chan_dung-ke_si

Con Gấu - Truyện ngắn Nguyễn Quang Huy

24-04-2023

Lượt xem 2945

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

  phạm hoa

Con Gấu - Truyện ngắn Nguyễn Quang Huy

Nguyễn Quang Huy (1948-2006)

Con gấu là truyện ngắn đạt giải nhì cuộc thi của Văn nghệ Quân đội của nhà văn-nhà báo Nguyễn Quang Huy. Truyện cũng được đưa vào tuyển tập Người đàn bà nói dối của ông, do Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành năm 1992.


Nàng là một cô gái ngoại thành, con nhà trồng hoa. Từ ngày lên thành phố ở, nàng không trồng hoa nữa, nhưng vẫn rất yêu hoa. Hình như mỗi một loài hoa, đều mang một phần cái hồn trinh nữ của nàng, mong manh, e ấp, mộc mạc, thấm đẫm hương đồng nội. Nàng hay đi chợ và mua hoa lúc chín, mười giờ sáng, lúc ấy mới có hoa tươi vừa cắt ở vườn, chứ còn đi sớm quá, có khi lại là hoa từ chiều qua. Nàng chẳng lầm giữa hoa tươi và hoa cũ, nhưng nàng không muốn nhìn thấy vẻ rầu rĩ của những bông hoa hái qua đêm. Còn những bông hoa mới cắt xong, ngay hít thở cái mùi hương dịu lành của nó, cũng thấy thơm mát vào tận da, và nước từ cuống hoa rịn ra nơi vết dao cắt, cũng thoáng làm nàng chạnh nhớ một thời trinh bạch đã qua…
Nàng đang vừa mải chọn hoa, vừa nghĩ, thì cảm thấy có một cái gì mềm mại cọ cọ dưới chân mình. Nàng nhìn xuống, và mừng rỡ thốt lên:
– Ôi! Gấu! Sao mày lại ở đây hả?
Con chó – Gấu là tên nó – ngước cái mõm đen mượt hít hít tay nàng, và nàng cảm thấy cái lưỡi mềm ấm của nó rụt rè, chứ không vồn vã như mọi khi.
– Sao lâu lắm rồi, mày không đến chỗ chị? Thôi nào, đợi chị chọn mấy bông hoa nữa, rồi thì về…
Nàng vỗ nhẹ mấy cái lên đầu nó, rồi chọn tiếp. Con Gấu quanh quẩn đi theo.
Nó là một con chó Mẹo to, đậm. ức nở, cổ lực lưỡng, vai tròn, xuôi xuống phía lưng. Mõm ngắn, hàm khỏe, với hàm răng sắc, nhọn và đều. Mắt nó mầu đen, giống như mầu cánh của con bọ sừng, có cái nhìn lung linh mầu hổ phách. Ðuôi nó cụt ngủn, toàn thân phù hợp với lớp lông đen dày, vừa cứng vừa mềm mại. Trông nó hệt như một con gấu và có bản lĩnh của một con gấu: những cử động từ tốn và điềm tĩnh, chắc chắn và uyển chuyển.
Nàng đã chọn xong hoa, bảo:
– Về đi, Gấu ơi!
Con chó đi cách nàng vài bước, lững thững chứ không có vẻ tung tẩy, ra chiều đang nghĩ một điều gì đó.
Ðến một tòa nhà to, ở tách biệt, nàng mở cổng, rồi mở cửa bước vào. Con chó đứng ngoài cửa, không vào theo. Nàng lắc đầu, bảo:
– Vào đi, Gấu! Không có ai đâu! Ðây này…
Và nàng mở toang cửa chính, cửa sổ, rồi ngồi xuống một chiếc ghế bọc đệm nhung mầu mận chín. Con Gấu chậm rãi đi đến cạnh nàng, ngồi xuống, áp cái mõm của nó lên đùi nàng, mắt lim dim.
Nàng đưa bàn tay mềm mại, thơm tho kê dưới mõm nó.
– Chủ mày có khỏe không? Sao lâu nay không thấy mày đến chơi với chị? Chị buồn lắm, Gấu ơi!
Hình như cái giọng nghèn nghẹn của nàng làm con Gấu chợt run rẩy. Nó thè lưỡi liếm lòng tay nàng, ngọ nguậy cái mõm.
– Mày thương chị, phải không, Gấu? Sao dạo này mày gầy vậy? Chắc chủ mày vất vả lắm phải không?
Con Gấu vẫn nhắm mắt, chỉ có cái tai hơi động đậy, và thỉnh thoảng nó lại thoáng rùng mình nhè nhẹ.
– Thôi, để chị đi lấy cái gì cho Gấu ăn nhé! Ngồi đây!
Nàng đứng dậy, xuống bếp, mang lên một cái bát to cơm, canh và mấy miếng thịt quay – cái món mà Gấu thích. Nhưng, Gấu không ăn ngay. Nó cứ ngồi như thế, ngước mắt nhìn nàng.
– Gấu cũng nhớ chị à? Hay muốn nói điều gì với chị? Thôi nào ăn đi đã…
Con Gấu nhởn nha ăn. Hai chỗ hõm ở hông nó phập phùng. Nàng thích cách ăn của con Gấu, biết rằng nó ít khi được ăn ngon. Bàn tay mềm mại của nàng đang vuốt dọc lưng con vật, bỗng dừng lại. Một nỗi buồn cứ từ từ dâng lên, đầy ắp trong nàng, rồi những giọt nước mắt cứ lần lượt ứa ra, nhỏ xuống bát cơm của con Gấu… Con Gấu làm nàng nghĩ đến chủ của nó, và thân phận của mình. Cứ thế, nàng lặng lẽ khóc…
o O o
Chủ của con Gấu, một anh giáo trường làng, mồ côi bố, ở với mẹ bệnh tật. Và nàng, một cô con gái nhà trồng hoa ngoại thành, xinh đẹp nết na, thi không đỗ đại học. Ðã có một thời, họ sống thật hạnh phúc với nhau dưới mái nhà vá víu bằng đủ mọi thứ vật liệu. Chàng dạy học trường làng, nàng trồng hoa. Một mảnh đất nhỏ thôi, nhưng cũng đủ cho một gia đình sống đơn giản và ấm cúng. Sáng sáng, nàng dậy sớm, cắt hoa mang đi chợ bán. Con Gấu đưa chân nàng đến tận đầu làng, mãi khi nàng bảo:
– Thôi Gấu, đi về trông nhà đi!
Con Gấu dừng lại, đứng nhìn theo mãi cái dáng đi mềm mại của cô chủ, đến khi nó chỉ còn là cái bóng mờ mờ, rồi phi một mạch về nhà. Cũng đôi lần, nó lặng lẽ theo nàng đến tận chợ. Nàng mua cho nó mấy miếng dồi lợn, gói bằng một nửa tàu sen. Nó nằm, thong thả nhai từng miếng vẻ khoái trá, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn cô chủ nó đang bán hoa cho khách…
Cuộc sống của nàng, có lẽ cứ lặng lẽ trôi đi, nếu bàn tay của tạo hóa không bày ra những trò cay nghiệt để thử lòng dạ con người. Ðầu tiên, là lấy nhau hai năm rồi, nàng vẫn chưa có một mụn con. Theo lời thầy thuốc ở bệnh viện, thì lỗi ấy do chồng nàng. Họ nội của chàng, ba bốn đời chỉ có một con trai. Thôi thì, có một con trai hay một con gái cũng được! Nàng an ủi chồng vậy. Chút tiền bán hoa ít ỏi, đắp cả vào việc nuôi mẹ chồng và chạy chữa cho chồng, nàng cũng chẳng hề kêu ca. Nhưng, hình như trời không thương nàng, cố tình phụ công nàng. Ðã có lúc, chồng nàng bảo:
– Ở với tôi, mình khổ đã đành, lại uổng một đời con gái. Hay là…
Nàng hốt hoảng:
– Hay là… sao…?
– Hay là… mình kiếm lấy một đứa con để nuôi. Là con của mình… Người ta nói con gái có thì…
– Anh bạc lắm! Nàng khóc.
Nhưng cái thực tế phũ phàng, cay nghiệt kia, nàng đã lờ mờ cảm thấy, song từ lâu, nàng cố coi như không có nó. Nay cả chồng và mẹ chồng đều nhắc đến, thì nó lại hiện diện, rõ rệt, tàn nhẫn, lý trí yếu ớt của nàng làm sao chống lại nổi. Và, nàng mặc cho nó dày vò mình. Nàng sống như một người chết đuối vớ phải một mảng bèo, liền bám lấy nó và để mặc cho dòng nước dữ cuốn đến đâu thì cuốn. Thôi thì, trăm sự nhờ vào may rủi…
Cho đến một hôm, nàng đi chợ bán hoa như mọi sáng…
– Hoa tươi quá… Chỉ tiếc người hơi héo! Có bán cả không em?
Nàng chợt ngẩng lên, toan mắng người ấy, thì nhận ra người làng.
– Tưởng ai, ra anh!
Rồi nàng nhoẻn cười. Một bên má lúm đồng tiền.
– Sao lâu rồi, không thấy anh về làng?
– Còn ai nữa mà về! Còn em, thì em… Dạo này, sao em khác quá!
– Vừa già, vừa xấu…?
– Cũng có gầy đi, trông vất vả hơn. Còn xấu thì… Em vẫn đẹp như trước, có khi còn duyên hơn…
Thoáng chút hồng trên má nàng. Nàng hơi cúi mặt xuống, cắn cắn môi dưới.
– Nhà anh gần đây, em đến chơi! Tiện thể, chọn cho anh một ít hoa và cắm bình hộ anh!
– Em còn phải bán nốt, kẻo héo mất.
– Nhanh thôi mà. Em đến cho biết nhà… Ðưa anh gánh cho.
Nàng không có lý do để lưỡng lự, gánh hoa đi theo người đàn ông ấy. Mà, nàng đã đến cái nhà mà bây giờ nàng đang ở. Còn người đàn ông ấy, chính là chồng nàng bây giờ.
Cho đến bây giờ, nàng cũng không hiểu ma đưa lối, quỷ đưa đường như thế nào, mà nàng lại rơi vào cái nhà này, lại chấp nhận làm vợ anh ta. Anh ta không gài bẫy nàng. Anh ta chỉ nói thẳng với nàng những đề nghị của mình, với sự tính toán trần trụi, chính xác và chí lý. Em còn trẻ, lại đẹp, lại nết na. Em lấy anh giáo làng, nghèo kiết xác, lại mẹ già, đau ốm luôn, không hy vọng gì ở đường con cái. Bây giờ, thì em còn có thể chịu đựng được. Nhưng dăm ba năm nữa, ở hoàn cảnh ấy, em sẽ già rất mau. Em sẽ xấu xí, sẽ nhăn nheo như một bà cụ già, người sẽ héo quắt đi. Như vậy, có ích gì cho em, và cũng chẳng ích gì cho mẹ con người ta. Rồi cuộc sống túng quẫn liệu có giữ mãi được cái tươi vui của gia đình hay không? Còn em ở với anh, nhà này là của em, của các con em. Tiền anh kiếm được cũng là của em, em toàn quyền quản lý, chi tiêu. Em sẽ chẳng phải làm gì cả, chỉ đi chợ cơm nước, quán xuyến nhà cửa giúp anh…
Không phải anh ta nói một lúc tất cả những điều ấy trong lần đầu tiên nàng đến nhà anh ta, mà là nói dần dà trong những lần sau, mỗi khi nàng đi chợ bán hoa và anh lại mời nàng đến nhà. Anh ta cứ nhẩn nha, ung dung, tự tin mà đi đến cái đích của mình. Giống như trong đêm tân hôn, người đàn ông cứ từ từ lột từng thứ quần áo trên người đàn bà. Dù người đàn bà có yêu người đàn ông ấy hay không, đều mặc nhiên cam chịu hoặc thích thú. Sự e lệ, trinh bạch lúc ấy chỉ còn là một trò giả vờ cố ý…
Nàng cũng vậy. Những lời nói của anh ta lần lượt tước bỏ dần những cái dằn vặt, băn khoăn của nàng, lần lượt dồn nàng vào cái thế phải chấp nhận. Nó không hẳn là tự nguyện, nhưng nàng lại không thể làm khác. Nó đúng, nhưng tàn nhẫn, khốc liệt và man rợ. Ngay cả khi anh ta ôm nàng, ghì riết thân hình nàng bởi một vòng tay mạnh mẽ, phả vào mặt nàng cái hơi thở hầm hập, gây gây của một giống đực, thì nàng cũng không còn một chút ý chí nào để chống cự. Cả người nàng mềm lả. Nàng nhắm mắt, chấp nhận cuộc hành quyết, để mặc cho cái cảm giác đau đớn, tủi hổ tràn vào, lấp đầy con người nàng với cường độ của những cơn xoáy lũ. Nàng hoàn toàn đầu hàng số phận. Nàng chấp nhận cái chết của kiếp sống này, để đổi lấy một kiếp sống khác, mà cũng chẳng cần biết nó sẽ như thế nào, mà giống như một sự giải thoát nhục nhã.
Nàng đổi kiếp sống mà không gặp phải sự ngăn trở gì nhiều nơi gia đình chồng cũ. Người làng có trách móc, thì nàng có bao giờ về đâu mà nghe! Ðến mẹ anh giáo mất, nàng cũng không dám về, dẫu nàng biết là nghĩa tử là nghĩa tận, và biết nếu vậy thì nàng là một con đàn bà khốn nạn. Nàng không đủ can đảm. Nàng chỉ khóc rấm rích và tự xỉ vả mình suốt những đêm sau đó. Sợi dây duy nhất nối nàng với quá khứ là con Gấu. Những ngày mới lìa bỏ ngôi nhà dột nát của anh giáo, nàng sợ gặp người làng, nhưng vẫn không thể không đi chợ mua hoa. Những đóa hoa tươi làm lòng nàng dịu lại. Nhưng một nỗi đau không tên cứ âm ỉ thiêu đốt nàng, mỗi khi nàng bước chân đến cái chợ quen thuộc.
Rồi sự gặp gỡ với con Gấu. Nó ngạc nhiên lắm, khi nàng là người mua hoa chứ không phải là cô chủ bán hoa của nó. Chắc nó tìm nàng mấy hôm rồi, hôm nay mới gặp. Nàng bảo nó về nhà. Ấy là lần đầu, nó bước vào cái ngôi nhà đồ sộ kia. Chắc nó ngạc nhiên tại sao cô chủ nó lại ở cái nhà này. Nó cứ ngồi im mà quan sát tất cả mọi đồ vật trong ngôi nhà với vẻ cảnh giác, sẵn sàng bỏ chạy hoặc tự vệ. Chỉ có thái độ của cô chủ cũ làm nó hơi yên tâm. Khi cô cho nó ăn xong, đang nói chuyện với nó, thì người chồng mới của cô chủ bước vào.
Anh ta giật mình, lùi lại một bước:
– Con chó nhà ai đấy? Sao lại đưa nó vào nhà? Cẩn thận đấy!
Nàng vỗ vỗ con Gấu:
– Chó nhà em đấy mà! À… nhà trước. Không sao đâu, nó hiền lắm…
Con Gấu yên lặng quan sát anh ta, không tỏ thái độ gì. Nhưng khi anh ta vừa bước một bước đến phía nàng, nó liền nhếch mép, để lộ một khóe hàm răng trắng ởn. Nàng phải đưa tay ôm lấy đầu nó:
– Gấu, ngoan nào…
– Tốt nhất là tống ngay nó đi…!
Nàng nhíu mày, nhưng cũng đứng dậy, kéo con Gấu đi theo. Nàng mở cổng, ngồi xuống, nâng đầu con Gấu lên, nhìn sâu vào mắt nó:
– Thôi, Gấu về đi, về đi! Từ nay đừng tìm chị nữa! Nhớ chưa?
Cái động tác lắc lắc đầu của nàng và ánh mắt nàng chắc con Gấu hiểu. Nó đưa lưỡi liếm liếm, hít hít bàn tay nàng, rồi phóng thật nhanh ra cổng…
Sau cái lần ấy, nàng không mua hoa ở cái chợ ấy nữa, mà đi chợ khác, xa hơn. Và con Gấu cũng không đến nhà tìm nàng. Không hiểu sao, hôm nay, nàng lại trở lại cái chợ cũ, và gặp con Gấu ở đấy…
Con Gấu cọ cọ cái mõm đen mượt của nó vào lòng tay nàng, làm nàng sực tỉnh. Nàng biết, giờ này chồng nàng sắp về. Nàng không muốn để anh ta gặp con Gấu, và chắc con Gấu cũng không muốn gặp anh ta. Nàng lý giải vẻ bồn chồn của con Gấu như vậy. Nó cứ định đứng lên, rồi lại thôi, hết nhìn ra cổng, lại nhìn nàng, và trong đôi mắt nó, cái ngọn lửa mầu hổ phách cứ lung linh, lung linh.
Nàng đứng dậy, lấy một chiếc dép của chồng, đưa vào mũi Gấu, và bảo:
– Nào, về thôi, Gấu! Kẻo họ sắp về rồi đấy!
Con Gấu, sau khi hít hít cái dép, như hiểu, đứng dậy theo nàng ra ngõ. Nó lủi thủi đi sau, cái đầu cúi thấp.
– Ðừng giận chị nhé, đừng trách chị, Gấu nhé!
Và nàng mở cổng. Con Gấu nhìn nàng, tru lên một tiếng, rồi phóng đi.
Nàng đóng cổng, ngồi thừ một lúc trên chiếc ghế bọc nhung, rồi uể oải đứng dậy nấu cơm trưa, vừa làm, nàng vừa nghĩ miên man. Và, cái cảm nhận cuối cùng, là nàng vừa tự trách mình, vừa tự thương thân. Ở với người chồng mới, nàng là một người làm công, một con ở, một kẻ tù giam lỏng hơn là một người vợ. Công việc của nàng: Là quét dọn, giặt giũ, đi chợ, cơm nước, coi nhà và những công việc khác để hầu hạ chồng – ông chủ. Ngay tiền đi chợ, anh ta cũng khoán cho nàng từng ngày, nếu cần thì phải xin, trừ cái dây chuyền hai chỉ và một cái nhẫn một chỉ anh ta mua tặng nàng hôm cưới. Nàng hiểu, ngay cả những thứ đó, cũng không phải của mình, bởi anh ta để mắt đến chúng luôn. Những người giàu có thường ích kỷ và keo kiệt, hay chính vì ích kỷ và keo kiệt mà họ giàu có? Nàng không muốn nghĩ nhiều đến điều này, bởi dẫu sao thì cuộc đời nàng cũng đã như thế rồi…
o O o
Sáng sớm hôm sau, con Gấu lại đến nhà tìm nàng.
Mõm nó tha một chiếc dép đứt quai. Thấy cổng còn đóng, nó lấy hai chân trước giật giật vòng xích khóa. Không có nàng ra mở cửa, nó bỏ chiếc dép xuống, chõ vào trong nhà sủa.
Nghe tiếng con Gấu, nàng vội vã chạy ra, không giấu nổi vẻ mừng rỡ:
– Gấu đấy à? Ðợi chị mở cổng cho mày ngay đây!
Con Gấu tha chiếc dép chạy vào trước. Ðến thềm nhà, nó bỏ chiếc dép xuống, rồi đợi nàng và tru lên mấy tiếng thảm thiết.
Nàng nhận ra chiếc dép nhựa cũ của anh giáo, và chợt hiểu:
– Thì ra vậy đấy! Chủ mày ốm phải không, Gấu?
Nàng vừa nhặt chiếc dép lên, dứ dứ vào mũi con Gấu, vừa nói vậy. Con Gấu lặng lẽ nhìn nàng, như cầu khẩn, rồi đứng dậy, cắn gấu quần nàng, lôi ra phía cổng.
Nàng ngồi xuống đưa hai tay giữ nó lại:
– Không được đâu, Gấu ạ! Chị không đi được!…
Nàng lắc đầu, và kéo con Gấu vào phòng:
– Thôi, phải ngồi đây! Ðể chị đi lấy cái gì cho mà ăn, rồi về…
Con Gấu không động đến bát cơm. Nó cứ quanh quẩn bên nàng, tru từng tiếng ngắn trong cổ họng. Nàng bối rối và bất lực. Chợt nàng “à” một tiếng, và đi xuống bếp. Lần này, con Gấu đi theo nàng. Nàng mở chạn, lấy một cái bánh giò mà nàng mua ăn sáng, một miếng chả to, hai quả cam và nửa cân đường. Nàng gói các thứ vào một túi nilon rồi bỏ vào một cái túi vải có quai.
Xong xuôi, nàng bảo:
– Thế là được rồi! Nào Gấu, chịu khó một tí nhé! Không nặng lắm đâu!
