chan_dung-ke_si

CON MẮT THỨ BA – Truyện ngắn Trần Kim Trắc

03-11-2023

Lượt xem 1033

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Trần Kim Trắc

CON MẮT THỨ BA – Truyện ngắn Trần Kim Trắc

Nhà văn Trần Kim Trắc (1929-2018)

Địa phương gọi ông là ông Ba Văn Hóa; đó là bà con gọi theo chức danh.

Tính ông lại vui vẻ xởi lởi, sống thực bụng thực lòng, miệng nói bô bô ruột để ngoài da. Người dễ thương như vậy, theo tập quán dân vùng sông nước, rất đáng được tặng cho một biệt danh để xưng hô thường ngày, còn tên cúng cơm cha mẹ khai sinh chỉ để dùng đi đăng ký.

Lúc khai lý lịch để đăng ký kết hôn với cô Ba, trong tờ khai có ghi họ tên để điền tên thật, hàng dưới lại in thêm hai chữ bí danh. Chẳng lẽ để trống, ông nắn nót điền vào bí danh: Ba Văn Hóa.

Nhà ông ở cách cơ quan huyện năm cây số, còn vườn tược, phố thị nhà tầng chưa bò tới. Mảnh vườn cha mẹ để lại được hai công trồng cây ăn trái thời chiến tranh đã hứng một quả bom tạ để lại một hố bom đìa to tướng. Chẳng mất công san lấp, ông gọi người đến sửa lại thành cái ao và đặt cái sàn nước cho vợ rửa bát.

Vụ kiện cá ba sa xảy ra, các bè nuôi cá bị rớt giá thê thảm. Để nuôi thì tiêu tốn thức ăn lỗ vốn, đành bán đổ bán tháo rẻ chưa từng có. Cá còn nhỏ vài ba lạng cũng bán.

Ông Ba Văn Hóa làm kinh tế theo kiểu nghệ sĩ của ông. Ông ra nhà bè mua mấy cần xé loại cá năm con một ký thả vào ao nuôi cho ăn ba cọc ba đồng rồi chúng cũng lớn. Dễ gì kiếm loại cá vồ đém ba ký trở lên. Vậy mà ao nhà ông Ba có con cá vồ năm ký. Các nhà hàng rất thích loại cá ngoại cỡ này vì bày mâm rất bắt mắt.

Có bà con Việt kiều về thăm, bà Ba nấu canh chua cá vồ đém mời cơm.

Sau vài ly ông Ba Văn Hóa làm thơ:

Dù ai đi đến bên Tây

Cũng không quên được cái nây con cá vồ.

Khách cười thích chí rút bút ra bảo ông đọc lại cho ghi để đưa đi xuất khẩu, ông bảo thơ miệt vườn của chúng tôi cần hiểu nôm na mới vui.

Cái “nây (*) con cá vồ” này nên liên tưởng thêm ra là cái nây gì cũng được, béo ngậy như nhau mà...

Cơ sở báo cáo lên vườn tràm sinh thái có cò về làm tổ đông đúc lắm. Chiều chiều khi ánh tà dương sắp ngả về tây, cò trắng lũ lượt sải cánh bay về từng đàn. Trẻ con trải chiếu ra sân nằm ngửa mặt lên trời nhìn cò bay đến mãn nhãn. Ủy ban huyện chủ trương phải quản lý vườn cò, tổ chức thành một điểm tham quan sinh thái có thu, giao cho cơ quan văn hóa quản lý.

Ông Ba Văn Hóa lên kế hoạch xây bốn góc bốn lầu quan sát, du khách có thể từ trên cao hơn ngọn cây quan sát, chụp ảnh quay phim cảnh nhộn nhịp của họ hàng nhà cò. Dựng các lều giải khát nghỉ ngơi, kết hợp với bên giao thông tổ chức đoàn canô đưa du khách tham quan.Nhưng nội dung đề tài câu chuyện này không có mục đích bàn chuyện công tác mà có chủ đề hướng về chuyện tình yêu.

