chan_dung-ke_si

CÙ LAO PHỐ ĐỆ NHẤT ĐỊA DANH XỨ ĐỒNG NAI

05-01-2023

Lượt xem 6261

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

CÙ LAO PHỐ ĐỆ NHẤT ĐỊA DANH XỨ ĐỒNG NAI

Nhà ngói vách vôi, lầu quán hai tầng rực rỡ trên bờ sông liền lạc năm dặm. Lại phân hoạch ra ba đường phố. Đường lớn giữa phố thì lát đá trắng, đường nhỏ lát đá xanh, đường ngang lát đá ong…

 

                                                Gia định thành thông chí - Trịnh Hoài Đức

 

Vốn đã chong trong đầu một dự định về Cù Lao Phố để dư hưởng trong tiềm thức cái sầm uất mà Trịnh Hoài Đức đã mô tả nó như một thương cảng rực rỡ bậc nhất của vùng đất mới mở xứ đàng trong, tôi hăm hở thực hiện chuyến đi ngỡ rằng mình chưa thể thực hiện được. Xe chạy trên con đường về Cù Lao Phố lồng lộn một vũ điệu hỗn tạp, rốt cục nó thở phì phì dừng trước tấm bảng chặn giữa đầu cây cầu nối sang cù lao với dòng chữ; cầu đang sửa chữa cấm ô tô. Cây cầu sắt vắt qua sông Đồng Nai không biết có từ bao giờ hẳn đã cũ lắm vì cái vẻ già cỗi toát lên từ những dầm sắt hoen gỉ, những thanh gỗ mục nát và cả một đoạn hành lang dành cho khách bộ hành đã đi đâu mất. Bị gỡ bỏ hay rớt xuống sông từ khi nào! Từ cây cầu lội bộ khoảng vài trăm mét là tới miếu Bình Kính, ở thôn Bình Hoành nơi thờ Thượng Đẳng Thần Nguyễn Hữu Cảnh.

aa                                                                    

 Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh tại Cù lao Phố. Ảnh: Bùi Thụy Đào Nguyên

Chuyến đi tới Cù Lao Phố này được Giáo sư Huỳnh Minh Đức dẫn dắt, để khảo sát, ghi chép các câu chữ Hán tự trong miếu. Giáo sư Huỳnh Minh Đức là thầy của tôi. Ông đã hơn 70 tuổi nhưng vẫn rất nhanh nhẹn và hết lòng truyền dạy cho tôi và các bạn đồng môn kho tàng kiến thức cổ văn thâm sâu của ông. Thầy Đức vốn là một trong những cây đại thụ Hán học, Văn học, không chỉ  của Trường đại học KHXH&NV, Đại học quốc gia TP.HCM mà còn cả khu vực phía nam.

 

Miếu vắng lặng và uy nghiêm.

 

Dòng Đồng Nai trôi ngang ì oạp những con sóng từ cõi vô ngôn kiên trì bào mòn lòng kiên trì của trời đất nhưng lại làm dịu đi cái oi bức của nắng hạ chói chang. Ngôi miếu hướng mặt ra dòng Đồng Nai như tiếc nuối thời tung hoành của một  ”kinh bang tế thế chi nhân” người Ngũ Quảng. Tôi đưa mắt dõi tìm bóng bằng lăng nhà văn Sơn Nam ao ước được nhìn thấy ở đây. Hoài công. chẳng có bóng bằng lăng nào hết (nhà văn Sơn Nam cho rằng bằng lăng là do chữ Bàn Lân mà ra.)

 

Ông cụ canh miếu đã già lắm nhưng lại nhanh nhẹn lạ kì ra mở cánh cổng sắt, tôi theo sau và choáng ngợp trước vẻ uy nghi cổ kính của ngôi võ miếu. Những hàng cột chạm trổ sơn son, những bức hoành phi thếp vàng, hai bên lối đi bảy đủ tám ban binh khí. Đứng giữa miếu là một chữ “Thần” vàng rực.

 

Bình Kính Miếu được lập sau khi Nguyễn Hữu Cảnh thăng thần, không biết cụ thể vào năm nào. Khi Chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua đã cắt mười phu trông coi, hàng năm đều xuất quỹ cúng tế vào ngày giỗ. Năm 1851, do bờ đất sạt lở, vua Tự Đức đã cấp 500 quan tiền để di dời vào sâu mười trượng.

 

 Tôi hí hoáy chép đôi câu đối chữ Hán và chợt nhận ra hai chữ đầu câu đối này chính là tên miếu.