Nàng quàng cái túi vải vào cổ con Gấu, dẫn nó ra cổng:
– Bây giờ, thì Gấu về ngay đi! Ði đi! Mai lại đến nhé!…
Gấu co cẳng một mạch, quên cả từ biệt nàng. Nàng biết là anh giáo đang ốm nặng. Nàng cứ bần thần, bởi một ý nghĩ: anh giáo sẽ biết những thứ con Gấu mang về là của nàng, anh sẽ không thèm động đến. Tự nhiên, nước mắt nàng ứa ra, những giọt nước mắt tủi hổ của một người vợ trót bội bạc. Nhưng không, chắc anh ấy sẽ ăn. Anh ấy đang ốm mà. Nếu anh ấy không ăn, thì con Gấu cũng sẽ không ăn. Nó không bao giờ ăn trước chủ. Mà anh ấy thì quý con Gấu, thương con Gấu lắm. Bây giờ anh ấy chỉ có một mình nó…
Sáng hôm sau con Gấu lại đến, tha theo cái túi vải. Nhìn thấy cái túi, nàng mở ra nhẹ nhõm. Anh ấy hiểu mình và anh ấy vẫn còn thương mình. Một nỗi đau cứ thế nhói lên, làm nàng không chịu nổi. Nàng ghì đầu con Gấu vào ngực mình:
– Chủ mày không giận chị à? Chủ mày vẫn còn thương chị à?
Rồi nàng lại vội vã bỏ các thứ vào túi vải, quàng lên cổ con Gấu, những thứ mà sớm nay, nàng đã kịp đi chợ mua.
o O o
Cứ như vậy, con Gấu đến nhà nàng, ba, bốn lần sau đó, đều trót lọt, chồng nàng không hay biết.
Rồi một tối, khi ăn cơm, anh ta hỏi:
– Cái con chó nhà cô nó vẫn đến đây phải không?
Nàng đang gắp thức ăn, dừng đũa, không dám ngẩng lên ngay:
– Ðâu có, chắc anh nhìn nhầm con chó nhà ai đấy!
– Ờ… cũng có thể! Nhưng cô vẫn cứ cẩn thận. Nó thả rông thế, dễ mắc bệnh dại lắm! Nó mà cắn tôi, thì cô cứ liệu!
– Nhưng mà em khóa cổng kia mà…
– Cô mới học đâu cái kiểu cãi vả chồng thế hả! Tôi nói thế thì phải biết im đi mà nghe!
Nàng nín lặng, cố nuốt nốt miếng cơm. Chiều hôm sau, anh ta về sớm, quăng gói giấy báo cái “bịch”:
– Cô không thích ăn thịt quay, nên mua miếng thịt cũng chẳng ra hồn. Từ nay, cô cứ để tôi khi nào thích ăn thì mua…
Nàng lẳng lặng mang gói thịt xuống bếp thái. Miếng thịt to, nàng bớt lại một phần, để sáng mai cho con Gấu mang về. Nàng cất miếng thịt trong chạn, úp một cái bát lên trên, yên tâm vì biết anh ta chẳng bao giờ thèm ngó ngàng đến bếp núc.
Sáng sớm hôm sau, con Gấu đến. Nàng mở chạn, lấy miếng thịt quay gói lại cho vào túi vải, cùng với những thứ khác, vội vã giục nó về ngay. Nàng sợ chồng bắt gặp con Gấu.
Buổi chiều, nàng cảm thấy ruột gan cứ bồn chồn không yên. Cái tâm trạng ấy, khiến nàng như mất hồn, hết đứng lại ngồi, đi ra lại đi vào. Không phải vì chiều nay, chồng nàng ở nhà. Anh ta cũng chẳng quan tâm đến trạng thái ấy của nàng, cứ nửa nằm nửa ngồi trên đi văng, vừa nghe nhạc, vừa đọc chưởng.
Bỗng có tiếng tru thảm thiết của con Gấu ở ngoài cổng. Nàng run bắn người, linh cảm thấy có một tai họa khủng khiếp. Nàng không đủ sức đứng lên mở cổng nữa. Chồng nàng hỏi:
– Cái con chó đen nhà cô phải không? Nó chưa chết à?
Nàng tái mặt lắp bắp:
– Anh… anh… bảo… bảo… ai… Ch… chết?
– Con chó nhà cô ấy. Nó không ăn cái miếng thịt quay ấy à? Tôi đã tẩm thuốc độc vào đấy đấy!
Nàng ngã khuỵu xuống, như một cây chuối thối gốc:
– Giời ơi là giời… Anh giết anh ấy rồi…
Nàng khóc và ngất đi. Chồng nàng hoảng sợ, vội vớ lấy dầu bạc hà xoa cho nàng, lay gọi nàng:
– Cô nói làm sao? Ai chết? Tôi giết ai? Cô điên rồi à?
Nàng dần dần tỉnh lại, cũng với tiếng hờ khóc càng to hơn:
– Giời ơi là giời… Anh giết anh ấy rồi… Anh ấy ốm… Tôi lấy miếng thịt bảo con chó mang về cho anh ấy… Ðồ độc ác… Ðồ dã man!…
Anh ta cho nàng một cái tát, hai cái tát. Nàng choáng váng, nín bặt, nhìn trừng trừng:
– Mày đánh nữa đi! Mày giết nốt tao đi! Tao có cần sống đâu mà… Quân giết người!
Anh ta dằn từng tiếng:
– Này! Cô nghe đây! Tôi định giết là giết con chó. Tôi ghét vì nó cứ lui tới đây tìm cô. Cô tưởng cô giấu tôi cho nó mà lọt à! Tôi biết hết! Nhưng tôi lại không ngờ anh ta lại ăn tranh của chó. Chính cô mới là người giết chết anh ta!
Nàng giận bắn người, miệng há hốc, mắt trợn trừng. Nàng ghê sợ cái suy nghĩ, cái cách nói trần trụi, tàn nhẫn của con người đó, nàng lảo đảo đứng dậy, xiêu vẹo đi ra phía cổng, nơi con Gấu đang đu người lên mà tru từng hồi.
Anh ta quát to:
– Cô không được mở cổng! Tôi cấm cô!
Nàng không thèm nghe. Nàng đang ở vào cái trạng thái không biết sợ một cái gì – kể cả cái chết. Nàng mở toang cửa, ôm lấy đầu con Gấu mà khóc không thành tiếng. Nước mắt của con Gấu cũng ướt cả tay nàng. Rồi nó toài ra, ngoạm tay nàng kéo đi. Nàng đắn đo giây lát, rồi bảo:
– Gấu, ở đây nhé! Ðợi chị.
Nàng ấn con Gấu ngồi bên góc cổng, rồi rảo bước vào nhà. Nàng nói với chồng, nhỏ nhưng quyết liệt:
– Tôi phải đi! Anh có cấm, tôi cũng đi! Nếu anh cấm tôi, tôi sẽ tố cáo anh. Rồi ra sao thì ra.
Anh ta nhìn vẻ mặt nàng, nhìn ánh mắt điên dại của nàng, nghĩ một lát, rồi gằn giọng:
– Thôi được cô cứ đi, nếu cô thích. Nhưng tôi nói để cô biết, cái mặt cô cũng chẳng đẹp đẽ gì, nên cứ liệu đấy mà phơi ra…
Nàng không thèm trả miếng, hấp tấp quay ra cổng, con Gấu vẫn đứng đấy, vội vã vượt lên trước, cứ một quãng, nó lại đứng đợi, vẻ bồn chồn. Mãi đến khi đi một quãng xa, nàng mới sực nhớ ra mình chẳng có một đồng nào cả. Nàng gọi:
– Gấu lại đây đã!
Và nàng đi đến một tiệm vàng. Nàng tháo chiếc dây chuyền, cái nhẫn, chủ tiệm nhìn vẻ mặt nàng, không hỏi, đem đi cân, thử, và nói giá, tính tiền, đếm tiền. Nàng lặng lẽ cầm bọc tiền và lặng lẽ ra khỏi tiệm.
Trên đường đi, cho đến lúc này, nàng mới nhớ lại tình cảm của mình. Và, những lời nói của chồng, làm nàng phải cân nhắc: “Có nên đến thẳng chỗ anh ấy không?”
Nàng hình dung ra căn nhà tồi tàn không khí lạnh lẽo của nó, vẻ mặt khổ não và ảm đạm của người quá cố, ánh mắt của người làng… Nàng thoáng rùng mình và do dự. Nàng thấy tốt nhất là hãy cứ sang nhà bên cạnh xem sao đã. Hai vợ chồng ông lão hàng xóm vốn phúc hậu, rất quý nàng, khi nàng còn là vợ anh giáo. Vả lại, trời cũng đã nhá nhem, ít người nhận ra nàng…
Ðến gần ngôi nhà cũ, nàng thấy người vào ra thì đông mà tiếng khóc thì thưa thớt, nàng thấy mình có tội với anh ấy, thấy mình chẳng còn mặt mũi nào mà bước vào ngôi nhà đó, nhìn mặt người chồng cũ lần cuối. Nàng vội vã rẽ vào nhà bên cạnh, lén lút như một con ăn cắp. Gặp bà cụ, nàng òa khóc:
– Anh ấy đi rồi à, bà ơi?
– Tội nghiệp… sao chị biết mà về?
– Con Gấu nó đến báo cho cháu…
– Lạy giời Phật! Thảo nào… vừa mới trưa, nó sang nhà tôi. Ông lão nhà tôi đang nghỉ. Nó cứ vừa tru, vừa ngoạm tay ông lão lôi dậy. Sang, thì anh giáo đã đi rồi. Người ta bảo là do ốm sẵn mà ngộ độc thức ăn… Ðồ nóng anh giáo không ăn mà chỉ ăn đồ nguội. À… à… ra con Gấu nó đến báo cho chị đấy…!
Những lời của bà già làm nàng buốt nhói đến tận ruột gan. Nàng muốn nói “Bà ơi! Chính cháu đã giết anh ấy!”, mà không dám. Một cơn ớn lạnh làm nàng rùng mình, nàng vội giở bọc tiền, dúi vào tay bà lão, mếu máo:
– Bà ơi… cháu có lỗi với anh ấy… Cháu chẳng còn mặt mũi nào mà nhìn anh ấy nữa. Số tiền này, cháu dành dụm được, nhờ ông bà với hàng xóm láng giềng lo cho anh ấy. Thôi thì, trăm sự nhờ cả ông bà…
Bà lão, thấy nàng như vậy, cũng mủi lòng:
– Chị nghĩ vậy là phải! Ðể tôi đi gọi ông lão về!
Nàng vội níu tay bà cụ:
– Thôi bà ạ! Cháu xin phép bà, cháu phải về ngay đây!
Nàng nấc lên, vội vã đi như chạy ra khỏi cái ngõ hẹp nhà bà cụ. Và cứ thế, nàng lầm lũi đi. Con Gấu không biết nàng về. Nó bỏ nàng ngay từ lúc nàng đến gần nhà. Nó làm thế là đúng thôi. Chỉ có nàng mới là kẻ phụ bạc.
Ðêm! Trăng suông. Con đường vắng. Những ngọn gió hoang thỉnh thoảng lại cồn lên, nàng có cảm giác đó là âm hồn đang đi lang thang…
Có tiếng chân chạy phía sau, làm nàng giật bắn người. Một bóng đen vụt qua, rồi đứng khựng lại. Con Gấu, nàng mừng rỡ, ngồi thụp xuống, ôm lấy đầu nó và cảm thấy trống ngực vẫn đập thình thình.
Con Gấu đi cùng nàng đến đoạn đường sáng đèn phố, thì dừng lại. Nó để yên cho nàng vuốt ve một lúc, rồi vùng chạy ngược về nơi mà nàng đã từ bỏ.
Bầu bí một giàn – Tràm Cà Mau (Nguyễn Thiệp)
Người xưa viết rằng, tha hương mà gặp người quen biết cũ là một trong bốn cái thú lớn nhất trong đời. Tôi nghĩ, cần chi phải là quen biết cũ, tha hương mà gặp một đồng hương, cũng mừng đến lịm người đi chứ.
Đó là trường hợp của anh Hy và tôi, khi gặp nhau trong cái thành phố Morris nhỏ bé, có dân số bảy ngàn người nầy, vào năm 1981. Tôi vì cơm áo mà trôi dạt đến đây, gặp anh Hy. Anh được định cư trong thành phố nầy đã hơn một năm. Thế là có được hai gia đình Việt Nam trong thành phố nhỏ hiền hòa nầy. Không quen biết trước, mà chúng tôi quý và thân thiết nhau còn hơn cả anh em ruột thịt. Gia đình anh Hy có năm người, bà mẹ già, hai vợ chồng anh và hai đứa con nhỏ. Lần đầu tiên gặp chúng tôi, bà cụ mẹ anh Hy cầm tay vợ tôi mà mắt rưng rưng vì mừng, bà cứ vuốt ve lưng bàn tay vợ tôi mãi. Vợ tôi thân thiết ngồi ép sát vào bà. Bà cười nói sung sướng, như vợ tôi là đứa con gái của bà thất lạc nhiều năm mới tìm lại được. Gặp người đồng hương là sung sướng thế đó. Chị vợ anh Hy thì không giấu được niềm vui, cười nói tíu tít, và nhìn hai vợ chồng tôi với ánh mắt đầy thiện cảm. Anh Hy hiền lành, ít nói, nhưng nụ cười trên môi nở mãi không tàn. Hai đứa con chưa biết gì, chạy nhảy, reo hò. Gia đình anh Hy sung sướng, chúng tôi cũng hân hoan mừng.
Một buổi tối, tôi đi làm về, được điện thoại của anh Hy, anh hớn hở báo cho tôi biết rằng, sắp có một gia đình Việt Nam tị nạn đến thành phố nầy. Giọng anh vui mừng ríu rít. Ông bà người Mỹ bảo trợ mới thông báo cho anh biết. Ông bà muốn anh xếp đặt thì giờ, để cùng mấy người trong họ đạo đi đón người mới đến, vào thứ tư tuần tới. Tôi vội vã báo tin mừng cho vợ, và trong lòng nghe lâng lâng vui. Có thêm càng đông đồng hương, càng đỡ buồn, và thỉnh thoảng qua lại chuyện trò cũng bớt cô đơn nơi quê người. Vợ tôi bàn thêm, nếu thuận tiện, thì chúng tôi cùng đi đón gia đình Việt Nam tị nạn nầy cho vui, và tỏ cái tình thân thiết lúc ban đầu.
Suốt trong tuần, vợ anh Hy và vợ tôi soạn nồi niêu, chén bát, ly tách, muỗng đủa, chia bớt các thứ cần dùng trong nhà, để dành mà tặng cho gia đình mới đến. Mỗi khi bà Mỹ bảo trợ tiết lộ một tin tức gì về người sắp đến, chị vợ anh Hy vội vã điện thoại báo cho chúng tôi biết ngay.
Máy bay sẽ chở gia đình người tị nạn đến phi trường Chicago vào hôm thứ tư, lúc mười một giờ đêm. Hôm đó anh Hy bị cảm mạo, lên cơn sốt, thân nhiệt nóng hơn một trăm độ F. Hai ông bà người Mỹ bảo trợ kêu điện thoại cho tôi lúc bảy giờ tối, khi tôi mới đi làm việc về. Họ yêu cầu tôi thay anh Hy, đi cùng họ, để đón người tị nạn mới tới. Bỏ tắm rửa, tôi ăn vội vã, để khởi hành lúc tám giờ rưỡi, phòng khi đường sá có gì bất trắc. Ông Mỹ bảo trợ tên là Gary có vợ là bà Eva, cả hai ghé nhà tôi để hướng dẫn và chỉ đường trên bản đồ. Tôi cũng run lắm, vì chưa bao giờ đi đến phi trường nầy, và thấy cái bản đồ ghi chằng chịt đường sá đan nhau, như cái nùi chỉ rối. Ông bảo tôi chạy bám sát xe ông, nhưng chưa được mười phút thì đã lạc nhau. Khi cách phi trường ba mươi dặm, thì xa lộ bị tắc nghẽn, vì chiếc xe vận tải hàng hóa bị lật, gây tai nạn dính chùm. Xa lộ bị đóng hoàn toàn. Khi vào đến phi trường, tôi bị lạc đường hai lần, chạy quanh mãi mới vào được nhà đậu xe. Ông bà Gary cũng đi lạc, và đến sau tôi. Tuyết rơi quá dày, nên máy bay cũng đến trễ. Ông Gary cầm cái bảng lớn, đề tên người chủ gia đình là Phan Ly, đưa lên cao trước cỗng đi ra của hành khách. Gặp dáng người Á Đông nào, tôi cũng chăm chắm dòm kỹ.
Cho đến khi hành khách không còn ai cả, thì ông bà Gary bối rối. Ông chạy đi hỏi hãng máy bay, họ bay xác nhận là có gia đình anh Phàn trên chuyến máy bay vừa rồi. Hai vợ chồng ông Gary và tôi, cầm cái bảng đề tên anh Phàn đi quanh các ghế chờ trên phi trường, thấy gia đình Á Đông nào, cũng chìa cái bảng tên ra trước mặt họ, để dò hỏi. Đi quanh ba vòng, mà không tìm được, ông Gary nhờ loa kêu, hỏi gia đình anh Phàn ở đâu, cho biết để người bảo trợ đón về. Cũng vô hiệu. Đi tìm gia đình anh Phàn cả tiếng đồng hồ mà không kết quả, cả ba người chúng tôi ngồi xuống ghế nghỉ một chốc với lòng vô cùng chán nản.
Tôi bảo hai ông bà Gary ngồi chờ, tôi cầm cái bảng tên đi tìm một lần nữa. Tôi đi dò tìm tên từng gia đình trên cái túi ni lông mà họ xách trên tay, của cơ quan ICM phát, khi họ cho mượn tiền máy bay. Tôi đến gần một anh mang cà vạt đỏ, áo vét ba mảnh bên trong, bên ngoài khoác áo bành tô bằng dạ. Tôi nhìn tận cái túi, và thấy loáng thoáng tên Phàn, tôi đánh bạo hỏi: “Anh là Phàn phải không?”
“Vâng. Tôi tên là Phàn, anh là ai?”
“Tôi đi theo hai ông bà bảo trợ người Mỹ đến đón gia đình anh. Sao nãy giờ chúng tôi đi qua đây nhiều lần, đưa cái bảng tên anh ra, mà anh lại ngồi im?” − Tôi nói với giọng hơi mất kiên nhẫn.
Anh Phàn chỉ vào cái bảng và nói: “Cái bảng nầy ấy à? Thấy ông Mỹ chìa ra trước mặt tôi ba lần, nhưng đâu phải tên tôi mà nhận! Tên ông Ly nào đó mà. Tôi là Phàn.”
Tôi cười, nói nhỏ nhẹ: “Đây là tên anh. Theo lối Mỹ, ghi tên trước, họ sau.”
“Ngược ngạo thế thì ‘bố giời’ mới biết được!”
“Thế thì loa kêu tên anh nhiều lần, sao anh cũng chẳng trả lời?”
“Nghe được cái quái gì đâu!”
Tôi chợt nghĩ ra, nếu người ta có gọi tên tôi trên loa, chưa chắc tôi đã nghe kịp, huống chi anh Phàn là người mới đến. Tôi quay lại báo tin cho hai ông bà Gary, và giải thích tại sao không tìm ra. Ông bà Gary mừng, và tôi đọc được sự kiên nhẫn, chịu đựng của hai ông bà, khi đêm khuya không ngủ, tuyết đổ, lái xe cả trăm đặm, đi đón một gia đình ngoại quốc, khác màu da, khác chủng tộc, không hề bà con, không hề quen biết. Và trước đó nữa, phải làm bao nhiêu giấy tờ, mất bao nhiêu bao nhiêu thì giờ, tốn kém đủ thứ. Chỉ vì trái tim biết thương người mà thôi.
Gia đình anh Phàn có hai vợ chồng, năm đứa con, đứa đầu mười bốn tuổi, đứa út còn ẵm trên tay. Anh Phàn người da sậm, gầy ốm, cái má thóp, răng cỏ đen điu vì khói thuốc. Vợ anh thấp, trắng hơn, có bề ngang. Chị mang váy đầm dạ xám, áo vét, ngoài khoác áo bành tô cứng ngắt. Gia đình anh còn có một bà già mù, mang váy nâu, đầu quấn khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, trên mắt có che miếng vải đen, gợi tôi nhớ rõ hình vẽ trong cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà ngày còn bé tôi hay đọc. Bà cụ y hệt cái hình vẽ bà già mù trong sách. Trang phục của vợ chồng anh Phàn có vẻ sang trọng hơn cả ông bà bảo trợ nhiều, nhưng cũng không giấu được vẻ quê mùa.
Hành lý được chất lên cao trên bốn chiếc xe đẩy. Ông Gary, tôi, vợ anh Phàn, và cháu bé gái mười bốn tuổi, mỗi người đẩy một chiếc xe. Anh Phàn đi tay không thong thả, rút thuốc lá châm mồi và hút trong hành lang, nhả khói mù làm bà Eva ho sặc. (Dạo nầy, chưa có luật gắt gao cấm hút thuốc nơi công cộng). Bà Eva đi dang xa ra khỏi anh Phàn, và ghé lại chiếc xe của cháu bé gái, phụ đẩy.
Thấy đi mãi trong hành lang dài, anh Phàn hất đầu hỏi tôi: “Sao không kêu tài xế lái xe vào gần đây, mà phải đi xa quá vậy?”
Tôi cười và trả lời: “Tài xế? Tài xế là ông Gary và tôi đây. Xe đậu trong ga-ra là nơi gần nhất rồi, không có nơi nào gần hơn nữa.”