Trong cơ quan của ông Ba Văn Hóa còn hai phần tử độc thân. Một ông 35 tuổi cứ than thân rằng lớn từng này rồi mà chưa hề biết “cái ấy” ra làm sao vì chưa có cô nào chịu ưng. Một cô góa chồng ở vậy nuôi con, tương lai chưa định. Ông Ba vốn là dân sông nước phù sa, thích vun bồi cho hạnh phúc mọi người, ai cũng có bạn có đôi. Ông có thể gọi họ lên văn phòng làm mối xe duyên cho họ. Nhưng làm vậy còn gì là văn hóa, tình yêu không được áp đặt dù là cha mẹ hay cấp trên. Mà sắp đặt như thế còn gì là tình yêu thời hiện đại. Nhưng ông có ý tốt vun vào, có ý tốt mà không thực hiện đâu phải là con người có văn hóa. Ông bèn âm thầm sử dụng chiêu thức “lửa gần rơm” mỗi mình ông biết. Ông ra quyết định bổ nhiệm ông Thới phụ trách giám đốc vườn cò, còn cô Thơm phụ trách kế toán thu chi. Cái cảnh hẻo lánh nơi vườn cò thơ mộng một nam một nữ sinh hoạt chung cho tình mộng lên hương. Chuyện gì xảy ra do tự thân đương sự định đoạt. Biết đâu tơ trời vương vấn xe duyên, ông sẽ xây dựng cho họ một mái ấm, ông sẽ vui vì mình đã âm thầm làm một việc thiện.

Thời gian qua mau, mới đó đã qua hai mùa lũ. Du khách đến tham quan vườn cò mỗi lúc thêm đông. Hằng năm tổng kết thu nhập đáng kể mà tín hiệu ái tình vẫn chưa thấy nhấp nháy.Một chiếc xuồng máy cập bến trước cơ quan.

Cô Thơm đeo túi bước vào văn phòng.

- Sao? Khỏe không? Cô uống nước đi! Nào có việc gì báo cáo nghe coi! - Thưa bác! Cháu về xin phép cơ quan xây dựng gia đình. Đi bước nữa ạ!

- Hay quá! Tôi biết mà! Cô với ổng công tác gần nhau, thế nào cũng thành mà!

- Dạ thưa... ông nào ạ?

- Thì ông Thới chứ ai trồng khoai đất này?

- Dạ thưa... không phải đâu ạ! Mà là người khác cơ.

- Sao vậy, ông ấy có đui què điếc lác gì đâu mà cô chê?

- Dạ cháu đâu có dám chê! Dạ, chỉ vì không có yêu nên dễ hiểu đàn ông hơn thôi bác ạ.

- Trời ơi, vậy mà tôi cứ tưởng sắp xếp cho hai người công tác chung một nơi với nhau, gà mái gà trống sống chung chuồng thể nào cũng đẻ ra gà con! Sao cô không ưng ổng mà đi lấy người khác? Lửa gần rơm không trèm thì trụa mà.

- Dạ lửa có trèm nhưng rơm ướt nên không cháy được thôi bác. Tính ông ấy không thể hạp với cháu.

- Tính ổng làm sao mà không hạp?- Ông ấy chỉ biết tỏ tình bằng tay, bạ đâu hốt đó, sờ mó cọ quẹt, mò mẫm chứ không biết tỏ tình bằng lời ăn tiếng nói. Người như vậy tình yêu không lâu bền. Trước kia ông đã quen bao nhiêu cô, chị em đều chạy làng hết nên già rồi mà vẫn ế cũng vì cái tính bốc hốt đó. Cách đây không lâu suýt nữa là cháu đã hất trọn nồi nước xông đang sôi vào người ổng rồi. Ổng kêu nhức đầu nhờ cháu nấu giúp nồi xông. Cháu tất tả đi hái lá sả, lá tràm và các thứ cây thuốc nấu một nồi. Ông trải chiếu giữa nhà ở trần ngồi chờ. Cháu bê nồi xông bốc khói lên đặt xuống rồi xổ cái mền phủ lên. Bất ngờ ổng thò ra nắm tay cháu lôi vào. Cháu nổi xung quát: “Có buông ra không, tôi hất nồi nước sôi vào mặt bây giờ”. Sau đó ổng mới chịu buông. Bây giờ công tác chung nhưng ra vô nhìn nhau muối mặt lắm rồi.

