuần báo Pháp phổ biến sau sự kiện trên chưa tròn 2 tháng ! :

Lửa cháy là do chiếc pháo hạm của thực dân Pháp nổ đại pháo gây nên; hậu quả làm 75 người chết. Quan quân nhà Nguyễn không thể chống cự nổi nên phải bỏ chạy. Vào thành Pháp đã cứu chữa được 200 người bị nạn…Đó là lý do mà viên trung úy Hải quân Léopold Pallu không thể ghi vào tập ký sự của y.

       Cũng cần nói thêm, được tin quân Pháp sẽ tấn công Biên Hòa, các quan tỉnh thần đã giam giữ một số giáo dân, ngăn ngừa họ làm mật thám cho Pháp như đã từng xảy ra khi chúng xâm chiếm Gia Định, mà cụ thể là trong trận đánh đồn Chí Hòa tháng 2-1861. Cụ thể hơn, trong sách Nguyễn Tri Phương (1800-1873), tác giả Thái Hồng đã trích dẫn một bức thư đề ngày 8/10/1861 của Phó đề đốc Charner gởi Giám mục Sài Gòn  d’Isauropo – lis, tức Giám mục Lefèbvre thì trước đó mấy tháng đã có việc con chiên dùng vũ khí đánh chiếm tỉnh thành Biên Hòa:

       “Đội Thiết đã hướng dẫn mấy trăm con chiên dùng khí giới cướp tỉnh Biên Hòa…làm trầm trọng đến mức cuối cùng số phận của các con chiên khác, trong những vùng thuộc quyền vua Tự Đức…” (Nguyễn Tri Phương…, sđd, tr.315). Đó là lý do các trại giam được lập nên, thế nhưng chẳng may cho số dân này, họ đã bị nạn do vũ khí của người Pháp gây ra.

Do đó, từ trước đến nay, nhiều bài viết cho rằng quan quân nhà Nguyễn trước khi rút chạy ra khỏi Biên Hòa tháng 12 năm 1861 đã đốt cháy trại giam là vô căn cứ và hoàn toàn sai sự thật . Chúng tôi rất lấy làm tiếc vì điều đó đã rơi vào một cơ quan truyền thông có ảnh hưởng rộng lớn đến xã hội !

=======================

Tài liệu tham khảo :

–  Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861, Léopold Pallu, Hoàng Phong dịch, Nxb Phương Đông.

– Đại Nam thực lục T7, QSQTN, Nxb Giáo Dục, 2007, Nxb Giáo Dục, 2006.

– Đại Nam Quốc lược sử (Abrégé de l;Histoire d’Annam),Alfred Schreiner, Nguyễn  Văn Nhàn dịch, Saigon, 1905.

– Tạp chí Le Monde Illustré (Pháp) số 254, ngày 22-02-1862.

– Việt sử tân biên Q5, Phạm Văn Sơn, Sài Gòn, 1962.

– Nguyễn Tri Phương, (1800-1873), Thái Hồng, Nxb Đại Học Quốc Gia TPHCM, 2001.

Bài đã đăng tại Tạp chí Xưa và Nay, số tháng 3/2017;

ký là Tôn Châu Quân

 

(*) Chân Dung Kẻ Sĩ bổ sung thêm bản chụp bài báo Le Monde Illustré với độ phân giải cao hơn từ flick manhhai, kèm toàn văn bài báo bằng tiếng Pháp và phần dịch tiếng Việt dưới đây:

le-monde-illustre_

 

le-monde-illustre-2

1862-02-22 PHAP CHIEM BIEN HOA - Le Monde illustré 22-2-1862 

 

Titre : Le Monde illustré

Date d'édition : 1862-02-22

 116 LE MONDE ILLUSTRÉ

EXPÉDITION DE COCHINCHINE. — Le contre-amiral Bonard, commandant en chef, s'avançant pour reconnaître la citadelle de Bien-Hoa.

(Croquis de M. Lugeol, aide de camp de M. le commandant Daries.)

Correspondance particulière du MONDE ILLUSTRÉ.

A bord de l'Alarme, 17 décembre 1861.

Monsieur le directeur,

J'ai à peine le temps de vous tracer deux croquis de

l'importante opération qu enotre corps expéditionnaire

vient d'accomplir si vigoureusement contre Bien-Hoa.

 

Cette ville forte, vous le savez, forme, avec Mitho et

Saïgon, les trois points stratégiques de la Basse-Cochin-

chine et sa prise devait nous assurer la possession dé-

finitive de ce riche pays.