Anh Phàn hỏi tôi: “Anh làm tài xế cho ông bà Mỹ nầy? Lương trả có khá không?”
“Không, tôi làm việc cho công ty tư vấn. Ông bà Mỹ nầy nhờ tôi đi đón, phụ đưa gia đình anh về. Đường xa, anh có mệt lắm không?”
“Cũng mệt, nhưng chẳng can gì cả.”
“Có lẽ anh nên đẩy xe giúp cho cháu bé thì hơn” − Tôi nói.
“Kệ nó, để nó làm việc cho quen”
Hành lý quá nhiều, hai chiếc xe hơi không đủ chở. May mắn ông Gary gặp người quen, ông gởi bạn mang về nhà, hẹn ngày sau sẽ đến lấy.
Vào ngày chủ nhật đầu tiên của anh chị Phàn trên đất Mỹ, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc lớn để chào mừng và đãi đồng hương. Anh Hy và tôi, mỗi gia đình đóng bảy mươi lăm đồng làm chi phí. Chị Hy và vợ tôi trổ tài nấu ăn, rộn ràng nấu nướng từ sáng sớm tinh sương. Anh Hy kê thêm thùng giấy làm bàn, mượn thêm ghế của các gia đình bên cạnh. Chai rượu nho hồng đậm đặt trên bàn bên cạnh bình hoa giả. Anh Hy và tôi lái xe đến tận nhà anh Phàn đón tất cả mọi người, cả cháu bé còn bế trên tay. Ba gia đình vui vẻ nhập tiệc. Anh Phàn kêu bà cụ già mù bằng dì. Tôi cảm phục cái tình gia đình của anh Phàn, khi đem bà dì mù lòa di vượt biển. Anh Phàn uống rượu rượu nho như uống nước ngọt, tu một hơi hết nữa ly lớn. Anh nói: “Rượu nầy nhạt lắm. Có đế trắng hoặc rượu Tây mới đã miệng.”
Anh Hy nghe vậy, vào bên trong lục tủ, lôi ra nửa chai Vodka, rót vào ly anh Phàn. Anh Phàn uống một hớp nói: “Cái nầy mới thật là rượu.”
Khi đã ngà ngà, anh Phàn hăng say kể về cuộc chiến anh hùng chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Hạ máy bay Con Ma, bắt giặc lái. Máy bay của ta núp trong mây, chờ máy bay Mỹ đến thì bắn hạ rụng như sung chín. Anh kể công ơn bác, đảng, văn minh tiên tiến. Những chuyện nầy, tôi đã nghe nhiều lần khi còn ở bên nhà. Chị vợ anh Hy giận, nói lớn, hỏi sao anh không ở lại với bác đảng anh hùng của anh, mà lại đi qua Mỹ làm chi? Anh trả lời là sống với bọn đó không được, sống không nỗi, đời sống thua con chó, khoai sắn còn không có mà ăn, chứ đừng nói đến cơm.
Khi vợ anh Phàn khoe cái hay của ông chồng, chị nói: “Ông nhà tôi thế chứ khảnh ăn lắm. Chỉ thích ăn quà, chứ không thích ăn cơm.”
Chị vợ anh Hy nói: “Sống với bác đảng, đói cho rã họng ra, ở đó mà thích quà không thích cơm! Nói làm sao mà tôi không hiểu chi cả.”
Mỗi tuần, các bà trong hội nhà thờ đến đưa vợ anh Phàn đi chợ hai lần. Họ nhờ chị Hy đi theo để hướng dẫn và thông dịch. Mỗi lần đi chợ về, thì chị vợ anh Hy cũng kêu điện thoại cho vợ tôi để than vãn: “Chị biết không, lần nào em xấu hổ muốn độn thổ quách. Chị ấy lựa những tảng thịt bò đắt tiền nhất, lấy hai ba tảng to tướng. Lựa các thức ăn ngon nhất, đắt nhất trong chợ, chất đầy một xe cao nghệu. Em đoan chắc với chị rằng, cái bà bảo trợ chưa bao giờ dám đụng đến các thứ thịt đắt tiền đó. Bà bảo trợ cứ chỉ vào thịt gà, thịt heo, mà chị ấy lờ đi. Em thấy cái mặt bà bảo trợ nhăn như cái bị rách. Khi trả tiền, mặt mấy bà tái ngắt vì số tiền phải trả.”
Có lần vợ anh Hy khuyên vợ anh Phàn rằng, nên chọn các thức ăn có giá trung bình hoặc rẻ mà mua, vì chính ngay các bà bảo trợ, cũng rất ít khi dám ăn các thứ đắt tiền đó. Vợ anh Phàn lắc đầu mà nói rằng, mình không trả tiền, tội gì không lựa món ngon mà ăn. Từ đó, vợ anh Hy sinh ra có thành kiến với gia đình anh Phàn.
Các ông bà bảo trợ trong nhà thờ rất chu đáo. Mua cho các cháu bé áo quần, giày vớ, áo lót chống lạnh, áo khoác đi tuyết, sách vở, viết chì, viết màu, túi xách mang lưng để đi học, ghi tên cho các cháu đến trường. Khi họ đến thông báo cho gia đình anh Phàn, để hẹn ngày đem các cháu đến trường, thì anh Phàn phản đối, nhất quyết không cho cháu gái đầu mười bốn tuổi đi học. Anh lấy lý do là nhà đông con dại, cháu nầy đã lớn, cần ở nhà giữ em, làm việc vặt, giúp mẹ nấu nướng. Ba bà bảo trợ cố gắng giải thích, qua sự thông dịch lỏm bỏm của vợ anh Hy, rằng luật pháp ở Mỹ bắt buộc trẻ con dưới mười tám tuổi phải đi học. Nếu không được đi học, thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chị vợ anh Hy cũng chỉ hiểu lơ mơ lời các bà, và thông dịch cho anh Phàn. Anh Phàn cứ lắc đầu, nhất quyết không chấp nhận lời khẩn cầu của các bà Mỹ, cho cháu lớn đi học. Các bà cứ thuyết phục mãi làm anh Phàn nỗi giận nói gằn với chị vợ anh Hy: “Con của tôi sinh ra, tôi muốn cho nó đi học hay không là quyền của tôi. Sao các bà ấy cứ muốn xía vào chuyện riêng của chúng tôi mãi thế?”
“Pháp luật bắt buộc cho trẻ con đi học. Không phải các bà muốn đâu.”
“Pháp luật nào mà lạ thế? Tùy hoàn cảnh gia đình mỗi người, mà cho con đi học. Nhà nước nào mà can thiệp vào? Đây là xứ tự do mà.”
“Đúng, xứ tự do, nhưng không phải cha mẹ muốn làm gì thì làm. Pháp luật bảo vệ con trẻ dưới tuổi trưởng thành.”
“Thôi, chị đừng nói nữa, tôi đã nhất quyết rồi. Tôi đã có phương án riêng cho gia đình tôi. Vô ích. Chị đừng tuyên truyền tôi nữa.”
Vợ anh Hy tức cành hông, muốn khóc vì không phá vỡ được cái vỏ cứng rắn của anh Phàn. Chị cùng ba bà Mỹ chán nản ra về. Tối hôm đó, bà Eva điện thoại cho tôi, nhờ giải thích cho anh Phàn hiểu luật pháp Mỹ.
Tôi chưa kịp kêu cho anh Phàn để giải thích, thì điện thoại reo. Anh Phàn ở đầu dây bên kia. Anh than phiền là các bà Mỹ, và vợ anh Hy cứ ép anh, buộc phải cho đứa con gái đầu đi học. Anh nói là họ làm áp lực anh, họ vô lý. Còn bày đặt ra là luật lệ bắt buộc để dọa anh. Nghe giọng nói của anh, tôi cũng phải chùn lại, vì biết rất khó thuyết phục anh trong lúc nầy. Tôi chỉ ừ è cho qua chuyện, và giả vờ theo phe anh, mà nói: “Anh nói đúng, mỗi gia đình có hoàn cảnh riêng, giải quyết theo cách riêng. Không ai có quyền ép ai cả. Về luật lệ xứ nầy, thì tôi cũng không được rõ lắm. Hay là anh thử kêu điện thoại qua Oklahoma hỏi những người anh quen biết từ ngoài Bắc, mà họ đã đến xứ nầy từ lâu rồi, để biết thêm cho rõ. Biết chắc luật lệ, mà thi hành. Không ai có quyền ép mình theo ý họ, nhưng mình cũng không nên làm trái luật. Có gì thì anh cho tôi biết với.”
Không biết anh có kêu điện thoại cho người quen ở Oklahoma hay không, nhưng sau cùng, anh Phàn cũng phải nhượng bộ yêu sách của nhà thờ, để cho cháu gái mười bốn tuổi đi học. Anh nói rằng: “Thôi, thì tôi cũng tạm thời lui một bước, mình mới đến đây mà căng quá cũng không nên.”
Các ông bà bảo trợ để anh chị Phàn nghỉ ngơi cho hoàn hồn trong hai tháng. Trời tuyết đổ bên ngoài, trong nhà đóng cửa kín mít, lò sưởi mở tối đa, anh chị và bà cụ bó gối ngồi trên ghế bành. Cái máy truyền hình nhấp nhem, nói tiếng Mỹ ồn ào. Anh Phàn bảo rằng, không đi tù, mà cũng giống như bị giam lỏng, bị quản chế. Ra ngoài thì trời lạnh, tuyết ngập, đi gần cũng không biết đi đâu, đi xa thì không có xe cộ.
Khi hội nhà thờ muốn kiếm việc cho anh chị làm, thì anh gạt ngang. Anh nói với ông bà bảo trợ, qua thông dịch của vợ tôi: “Chưa biết nghe, biết nói chi cả chưa thể đi làm được.”
Bà bảo trợ thuyết phục: “Công việc cần làm, không cần nói, cũng không cần nghe.”
“Khi nào chúng tôi nói và nghe giỏi như các bà, chúng tôi sẽ đi làm việc. Gấp làm chi. Tôi cần đi học tiếng Anh cho giỏi.”
Vợ tôi bảo rằng, dù anh học thêm năm ba chục năm nữa, cũng không thể nói và nghe bằng họ được. Đi làm việc, chỉ cần cố gắng làm. Còn nghe và nói, thì ai cũng lơ mơ, nghe một phần, đoán một phần. Mình không lớn lên tại Mỹ, thì hiếm hoi lắm mới nghe và nói giỏi tiếng Mỹ. Phải vừa làm, vừa học. Nhưng anh Phàn nhất quyết rằng, chưa nghe, chưa nói giỏi thì chưa chịu đi làm. Nghe vậy, mấy bà trong họ đạo, ngày nào cũng thay phiên nhau đến nhà anh Phàn dạy tiếng Mỹ. Mỗi ngày dạy bốn giờ liên tiếp. Các ông bà Mỹ tin tưởng rằng, trong vòng ít tháng, thì cả nhà sẽ giỏi tiếng Mỹ, không giỏi bằng họ, thì cũng một tám một mười. Trong những buổi học tiếng Mỹ, anh Phàn và vợ thấy buồn ngủ khủng khiếp, cứ rán chống mắt lên, mà cái đầu cứ gục lia lịa. Anh chị uống trà đậm chống cơn buồn ngủ cũng không hiệu quả. Anh chị thấy những buổi học nầy như cực hình, như tra tấn, và nản lòng vô cùng. Học được phút trước, thì phút sau quên béng đi. Không nhớ gì cả. Anh chị kết luận, là cái óc của anh chị đã hư rồi, không thể học được gì nữa.
Sau một tháng dạy liên tục, các bà Mỹ cũng nản lòng, bỏ lớp dần dần, và không đến dạy nữa. Kết quả vượt bực. Anh Phàn thì chỉ ấp úng nói được hai chữ “yes” và “no”, vợ anh giỏi hơn, nói được rất ngọng thêm chữ “thank you.” Vợ tôi cho rằng, các bà Mỹ không có phương pháp sư phạm, nên dạy không kết quả.
Từ đó, anh Phàn mới chấp nhận là không thể học nói học nghe cho giỏi bằng các ông bà Mỹ được, và anh chị cắn răng để cho nhà thờ thu xếp việc làm cho anh chị.
Mỗi buổi sáng tinh sương, anh Hy đến chở anh Phàn đi làm, buổi chiều chở về tận nhà. Có những buổi chiều, khi tan sở, xe anh Hy là một đống tuyết khổng lồ, anh phải vất vả đào tuyết moi xe ra. Trong khi anh Hy quần thảo với đống tuyết, với nước mãng nước đá đông cứng trên kiếng xe, thì anh Phàn đứng hút thuốc lạnh lùng nhìn. Anh Hy bất bình, nhưng không nói. Một lần, mệt quá, anh Hy không nín được, quay qua hỏi anh Phàn: “Anh không giúp tôi một tay dọn tuyết cho mau mà ra về?”
“Xe anh chứ có phải xe tôi đâu!”
“Nhưng… anh có đi trên xe nầy không?”
“Anh lái xe mà, đâu phải việc của tôi.”
Anh Hy giận lắm, im lặng, và không nói với anh Phàn trong nhiều ngày liên tiếp. Anh Hy nói với tôi rằng, vì đã lỡ nhận lời gởi gắm của bà Mỹ bảo trợ, nếu không, thì anh chẳng chở anh Phàn đi làm nữa. Tôi an ủi anh Hy, khuyên anh đừng giận anh Phàn, vì đồng hương còn có ai đâu, giận nhau nữa thì còn ai. Nhiều khi anh Phàn cự nự anh Hy vì đã đến đón sớm hơn giờ quy định. Những khi nầy, anh Phàn rề rà cho anh Hy phải ngồi chờ thật lâu trong xe dưới tuyết đổ.
Có lần anh Phàn ngần ngừ hỏi: “Tôi hỏi thật, anh đừng giấu nhé! Nhà thờ trả cho anh mỗi tháng bao nhiêu, để anh đưa đón tôi đi làm?”
Anh Hy nghe mà buồn cười, hỏi lại: “Anh hỏi làm chi vậy?”
“Hỏi cho biết bao nhiêu, nếu số tiền đó khá, thì tôi xin lãnh tiền, và kiếm chiếc xe đạp đi làm cũng được.”
“Không có xu nào cả. Tôi chở anh miễn phí vì anh là đồng hương, và vì tôi cũng đã từng qua thời kỳ mới đến định cư như anh. Đáng ra anh phải chia tiền xăng, tiền hao mòn xe với tôi mới phải lẽ.”
“Tôi không tin.”
“Không tin thì anh thử hỏi mấy ông bà bảo trợ xem.”
Anh Phàn cười mũi: “Có hỏi mấy ông bà Mỹ, thì vợ anh hay anh phiên dịch. Anh chị muốn nói chi mà không được! Thà đừng hỏi.”
Anh Hy buồn lắm, nhưng không nỡ nói nặng lời, anh chỉ thở dài: “Năm ba năm nữa, nếu nhớ lại chuyện nầy, anh sẽ biết rõ sự thực.”
Mỗi ngày, có xe nhà trường đến tận nhà chở ba cháu bé đi học. Cháu lớn học ở trường xa hơn, hai cháu nhỏ học trường tiểu học gần nhà. Anh Phàn nói rằng, nhờ đấu tranh gay gắt với nhà thờ về vụ cho đứa con lớn đi học, mà nhà thờ phải nhượng bộ, bằng cách đem xe đón tận nhà, đưa luôn ba đứa đi học. Chị vợ anh Hy giải thích rằng, trẻ con ở thành phố nầy, em nào cũng được vậy, không riêng gì các cháu con anh Phàn. Anh Phàn không tin và chỉ cười ruồi đáp lại.
Mùa đông miền Trung Bắc nước Mỹ, như mọi ngày đông khác, tuyết đổ ngập đường trắng xóa. Xe cào và thổi tuyết hoạt động liên miên. Muối được rải ra những con đường chính cho xe chạy. Một cháu trai nhỏ con anh Phàn đang ngồi trong lớp học, bỗng đứng dậy ôm sách vở ra về. Cô giáo cản lại. Hai bên trao đổi vài câu. Không ai hiểu ai. Cô giáo chỉ ra sân đầy tuyết trắng chất thành đống cao, như muốn nói cho em hiểu rằng không thể đi được, và dắt em về lại chỗ ngồi. Em rươm rướm nước mắt, và đứng dậy, nhất định ra về. Cản mãi không được, cô giáo kêu bà hiệu trưởng. Bà xuống lớp, khuyên bảo em. Hai bên cũng không hiểu nhau. Bà không thể để em bé bảy tuổi ra về một mình trong gió hú, trong tuyết cao chất đầy như thế. Bà cầm tay giữ em bé lại. Em khóc lớn. Hai bà giáo nhìn nhau thất vọng, không biết phải làm gì.
Bỗng bà hiệu trưởng nhớ là em bé có con chị học trên nó hai lớp. Bà cho người đi kêu chị nó xuống. Con chị xuống gặp đứa em, nói vài câu. Xong, con chị nắm tay thằng em dẫn nó ra về. Hai bà giáo vội cản lại. Kéo hai em vào bên trong lớp. Cả hai đứa đều khóc ròng. Bà hiệu trưởng dẫn hai chị em đứa bé về phòng, và kêu điện thoại cho bà Mỹ trong gia đình bảo trợ, nhờ giúp đỡ. Bà bảo trợ vào trường ngay. Bà dắt hai chị em về lớp, hai đứa không chịu đi, mà nhất định kéo nhau ra sân, để đi bộ về nhà. Ba bốn cô giáo họp lại bàn cãi.
Một hồi sau, bà bảo trợ theo yêu cầu của các cô giáo, chạy xe đến công ty anh Phàn đang làm, xin cho anh được tạm nghỉ, đến trường giải quyết việc học của hai cháu. Anh Hy phiên dịch cho anh Phàn biết, là hai cháu không chịu học, mà đòi đi bộ giữa mưa tuyết, để về nhà. Anh Phàn giận hầm hầm và nói với anh Hy: “Con cái mất dạy. Đề tôi dến cho chúng vài bạt tai, cho bớt biếng nhác.”
Anh Hy vội vã níu anh Phàn lại, đặn dò: “Không được, đánh trẻ con thì cảnh sát còng tay đó. Đừng dại dột.”
Anh Phàn hất tay anh Hy ra, và chưa dứt cơn giận: “Vợ chồng anh được cái giỏi là hay hù họa tôi mà thôi. Con cái mà không đánh cho sợ, thì thành hư đốn. Dạy con từ thuở nên ba.”
Anh Hy biết khó thuyết phục anh Phàn, bèn nói vọng theo: “Bớt nóng giận. Đừng đánh con, tội nghiệp. Có chi thì từ tốn, dạy bảo.” Anh Hy sợ anh Phàn bị cảnh sát còng tay.
Khi xe đến trường, anh Phàn hùng hổ, xăm xăm đi theo bà Mỹ đến gặp hai đứa con. Hai đứa bé mặt xám ngắt, trên mắt còn ướt sũng lệ. Anh lớn giọng gằn hai đứa bé. Sau vài câu trao đổi giữa ba cha con, mặt anh Phàn dịu xuống, đến nắm tay hai đứa con, dắt chúng ra về. Tuyết ngập trời, tuyết cao nghệu, các bà giáo cản cha con anh lại không cho đi. Không ai cho anh dắt trẻ con đi trong mưa tuyết lạnh lẽo nầy. Anh kéo con đi, nhưng một ông giáo to lớn như hộ pháp đang giữ tay hai em bé lại. Các bà giáo đang vây quanh thì líu lường xôn xao. Anh Phàn nhìn đám thầy cô người Mỹ với ánh mắt tuyệt vọng, với nét mặt anh nhăn nhúm đầy đau khổ, anh vội cúi xuống, banh quần thằng bé ra, và òa khóc lớn. Cả ba cha con cùng khóc vang thảm thiết. Mùi thối tha bốc lên làm ngát mũi. Mấy ông bà giáo người Mỹ cùng ồ lên một tiếng lớn, và cùng cười. Họ hiểu, em bé đã phóng uế ra cả quần. Em đã không biết nói sao để xin cô giáo đi ra phòng vệ sinh, và cũng không biết phòng vệ sinh ở đâu, rán sức cầm cự, và khi hết chịu nỗi, thì phóng ra quần.