 

        有.

         .

 

Phiên âm: Bình điện sơn hà lê nguyên hàm đại hữu. Kính khai cương thổ thiên hạ ích đồng nhân. Dịch nghĩa:Bình kính miếu là nơi đã an bài chỗ thờ cúng núi sông, người dân được hưởng nguyên khí của quẻ Hàm và quẻ Đại hữu. Bình kính miếu là nơi mở mang cương thổ khiến cho người dân trong thiên hạ được hưởng cái vui của quẻ Ích và quẻ Đồng nhân.

 

Tôi bước tới ông cụ giữ miếu đang cần mẫn quét tước.

-Người ta có hay đến đây thăm thú ngôi miếu này không ạ?

-Thông thường thì ngày rằm mùng một cũng có người đến đây dâng lễ. Còn ngày kị thì đông lắm, có cả các vị lãnh đạo TP về dâng hương nữa. Ông cụ mở lời

-Bác được xã cử trông coi ạ?

-Vâng do thôn bầu chọn trong số hơn hai mươi người đấy.

-Ủy ban có trợ cấp gì cho bác không ạ?

-Trước đây thì có đấy, nhưng nhiều tháng nay tôi chưa nhận được đồng nào cả. -----Miếu cũng đã được Bộ văn hóa công nhận là di tích lịch sử văn hóa rồi mà thưa bác?

-Ôi tôi đâu có biết. Tôi giữ miếu như một sự thành kính. Quét tước, dọn dẹp, lau chùi để nơi đây được tôn nghiêm. Vả lại từ khi coi miếu tôi thấy con cháu ngoan ngoãn và đều phương trưởng cả.

Ông cụ giữ miếu vì một niềm tin, vì một niềm vinh hạnh, liệu người ta còn điều gì khác đáng trân trong hơn không nhỉ!

 

Thôn Bình Kính tức thôn Bình Hoành do người dân Cù Lao Phố lấy chữ Bình trong Quảng Bình quê hương Nguyễn Hữu Cảnh với chữ Kính là tên húy của ông ghép lại để tỏ lòng tưởng nhớ công lao của người đã có công khai phá mảnh đất phương nam Biên Hòa xưa.

 

Cù Lao Phố, mảnh đất nổi lên giữ sông Phước Long (Đồng Nai) bốn mặt nước vây quanh là một điểm hẹn lí tưởng để lưu dân người Việt xưa đến khai hoang. Đây là vùng đất nằm trong thế liên quan của cả vùng thị tứ thời ấy là Sài Gòn, Cù Lao Phố (Biên Hòa) Bình Tây (Chợ lớn)

 

Vậy người Việt đến đây từ bao giờ ?

 

Sách Đường Thư còn chép;”Cù Lao Phố thuộc Biên Hòa, Biên Hòa xưa là nước Bà Lịa, sau Chân Lạp chiếm làm đất Bà Rịa Đồng Nai.”

 

Nước Bà Lịa ở phía đông Chiêm Thành, phía nam có nước Chu Nại, khoảng năm 650-655 bị Chân Lạp chiếm. Vùng Biên Hòa xưa rải rác đã có các sắc dân Khmer, Mạ, Stiêng, Châuro…Người Việt xuất hiện ở đây có lẽ từ thời Trần, Lê trong các cuộc hưng binh của vua chúa với Chiêm Thành. Lúc đó đã có các binh lính bị tụt lại và lưu lạc đến đây. Nhưng lưu dân người Việt thực sự có các đợt Nam tiến mạnh mẽ chỉ bắt đầu từ cuối thế kỉ XVi-đầu thế kỉ XVii ( theo nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng thì không sớm hơn 1472, không muộn hơn 1623) Từ vùng Thanh Nghệ, Bắc trung bộ,, Trung bộ và Ngũ Quảng, họ vượt biển, cặp cửa Cần Giờ, Đồng Tranh Vũng Tàu để rồi tiến sâu vào nội địa. Họ chỉ có con đường duy nhất là đường biển do lúc đó Chiêm thành vẫn còn án ngữ con đường trên bộ.

Nằm trong hoàn cảnh ấy, Cù Lao Phố trở nên đắc địa. Người Việt khai hoang cả vùng Biên Hòa rộng lớn.

 

Năm 1620 nhà Nguyễn gả công chúa cho Quốc vương Chey-Chetta ii. Điều đó rất có lợi cho người Việt. Năm 1623, nhà Nguyễn cho đặt sổ thu thuế ở đây.