 

Depuis longtemps déjà les Annamites occupant Bien-

Hoa lançaient sur nos avant-postes et nos possessions

des bandes nombreuses qui tourmentaient, par leurs

attaques incessantes, les populations soumises à la

France.

 

Le contre-amiral Bonnard, commandant en chef, ré-

solut de les chasser du camp retranché, appuyé sur

la ville de Bien-Hoa et qui leur servait de refuge.

 

L'expédition s'est mise en marche, le 10 décembre,

nombre de trois mille hommes. En même temps,

 

une division de canonnière s'est avancée sur les canaux

qui entourent la place et la traversent en tous sens.

 

Après les reconnaissances pour reconnaître le ter-

rain et qui causèrent beaucoup de mal à l'ennemi

qui nous attendait en grand nombre dans les embus-

cades, l'attaque fut décidée. Elle commença le 15, au

petit jour.

 

Les canonnières attaquèrent avec vigueur les six forts

que défendaient de formidables barrages en bois et en

pierre. Les Annamites soutinrent vaillamment le leu

pendant quatre heures et ne se décidèrent à évacuer

les forts qu'en voyant s'effectuer le mouvement tour-

nant des colonnes.

 

Nous eûmes un tué [et quatre blessés sur l'Alarme.

 

Les autres canonnières n'éprouvèrent aucune perte

dans leur équipage, seulement tous les navires avaient

reçu pas mal de boulets dans leurs coques.

 

L'Alarme était criblée de quarante projectiles, la Fu-

sée de sept, l'Avalanche de cinq.

 

Les troupes sous la conduite du contre-amiral s'em-

parèrent du camp de Mi-Hoa. La colonne espagnole et

 

une colonne française cernèrent un grand nombre

namites qui furent presque tous tués. j't'D :

Les abords de la citadelle étaient libres et ¡'hk

préparait à l'attaquer avec toutes les forces dlSP de

L'amiral voulut le reconnaître et il s'aPPrO-'b" ie

place qui tira une trentaine de coups de car'O-l'

navire monté par le commandant en chef. teD1/:

La petite canonnière ouvrit le feu, et immédJ® ,v

un violent incendie se déclara. Les mandarins ;

et livraient aux flammes deux cent soixante

chrétiens. Nous fûmes assez heureux pour sau

cents de ces malheureux, mais nous eûmes a

la mort de soixante-quinze femmes ou enfants

et calcinés par les flammes. et

La citadelle conquise est très-bien construit t::r

tifiée. Comme tous les autres ouvrages qui défeI1

les barrages, elle est cachée dans les arbres. e:

L'expédition poursuit sa marche victorie

nouveau succès nous assure la possession dEs s

vinces de la Basse-Cochinchine.

 

Pour extrait : MAC vEN.

 

Thứ Sáu, ngày 04 tháng 11 năm 2016

Theo tuần báo Le Monde Illustré của Pháp, số 254 năm thứ 6, ra ngày 22/02/1862, chỉ hơn 2 tháng sau ngày Thành Biên Hòa thất thủ. Trận chiến được ông M.Lugeol, trợ lý trận địa của hạm trưởng Daries ghi lại kèm phác họa gởi đăng như sau:

*Cuộc đánh chiếm Nam Kỳ.– Thiếu tướng hải quân Bonard, tổng tư lệnh hạm đội, tiến tới thăm dò chiếm thành trì Biên Hòa. (Tranh phác họa của ông M.Lugeol, trợ tá trận địa của hạm trưởng Daries). Đặc phái viên thường trực của báo Le Monde Illustré.

Trên boong pháo hạm L’Alarme ngày 17/12/1861

Thưa ông giám đốc (chủ nhiệm) báo, tôi vừa có được thời gian vẽ ra cho ông hai bức tranh phác họa cuộc hành quân quan trọng, mà lực lượng đánh chiếm của chúng ta vừa hoàn thành quyết liệt đối với Biên Hòa.

Thành trì này, như ông đã biết, cùng với Mỹ Tho và Sài Gòn, hình thành 3 điểm chiến lược của Nam kỳ, và việc chiếm cứ được nó, đảm bảo cho sự chiếm cứ quyết định của chúng ta tại xứ sở giàu có này.

Đã từ lâu rồi, người An nam, đang chiếm giữ Biên Hòa, đã tung vào các tiền đồn và các nơi chiếm hữu của ta nhiều nhóm đông đảo để quấy phá các cư dân đã bị Pháp chinh phục bằng các cuộc tấn công liên tục.