Mỗi buổi chiều, sau khi anh Phàn đi làm về chừng một tiếng, thì có bà Mỹ đến chở vợ anh đi làm. Mấy ông bà Mỹ xin cho chị được chân rửa bát tại một khách sạn sang nhất trong tỉnh nhà. Khoảng mười giờ rưỡi đêm, thì mấy bà Mỹ trong họ đạo chia phiên nhau, lái xe trong tuyết lạnh, đến chở vợ anh Phàn về nhà. Mùa đông tỉnh lẻ, họ ngủ sớm, mười giờ đêm là đã say giấc, họ phải để đồng hồ báo thức. Vợ tôi thường biểu lộ sự cảm phục lòng tốt của các bà trong họ đạo. Khuya lạnh, ai mà không muốn thẳng giấc, phải thức dậy đội tuyết ra đi là một cực hình. Có nhiều đêm, vì lý do bất khả kháng, các bà kêu tôi, nhờ đến đón chị Phàn về. Thời đó, dù sáng phải dậy lúc năm giờ, để kịp năm giờ rưỡi khởi hành, đi làm, nhưng tôi vui vẻ nhận lời ngay, để cám ơn cái lòng tốt của các bà Mỹ, đã giúp cho người đồng hương của tôi. Có lần tôi bị cảm mạo, chóng mặt, mà không dám từ chối, sợ các bà cho là tôi không có lòng. Mỗi lần đi đón, thì tôi phải cào tuyết trên xe hơn mười lăm phút, chờ máy nóng mới đi được. Bởi thế, nên thường đến trễ. Chi vợ anh Phàn giận, không vui, ngồi trên xe mà không nói một lời nào. Cả không một lời cám ơn, một lời chào khi được đón và khi về thấu nhà. Có lần chị nói: “Nếu đón tôi, thì đừng đến trễ. Ngồi chờ rất nản.”
“Tôi được các bà Mỹ kêu, nhờ đi đón chị, thì tôi đi ngay. Phải mang áo, phải cào tuyết, phải chờ xe ấm máy, nên hơi trễ, chị đừng buồn. Các bà người Mỹ tử tế quá, đêm nào cũng đi đón chị trong lạnh lẽo, mưa, tuyết.”
“Tôi có nhờ các bà đâu. Họ bắt tôi phải đi làm việc đấy chứ. Hừ, tử tế!”
Tôi không buồn mà thương cho chị. Có lẽ anh chị Phàn hiểu lầm rất nhiều về lòng tốt của những người chung quanh.
Một hôm, anh chị Phàn mời vợ chồng tôi, và vợ chồng anh Hy đến nhà, để nhờ chúng tôi một việc quan trọng. Hỏi anh chuyện gì, anh nói sẽ cho biết sau. Anh Hy cười nói với tôi rằng, sao cái lối nói nầy giống hệt cách thức của công an nhà nước cộng sản hồi trước. Buổi chiều đi làm việc về, có “giấy mời” tối nay ra trụ sở công an, lý do “Cho biết sau.” Cứ thế mà run, mà thắc mắc, không biết có chuyện gì, không biết có bị nhốt luôn hay không. Ra đi mà hồi hộp, mà dặn dò vợ con phải làm gì để sinh sống, nếu bị nhốt tù. Chúng tôi rủ nhau cùng qua nhà anh Phàn mà không phải hồi hộp, không phải lo lắng.
Anh Chị Phàn cùng bà cụ đã ngồi sẵn trong phòng khách. Họ rót nước trà mời chúng tôi, xem bộ trịnh trọng, không lạt lẽo như thường ngày. Sau một hồi thăm hỏi xả giao, anh Phàn tằng hắng nói: “Tôi mời các anh chị đến đây, vì không còn ai có thể giúp cho chúng tôi được trong hoàn cảnh câm điếc này. Nhà thờ đã ăn chận của gia đình tôi mỗi tháng hơn hai ngàn đô. Tôi van xin các anh chị, nói với các ông, các bà trong nhà thờ, cho chúng tôi lại số tiền đó, để tôi làm vốn, ra làm ăn buôn bán, kiếm sống, chứ đi làm cu-li cho hãng sửa tàu, cho khách sạn, thì biết bao giờ mới ngóc đầu lên nỗi? Chúng tôi van lạy các anh chị, xin giúp chúng tôi, và vì thương các cháu nhỏ…”
Cả bốn người chúng tôi bàng hoàng, không tin vào tai mình. Chị vợ anh Hy ấp úng hỏi lại: “Nhà thờ ăn chận tiền của anh chị? Mỗi tháng hơn hai ngàn? Sao? Anh nói rõ hơn được không?”
Anh Phàn gằn giọng, nói lớn, rõ ràng: “Đừng vờ vĩnh. Gia đình tôi có tám người, nhà nước Mỹ cấp cho, ít nhất cũng trên ba ngàn bạc mỗi tháng. Cứ cho tiền chợ, tiền nhà mà mấy ông bà bảo trợ chi cho chúng tôi, chừng mấy trăm là cùng, thì cũng còn hơn hai ngàn đồng mỗi tháng, chứ có ít đâu! Nếu không ăn chận, thì tiền đó để đâu?, vào túi ai?”
Chị vợ anh Hy tái mặt, hỏi: “Ai nói với anh điều đó?”
“Chúng tôi biết rõ lắm, không cần ai nói cả.”
Anh Hy ôn tồn giải thích rằng, anh cũng đã đến đây trước. Anh rõ thủ tục. “Ban đầu hội nhà thờ thuê giúp nhà, cho tiền chợ, mua cho đủ các thứ cần dùng hàng tháng. Rồi họ kiếm việc cho mình làm. Khi đã có lương tiền, thì mình phải tự túc lấy. Đó là chính sách của nhà thờ.”
Mặt anh chị Phàn và cả cụ già đều sậm lại. Giọng chị Phàn chua ngoét: “Chúng tôi đâu có ngu! Tôi biết rõ hai ông bà Hy nầy là những con cò mồi của nhà thờ. Biết rõ đến mười mươi.”
Anh Hy run lên vì giận, chị Hy thì mặt đỏ bừng, thét lên the thé: “Làm cò mồi để được cái gì? Ăn nói như những kẻ vô ân bạc nghĩa! Nói như vậy mà không biết tự xấu hổ sao? Giao thiệp với hạng người nầy thêm xấu hổ, thêm nhục nhã cho cái giống nòi mình mà thôi.”
Chị Hy kéo anh chồng đứng dậy, giận dữ ra về. Anh Hy quay lại nói với anh Phàn: “Tuần tới, ông tự kiếm lấy phương tiện mà đi làm. Tôi không muốn làm mọi cho ông nữa.”
Vợ tôi cũng giận và muốn ra về theo vợ chồng anh Hy. Tôi làm dấu, bảo ngồi yên.
Anh Phàn phân trần tiếp: “Chuyện trợ cấp cho người mới định cư là luật của nhà nước Mỹ. Rõ ràng, không ai chối được. Chúng tôi đã biết rõ từ hồi còn ở trại tị nạn Hồng Kông. Nay nhà thờ ăn chận tiền, rõ ràng thế, mà còn chối loanh quanh.”
Tôi thấy tội nghiệp cho vợ chồng anh Phàn, vì hiểu lầm, nên có nhiều suy nghĩ và hành động đáng tiếc. Tôi cũng không dám nói thẳng là anh đã hiểu lầm luật lệ. Biết là khó mà giải thích cho gia đình anh Phàn hiểu, không chừng càng giải thích, thì càng gây thêm nhiều ngộ nhận khác. Tôi ngồi im một lúc suy nghĩ.
Anh Phàn nói tiếp: “Bây giờ chỉ còn hai anh chị. Tôi nhờ anh chị ‘báo cáo’ lại cho nhà thờ những đòi hỏi chính đáng của gia đình chúng tôi. Chúng tôi kiên quyết đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng.”
Vợ tôi nghe cái giọng điệu giống hệt những anh cán bộ trong các buổi học tập chính trị bên nhà, thì phì cười, hết giận. Vợ tôi nói: “Xem bộ mấy ông mấy bà trong họ đạo nầy dư công rỗi nghề gớm nhỉ! Mình ở xa ngàn dặm, không bà con, không quen biết, không ân nghĩa, không nợ nần, lại nai lưng ra bảo lãnh mình vào đây, cho nhà ở, cho cơm ăn, cho áo mặc, lo cho đủ thứ. Lại bị ghét bỏ, thật đáng đời! Của nợ giữa đường mà mang cõng lên lưng. Anh chị xem, không biết họ bảo lãnh cho mình, thì được lợi lộc gì nhỉ?”
Hai vợ chồng anh Phàn cùng nói lớn một lúc, với giọng chắc nịch: “Để lập thành tích chứ để làm gì? Ai mà không biết!”
Vợ tôi bật cười ha hả và nói tiếp: “Đúng. Lập thành tích dâng lên đảng!”
Tôi ôn tồn bảo vợ tôi đừng đùa nghịch. Tôi hứa sẽ cố gắng giúp hai anh chị Phàn và gia đình. Chữ “hứa” của tôi, trong thâm tâm, là hứa cố gắng giúp anh chị giải tỏa những hiểu lầm đáng tiếc, nhưng có lẽ anh chị Phàn tưởng là tôi sẽ đến nhà thờ đòi tiền “ăn quỵt” giúp cho anh chị.
Chúng tôi về, ghé lại nhà anh chị Hy. Anh chị Hy chưa nguôi giận. Chị vợ anh Hy nói: “Chúng nó là thứ vô ân bạc nghĩa, không biết đạo lý làm người. Khi nào cũng ngoác miệng ra nói lời dóc lác, đao to búa lớn, nào là đấu tranh, nào là thắng lợi, kiên quyết. Nghe mà ngứa lỗ tai, chịu không nỗi!”
Vợ tôi nói: “Họ còn cho rằng, nhà thờ muốn lập thành tích nên bảo lãnh họ đến đây.”
Anh Hy phì cười, nói: “Mấy ông bà trong họ đạo mà nghe câu nầy, chắc tức mà hộc máu chết hết không còn một mống. Thôi, anh chị cũng nên tránh xa gia đình anh Phàn, để tránh bực mình và rắc rối về sau. Những hạng người nầy, không chơi được.”
Tôi nói: “Thôi, anh chị bớt giận. Tất cả cũng do hiểu lầm. Người ngoài, không cùng màu da, không cùng dòng giống, mà họ còn tận tình giúp đỡ. Mình không giúp nhau, thì làm sao cho lòng yên ổn được!”
“Nhưng họ nói cái giọng khó nghe của bọn ‘dân tộc anh hùng’, ngứa tai chịu không nỗi.”
Tôi dịu giọng: “Họ cũng là nạn nhân dài hạn của chế độ. Họ còn đáng thương hơn chúng ta nữa, vì chịu đã chịu đựng chế độ lâu dài hơn hai mươi mấy năm. Nếu chúng ta sống trong hoàn cảnh đó, được giáo dục theo lối đó, thì không chừng chúng ta tệ hại hơn anh chị Phàn bây giờ. Anh chị đừng buồn nữa. Thứ hai nầy, anh cứ đến chở anh Phàn đi làm như thường nhé! Chúng ta không thương nhau, thì ai thương chúng ta được!”
Anh Hy im lặng. Chúng tôi ra về. Không biết nghĩ sao, vào tối chủ nhật, anh Hy nhờ tôi điện thoại báo cho anh Phàn biết là sáng thứ hai, sẽ đến đón anh Phàn đi làm như thường lệ. Tôi nghe mà mừng. Nhưng anh Hy và anh Phàn vẫn còn buồn nhau. Cùng đi cùng về mà giữ im lặng, không nói một lời. Sau nầy, anh Phàn nói với tôi rằng: “Bố bảo, thằng Hy cũng không dám thôi đưa rước tôi đi làm. Nó còn phải rình mò, dò xét tôi, để báo cáo cho nhà thờ nữa chứ.”
Mỗi sáng Chủ Nhật, các ông bà Mỹ đến chở toàn gia đình anh Phàn đi nhà thờ xem lễ. Với ý nghĩa làm ơn, làm phước, cứu vớt linh hồn của một gia đình ngoại đạo tội nghiệp, chưa biết đến danh Chùa Trời, đem ơn phước đến cho họ. Nhưng gia đình anh Phàn cắn răng chịu đi nhà thờ, là để làm ơn cho các ông bà Mỹ, làm họ vui lòng, may ra họ nghĩ lại mà trả lui số tiền họ đã ăn chận. Chứ đến nhà thờ, theo anh Phàn nói, chỉ nghe xi-lô xi-la không biết họ nói gì, buồn ngủ lắm, ngồi lâu mỏi lưng, tê chân. Anh Phàn nói với tôi rằng: “Mấy ông bà Mỹ sang trọng, giàu có nầy, nhưng keo kiệt không ai bằng. Mỗi khi lễ xong, có người cầm cái vợt đi thu tiền, tôi thấy họ chỉ cúng vào vợt tờ bạc một đồng thôi. Để cho họ xấu hổ, nhục nhã, khi nào tôi cũng bỏ vào vợt mười đồng.” Tôi chỉ cười, không dám có ý kiến.
Một hôm anh Phàn lội tuyết qua nhà tôi vào buổi tối, đem tặng một gói trà Tàu bèo nhèo mà anh đã mua từ Hồng Kông. Sau một vài câu chuyện vu vơ, anh lôi trong túi ra một xấp điện tín có mười bốn tờ, đưa cho tôi xem, và hỏi những món hàng ghi trong điện tín có thể mua ở đâu, làm sao tìm ra tiệm bán giá rẻ. Tôi lật từng trang điện tín từ Hải Phòng, Hà Nội, Móng Cáy điện qua, do nhiều người khác nhau đánh đi, yêu cầu gởi những món đồ gia dụng như máy nghe nhạc, máy chụp hình, xe đạp đua, vải vóc, bột ngọt, thuốc trụ sinh và những món linh tinh khác nữa.
Anh nói: “Bên nhà tưởng tôi qua đây đi ăn cướp tiền của thiên hạ anh ạ. Tiền đâu mà đòi hỏi đủ thứ như thế nầy? Tôi cũng nhức đầu về mấy cái điện tín và thơ từ liệt kê dài lòng thòng các món hàng họ đòi hỏi. Điên lên được đấy chứ!”
Tôi an ủi anh: “Bên nhà họ khổ quá, mình giúp đỡ được ít nhiều chi, thì giúp trong khả năng của mình. Anh lo buồn làm chi cho khổ tâm vô ích.”
“Người ta tưởng qua đến Mỹ là hốt tiền thiên hạ như hốt lá vàng. Mỹ nó ngu cả hay sao?”
Tôi hứa khi nào rảnh, sẽ lái xe đưa anh lên Chicago, tìm các tiệm bán hàng cần thiết để anh dò hỏi giá cả. Anh hỏi vay tôi năm trăm đồng, có tiền lời mười phân, và sẽ hoàn trả lại khi lãnh được tiền trợ cấp.
Tôi cười bảo anh: “Để tôi bàn lại với vợ tôi, thuyết phục vợ cho anh vay. Vì hầu bao trong gia đình do các bà nắm giữ, và giữ chặt lắm. Mỗi ngày tôi phải ngửa tay xin tiền quà, tiền xăng. Và nếu có cho anh vay, thì cũng không dám lấy lời. Ở Mỹ mà cho vay cắt cổ, thì cũng dễ vác chiếu ra tòa lắm.”
“Tiền lời là do tôi đề xuất, và bằng lòng, chứ anh có ép tôi đâu? Anh tự quyết định cho tôi vay không được sao? Các anh yếu đuối quá, anh Hy cũng vậy, để cho vợ lấn lướt, qua mặt.”
Tôi cười, nói đùa: “Đàn ông miền Nam chúng tôi không được dũng cảm như các anh. Mà khi ở trên đất Mỹ nữa, thì chúng tôi càng xìu như sợi bún thiu.”
Làm việc được bốn tháng, anh Phàn bỏ việc mà không thông báo cho công ty, nên anh bị sa thải. Mấy người bảo trợ trong nhà thờ đến nhà anh tìm hiểu sự việc để giúp đỡ. Họ kêu vợ chồng anh chị Hy đi thông dịch, nhưng anh chị Hy từ chối. Họ đến nhờ vợ tôi. Nhóm nhà thờ gồm năm ông bà, đi hai xe. Họ hỏi lý do thôi việc.
Anh Phàn lừng khừng đáp: “Không muốn làm việc nữa, thì nghỉ.”
“Thế anh đã kiếm ra việc làm khác chưa?”
“Chưa”
“Không có việc làm, lấy tiền đâu chi tiêu, thuê nhà, ăn uống?”
“Tôi không biết!”
“Tại sao anh không muốn làm việc đó nữa? Có vấn đề gì không?”
“Không có vấn đề chi cả.”
“Anh có muốn nhà thờ tìm việc khác cho anh không?”
“Chưa muốn. Khoan đã.”
Mấy ông bà trong nhà thờ lắc đầu, nhìn nhau, rồi nhìn anh Phàn với ánh mắt thương hại. Các ông bà hỏi, bây giờ anh muốn gì không? Anh nhờ vợ tôi nói, là muốn nhà thờ trả lại cho anh số tiền hơn hai mươi ngàn mà họ đang giữ giúp, để anh tính kế làm ăn. Vợ tôi tái mặt, không biết phải nói làm sao để hội nhà thờ không bất bình. Ngập ngừng, vợ tôi nói trại ra rằng, anh Phàn tha thiết muốn biết những chi phí của nhà thờ đã chi tiêu cho anh, và ai đã đóng góp bao nhiêu, quỹ nhà thờ bao nhiêu, và nhà nước cho bao nhiêu, để anh tri ân họ. Các ông bà khoát tay, bảo là không cần thiết, đừng nghĩ đến, đừng thắc mắc. Vợ tôi năn nỉ, nói rằng, nếu không được biết những điều đó, thì anh Phàn cứ thắc mắc mãi, không yên tâm để làm ăn. Các ông bà cười sung sướng, thoải mái.
Cuộc đấu tranh kiên cường của anh Phàn gần thành công mà anh không biết. Khi nhà thờ thấy anh chị đều thôi việc, không chịu đi làm nữa, họ cũng quýnh lên, lo lắng lắm. Họ đạo cũng nghèo, tín hữu cũng không giàu có chi, không thể đài thọ dài ngày cho cái gia đình đông đảo nầy được. Các ông bà bảo trợ chịu thua, định ngày đem gia đình anh Phàn lên sở xã hội xin trợ cấp của quận hạt. Nhưng anh Phàn loan báo rằng, anh sẽ dời nhà về Oklahoma City. Cả họ đạo thở phào. Anh Phàn có nhiều bạn bè quen biết trong trại tị nạn cũ, họ đã định cư ở Oklahoma, và biết rành mạch cách xin trợ cấp xã hội.
Anh Phàn nhờ tôi mua vé máy bay cho cả gia đình về Oklahoma City, đồng thời dàn xếp xe cộ để chở anh chị ra phi trường. Ông Gary và bà Eve hứa thuê một chiếc xe có thùng sau lớn, để chở hành lý cồng kềnh của gia đình anh. Tôi và anh Hy, hai xe sẽ chở người trong gia đình. Anh Phàn nói nhỏ với tôi rằng, trước khi đi anh sẽ đốt căn nhà để trừ vào số tiền nhà thờ đã ăn quịt của anh. Ăn của ai thì được, ăn của anh thì nuốt không trôi đâu. Tôi can gián, và dọa anh rằng FBI của Mỹ giỏi lắm, thế nào họ cũng điều tra ra. Và tội chi đi tù cho khổ thân, con cái không ai nuôi. Mình đến đây, đời sống còn dài, còn sức thì còn làm ra tiền. Vã lại, có đốt căn nhà, mình cũng không được đồng xu nào, chưa chắc đã hả được cái tức tối, mà mua thêm lo lắng vào thân. Lỡ cháy lan qua nhà lân cận, thì thêm tội nghiệp những người láng giềng tốt của anh. Anh nói rằng, nếu không đốt được nhà, thì trước giờ đi, anh sẽ phá cho tan tành, đập vỡ bồn cầu, nhà tắm, bẻ ống nước, phá tủ lạnh, đập bếp. Tôi cười bảo rằng, anh cứ lo đi trước, sau khi anh đến Oklahoma rồi, tôi sẽ thay anh làm các việc đó. Đừng làm sớm, mà họ giữ anh lại, không đi được, mất toi tiền máy bay.
Ngày anh Phàn ra phi trường, tôi và anh Hy xin nghỉ việc, thay phiên nhau đến nhà anh, lấy cớ là phụ soạn hành lý, nhưng thật tâm là để ngăn cản anh phá hoại căn nhà. Khi cả nhà lên xe hết, anh Hy chạy vào một vòng bên trong nhà, xem có gì hư hại không. Anh Hy ra xe và đưa hai ngón tay lên làm một vòng tròn, cho tôi biết là mọi sự tốt đẹp. Tôi thở phào.
Trong khi chờ máy bay, anh Phàn nhờ tôi nói với ông Gary và bà Eva rằng, qua Oklahoma, anh sẽ gời tiền, mua vé máy bay, mời cả họ đạo của ông bà qua chơi, anh sẽ bao tiền săn ở, bao tất. Tôi dịch khác đi, nói là anh biết ơn hai ông bà lắm, và không bao giờ quên cái ơn bảo bọc lúc ban đầu nầy. Hai ông bà nghe xong cảm động, ôm chầm lấy anh chị mà nói cám ơn rối rít. Anh Phàn thì tưởng hai ông bà mừng vì được anh hứa cho vé máy bay, cả họ đạo sẽ được đi chơi.
Khi đưa gia đình anh ra máy bay, chúng tôi ôm nhau thân thiết, và mắt anh Phàn cũng rươm rướm, nói nhỏ với tôi, giọng run run rằng, thôi đừng phá căn nhà nữa. Tôi gật đầu.
Đưa gia đình anh Phàn đi rồi, anh Hy nói với tôi rằng: “Thế mà tôi cũng thấy buồn, trống trải, như mất mát một cái gì đó. Bây giờ chỉ cỏn hai gia đình mình trong thành phố nầy thôi.”