Năm Kỉ Mùi 1679, nhóm Dương Ngạn Địch, Trần Thắng Tài, tức Trần Thượng Xuyên dẫn 3000 người gồm binh lính và gia quyến lưu vong trong phong trào phản Thanh phục Minh được nhà Nguyễn cho phép khai hoang xứ Biên Hòa.

Trần Thắng Tài cùng phó tướng Trần An Bình cập bến Cù Lao phố chiêu vận thương nhân, lập phố xá mở mang nông nghiệp khiến Cù Lao Phố thịnh vượng chưa từng có. Dân cư tập trung đông đúc tới “tứ vạn hộ”. Không như thành thị phương Tây, Nhà nước lập ra, và dân cư tới sinh sống. Thành thị Việt Nam phát triển theo tiên trình ngược lại. Nghĩa là dân cư đến tập trung buôn bán phát triển, nhà nước theo sau thiết lập chính quyền cai trị.

 

Cù Lao Phố hình thành trễ hơn Hội An, phát triển rực rỡ rồi lụi tàn trước Hội An. Tính từ năm 1698 chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu đi “kinh lược đất Chân Lạp, lấy đất Nông Nại ( Tiếng Quảng tức Đồng Nai- tác giả) đặt Phủ Gia Định chia đất Giản Phố. Lấy xứ Sài Gòn đặt huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn lấy xứ Biên Hòa làm huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên” (Đại Nam thực lục tiền biên) thì trong khoảng 90 năm phát triển nơi đây trở thành một thương cảng sầm uất bậc nhất của vùng đất mới. Hàng hóa xuất khẩu với hàng trăm mặt hàng thứ gì cũng có. Ghe thuyền sôi động tấp nập. Gia Định thành thông chí viết; “ Nhà ngói vách vôi lầu quán hai tầng rực rỡ liền lạc năm dặm. Lại phân hoạch ra ba đường phố. Đường lớn giữa phố thì lát đá trắng, đường nhỏ lát đá xanh, đường ngang lát đá ong…” Như vậy mặc dù Nguyễn Hữu Cảnh không phải là người đầu tiên khai phá vùng đất này, nhưng việc ông lập dinh Trấn Biên ở Biên Hòa, đặt bản doanh ở Cù Lao Phố từ đó” mỗi nơi đều đặt ra các chức lưu thủ, cai bạ, kí lục và các cơ đội thủy bộ tinh binh và thuộc binh” (Đại Nam thực lục tiền biên) đã chứng tỏ ông là một người có tài kinh bang tế thế, đã chính thức khai sinh vùng đất Sài Gòn Gia Định nhập vào Đại Nam.

 

 

 

Cù Lao Phố hưng thịnh rồi lụi tàn trong vòng chưa đầy một trăm năm là do đâu ?

 

(lấy mốc 1698- gần cuối thế kỉ XVii)

 

Có hai lý do chính.

 

Thứ nhất là cuộc chiến với Tây Sơn. Sử sách còn chép lại chuyện khi nhà Tây Sơn ca khúc khải hoàn thì đoàn quân chiến thắng cũng đem theo vô vàn chiến lợi phẩm. Các chiến thuyền Tây Sơn chở đầy hàng hóa và họ còn dỡ cả đá lát đường đem về.

 

Thứ hai sau chiến tranh, người dân có quay về nhưng ít ỏi. Cù Lao Phố hết hàng hóa xuất khẩu do đã vắt cạn tài nguyên. Sản phẩm chỉ còn lèo tèo vài mặt hàng nông nghiệp mà thế lại không cạnh tranh nổi với Bến Nghé. Thương nhân và dân bản địa dần dần bỏ đi.

 

 Tần ngần bên dòng Đồng Nai cuồn cuộn, tôi ngẩn ngơ nhập vào không gian Cù Lao Phố rực rỡ. Bầu trời đang ấp trong lòng nó một hoàng hôn vàng rỡ. Đưa mắt ra phía sông, bên ấy lờ mờ hiện ra một mái hiên cong cong. Sau này mới biết đó là đền thờ tả quân Lê Văn Duyệt. Người ta khéo vô tình hay hữu ý để hai vị tướng cùng ở lại đây (mộ Nguyễn Hữu Cảnh chỉ là huyền mộ) chứng kiến cuộc biến thiên của thế thời.

 

Tác giả Nguyễn Đức Bình

Bài liên quan