Thiếu tướng hải quân Bonard, tổng tư lệnh, quyết định đánh đuổi chúng ra khỏi các nơi đồn trú, nương tựa vào thành Biên Hòa làm chổ ẩn núp của chúng.

Cuộc đánh chiếm khởi sự ngày 10/12/1861 với quân số 3.000 người. Cùng lúc đó, một đơn vị pháo hạm tiến vào các con kinh bao quanh địa điểm và chạy ngang dọc khắp thành.

Sau những lần thăm dò để tìm hiểu địa bàn và gây nhiều sự thiệt hại cho kẻ địch đang chờ chúng ta với quân số rất lớn trong các ổ phục kích, cuộc tấn công được quyết định và được tiến hành vào sáng sớm ngày 15.

Các pháo hạm tấn công dữ dội sáu đồn lũy được chống đỡ bằng những chiến lũy bằng cây và bằng đá. Người An nam cầm cự dũng cảm hỏa lực trong 4 giờ và chỉ quyết định rút khỏi đồn khi cảm thấy hiệu quả của việc xoay chuyển tình thế của các hang quân.

Chúng ta tổn hại một chết, bốn bị thương trên pháo hạm L’Alarme, còn thủy thủ đoàn của hai pháo hạm khác không bị hề hấn gì cả chỉ có điều là tất cả các tàu đều nhận không ít các viên đạn đại bác ở thành tàu.

Chiếc pháo hạm L’Alarme bị thủng 40 chỗ vì đạn pháo, La Fusée bị 7 chỗ và L’Avalanche bị 5 chỗ. Dưới sự chỉ huy của thiếu tướng hải quân, các đội quân đã chiếm lĩnh đồn trại Mỹ Hòa. Đơn vị Tây Ban Nha và một đơn vị Pháp bao vây một số lớn quân An nam, và họ hầu như bị giết chết cả.

Các vùng xung quanh thành đã được giải tỏa, và người ta chuẩn bị một cuộc tấn công với tất cả sức mạnh còn lại. Hải quân thiếu tướng muốn biết và Ngài tiến đến cái nơi mà đã bắn khoảng 30 phát đại bác vào chiếc tàu có vị chỉ huy hạm đội ở trên đó.

Chiếc pháo hạm nhỏ khai hỏa và tức khắc một trận hỏa hoạn dữ dội bộc phát. Các quan lại An nam chạy trốn bỏ mặc 264 con chiên Thiên chúa giáo trong biển lửa. Chúng tôi phần nào vui mừng khi cứu được 200 trong số khốn khổ đó, nhưng cũng lấy làm tiếc về cái chết của 75 phụ nữ hoặc trẻ em bị thiêu cháy thành tro trong ngọn lửa.

Toà thành bị chiếm lĩnh được xây cất rất tốt và vững chắc như tất cả các công trình phòng ngự khác, chúng được che giấu dưới tàn các cội cây.

Cuộc đánh chiếm tiếp nối các bước thắng lợi và các thành công mới đảm bảo cho chúng ta chiếm lấy 6 tỉnh của Nam kỳ.

M.Lugeol./.

(Tuần báo Pháp Le Monde Illustré năm thứ 6 số 254 ra ngày 22/02/1862- phiên dịch: Hậu Học Song Hào Lý Việt Dũng ).

 

Bài liên quan
  • Việt Nam khai quật thành công ‘kho báu’ bị chôn vùi 12 thế kỷ ở một xã ven biển miền Trung, được công nhận kỷ lục thế giới

    Việt Nam khai quật thành công ‘kho báu’ bị chôn vùi 12 thế kỷ ở một xã ven biển miền Trung, được công nhận kỷ lục thế giới

    Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) khi đó đã đề nghị cơ quan chức năng phong tỏa khẩn cấp khu vực để bảo vệ nguyên trạng, họp bàn tìm cách khai quật tối ưu.
  • VIẾT TRUYỆN NGẮN NHƯ THẾ NÀO* - CHEKOV

    VIẾT TRUYỆN NGẮN NHƯ THẾ NÀO* - CHEKOV

    Sao lại nói là không có cốt truyện? Không đúng. Cốt truyện có ở mọi nơi mọi chỗ. Anh hãy nhìn vào bức tường này. Ai cũng biết ở đấy chẳng có gì cả. Nhưng anh hãy nhìn kỹ vào đó, hãy tìm trong đó một cái gì của mình, một cái gì không ai thấy được. Và anh hãy viết ra. Xin cứ tin điều tôi nói, bấy giờ thế nào cũng có một truyện ngắn. Cũng như anh có thể viết rất hay về một chủ đề đã cũ mèm như viết về ánh trăng, miễn là biết nhìn ra trong ánh trăng một cái gì của mình mà không phải một cái gì khác đã quá nhàm.
  • Nhà văn Minh Chuyên được phong tặng Anh hùng Lao động