Trong lòng tôi cũng thấy buồn.
Mười sáu năm sau, kể từ khi đưa gia đình anh Phàn về Oklahoma, tôi tình cờ gặp lại anh trong một tiệc cưới tại Houston, Texas. Anh nhận ra tôi, mà tôi không nhận ra anh. Vì bây giờ anh mập mạp, trắng hồng, ăn mặc chững chạc, không còn dáng quê mùa như xưa. Chị vợ anh thì sang trọng trong bộ áo kim tuyến lóng lánh, như cô ca sĩ. Anh ôm chầm lấy tôi, hỏi có còn nhớ ra anh là ai không. Anh nói: “Phàn đây, Phàn ở Morris, Illinois đây mà.”
Tôi cũng mừng vui gặp lại người quen biết xưa. Anh xin chuyển bàn, để vợ chồng anh ngồi cạnh chúng tôi mà hàn huyên. Anh cho biết ở Oklahoma được hai năm, thì dọn về Houston, bây giờ cả hai vợ chồng đều làm việc cho một hãng sản xuất đồ nhựa. Suốt hơn mười mấy năm anh làm hai việc toàn thời gian, mỗi đêm chỉ ngủ năm sáu giờ thôi. Ngày nghỉ thì đi sửa chửa nhà cửa, ống nước. Hai cháu gái lớn đã có gia đình. Cháu trai kế thì vừa tốt nghiệp đại học. Bây giờ anh chị Phàn có ba căn nhà, một căn để ở, hai căn cho thuê.
Tôi mừng cho anh. Anh nói với giọng thành thật: “Hồi mới qua, chắc anh chị buồn chúng tôi lắm. Nhiều năm sau tôi còn ân hận, và xấu hổ vì chuyện xưa. Bị thông tin sai lạc, tôi hiểu lầm, làm nhiều chuyện lố lăng, kỳ cục, bậy bạ. Lại ăn nói ngang ngược. Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ‘Bầu bí một giàn’ của anh Hy nói ngày xưa.”
Chị vợ anh Phàn cười vui vẻ, nói tiếp: “Ông nhà tôi thay đổi nhiều lắm rồi. Nhưng không bỏ được cái phét lác đã ăn sâu vào máu. Cứ một tấc thấu trời.”
Chúng tôi cùng cười với nhau. Tôi nói đùa: “Nếu phét lác mà không hại đến ai, thì cứ để anh phét lác cho sướng cái miệng.”
Anh Phàn ôm lấy vai tôi và lắc lắc, cười vui vẻ.
Gió thoảng Tây Hồ – Trần Quang Thiệu
Tôi lom khom trong lòng phi cơ, tìm hàng ghế của mình. 21B đây rồi, không tệ lắm, ngồi ghế ngoài đứng lên đi lại dễ dàng, đường bay 14 tiếng chắc cũng phải đi toilet vài lần, tôi nghĩ thầm. Mà không biết người bạn đồng hành nào ngồi bên cạnh đây. Một anh bụng bự, ra vào vướng víu, thì kể ra cũng phiền.
Khi tôi còn đang loay hoay với giây lưng an toàn thì cô ta làm tôi giật mình. “Excuse me.” Tôi ngước mắt nhìn. ‘Con nhỏ’ chỉ vào chiếc ghế bên cạnh, không nói thêm một lời. Tôi đứng lên, “sure”, chắc là em về Ðài Loan, mẹ kiếp, San Francisco này thiếu gì Tàu. Ví xách tay, backpack trên lưng, lại còn cả laptop nữa. Cũng chẳng còn trẻ lắm mà áo ngắn lòi cả rốn. Trông dễ thương đấy nhưng máy bay lên cao, lạnh chết ‘cái nị’ cho coi!
Cô nàng oằn người tháo chiếc backpack trao cho tôi và chỉ lên chỗ chứa hành lý, “would you mind?” Tôi lắc đầu, con gái Á Châu bé tí, với không tới, thôi thì giúp nó một tay. Cái ‘name tag’ đong đưa, tên gì thế này, à Jackie. Jackie gì chứ?, Jackie Wong hay Jackie Fan?, mà thôi thắc mắc làm cái quái gì!
“Thanks.” Con bé hà tiện cả tiếng nói, mới ngồi xuống mà đã như muốn ngủ.
“You Chinese?”, tôi hỏi. “Nope.” Thế thì lạ nhỉ? “Mít?”, tôi hỏi thêm.
Tiếng cười ròn tan: “Cũng tưởng anh là Ba Tàu. Ðang buồn vì sợ không có người tán gẫu suốt chuyến bay. Vâng, Mít đặc.”
Tôi lắc đầu: “No way! Tên là Jackie thì Mít đặc sao được!”
Cô bé nhe răng cười trừ. Khi máy bay bình phi thì chúng tôi đã thành bạn. Tôi kể cho Jackie nghe về chuyến đi VN năm ngoái, về những xúc động bồi hồi khi trở về thăm làng xưa, trường học cũ, và những ước mơ thời thanh xuân.
“Lần này trở về VN dạy học tôi đã gác bỏ nhiều những lời can gián của bạn bè và gia-đình, nhất là những băn khoăn về chính thể. Tôi đã đi và sống ở nhiều nơi, nhưng dù nơi nào đi nữa tôi vẫn thấy như thiếu một cái gì. Có lẽ là ‘hồn sông núi’, chữ nghĩa chúng ta học và hiểu từ ngày còn thơ nhưng bây giờ mới cảm được bằng tấm lòng thiết tha.”
Jackie mỉm cười: “Anh nói như là viết văn. Anh về đó dạy gì? English?”
Tôi lắc đầu: “Ðiện toán. Nghề của chàng!”
“Ở đâu?”
“Sài Gòn hoặc Ðà-Lạt. Trường của người bạn có cơ sở ở một vài thành phố.”
“Cùng nghề với Jackie.”
“Em cũng về dạy học à?”
Chợt thấy lối xưng hô có phần quá thân mật của mình, tôi đổi giọng: “Xin lỗi. Jackie dạy môn gì?”
“Jackie nói cùng nghề là nghề điện-toán, chứ không phải nghề dạy học. Mà anh gọi Jackie là em cũng được, cần gì phải xin lỗi!”
Nhìn mái tóc muối tiêu của tôi, Jackie nheo mắt nói tiếp: “Gọi bằng cháu cũng được nữa là em!”
Tôi cười trừ. Một đều. Mình chê cái tên Mỹ của nó, còn nó chê mình già. Không ngờ con bé lém vậy. Thế thì vui rồi. Tha hồ mà ‘shop talk’, cùng nghề mà. “Jackie này, em làm cho hãng nào?”
“KPMG International. Họ mới được một hợp đồng với thành phố HCM, à quên, Sài-Gòn, thành lập một hệ-thống điện toán kiểm tra dân số. Jackie nhờ nói được cả hai thứ tiếng nên được chỉ-định làm project manager, liên lạc giữa VN và công-ty ở Mountain View. Ði lại như con thoi, mệt muốn chết. May mà cũng gần xong.”
Con bé liến thoắng kể tiếp: “Em bắt đầu sợ đi xa. Có lần ngồi cạnh một bà, nghe bà ta khoe nhà, khoe con cái mà phát mệt. Mấy anh ‘da đỏ’ cũng chẳng tử tế gì. Mắt trước mắt sau là gạ gẫm. Nhưng khổ nhất là gặp phải một ông Ba Tàu, miệng hôi mà còn hay lắp bắp broken English.”
Tôi đưa tay bịt miệng, quay ra phía khác. Jackie huých vào vai tôi: “Not you. Don’t make me feel guilty.”
Tôi pha trò: “Ði xa hoài như vậy thì chồng con ai trông? Coi chừng… mất chồng!”
Jackie giơ bàn tay trái, ngón tay đeo nhẫn lờ mờ một vòng trắng: “Mất rồi anh, và không phải chỉ một mà… dăm ba cuộc tình.”
Tôi ngỡ ngàng: “Xin lỗi, tôi không ngờ”, nghĩ thầm mình cà chớn, vô ý quá, chắc làm con bé buồn. Tôi thở dài: “Bạn bè tôi cũng nhiều người gặp cảnh ngang trái lắm.” Tôi nghĩ tới Trọng, tới Vĩnh, tới những người bạn thân, tình duyên trắc trở một đời mà xót thương.
Jackie hình như không mấy quan tâm: “It’s OK. Còn anh? Sao chị ấy lại để anh về VN một mình? Bộ không nghe chuyện dài về VN lấy vợ nhỏ hay sao?”
“Nhà tôi là dược-sĩ, có cửa tiệm riêng nên rất bận với công việc, hai cháu đã trưởng thành và đi học xa. Nhà tôi tin-tưởng tôi, vả lại, em nhìn xem. Tuổi tôi cũng đã xế chiều.”
Jackie không trả lời, ánh mắt tinh nghịch như có chút gì không tin. Tôi cũng ngồi yên, suy nghĩ vẩn vơ. Tội nghiệp con bé xinh xắn mà tình duyên long-đong! Biết đâu cái vẻ bề ngoài ngổ ngáo và bất cần đời ấy chả che giấu một nỗi buồn.
Bên ngoài trời đã tối, máy bay êm ru. Jackie ngả ghế, kéo chăn đắp ngang ngực: “Jackie ngủ đây.” Ừ ngủ đi, mà cười gì nữa đây? “Nếu Jackie có dựa đầu vào vai anh, anh để yên nhé! Bao giờ đến lượt anh ngủ, anh cũng có thể dựa đầu vào vai Jackie. Vai không thôi, not lower.”
“Deal.” Vú bằng quả cau thế này, dựa vào đâu?, tôi nghĩ thầm. “Good night, Jackie.”
Ðêm Cali bây giờ cũng đã khuya, giờ này chắc Trinh cũng đã ngủ yên, tháng Ba trời còn lạnh, không có mình kéo chăn đắp cho lúc về sáng chắc lại co người như con tôm. Ngủ dậy kêu đau cổ, ai bóp vai cho bây giờ? Mới đi có nửa đoạn đường mà đã nhớ. Mình muốn về đóng góp một chút gì cho quê hương, cho tuổi trẻ và cho giấc mơ thời niên thiếu nên đành phải hy-sinh một chút tình riêng. Thôi ngủ đi, đã quyết định thì đừng buồn.
Jackie đã ngủ, tay khoanh trước ngực, đầu tựa vào vai tôi, hơi thở nhẹ tưởng chừng như không có. Trinh cũng thường dựa đầu vào vai tôi mà ngủ trên máy bay. Lại còn ôm chặt cánh tay nữa chứ. Như thế mới yên tâm. Trong bóng tối lờ mờ tôi thấy Jackie phảng phất như Trinh. Không, giống Jennie con gái tôi hơn. Tôi muốn hôn lên trán con bé, nhưng mà thôi, để cho em ngủ yên.
Tới Ðài Loan, chúng tôi phải đổi máy bay để về Sài-Gòn. Jackie qua lại phi trường này nhiều lần nên biết hết đường đi. Cô bé kéo tôi đi phăng phăng qua những hành lang hun hút, đến chỗ ngồi chờ. “Giá anh ngồi xe lăn, Jackie đẩy còn nhanh hơn.” Lại đía rồi, nếu leo dốc là biết nhau ngay. Giầy cao gót 5 inches thế này thì đi ‘đếch’ thế nào được.
Tôi chỉ mỉm cười: “Sao Jackie giống Trinh quá vậy? Mà cũng tốt thôi. Bây giờ em chỉ đâu tôi ngồi đó.”
“Ngồi đây. Mà Trinh là ai?”
“My house! Nhà tôi.”
Jackie nhìn vào mắt tôi. Cô bé cười khúc khích: “Well. Bây giờ thì Jackie biết tên vợ anh là gì rồi, nhưng mà Jackie vẫn chưa biết tên anh!”
“Bond, James Bond.”
Jackie bật cười: “You wish!”
Tôi phân trần: “Nhiều năm trước đây ở Ngũ Giác Ðài người ta gọi tôi là ‘Commander Trần’. Bà nội tôi gọi tôi là ‘thằng Ðài’, có lẽ hồi nhỏ tại tôi kén ăn. Bạn bè gọi tôi là ‘Duy còm’ để phân biệt với ‘Duy lù’. Bây giờ Jackie biết hết đời tư của tôi rồi đó. How about yours? Dăm ba cuộc tình có gì vui buồn?”
Jackie nhìn tôi, như có chút đắn đo. “Không được cười nhé!… Nói anh nghe, em gặp và yêu Lâm ở Pulau Bidong. Hai đứa côi cút trở thành vợ chồng khi tới Cali. Em bán Mc Donald ban ngày và đi học buổi tối. Lâm đi bỏ báo khi trời còn khuya trước khi tới trường. Căn apartment một phòng ngủ trên đường số 4 là thiên đường của riêng chúng em. Em học dốt lắm. Lâm thường phải làm home-work cho em, may mà cả hai đều tốt nghiệp sau 5 năm, và vui hơn cả là cả hai đều có việc làm ngay sau khi ra trường. Lâm làm programmer cho City of San Jose, còn em may mắn hơn được KPMG tuyển dụng.”
Tôi ngắt lời: “Như thế là nhất trên cõi đời ô trọc này rồi còn gì!”
Jackie thở dài: “Vâng, nhưng chỉ được vài năm. Trong khi Lâm cặm cụi với mấy cái servers và databases ở trung-tâm điện toán thì em được huấn luyện thành consultant, đi đây đi đó tiếp xúc với khách hàng. New York, Washington D.C., Âu Châu và cả Nam Mỹ, nơi nào em cũng đã đi qua. Lâm ghen, nhất là khi thấy em đi công tác xa với các nam đồng nghiệp. Lâm muốn em có con. Em không chịu vì không muốn trở ngại trên con đường sự nghiệp. Thế là tan vỡ. Lâm đã có gia đình khác, có con để yêu thương, còn em có dăm ba cuộc tình nhưng cũng chẳng ra cái gì.”
Gịong Jackie có chút buồn. Tôi quàng tay, vỗ nhẹ bờ vai cô bé, nói như dỗ dành: “Cái đó là duyên phận. Em còn trẻ. Một ngày nào, vâng biết đâu một ngày nào…”
Tôi nghĩ tới một số bạn bè tình duyên thiếu may mắn, và thấy bùi ngùi.
Jackie tìm trong túi xách bao thuốc lá, em ra dấu mời tôi. Tôi lắc đầu: “Tôi bỏ thuốc lá lâu rồi. Jackie cũng nên cẩn thận. Dễ bị ung-thư phổi lắm!” Và bỗng dưng tôi thiết tha: “Em đau rồi ai chăm sóc em?”
Jackie ngước mắt nhìn tôi. Ðôi mắt long lanh như mờ sương, em vân vê chiếc hộp quẹt gas trên tay nhưng không châm lửa điếu thuốc gắn hờ hững trên đôi môi nhạt son hồng.
Chúng tôi không nói gì thêm với nhau cho khi về đến Sài-Gòn. “Jackie ở khách sạn Continental. Anh về đâu?”
Tôi bông đùa: “20 năm trước đây thì tôi đã theo em về. Tiếc là bây giờ chân đã mỏi. Tôi ở khách sạn Palace ít lâu, làm thủ tục giấy tờ dạy học rồi sẽ lên Ðà-Lạt. Gia-đình tôi còn một căn nhà cổ gần chùa Trại Hầm. Sẽ tìm em đi ăn trưa trước khi rời Sài-Gòn.”
“Nhớ nhé!”
Tôi nắm bàn tay Jackie: “Nhớ. See you soon.”
Có người đứng chờ ngoài hành lang sân bay, giơ cao tấm bảng carton viết chữ ‘Ms Jackie Nuwens’. Em rút bàn tay nhỏ và mềm khỏi tay tôi: “Bye anh”, mắt em long lanh, như muốn gửi gấm điều gì trước khi hoà mình vào đám đông.
o O o
Một tuần sau tôi mới gặp lại Jackie. Thủ tục giấy tờ phiền phức làm tôi bực bội, hơn thế nữa thời tiết tháng ba Sài-Gòn vẫn nóng như thiêu, tôi không muốn ra khỏi phòng nếu không có việc cần. Với lại tôi không thích Continental. Nơi đó ‘Tây’ quá, mà tôi lại không thích Tây từ bé, nên vẫn nhìn nơi sang trọng đó với con mắt mặc cảm ngại ngùng. Sáng thứ Bảy, khi bước vào hành lang nhà hàng tôi đã thấy Jackie ngồi với một người đàn ông còn trẻ. Tôi chọn một bàn xa xa nhưng Jackie cũng đã nhìn thấy tôi. Em chạy vù lại. “Hi anh Duy. Chờ anh mãi.”
“Hi Jackie.” Tôi hất hàm về phía bàn của em: “Bồ nhí hả?”
Jackie lắc đầu, ghé tai tôi thì thầm: “Client. Không thể làm mất lòng. Thằng chả dai như đỉa đói, cứ đòi đưa em đi ‘tham-quan’ cái biệt-thự mới xây. Anh lại đó, em giới thiệu là… chú ruột, tới đón em về nhà ăn giỗ ông nội. OK?”
Khi chúng tôi ra khỏi Continental, Jackie đi sát vào tôi hơn và hỏi nhỏ: “Ði đâu anh”?
Tôi nói: “Không biết. Chỉ muốn gặp ‘cháu’ thôi.”
Jackie đập vào vai tôi. Con mắt liếc xéo, có đuôi. Chúng tôi đi về hướng bờ sông. Jackie mặc chemise vàng và váy nâu. Tôi hỏi: “Áo T-shirt ngắn em mặc trên máy bay đâu?”
“Trong phòng khách sạn. Something wrong?”
“Không. Chỉ muốn thấy cái rốn bé xíu. Cute!”
Jackie nghiêng đầu nhìn tôi, giơ cao nắm tay như đe dọa. Tôi mỉm cười, nắm bàn tay Jackie và chúng tôi đi sát vào nhau dưới hàng me. Buổi trưa, nhà hàng nổi vắng người. Chúng tôi chọn một bàn kề mé sông. Tôi chỉ cho Jackie những con tàu, nói miên man với em về một đoạn đời cũ. Jackie chống đũa nhìn tôi, nghe say sưa.
“Em ăn đi, đừng sợ mập…” Bỗng tôi giật mình, không nói hết câu. “Lỡ rồi, có mập đi nữa anh cũng vẫn yêu em.” Tôi vẫn thường nói đùa với vợ tôi như thế. Bữa cơm tối nào Trinh chẳng sới cho tôi một bát đầy trong lúc Trinh chỉ đơm một dúm nhỏ vào bát mình. Có gì như vướng mắc nơi cổ họng làm tôi buông đũa, mắt nhìn bâng quơ.
Trên đường trở về, cơn mưa trái mùa bỗng đổ xuống ào ào. Tôi kéo Jackie đứng nép vào một hàng hiên. Bụi nước thấm ướt vai, và Jackie bắt đầu hắt hơi.
Tôi lo ngại: “Jackie, em cảm rồi. Hay là mình chạy nhanh về khách-sạn?”
Jackie ôm cánh tay tôi: “Không, em muốn đứng đây một lát nữa.”
Tôi xoay nghiêng người, kéo Jackie lại gần: “Em đứng sát vào tôi cho bớt gió.”
Jackie ngước mắt nhìn tôi tin cậy trước khi giấu mặt trên vai tôi; và chúng tôi đứng như vậy cho đến khi ngớt cơn mưa. Jackie run rẩy, còn tôi thì thầm: “Ðể anh đưa em về”, và chợt bàng hoàng khi thấy mình vừa đổi cách xưng hô.
Tôi đưa Jackie tới cửa phòng khách sạn. “Em tắm nước nóng rồi lên giường nằm nghỉ. Ðể anh đi mua thuốc cho em. Ðừng khóa cửa nhé!” Jackie gật đầu, bóp nhẹ bàn tay tôi.
Khi tôi trở lại, Jackie đã nằm yên trên giường, môi em đỏ hồng vì cơn sốt và đôi mắt em mở lớn, nhìn xa xôi. Trông Jackie bé bỏng đến tội nghiệp. Tôi đưa cho Jackie ly nước và giúp em uống hai viên thuốc. Jackie ra dấu cho tôi ngồi xuống bên em. Tôi kéo ghế lại gần. Jackie nắm chặt bàn tay tôi, mắt em nhắm nghiền, và em không nói một lời. Khi thuốc đã ngấm, Jackie rơi vào giấc ngủ, tôi gỡ nhẹ bàn tay em, và lặng lẽ ra về. Sau cơn mưa đường xá còn vắng người, tôi cúi đầu đếm bước và không biết mình suy nghĩ gì.
Chuông điện thoại reo vang khi tôi đã lơ mơ ngủ. Giọng Jackie nghe như gió thoảng: “Em bớt rồi. Anh ngủ chưa?”
Tôi chợt thấy vui: “Chưa em. Uống thêm hai viên thuốc nữa đi, rồi mai anh sang xem sao.”
Rất lâu, không có tiếng trả lời. “Em còn nghe anh không?”