- Sao cô không báo cáo lên.

- Tố cáo làm chi cho thất đức, xấu anh xấu ả. Biết đâu chuyện mèo mả gà đồng thành án chính trị ghi lý lịch suốt đời không ngóc đầu lên được sinh hận sinh thù.

Ông Ba Văn Hóa chưng hửng:

- Có chuyện ấy nữa sao? Vậy là xôi hỏng bỏng không rồi. Tôi có ý tốt muốn vun vén cho hai người nên tạo môi trường cho tình yêu nảy nở, đâu ngờ đất không chịu giống...

Rồi ông chép miệng như tự phê:

- Cũng là cái tật của tôi từ lúc còn học cấp II là hay cặp đôi các bạn con trai con gái cùng lớp cùng trường. Đâu hay mình sắp đặt tình yêu của người khác bằng trái tim trời ơi của mình... Tôi xin lỗi nghe! Để rồi tôi sẽ ký quyết định rút cô về huyện công tác, đưa người khác xuống thay. Nhưng lần này phải là nam giới. Còn chuyện hôn nhân tôi tán thành vì đó là quyền lựa chọn của cô. Nhưng phải thư thư đã. Đợi sau khi cô đã rời vườn cò về trên này công tác một thời gian cho nguôi ngoai đã. Đàn ông mà, muốn quá mà không được họ hay nổi khùng, sợ khổ cho cô! Ai lường trước được... Rồi báo chí đăng tin “đấm bốc ở vườn cò” thì nguy. Còn anh chàng cô định làm đám cưới này là ai?

- Dạ, anh ấy là bếp trưởng ở công ty du lịch, chưa lập gia đình. Hai năm nay cháu ra vườn cò công tác, gửi cháu bé lại cho bà ngoại. Ngày nào anh cũng đem xe đến đưa rước cháu bé đi nhà trẻ.

- Vậy được lòng trẻ con là được lòng người lớn chứ gì! Chiêu này thâm thật. Anh chàng này trước có đi lính không mà rành công tác dân vận quá vậy?

- Dạ có đi nghĩa vụ quân sự hai năm.

- Thảo nào...

- Khi anh ấy ngỏ lời, cháu bảo: “Tôi là gái đã một đời chồng, đã có con riêng. Anh là trai tơ, trai tơ nhưng không có nghĩa là anh không biết gì! Tôi giao điều kiện: nếu sau này sống chung ai mạnh về mặt nào người ấy phát huy, người kia không được can thiệp. Tôi mạnh về mặt giao thiệp chạy ngoài kiếm tiền, tôi đi suốt ngày anh không được ghen; còn anh nấu ăn ngon ở nhà đi đưa đón con và nấu cơm tôi về tôi ăn. Chịu không nói đi!...”. “Chịu!”.

- Cô nghĩ sao mà nói được câu: “Anh chưa có vợ không có nghĩa là anh chưa biết gì”?

- Trực giác thôi bác ạ. Trực giác là con mắt thứ ba của người phụ nữ. Phải biết nhìn giới mày râu trong suốt tận hồn cốt của họ mới khéo...

Chú thích

(*) nây: lớp mỡ ở bụng con heo.

Cùng tác giả:

CHUYỆN NÀNG MIMÔ - Truyện ngắn Trần Kim Trắc

CON CÁ BẶT TĂM - Truyện ngắn Trần Kim Trắc

ÔNG THIỀM THỪ - Truyện ngắn Trần Kim Trắc

 

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.