    Nhà văn Minh Chuyên được phong tặng Anh hùng Lao động

    Theo thông tin từ nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà văn Minh Chuyên vừa được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động bởi những đóng góp đặc biệt cho văn học viết về chiến tranh thời hậu chiến.
  • Nhà thơ Bùi Giáng: Kỳ cuối: Gặp hoạn nạn là Kim Cương có mặt

    Nhà thơ Bùi Giáng: Kỳ cuối: Gặp hoạn nạn là Kim Cương có mặt

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lúc đầu thấy Bùi Giáng cầu hôn Kim Cương không được, Nguyễn Thùy có lần đã đề nghị với Kim Cương một cách nghiêm túc hay là Kim Cương lấy Bùi Giáng làm chồng, biết đâu sẽ giúp anh ấy bớt khùng và viết lách đường hoàng, đĩnh đạc, dễ hiểu hơn?
  • Nhà thơ Bùi Giáng - Kỳ 4: Tỉnh điên một cõi hồng trần

    Nhà thơ Bùi Giáng - Kỳ 4: Tỉnh điên một cõi hồng trần

    Nguyễn Thùy có cô người yêu là sinh viên Đại học Sư phạm ban Anh văn rất quý trọng Bùi Giáng, cô này thường đi theo Bùi Giáng uống cà phê, quàng vai ông rất thân thiết khiến Bùi Giáng rất vui.
  • Nhà thơ Bùi Giáng - Kỳ 3: Trong cõi điên nhân tình thế thái

    Nhà thơ Bùi Giáng - Kỳ 3: Trong cõi điên nhân tình thế thái

    Sau khi không may gặp hỏa hoạn, không chỉ nhà bị cháy mà tất cả tác phẩm và sách vở tài liệu bị cháy sạch, Bùi Giáng lại thêm một cú sốc lớn khiến tâm hồn nhạy cảm của ông càng bị chấn động. Bùi Giáng càng điên hơn, ban ngày ông lang thang ngoài đường trong trang phục “cái bang” với mấy con chó nhỏ trong túi vải đeo lủng lẳng quanh mình. Cứ thế ông rong chơi khắp phố phường và trêu chọc thiên hạ, nhất là các cô gái đẹp.
  • Nhà thơ Bùi Giáng - Kỳ 2: Bút lực hoa trôi nước chảy

    Nhà thơ Bùi Giáng - Kỳ 2: Bút lực hoa trôi nước chảy

    Để có cả một kho tàng tác phẩm như thế Bùi Giáng đã viết lúc nào trong khi ông thường dành hết thời giang trong ngày để rong chơi cho những cuộc điên tưởng chừng bất tận? Đây là một điểm rất bí ẩn mà cho đến nay chưa có lời giải, kể cả những người gần gũi nhất với ông.
  • Nhà thơ Bùi Giáng - Kỳ 1: 'Giáo sư' không tốt nghiệp đại học

    Nhà thơ Bùi Giáng - Kỳ 1: 'Giáo sư' không tốt nghiệp đại học

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Bùi Giáng không tốt nghiệp đại học nhưng lại làm “giáo sư” dạy học một thời gian, là nhà nghiên cứu, khảo luận, dịch thuật và nhất là làm thơ. Ông dịch nhiều tác phẩm nổi tiếng của các tác giả tên tuổi trên thế giới, viết khảo luận đông tây kim cổ và đặc biệt là làm thơ nhanh như chớp bất cứ ở đâu, trong trường hợp nào.
  • Cửa ô Hà Nội hơn 100 năm trước

    Cửa ô Hà Nội hơn 100 năm trước

    Hà Nội từng có 21 cửa ô nhưng đến năm 1866, trên bản đồ chỉ còn 15 cái tên.
  • Chữ quốc ngữ khiến người Việt bị đứt gãy về văn hóa?

    Chữ quốc ngữ khiến người Việt bị đứt gãy về văn hóa?

    Một câu hỏi được đưa ra từ lâu trong giới nghiên cứu nhưng không dễ trả lời: sự thay đổi chữ viết tạo ra sự đứt gãy về văn hóa, truyền thống trong dân tộc ta?