Có tiếng nấc nhỏ, giọng Jakie như nghẹn ngào: “Em không uống thuốc nữa đâu. Em không muốn ngủ đêm nay.”
Tôi dỗ dành: “Em nghe anh, khỏi rồi mai chủ-nhật anh đưa em đi chơi Vũng Tàu.”
Ngày còn bé Jennie cũng thường năn nỉ tôi: “Daddy, con khỏi rồi. Ðừng bắt con uống thuốc nữa.”, và tôi cũng thường dỗ dành: “Con uống đi, khỏi hẳn rồi bố đưa con đi Disney Land.” Tôi chợt hoang mang, không hiểu là mình đang đối xử với Jackie như thế nào. Một cô bé dễ thương côi cút trên đường đời cần một bàn tay nâng đỡ, hay một chút cảm tình lãng mạn, mong manh?
Tưởng chừng như lâu lắm mới thấy Jackie nói thêm, nghe xa vắng và ngoan hiền: “Em ngủ đây. Good-night anh.”
Tôi thẫn thờ buông điện thoại. Hàng đêm ở Cali, Trinh cũng thì thầm: “Em ngủ đây. Good night anh.”
o O o
Jackie đến tìm tôi khi tôi còn nằm dài trên giường, suy nghĩ vẩn vơ. Mắt Jackie như có quầng. Tôi thấy nao nao: “Còn đau không? Trông em yếu lắm.”
Jackie lắc đầu: “Em gần như khỏi hẳn rồi.”
Tôi nắm tay Jackie: “Ðêm qua em khóc phải không? Sao vậy em?”
Jackie nhìn tôi đăm đăm trước khi cúi đầu nói rất nhẹ: “Tại em không thấy anh khi thức dậy. Em nhớ tới anh, và tủi thân.”
Tôi nghe tim đập mạnh trong lồng ngực, và một chút bối rối, nhưng cố làm như thản nhiên: “Để anh đưa em đi Vũng Tàu. Gió biển, và biết đâu có anh Vọi nào đó đang chờ, sẽ làm em vui.”
Jackie lắc đầu: “Em không đi Vũng Tàu được. Chiều nay em phải ra Hà-Nội. Có một ít giấy tờ cần được Trung-Ương duyệt xét thứ Hai này. Nếu em không ra, họ sẽ không ký.”
Tôi lo lắng: “Em còn yếu lắm, không nên đi xa. Đau nữa rồi ai săn sóc em?” Và bỗng nhiên lời nói như từ trong tiềm thức: “Hay là để anh đi với em?”
Jackie khóc òa. Em ôm lấy tôi, gục mặt trên vai: “Em muốn anh đi với em lắm mà không dám mở lời. Chỉ sợ anh coi em chẳng ra gì.”
Nước mắt Jackie thấm qua làn áo mỏng. Tôi vuốt tóc Jackie, ngậm ngùi: “It’s all right, it’s all right…” Tôi không biết là tôi nói với Jackie hay là nói với chính mình.
Jackie hôn nhẹ lên môi tôi: “Để em lo vé máy bay cho anh rồi chúng mình đi ăn sáng với nhau. Em chưa ăn gì từ trưa hôm qua. Chiều mình ra phi-trường.”
Tôi tìm ly nước uống để cố giữ cho lòng bình thản. Jackie bây giờ khác hẳn, em dịu dàng và trìu mến, không còn ngổ ngáo, bất cần đời như khi tôi mới gặp em trên phi cơ. Tiếng Jackie trong veo: “Thu ơi, Jackie đây. Em lấy cho chị một chỗ trên chuyến bay ra Hà Nội chiều nay… đúng rồi, cùng một chuyến em đã dành chỗ cho chị… tên hả, Trần Quang Duy… đừng dùng account của company, charge vào account riêng của chị… không, không cần phòng khách sạn, anh ấy sẽ ở với người thân.”
Jackie bỏ điện thọai, vòng tay ôm lấy tôi. Tôi hôn nhẹ bờ môi Jackie, thì thầm: “Bây giờ mình ra phố nhé?” Tiếng Jackie còn nhỏ hơn: “Yes, dear.”
o O o
Hà-Nội bây giờ mới là mùa xuân. Trời không còn lạnh lắm và cơn gió từ Hồ Tây chỉ như vuốt ve da thịt người. Phòng ăn của khách-sạn Sheraton ở trên cao, từ đó chúng tôi có thể nhìn thấy những ngọn đèn mờ ảo của những con thuyền nhỏ trên hồ. Cảnh đẹp như một bức tranh nhưng Jackie không nhìn ra ngoài, em cũng không ăn, dù tôi nhắc nhở em nhiều lần mà chỉ nhìn tôi rồi lại cúi xuống mỉm cười vu-vơ.
Tôi hỏi Jackie: “Bộ anh trông lạ lùng lắm sao?”
Jackie lắc đầu: “Tóc anh có nhiều sợi bạc lắm rồi. Tối nay em nhổ tóc sâu cho anh.”
Tôi cười: “Không phải tóc sâu đâu. Mà em có nhổ cả đời cũng không hết.”
Bàn tay Jackie run lên, tiếng em trầm xuống không còn rõ ràng: “Vâng, cả đời. Ước gì cả đời!”
Tôi chợt hiểu, và lòng tôi xót xa. Tôi muốn ôm lấy Jackie mà dỗ dành, muốn hôn lên đôi mắt u-buồn đó, nhưng chỉ ngồi bất động nhìn em tha thiết. Chúng tôi rất gần mà như cũng rất xa. Tình cảm này rồi sẽ ra sao?, thoảng như gió Tây Hồ hay ấm nồng như ngọn lửa bập bùng trong lò sưởi cuối phòng ăn? Tôi không biết, và cũng không muốn nghĩ xa hơn.
Tôi hỏi Jackie: “Chúng mình đi dạo một vòng nhé?”
Jackie lắc đầu: “Không, anh đưa em về phòng. Em muốn, em muốn…”
Jackie nghẹn lời. Tôi đứng lên, kéo ghế cho Jackie, và em lả người trong tay tôi. Tôi dìu Jackie, vừa đi vừa hôn nhẹ lên mái tóc em. Tôi cũng nghẹn lời. Và dù có nói gì cũng bằng thừa.
Ánh đèn trong căn phòng khách sạn sang trọng mờ ảo, đủ để thấy Jackie đẹp như gái liêu-trai. Jackie bắt tôi ngồi xuống ghế và em quỳ xuống cởi giầy cho tôi. “Cho em giúp anh một lần, dù chỉ một lần.”
Hình như Jackie khóc. Tôi cũng thấy xót xa bồi hồi. Jackie hôn tôi: “Anh lên giường trước đi. Chờ em tắm chút nhé!”
Khi Jackie bước ra khỏi phòng tắm, em hoàn toàn không có mảnh vải che thân. Jackie chui vào chăn ôm chặt lấy tôi, gục đầu vào cổ tôi mà hít những hơi dài. Tôi vuốt ve bờ vai em: “Jackie, anh thấy mình như trẻ lại. Cám ơn em.”
Jackie thì thào: “Em yêu anh.”
Tôi gục mặt xuống vùng núi đồi. Hơi thở Jackie nặng nề hơn, và trong cơn mê đắm chúng tôi gọi tên nhau nhiều lần.
Khi hơi thở đã trở lại bình thường, Jackie nằm nghiêng, gối đầu trên cánh tay, vân vê vành tai tôi: “Anh.”
“Yes?”
“Tên em là Thùy Trâm. Nguyễn Vũ Thùy Trâm. Từ nay đừng gọi em là Jackie nữa. Tên đó là để cho mọi người. Thùy Trâm là của riêng anh. Nhớ chưa?”
Tôi hôn Jackie: “Nhớ rồi. Thùy Trâm, tên đẹp quá. Cám ơn em.”, và tôi hát nho nhỏ: “Ngủ đi giấc mộng bình thường… Anh ru Trâm ngủ nhé!”
Tôi nghe tiếng Jackie mơ hồ: “Cám ơn anh, cám ơn anh nhiều lắm”, và chỉ trong giây phút tôi chìm vào giấc mơ.
Khi tôi thức dậy, Jackie không còn trên giường. Dấu vết tình yêu hãy còn phảng phất đâu đây. Chắc là Jackie ở trong phòng tắm. Nhưng tôi chợt thấy chiếc hộp quẹt gas của Jackie dằn trên mấy tờ giấy viết tay trên bàn ngủ. Bỗng dưng tôi hồi hộp, linh cảm như là có việc gì trọng đại đã xảy ra. Giờ này chưa có cơ quan nào mở cửa. Jackie đâu rồi?
Anh yêu dấu,
Khi anh đọc thư này thì Trâm đã trên đường ra khỏi V.N. Xin anh tha lỗi cho em. Trâm không thể nào đánh thức anh dậy để nói lời giã từ, vì em biết như thế em sẽ không còn cam đảm xa anh. Anh biết là Trâm yêu anh đến như thế nào rồi. Dù chỉ biết nhau vài ngày mà em thấy đã như từ tiền kiếp. Trâm yêu anh vì ánh mắt nụ cười, vì những lời anh nói khiến em vui, nhưng nhất là vì tấm lòng bao dung và nhân hậu của anh.
Anh nhớ không, khi chúng mình ngồi chờ máy bay ở phi trường Đài Bắc, em đã muốn khóc khi nghe anh dỗ dành “Nếu em đau rồi ai săn sóc em?” Ước gì ngày xưa Lâm cũng nói được với em như vậy thay vì dằn vặt em mỗi lần em chuẩn bị đi xa. Vâng, chỉ một lời nói chí tình như vậy thôi là em đã bỏ hết ‘sự nghiệp’, để có một gia đình yên ấm như anh với chị Trinh. Nhưng thôi, với Lâm thì đã trễ, và với anh thì đã quá muộn màng.
Em nhìn anh ngủ và lặng lẽ khóc suốt đêm qua. Em biết anh thương xót em, và biết đâu nếu có cơ hội, chúng mình sẽ chẳng có với nhau một mối tình. Trong cơn ngủ say em nghe anh gọi tên chị, như đang vỗ về. Dù đã biết là em không thể nào có anh cho riêng mình mà sao em vẫn thấy xót xa.
Thực ra thì em đã quyết định xa anh từ lúc chúng mình trên đường ra Hà Nội. Em chỉ muốn sống với anh một đêm, trả anh một chút ân tình, chăm sóc anh, yêu chiều anh một lần, một lần không bao giờ quên. Uớc gì Trâm còn trong trắng để mà dùng chữ ‘hiến-dâng’. Em không mong mỏi gì cả, nhưng anh biết không, chỉ vì anh quá ân cần, chỉ vì lúc nào anh cũng chỉ biết lo cho người khác mà thân xác em đã có phút giây xúc động đến bàng hoàng. Chưa bao giờ em sung sướng như đêm qua.
Anh ơi, Trâm long đong ‘dăm ba cuộc tình’, nhưng ngoài Lâm ra em không yêu ai, cho đến lúc này. Khi chia tay với Lâm em chỉ thấy buồn phiền, chia tay với anh em đau đớn vô vàn. Em biết là em không thể nào sống gần anh. Hôm qua ở Sài-Gòn, khi anh ở trong phòng tắm chuẩn bị cho chuyến bay ra Hà-Nội, em đã lục tìm trong ví anh, mong có được một tấm hình để nhớ thương. Anh tha lỗi cho em. Em đã vô tình đọc được mấy dòng chị Trinh viết cho anh dặn dò ‘Anh nhớ uống thuốc cao máu hàng ngày, ống thuốc mầu vàng trong túi nhỏ bên trái suitcase. Nhớ ăn uống cẩn thận. Nhỡ nổi ngứa rồi ở xa thế làm sao em xoa lưng cho anh?’ Trâm cũng thấy hình anh và Jimmy khi còn nhỏ. Jimmy ngồi trên lòng anh, cố dành ống pipe của anh, trong lúc anh giơ cao lon bia, cười bằng mắt. Gia đình anh êm ấm như thế, làm sao Trâm có chỗ chen chân, mà Trâm làm thế sao đành.
Anh nói ‘Một ngày nào, vâng biết đâu một ngày nào…’ Trâm biết là anh muốn an ủi em. ‘Dăm ba cuộc tình’, rồi biết đâu chẳng có một ngày nào. Ngày nào đó đã đến rồi anh, vừa êm đềm, vừa xót xa. Nếu anh thương em, xin anh đừng đi xa nữa. Nơi xa không phải là chỗ cho anh. Lòng anh bao la như thế, trước sau gì rồi anh cũng sẽ lại ‘đong đưa cuộc tình’. Chữ nghĩa của anh đó, không phải Trâm ghen đâu. Em yêu anh, và dù em chưa gặp, nhưng em cũng thương chị Trinh như em thương mình.
Thôi Trâm đi đây. Em trở về Cali nhưng không về lại KPMG. Em sẽ giã từ nếp sống này, sẽ tìm một nơi yên tĩnh, giữ cho em một mảnh đời. Em sẽ không hút thuốc nữa đâu, và dù biết anh cũng đã bỏ hút thuốc lâu ngày, em vẫn để lại cho anh chiếc hộp quẹt gas, một chút kỷ niệm để anh lâu lâu nhớ tới em, thoảng như gió Tây Hồ vuốt ve chúng mình đêm qua. Anh cũng đừng uống bia nhiều nữa, trời ơi em viết thế nào đây, ‘anh say rồi ai chăm sóc anh?’ Trâm bắt chước những gì anh nói rồi đó. Em nhớ anh. Em lại khóc nữa đây này.
Yêu anh và hôn anh, my dear, my love.
Thùy-Trâm.
Những trang giấy có nhiều chỗ nhạt nhòa, chữ viết xiêu vẹo, không rõ nét. Có lẽ Trâm vừa viết vừa khóc. “Khổ thân em tôi.” Mắt tôi mờ đi. “Làm thế nào bây giờ?”
Tôi đọc lại lá thư thêm một lần, ngồi bất động nhìn ra ngoài cửa sổ. Bầu trời trong và xanh. Một chiếc phi cơ bay ngang trên cao. Tôi nghĩ thầm, biết đâu chẳng có Trâm trên đó. Có bờ vai nào cho Trâm nương tựa không hay là em co mình trên ghế, khóc thầm cho số phận mình? Bỗng dưng tôi quyết định là phải đi tìm Trâm. Tôi không biết tìm Trâm để làm gì, nhưng ăn thua gì, mấy ngày nay tôi có suy nghĩ gì đâu.
Làm thủ tục check-out một cách vội vàng, tôi gọi taxi ra phi trường Nội Bài dù biết rằng còn lâu mới tới giờ chuyến bay của tôi trở về Sài-Gòn. Phi trường thưa thớt người, tôi đi loanh quanh tìm Trâm. Trâm không còn đó. Trâm đã đi thật rồi. Tôi tìm một chỗ khuất, lấy lá thư đã nhầu nát đọc thêm lần nữa. Trâm đã đi thật rồi. Nước mắt tôi rưng rưng. Hà-Nội, buồn ơi chào mi! Năm ngoái tôi về, nhớ kỷ niệm thời thơ-ấu, buồn đến nghẹn ngào. Năm nay tôi trở lại, mang chút đam mê để rồi buồn đến xót xa. Tôi nghĩ thầm có lẽ là không bao giờ tôi trở lại nơi này. Hà-Nội ơi, giã từ!
Thùy Trâm ơi, vĩnh biệt! Một thời đã qua!
Tiên bay về trời – Nguyễn Đông Thức (1951- )
Nguyễn chạy xe vào trụ sở hội khi đã gần trưa. Lúc anh dựng xe trước can-tin định bước vào tìm độ bida thì Vũ ngồi uống cà phê gần đó vội lên tiếng:
– Có bà khách vào tìm ông nãy giờ, đang ngồi trong văn phòng kia.
Nguyễn nhìn qua khoảng sân. Khách ngồi quay mặt ra ngoài, là người hoàn toàn xa lạ. Một phụ nữ khoảng trên 40 tuổi, ăn mặc rất thanh lịch. Có thể bà là gương mặt mới trong giới làm băng nhạc, đang muốn thực hiện một chương trình nào đó, hoặc một “nhà thơ đột xuất” đã ngoại tứ tuần mới sáng tác và có tham vọng được phổ nhạc các bài thơ của mình? Hay bà là người mà đến nửa đời mới nhận ra mình có năng khiếu âm nhạc giờ muốn làm quen với các nhạc sĩ để nhờ hướng dẫn thêm? Thời buổi này chuyện gì cũng có thể xảy ra.
Nguyễn bốn mươi tư cộng thêm cuộc đời nhiều thăng trầm đã khiến anh hầu như không còn ngạc nhiên trước bất cứ điều gì. Bạn bè thường khen về thái độ luôn ung dung tự tại của Nguyễn.
Còn Mai thì ngược lại, lúc chia tay đã một lần cuối khuyên Nguyễn nên thay đổi cái tính khí dửng dưng, nguội lạnh mà Mai gọi là “một thứ siêu ích kỷ” ấy. Sống mà không còn biết xúc động thì có gì thú nữa? Yêu ghét rõ ràng, luôn quan tâm đến mọi người chung quanh và mọi sự kiện đang xảy ra, cuối cùng Mai đã đầu hàng trước tính phớt đời của Nguyễn.
Về phía Nguyễn, không rõ nguyên nhân nhưng từ lâu anh đã thấy có hay không có mình thì cuộc sống vẫn vậy. Mình “chẳng là cây đinh gỉ”, thì sống bon chen và quan tâm đến quá nhiều thứ để làm gì, nhất là khi đã theo nghiệp sáng tác này?
Nguyễn đi qua văn phòng. Người khách ngồi chờ đầy vẻ bồn chồn, hai bàn tay đan vào nhau còn gương mặt thì đầy vẻ mệt mỏi và buồn bã, với đôi mắt quầng thâm. Thấy Nguyễn bước vào, bà đứng dậy chào.
Nguyễn vội nói:
– Xin chị cứ ngồi.
Người phụ nữ ngập ngừng:
– Xin lỗi… Anh là nhạc sĩ Nguyễn?
– Vâng.
– Gia đình tôi xin anh giúp cho một việc…
Khách chợt nghẹn lời, mắt rớm lệ. Nguyễn nhắc bà:
– Xin chị cứ nói.
– Vâng, thưa anh… Cháu Tiên…
Câu chuyện sau đó đã làm Nguyễn phải lặng người. Tiên, một cô gái 16 tuổi, con út của bà Tâm – tên người khách, bất ngờ bị suy thận cấp. Bệnh đã phát từ trước Tết với dấu hiệu phù mà ban đầu cả nhà cứ ngỡ Tiên bệnh trở nặng qua giai đoạn vô niệu, thì một bác sĩ ở đấy lại chẩn đoán và điều trị sai, làm cho nó càng trầm trọng hơn. Tiên được đưa về thành phố nhập viện khi ống thận đã bị hoại tử, phải chạy thận nhân tạo, nhưng theo các bác sĩ thì không thể qua khỏi vì đã bị biến chứng nhiễm trùng máu, chỉ có thể cầm cự vài ngày nữa. Ba lẫn mẹ đều sẵn sàng cho Tiên mỗi người một quả thận của mình, nhưng ở Việt Nam chưa làm được việc ghép thận này. Ba Tiên đang đăng báo bán nhà, bán xe và vận động đưa Tiên ra nước ngoài chữa trị, dù các bác sĩ đều nói sẽ không kịp…
Gia đình cố giấu, nhưng dường như Tiên vẫn biết. Cô bé buồn rũ người, nằm chết cứng suốt một ngày trời. Rồi thấy bà mẹ cứ khóc mãi. Tiên cố gượng dậy, trò chuyện tươi tỉnh với cả nhà, xin được đọc báo Mực tím, nghe nhạc Michael Learns To Rock, xem lại những tập phim Tom và Jerry từng làm cô bé mê mẩn hồi nhỏ. Tiên vốn rất yêu văn nghệ, hát hay, đàn giỏi, lại thích văn chương.
Ông bà Tâm khẩn khoản Tiên muốn gì cứ nói, ông bà cũng chịu. Thế rồi Tiên chợt nói muốn được gặp các thần tượng của mình, và trong danh sách ấy, có tên Nguyễn. Đã có nhà văn Đoàn, cặp ca sĩ Ngọc-Phương, nhà thơ Bùi, diễn viên kịch nói Thành và diễn viên điện ảnh Ngọc, trong hai ngày qua đến với Tiên.
Bà Tâm áy náy nói là bà biết các văn nghệ sĩ nổi tiếng thường rất bận, nhưng bà không thể từ chối các yêu cầu cuối cùng của con. Bà rất mang ơn nếu Nguyễn đến được với Tiên dù chỉ năm, mười phút. Nhưng nếu không được thì cũng chẳng sao.
Làm sao Nguyễn có thể nói không? Anh hỏi số phòng của Tiên và hẹn chiều hôm ấy sẽ đến.
Thật tình thì Nguyễn rất ngại mỗi khi phải đi thăm bệnh hoặc phân ưu. Không khí bệnh viện và tang lễ bao giờ cũng gây trong Nguyễn một cảm giác rõ rệt về sự quá phù du của kiếp người. Vẫn biết sinh-lão-bệnh-tử là vòng quay không ai có thể cản, nhưng Nguyễn cứ thấy có một cái gì đó thật vô lý khi con người được sinh ra, vất vả học hành rồi quần quật làm việc, để lại chết đi…
Mới tuần trước, ở đám tang nhạc sĩ Minh ra, Nguyễn chợt ngạc nhiên khi thấy đường phố vẫn rộn rịp hối hả, trời vẫn xanh và nắng vẫn vàng, mọi thứ vẫn như thế, dường như đời không hề biết gì về một mất mát đau lòng vừa xảy ra. Dừng xe ở ngã tư, Nguyễn nhìn chung quanh, bỗng có ý nghĩ rằng tất cả những gương mặt vô cảm mình đang thấy đấy, cũng như tất cả những gương mặt mình đã biết, thân quen hoặc xa lạ, đều sẽ lần lượt biến mất trên mặt đất này, không chừa một ai. Biến mất, với bao nhiêu sự nghiệp dở dang, mộng ước không thành. Biến mất, sau cả một đời mà cộng lại hết những lúc sung sướng chưa chắc đã được vài ngày. Sao mọi người không nghĩ đến điều đó để bớt đối xử nghiệt ngã với nhau hơn? Để giúp nhau làm nhẹ hơn được phần nào cái gánh đời nặng chịch đang phải gánh trần thân?
Hôm Minh ở bệnh viện, Nguyễn vào thăm, thấy tình thế đã tuyệt vọng. Trong đôi mắt Minh, Nguyễn đọc được đầy nỗi uất ức vì phải chết. Minh còn biết bao dự định để làm, vậy mà… Nhưng dầu sao Minh vẫn đã vào tuổi “tri thiên mệnh”, công thành danh toại, nhà cửa, vợ con đầy đủ, gian khổ và vinh quang đều nếm trải. Còn với cô bé 16 tuổi đang đầy sức sống lại bị đứt ngang này, cảm giác về cái chết sắp đến hẳn phải rất khủng khiếp.
Thế nhưng khi vào thăm Tiên chiều hôm ấy, Nguyễn đã không hề nhìn thấy một nét tuyệt vọng nào trên gương mặt cô bé.
Tiên nhận ra Nguyễn ngay, “Cháu chào chú Nguyễn”, và đôi mắt sáng lên khi nhìn thấy bó lan tím trong tay anh.
Nguyễn đưa bó hoa cho Tiên:
– Chú chào Tiên. Sao cháu lại biết chú?
– Siêu sao như chú, ai mà không biết?
– Tiên còn biết gì về chú nữa nào?
Vừa hỏi Nguyễn vừa ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường Tiên. Anh đau lòng nhận ra căn bệnh đang tàn phá cô bé như thế nào: khuôn mặt Tiên trương phù, chỉ còn đôi mắt là còn sức sống. Một đôi mắt chỉ cần nhìn vào là biết ngay chủ nhân rất thông minh. Bà Tâm đã cho Nguyễn biết từ bé đến giờ Tiên luôn là học sinh giỏi nhất nhì lớp. Nguyễn xót xa nghĩ chỉ còn vài ngày nữa là đôi mắt này sẽ mãi mãi nhắm lại. Mãi mãi.
Tiên nói:
– Cháu biết chú chuyên viết nhạc cho giới trẻ, nhưng nghề chính lại là làm báo, đúng không?
Nguyễn cười, gật đầu:
– Còn gì nữa?
– Chú còn độc thân, nếu đúng như những gì chú đã phát biểu.
– Phát biểu ở đâu nào?
– Trong một cuộc giao lưu với khán giả ở Câu lạc bộ Nhạc sĩ, chú nhớ chưa?
Thấy Nguyễn ngạc nhiên, Tiên hạ giọng, vẻ bí mật:
– Chú biết tại sao cháu nhớ không?
– Làm sao chú biết được!
– Tại vì người viết câu hỏi đó là dì út của cháu. Dì mới tốt nghiệp đại học, ái mộ chú lắm đó. Chú ráng ngồi lại với cháu chút nữa, dì út vô đây, cháu giới thiệu cho.
Bà Tâm đã cho Nguyễn biết mấy hôm nay, Tiên bỗng nói rất nhiều. Cô bé luôn cần có người ngồi bên cạnh để trò chuyện, và chỉ khi rất mệt mỏi mới thiếp ngủ. Nguyễn hiểu ngay nguyên nhân: Tiên đang ý thức mình không còn bao nhiêu thời gian. Cuộc gặp gỡ này, ngay từ những phút đầu, càng làm Nguyễn thấy thương Tiên hơn.
Tiên lại hỏi:
– Nhưng dì út thì cứ nói theo sách vở, rằng đừng bao giờ nên chơi với nghệ sĩ, vì sẽ thất vọng trước những mặt trái của họ. Có đúng không chú?
Câu hỏi như một viên đạn ném xuống mặt hồ ký ức đang yên tĩnh trong Nguyễn.
Những dòng chữ trong lá thư cuối cùng của Mai lại xuất hiện ra mồn một trước mắt anh:
Tất cả nghệ sĩ các anh đều như người cõi trên, ai cũng nghĩ mình chính là trung tâm của vũ trụ, nói gì làm gì cũng đúng, còn mọi người phải có nhiệm vụ chiều chuộng và cung phụng, có gì không vừa ý là lập tức tự ái, sĩ diện, đau khổ. Nếu các anh có quan tâm đến ai thì cũng chỉ là một kiểu cảm xúc tùy hứng, hoặc do chính mình đã được quan tâm trước. Em đã tự xét kỹ, em chỉ là người phàm, sống với anh thì sẽ vướng phải tình cảm như trong một câu danh ngôn: Hoặc là em tự phá hoại đời mình, hoặc là đi làm hỏng đời anh. Anh nên sống một mình với những hào quang và vòng nguyệt quế, cho đến khi gặp một bà điên nào đó chịu hy sinh. Còn em, xin được rút lui…
Đã sáu năm, vẫn chưa có một bà điên nào thay được chỗ của Mai. Mai từng nói Nguyễn ích kỷ đến mức không thể yêu ai hơn chính mình, còn Nguyễn chỉ thấy anh không thể yêu ai được ngoài Mai. Ai mà không yêu chính mình nhất? Mai bỏ Nguyễn lẽ nào không phải vì tự lo cho thân cô, rút lui khỏi cuộc phiêu lưu đầy bất trắc để chọn một bến bờ yên ổn hơn?
Nguyễn gượng nói với Tiên:
– Đúng đó. Nghệ sĩ, nghĩ cũng xệ mà… Cười gì? Chú nói đùa thôi, chứ nghệ sĩ thì cũng chỉ là con người, với đầy đủ tính tốt xấu. Tốt nhất là từ nay Tiên đừng nên thần tượng hóa ai hết…
Nguyễn khựng lại vì chợt nghĩ mình nói với Tiên những điều này thật vô ích. Tiên nhìn sững Nguyễn và chỉ trong tích tắc Nguyễn hiểu ngay Tiên đã biết anh vừa nghĩ gì. Thật nhẹ nhàng, Nguyễn đưa tay cầm lấy tay Tiên. Bàn tay của cô bé se sẽ run trong tay anh.
Mãi một lúc sau, Tiên mới nói:
– Có cái gì bất tử không chú?
Nguyễn ngẫm nghĩ rồi trả lời:
– Chú không biết. Hình như không có gì tồn tại mãi được với thời gian. Nhưng, như nhiều người vẫn nói, có thể đó là tình yêu.
– Nhưng tình yêu vẫn có thể thay đổi mà chú!
– Nếu có thể thay đổi thì đó không phải là tình yêu.
Nguyễn trả lời Tiên mà lại cứ nghĩ đến Mai. Có lúc Mai đã rất yêu anh và luôn than phiền anh không hề yêu Mai gì hết, nhưng nói… Giờ đây Mai đã có chồng con, trong khi Nguyễn vẫn không quên được cô. Vậy thì ai yêu hơn ai? Tại sao Mai cứ ương bướng muốn Nguyễn phải thay đổi theo Mai, trong khi Nguyễn không hề có yêu cầu ngược lại? Tình yêu là phải hòa tan vào nhau hay mỗi người vẫn có thể là chính mình?
Tiên vẫn bướng bỉnh:
– Thí dụ tình yêu không thay đổi đi, thì khi những người yêu nhau chết đi, tình yêu ấy cũng đâu còn?
Nguyễn định nói với Tiên là còn chứ, khi tình yêu ấy đã đơm hoa kết trái, những người yêu nhau chết đi thì con cái của họ sẽ chính là cuộc đời của họ được nối dài ra, và chúng sẽ lại tiếp tục yêu thương. Nhưng sợ điều đó lại làm Tiên buồn. Nguyễn quyết định chuyển đề tài:
– Nói như Tiên thì còn nói làm gì… Ờ, cho chú hỏi lại nghe! Bí mật. Tiên có bồ chưa?
– Cháu mới mười sáu mà!
– Nhưng bây giờ hình như ở tuổi cháu cũng có đứa có bồ rồi đó.
– … À, hồi đầu năm lớp 10 này, có đứa trong lớp viết thư đòi làm boy friend của cháu đó.
– Đứa nào vậy?
– Thằng Hoàng.
– Rồi Tiên trả lời sao?
– Cháu không thèm trả lời, đem thư trả lại cho nó, nói nó học dở ẹt còn bày đặt lộn xộn. Nó không chịu cầm. Cháu dọa sẽ dán thư của nó lên bảng, nó mới chịu.
Hai chú cháu nhìn nhau cười. Mặt Tiên hơi hồng lên một chút.
– Rồi hổm rầy Hoàng có tới thăm Tiên không?
– Dạ có.
– Nó nói gì?
– Tụi nó đi một đám. Thằng Hoàng không nói gì, chỉ đứng núp phía sau khóc. Đúng là đồ con trai thúi…
Hôm ấy, Nguyễn đã ngồi với Tiên đến tận tám giờ tối. Dường như anh và Tiên đã quen nhau từ lâu lắm, và trước mắt anh không hề là một cô bé đang biết mình sắp chết. Nguyễn hứa ngày mai sẽ lại vào, và quyết định trong lòng là sẽ dành hết thời gian cho Tiên, nếu cô bé muốn.
Những bó hoa được Nguyễn thay đổi mỗi ngày. Hồng bạch, huệ tây, cúc trắng. Nguyễn còn mang cả guitar vào để đàn hát cho Tiên nghe những bài mà cô bé thích. Anh đau đớn khi thấy mỗi ngày Tiên mỗi suy kiệt hơn.
Ngày thứ tư, cô bé chợt cầm tay anh, thì thầm:
– Cháu sợ chết quá…
Giọng Nguyễn khản đặc:
– Chú cũng vậy!
Rồi anh tìm cách giúp Tiên.
– Đó là điều mà không ai có thể tránh khỏi hết Tiên à! Nó như một cái bến cuối mà ai cũng phải tới. Mình tới sớm thì đỡ vất vả hơn thôi.
Tiên cười héo hắt:
– Chú nói không đúng. Sống vui hơn chứ…
Rồi lại hỏi:
– Có một thế giới khác sau khi mình chết không?
Lần đầu tiên Nguyễn trả lời Tiên không đúng với điều anh vẫn nghĩ:
– Có, Tiên ạ.
– Nó như thế nào chú?
– Nó rất đẹp. Và vĩnh viễn. Ở đó, cháu sẽ được gặp lại tất cả những người thân đã mất.
Mắt Tiên sáng lên:
– Vậy cháu sẽ được gặp lại bà ngoại. Bà ngoại thương cháu lắm!
– Rồi Tiên sẽ gặp lại chú nữa. Có quên chú không?
– Không… cháu sẽ không bao giờ quên chú đâu. Chú tốt với cháu quá…
Nguyễn quay mặt đi để gạt vội mấy giọt nước mắt vừa trào ra. Anh nghẹn ngào:
– Tiên ơi, cháu có ước muốn gì cứ nói, chú sẽ làm cho.
– Chú không làm được đâu.
– Tiên cứ nói đi.
Tiên suy nghĩ một chút rồi nói:
– Chú làm sao để từ nay đừng có bệnh nhân nào phải chết vì bị bác sĩ chẩn đoán sai nữa.
Nguyễn nín lặng trước yêu cầu ấy. Anh lại nhớ đến cái chết của Trí vào cuối năm 1978. Trí dẫm phải một quả mìn cỏ, nát hết một chân. Nếu trạm phẫu dã chiến có đủ thuốc thì Trí đã không bị chết vì hoại thư, chân cứ bị cưa dần lên. Cũng là dân thành phố, cùng nhập ngũ một ngày, lại về cùng đơn vị, Nguyễn đã ngồi bên cạnh cho đến lúc Trí trút hơi thở cuối cùng. Vẫn là ánh mắt tuyệt vọng như của Minh. Sau này Nguyễn mới biết người phụ trách trạm phẫu đã đem bán hết những loại thuốc quý được cấp. Anh ta bị lãnh án nặng, nhưng Trí, hai mươi tuổi, cao lớn, đẹp trai, gia đình cách mạng, sắp vào đại học thì tình nguyện đi bộ đội khi có chiến tranh biên giới Tây Nam, đã vĩnh viễn không trở về…
Tiên còn nhỏ quá và giờ đây có ích gì nếu Nguyễn nói với cô bé rằng sự dốt nát và thói tham lam vô trách nhiệm sẽ còn hành hạ con người dài dài?
– Cháu biết chú không làm được mà! Thôi, cho chú chuyện này dễ hơn. Chú sẽ làm một bài hát tặng cháu. Được không?
– Rồi, chú hứa.
– Thật hay à nha!
– Ừ, thật hay.
– Hay nhứt của chú từ trước tới giờ.
Tiên siết chặt tay Nguyễn:
– Cảm ơn chú.
Rồi cô bé lòn tay xuống dưới gối lấy ra một cái bao thư:
– Cháu còn nhờ chú việc này nữa.
– Việc gì?
– Tết vừa rồi cháu được lì xì nhiều lắm, chưa kịp xài. Chú tìm đứa bé nào nhà nghèo sắp bỏ học, cho cháu gởi tặng nó. Một đứa thôi, mà gia đình đàng hoàng, chịu khó, biết thương con, vậy mới có ích. Chú tìm được không?
– Chú sẽ tìm được.
Nguyễn đã nghe bà Tâm nói về những ý muốn cuối cùng khác của Tiên. Cô bé muốn ba mẹ đem hết quần áo, đồ dùng học tập của mình cho người nghèo, đồng bào bão lụt… nhưng lại yêu cầu hãy chôn cùng với cô tất cả những con búp bê và bọn thú nhồi bông mà mười sáu tuổi cô vẫn còn mê. Sau nhiều năm, chúng đã chiếm cả một tủ kính lớn trong phòng riêng của Tiên. Nguyễn còn thấy ngày nào bà Tâm cũng mang vào một con búp bê để thay ca ở bên Tiên.
Những con búp bê đẹp lộng lẫy…
Trong những cố gắng của Mai nhằm thay đổi con người của Nguyễn, cô từng đưa anh đến các cô nhi viện, với những món quà mà cô luôn chu đáo chuẩn bị sẵn. Nguyễn đã thấy ánh mắt của những đứa bé bất hạnh sáng rực lên như thế nào trước những con búp bê nhựa rẻ tiền được Mai trao cho.
Anh chợt buột miệng nói với Tiên:
– Những đứa trẻ ở cô nhi viện mà được có búp bê của Tiên thì chắc chắn chúng sẽ vui lắm…
Nói xong, Nguyễn hối hận ngay. Tại sao anh lại muốn tước đi niềm vui nhỏ nhoi cuối cùng mà Tiên hy vọng có được dưới nấm mồ lạnh lẽo? Anh còn muốn thử xem lòng tốt của cô bé bạc phận này đến mức nào hay sao?
Tiên nhìn sững Nguyễn. Cuối cùng, cô bé nói:
– Được rồi, cháu sẽ cho hết, chỉ đem theo một con búp bê mù thôi. Hồi còn nhỏ cháu đã móc mắt nó, bây giờ có cho cũng không ai thương nó đâu. Tội nghiệp nó. Chú giúp cháu đem cho hết đi, nói của chị Tiên cho đó. Chị Tiên chết rồi…
Đó là cuộc nói chuyện cuối cùng giữa Nguyễn và Tiên.
Sáng hôm sau, Nguyễn vào thì Tiên đã gần như hôn mê. Nguyễn cùng gia đình đưa Tiên lên xe về nhà, mọi người đều nước mắt giàn giụa. Vì Tiên có dặn trước là hãy cho xe chạy ngang trường để Tiên nhìn nó lần cuối, nên ba của Tiên đã đỡ đầu cô bé dậy lúc xe sắp chạy đến. Lúc đó vừa tan trường. Tiên gắng gượng mở đôi mắt lờ đờ nhìn các cô học trò cùng lứa tuổi với mình đang ùa ra như một đàn bướm trắng, rồi lại thiếp ngay. Mẹ và dì của Tiên òa khóc, trong khi những người đàn ông cố cắn chặt răng.
Ba giờ chiều hôm đó, Tiên mất, hai tay ôm chặt con búp bê mù cũ mèm.
Không, Tiên không chết. Cô bé chỉ bay về trời sau cuộc dạo chơi ngắn ngủi xuống cõi trần, Nguyễn tin vậy. Nhưng không hiểu sao anh vẫn cứ để cho nước mắt mình mặc sức tuôn rơi…
Giang – Bảo Ninh (Hoàng Ấu Phương, 1952- )
Năm ấy tôi mười bảy tuổi, binh nhì, chiến sĩ của tiểu đoàn 5 tân binh.
Tiểu đoàn chúng tôi luyện quân ở Bãi Nai. Bấy giờ đã là vào cuối khoá huấn luyện ba tháng, kiểm tra xạ kích, đạt điểm cao nhất đại đội, tôi được thưởng hai ngày phép. Đại đội trưởng linh động cho tôi miễn bình tuần tối thứ Sáu. “Đã được lãi một tối càng phải liệu mà về cho kịp giờ điểm danh đấy nhá!” Anh dặn tôi thế, ra ý đe.
Chuyến về nhờ bám được xe quân sự chạy trên đường 6 nên phi cái vù đã tới nhà. Chuyến trở lại phải chen xe khách. Chín giờ tối chủ nhật mới điểm danh mà chỉ dám nấn ná cố cùng tới 12 giờ trưa là phải bứt khỏi nhà chạy nhào ra bến Kim Mã. Chen lên được một chuyến xe vào thời buổi gian khó ấy khổ sở đến thế nào, khỏi bàn. Thêm nữa lại ngày giáp Tết. Do may mắn và cũng là do ẩu tả ngồi lèn nhau trên nóc xe nên đến nhập nhoạng tối thì tôi nhảy được xuống thị trấn Lương Sơn. Đói mèm, rét run, lại lớ quớ trượt chân ngã, tuột tung quai dép và lấm be bét.
Trật trưỡng tôi dò tới cái giếng xây ở đầu trấn để rửa ráy qua loa tý chút và xâu lại dép. Chỉ có một người đang múc nước ở giếng. Trời mưa nhưng rất mỏng, như sương, và chưa tối hẳn nên từ khá xa tôi đã nhận ra một cái dáng con gái. Khi tôi tới bên giếng, hai thùng tôn của gánh nước đã được đổ đầy, cô gái cuộn dây gầu, tra đòn gánh vào hai móc xích, và trước khi lên gánh, cô đội lại chiếc nón mà lúc cúi múc nước cô đã bỏ ra để ngửa bên thành giếng. Với con mắt lính 17 tuổi nhanh như chớp, tôi lườm ngay thấy tên cô nàng viết bằng mực tím ở trong vành nón, cả tên, cả họ, cả đệm, và cả lớp học của cô nữa. Phạm Nhật Giang. 10 B.
Không để ý đến tôi, cô đặt gánh lên vai. Tôi nói, vội vã, nhưng thản nhiên, như thật:
– Kìa, Giang. Cho anh mượn cái gầu đã nào.
Cô gái hạ gánh, nhìn tôi.
– Chào anh, anh bộ đội… – Cô nói, ngập ngừng, nhưng có lẽ chưa kịp ngạc nhiên – Gầu đây anh.
Tôi xòe hai bàn tay bê bết bùn ra.
– Ôi anh bị lấm hết rồi. − Cô gái khẽ thốt lên – Thôi, để em.
– Ừ. Nhờ Giang vậy, chứ không thì bẩn hết cả dây.
Cô gái múc lên một gầu, hai gầu, xối từ từ cho tôi rửa kỹ hai bàn tay.
Khi tôi định đón lấy chiếc gầu, cô bảo:
– Cái gầu này khó múc lắm. Để em giúp anh.
Cô lại thòng nhanh sợi chão xuống bóng tối sâu hút bên dưới rồi thoăn thoắt, mềm mại, kéo gầu nước lên. Nhưng sự ân cần của cô còn hơn thế. Mỗi gầu nước múc lên, cô không xối cho tôi tự gột mà cúi mình xuống, một tay nghiêng gầu nước dội nhè nhẹ, một tay cô cọ bùn đất ở bàn chân, ngón chân, bắp chân tôi. Ngây ra, tôi đứng yên, sững lặng cảm nhận cái ân tình hồn nhiên và bất ngờ ấy. Rất lâu, hai đứa chẳng nói gì, cô gái lặng lẽ gột rửa cho tôi, tôi thì bất động. Cô cọ kỹ cho tôi cả đôi dép đúc.
– Tươm rồi đấy, anh – Cô gái nói trong bóng tối.
– Cám ơn nhé, Nhật Giang!
Cô gái trở lại với nỗi ngạc nhiên:
– Ô kìa! Ừ nhỉ, sao anh biết tên em?
Tôi cười, không đáp.
– À, em biết rồi. Anh tọa độ chứ gì mà! Các anh bộ đội chuyên thế. Cứ gọi: Lan, Hằng, Liên, Oanh thế nào cũng trúng, chứ gì?
– Nhưng Giang, lại Nhật Giang nữa, chắc không có hai người tên như thế đâu, đoán mò sao được?
– Chắc anh đóng ở gần đây?
– Chả gần lắm, tận xóm Đượm.
– Bao xa anh?
– Giang không phải người đây à?
– Vâng, em mới Hà Nội lên – Giang đáp, và chợt cô rủ tôi:
– Nhà em đang trọ ở ngay kia, anh vào nghỉ một lát.
Tôi do dự:
– Chín giờ, đơn vị điểm danh rồi… mà còn non chục cây.
– Còn sớm, mới sáu giờ kém mà, anh.
Tôi muốn hộ Giang gánh nước, nhưng cô không chịu. Tôi theo sau cô vào sâu một cái ngõ tối. Một mình Giang một túp nhà nhỏ, mái gianh vách đất. Không có đồ đạc gì. Một chiếc giường đơn, một ngọn đèn hoa kỳ trên chiếc chõng tre, bộ ấm tích, điếu bát. Một chiếc xe đạp Phượng Hoàng dựng ở gần cửa.
Tôi mở túi phòng hóa đeo bên hông lấy gói bít cốt mẹ dúi cho hồi trưa, và rót chè tươi trong ấm tích ra bát. Bít cốt chiêu với chè tươi, định thế. Thấy vậy đang lúi húi xâu lại quai dép cho tôi, Giang vội kêu lên:
– Ôi em quên. Có cơm mà, để em dọn mời anh.
Tôi gạt đi, nhưng Giang nài tôi chịu khó chờ cô xuống bếp hâm lại cơm canh mà ăn uống cho chắc dạ và nóng sốt.
Trong lúc chờ Giang, tôi ngả phứa ra giường cô, châm thuốc hút và lim dim mắt, thả khói. Chợt cửa ra vào mở. Một người đàn ông cao lớn bước mạnh vào. Tôi giật bắn mình, bật chồm dậy. Ông nọ vận đại cán vải dạ xanh sẫm, giầy da Cô-xư-ghin, quân hàm ve áo hai sao hai vạch.
– Cậu là ai? Đâu chui vào đây? – Nghiêm sắc mặt, ông trung tá hỏi, chằm chằm nhìn.
Tôi dập gót:
– Báo cáo, tôi…
Vừa khi đó Giang bưng mâm cơm đi từ sân sau vào.
– Bố về rồi đấy ạ? – Cô vội vã nói – Bố ơi, đây là Hùng, bạn học lớp 10 với con. Anh ấy đóng quân gần đây. Chúng con tình cờ gặp nhau vừa nãy.
Ông trung tá dịu nét mặt, nhưng giọng vẫn nghiêm:
– Đóng gần đây à? Đồng chí đơn vị nào?
– Báo cáo thủ trưởng, tôi ở C7 K5 đoàn 91.
– Thế đồng chí đi đâu, sao giờ này còn tụt tạt ngoài đây?
– Báo cáo thủ trưởng, tôi về phép lên. Đơn vị chín giờ mới điểm danh.
– Thế đồng chí định để đúng điểm danh mới có mặt à? Phải về đơn vị sớm hơn chứ!
– Kìa bố! – Giang kêu lên – Bố để cho anh ấy ăn cơm đã. Bố cũng ăn luôn với bọn con đi.
– Không đâu, tớ không ăn đâu! – Tôi hoảng lên – Tớ phải chào đây, Giang!
Ông bố Giang mỉm cười, vỗ nhẹ vai tôi, bảo:
– Từ đây về xóm Đượm sáu cây, còn kịp. Cậu ăn cơm đi, ngồi chơi với Giang. Bạn học lâu ngày gặp nhau. Nhưng rồi phải ráo chân lên. Vẫn phải về kịp trước điểm danh, rõ chưa?
– Thì bố xin hộ cho anh ấy, bố! – Giang nói, nũng nịu – Bố gọi cho cấp chỉ huy của anh ấy. Chúng con học cùng từng ấy năm, gặp nhau chuyện tới khuya chẳng hết.
– Không được, – ông bố cười, lắc đầu – Bạn hữu gặp gỡ thế này là quí, nhưng con không có được nhũng nhẵng con cà con kê giữ bạn lại quá lâu. Đừng có để bạn phạm kỷ luật.
Ông nhìn đồng hồ.
– Sáu rưỡi rồi, – ông nói – Hai đứa khẩn trương cơm nước đi. Tối nay bố không ăn với con được. Bố phải qua đơn vị. Phải họp khuya đấy. Con một mình ở nhà cửa giả cho cẩn thận.
Ông bước tới bên cửa, cầm lấy ghi đông chiếc xe đạp, và nhìn tôi, ông nói:
– Hùng ngồi chơi nhá! Nhưng nhớ giờ giấc đấy.
– Kìa bố, bố lấy xe đạp à? – Giang kêu lên – Con định đưa anh ấy về đơn vị cơ mà, bố! Bố chịu khó đi bộ, bố nhá? Chỗ bố gần ngay đây mà!
– Không! Đừng mà… – Tôi hãi quá – Giang đừng vậy…
Ông trung tá cười, bảo:
– Con gái con đứa thế đấy! Chiều bạn hơn bố! Nhưng bố nhất trí, bố để xe cho hai đứa. Chứ mà cuốc bộ thì con làm Hùng chậm giờ mất. Có điều đường đồi ban đêm hai đứa lai nhau cho cẩn thận, đừng có phóng nhanh kẻo ngã. Đưa Hùng tới đơn vị rồi lúc quay về một mình con cứ đạp từ từ, nhìn đường. Nhưng cũng gắng đừng có thong dong quá đấy. Trời lạnh thế này. Với lại con về khuya, bố không yên tâm đâu.
Tối ấy, tôi lai Giang vào sâu trong Bãi Nai. Đồng rừng tối câm, lạnh lẽo. Con đường đồi quạnh vắng, không ngừng uốn lượn và gấp khúc. Gió bấc lúc thuận lúc ngược, nhưng mà tôi không thấy mệt, tôi đạp mải miết. Tôi chưa khi nào đèo con gái. Cả hồi năm ngoái học lớp 10, được bố mẹ ưu tiên sắm riêng cho hẳn một cái Mi-pha tha hồ tung hoành phá phách, tôi cũng chỉ đạp xe rong phố với những thằng bạn. Chưa từng bao giờ có một nữ nhi ngồi sau xe tôi, áp mình tin cậy vào tôi như thế này. Đây là lần đầu. Chiếc Phượng Hoàng nặng chịch mà chẳng nặng một chút nào. Tôi guồng cẳng đạp, bám theo vệt trắng mập mờ của con đường, lên dốc, xuống dốc, quành rẽ, lạng tránh, lao rất nhanh và phanh giật cục. Giang ngồi vững và thật êm sau tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi mới nói chuyện, mà chỉ Giang nói. Giang là học trò Trưng Vương, vừa tốt nghiệp lớp 10 trong năm, hiện giờ đã là sinh viên của trường Tổng hợp. Nhà cô trong ngõ Chợ phố Khâm Thiên. Túp nhà ban nãy là bố cô mượn của một người quen ở thị trấn để đón cô lên ăn Tết cùng ông. Mẹ cô mất năm ngoái, anh trai thì mới vừa đi Bê tháng trước.
– Tết ra chơi với bố con em, anh nhé! Nhà chỉ hai bố con mà cái thị trấn khỉ ho cò gáy này thì buồn ơi là buồn. Em sẽ nói khó để bố vào hẳn đơn vị đón anh. Rồi chúng mình xin phép bố lỉnh về Hà thành vài hôm. Bố em chiều em lắm, sẽ đồng ý thôi. Mà bố đã thuận thì nhất định thủ trưởng đơn vị anh cũng nhất trí.
Chúng tôi chia tay ở chân đồi Gừng, đầu con đường mòn dẫn vào xóm Đượm nơi đơn vị tôi trú quân.
– Hay là Tết em trốn vào đây với anh?
Giang hỏi, và không hiểu sao lại thở dài.
Tôi cứ đứng mãi ở ven đồi. Mặc dù không thể nhìn thấy gì trong màn đen dày đặc đêm cuối năm, tôi vẫn cứ nhìn mãi theo Giang. Chia tay, tôi đã không nói được một điều gì cả, đã không kịp ngỏ một lời nào. Cả địa chỉ của Giang nữa cũng không hỏi rõ. Chỉ biết Khâm Thiên, ngõ Chợ.
Hai hôm sau, tối ngày 27 Tết, tiểu đoàn tôi nhổ neo rời Bãi Nai. Hành quân qua Thường Tín, lên tàu ngay, không có 15 ngày phép thông lệ của lính Bê dài. Đây là một đợt tăng cường rất lớn cho chiến trường. Cả một Sư cùng lúc lên đường, gấp gáp tiến quân, vượt ngàn dặm Trường Sơn vào Nam. Vừa đặt chân lên đất Tây Nguyên đã vào ngay chiến dịch. Các đơn vị của Sư đoàn phiên hiệu khác đi nhưng vẫn giữ nguyên đội hình từ ngoài Bắc. Tiểu đoàn của tôi đánh trận mở màn, và đại đội của tôi là mũi chủ công.
Trước giờ nổ súng, đích thân tham mưu trưởng sư xuống kiểm tra công tác chuẩn bị chiến đấu của chúng tôi. Mặc dù ông xuống “kiềng” cùng với một nhóm khá đông trợ lý và trinh sát, mặc dù ông cũng trang bị và nai nịt như mọi người, tiểu liên AK, dép đúc, mũ cối, áo lính tô châu, nhưng trong bóng rừng nhập nhoạng tôi vẫn nhận ra ông ngay. Ông chính là “ông bô” của Giang!
Tôi toan lỉnh, song ông trông thấy tôi tức thì. “Kìa, Hùng, Hùng đấy hả Hùng?” Giọng ông ngạc nhiên, mừng vui. Ông thân thiết xiết chặt tay tôi và không nén được, ông cảm động ôm lấy tôi. “Giang nó cứ nhắc cậu mãi, Hùng ạ. Nó cứ buồn vì không gặp lại được cậu trước khi chúng ta lên đường.” Ông bảo: “Giờ đây Giang nó ở lại ngoài đó có một mình.”
Gặp gỡ trước giờ nổ súng tất nhiên là chỉ thoáng nhanh, chỉ kịp nói mấy câu thế thôi. Tôi thì không nói được gì cả. Tôi chỉ ấp úng. Cả cái tên Hùng do con gái ông phịa vội ra, tôi cũng không thể cải chính.
Thời khắc gấp gáp không thể nấn ná, nhưng trước lúc đi, tham mưu trưởng sực nhớ một điều và vội vội ông nói với tôi: “Giang nó có gởi cháu tấm ảnh của nó, nhưng tiếc quá, lại không mang theo đây. Để bữa sau vậy, Hùng nhé!…”
Không có “bữa sau” ấy. Tôi không còn có dịp được gặp lại tham mưu trưởng. Cả tới mùa khô sau, được điều lên trinh sát sư đoàn, tôi vẫn không thể nào gặp lại được ông. Tham mưu trưởng của chúng tôi đã hy sinh vào cuối mùa khô năm đầu tiên sư đoàn chúng tôi lâm trận.
o O o
Chiến tranh, đời lính, tuổi trẻ, mọi sự là như thế, chỉ thế thôi, thoảng nhanh. Thoảng nhanh nhưng không tắt lịm. Chỉ thế thôi nhưng để rồi sau này cứ nhớ mãi. Trở thành nỗi đau. Những nỗi đau mất mát âm thầm.
Chắc là bây giờ Nhật Giang vẫn còn nhớ đến tôi, người lính trẻ vô danh hơn ba chục năm về trước. Tôi thì không bao giờ quên cô ấy, mặc dù thực ra là có gì đâu một tình cờ như thế, một gặp gỡ vẩn vơ, lưu luyến mơ hồ gần như không có thật mà năm tháng cuộc đời cứ mãi chồng chất lên muốn xóa nhòa.
Hoa oải hương – Phạm Thị Ngọc Liên (1952- )
Còn mười tám ngày nữa là đám cưới của anh.
Thế rồi, bỗng nhiên anh gặp lại cô. Đã ba năm kể từ ngày anh tiễn cô ra sân bay, lòng mênh mang buồn giùm một mối tình tan vỡ. Hôm ấy, cô ra đi, mắt sưng đỏ và không nói một lời nào. Anh tưởng sẽ chẳng bao giờ còn gặp được cô.
Đã ba năm. Một người bạn gọi điện thoại cho anh trước buổi trưa, nói vắn tắt về sự có mặt của cô và cho anh địa chỉ. Mười lăm phút sau, anh đã đứng trước căn phòng khách sạn nơi cô ở. Cô đi đâu vắng, dòng phấn viết trên cánh cửa ghi vắn tắt – Tám giờ về.
Tám giờ ba mươi, anh trở lại. Cửa phòng cô mở rộng, vài tiếng cười vẳng ra, cô đang có khách. Anh hơi ngập ngừng chưa biết nên bước vào hay ngừng lại thì giống như có linh tính mách bảo, cô quay đầu ra phía cửa, ngước mắt nhìn.
Cô kêu lên một tiếng, bật đứng dậy, ánh mắt ngạc nhiên và mừng rỡ, cô chạy xô ra cửa phòng. – Sao anh biết em ở đây? Anh mỉm cười, cô lúc nào cũng rối rít như thế, vui vẻ như thế, hồn nhiên và trẻ trung. Lòng anh ấm áp kỳ lạ, anh choàng qua vai cô, bước vào phòng. Cô giới thiệu anh với bạn bè, họ chào hỏi anh một vài câu rồi tự ý rút lui trong khi cô nháy mắt hóm hỉnh – Kệ, hơi đâu mà giữ, chút nữa lại gõ cửa ầm lên bây giờ.
Cô giúi vào tay anh quả táo, mở va li lấy ra một gói thuốc lá đặt lên bàn, rồi bó gối ngồi trên giường, hai tay chống cằm, nhìn anh. Cô nhìn anh như thể nhìn một món đồ yêu quí đã mất đi từ lâu bỗng nhiên tìm lại được. Cô nói nói, cười cười, hỏi anh rối rít hết chuyện này sang chuyện kia, khen anh mập… rồi bỗng cô thở phào một cái – Em mừng quá. Nước mắt cô nhỏ xuống.
Anh nhai táo, hút thuốc và cũng nhìn cô, không đến nỗi chăm chú để cô phải ngượng, nhưng đủ để thấy rõ những thay đổi của cô, từ thể chất đến tinh thần. Cái vẻ mà anh nhìn thấy lúc vừa bước chân đến cửa phòng, dường như chỉ còn sót lại một chút nào đó, làm anh chợt bâng khuâng. Đã ba năm. Và cô chẳng còn như xưa nữa, sự vui vẻ, hồn nhiên của cô vẫn ở đó, trong cách cư xử thân mật và nũng nịu, nhưng cái thoáng ưu tư trong đôi mắt ấy thì anh mới thấy lần đầu, và ngay cả nét mặt nhìn xuống, giọt nước mắt lặng lẽ trên gương mặt cười kia, cũng làm anh đau nhói cho cô. Anh rủ – Đi tìm gì nong nóng ăn đi, anh đói quá. Anh biết lời rủ rê như thế cô sẽ không từ chối, cô vẫn lo cho người khác hơn mình. Cô chớp mắt một cái rồi mỉm cười – Ừ, đi.
Anh chở cô qua những con đường lấp loáng ánh điện, dưới hai hàng cây lá rậm đen. Cô ngồi phía sau, ngoan ngoãn và bé nhỏ, cô đã lấy lại được vẻ sôi nổi bên vai anh. Cô cười khanh khách – Trời ơi, em mê quá, táo nhiều ơi là nhiều.
Anh chở cô đi lung tung qua các phố, quên mất dự định đi ăn, anh muốn đưa cô đi và nghe lại giọng nói của cô, cái giọng nói ngọt ngào, trong trẻo, lúc nào cũng có vẻ ngạc nhiên và ngây thơ ngộ nghĩnh, đã làm anh quí mến từ khi cô còn là…
Trái tim anh chợt nhói buốt, anh hơi giật mình. Cô không để ý. Cô bận nhìn phố xá. Miệng cô vẫn nói cười, Anh thở ra nhè nhẹ, rồi như để trấn áp những cảm giác đang làm anh tê tái, anh quay lại dặn cô giữ cho chặt và rồ ga phóng xe thật nhanh. Cô hốt hoảng túm chặt lưng áo anh, tóc cô bay toán loạn, nhưng cô vẫn cứ cười…
Gần nửa đêm, anh mới đưa cô về khách sạn. Cô đứng trước cửa phòng, ngước mắt nhìn anh – Anh nhớ đến chỗ em nhiều một chút nhé. Cô nhìn bâng quơ qua vai anh rồi khẽ cúi đầu, giọng cô như nghẹn lại – Em ở đây chỉ có một mình…
Anh vỗ nhẹ vào đôi gò má lạnh ngắt của cô, cố vui vẻ – Tất nhiên, anh sẽ đến bất cứ lúc nào rảnh, chỉ sợ em đi vắng. Cô cười – Không, buổi tối em luôn có ở nhà. Anh cầm bàn tay nhỏ của cô – Được rồi, tối mai anh lại đến. Ngủ ngon nhé!
Cô đóng cửa phòng lại và anh quay đi.
Tối hôm sau anh đến muộn. Một vài công việc đã giữ chân anh đến quá chín giờ. Cô mở cửa phòng, có vẻ như đang chuẩn bị đi ngủ. Anh nói ngay, không để cho cô kịp giận dỗi – Anh vừa xong công việc, em thay quần áo, đi ra ngoài một tí nhé. Cô leo lên giường uể oải như một con mèo – Ôi, em lười quá! Anh thúc giục – Đừng lười, ở ngoài kia hay lắm. Cô che mặt bằng chiếc gối, im lặng một chút rồi bỗng quăng chiếc gối đi, ngồi phắt dậy, lườm anh – Nào thì đi, anh làm em chờ muốn chết…
Anh đưa cô tới một quán cà phê tuyệt đẹp với cây cối, hòn non bộ và nhà sàn theo kiểu Tây Nguyên. Cô bước lên sàn nứa, đôi mắt hiếu kỳ của cô nhìn khắp mọi nơi, ngón tay cô nghịch ngợm chiếc rèm trúc chỗ hai người ngồi, làm bật ra những tiếng lách tách. Cô kêu lên, khoan khoái – Chỗ này hay thật đấy. Anh nhấp ngụm cà phê, mỉm cười nhìn cô rồi chợt buột miệng – Anh tưởng Nguyễn đã từng đưa em đến đây? Bàn tay cầm ly sữa của cô bỗng khựng lại nửa chừng. Cô ngưng cười, bậm môi nhìn xuống, giọng cô cứng lại – Chưa…
Anh có vẻ ân hận, chạm vào tay cô…
– Xin lỗi, anh không cố tình… Cô ngửa đầu hít một hơi thật mạnh, cô nói, không nhìn anh – Không sao, em quên rồi…
Im lặng. Khoảng không gian nặng nề làm anh hối tiếc. Anh đốt một điếu thuốc, rít một hơi ngắn, trầm tư một chút rồi quay lại phía cô. Cô vẫn nhìn chăm chăm vào ly sữa. Anh nhẹ nhàng nắm bàn tay cô. – Nếu em quên được thì tốt. Anh không muốn nói xấu bạn anh, nhưng quả thật là nó không xứng đáng với tình yêu của em. Quên nó đi thì hơn… Cô ngồi im không nhúc nhích, giọng cô thì thào, khổ sở – Em đã nói là em quên rồi. Im lặng một chút, rồi anh lại nói – Đúng ra thì không phải quên, mà hãy coi đó là chuyện bình thường, em sẽ nhẹ nhõm hơn – Vâng… – Em phải nghĩ đến em chứ, đừng ngu ngốc… – Em sẽ cố, anh yên tâm…
Kéo cô đứng dậy ra khỏi quán, anh lấy xe và thực thi ý định của mình, anh đưa cô đi trở lại những con đường, qua những vỉa hè, góc phố, những quá ăn… nơi cô và Nguyễn đã từng đi qua, ba năm về trước. Anh nhắc nhở và cô giống như bị tra tấn, cô mất cả thần sắc, mặt cô xanh nhợt… Nhưng cuối cùng, khi trở về khách sạn, cô lấy lại được vẻ quân bình. Cô ngồi co chân lên ghế, uống ly nước mà anh rót từ trong chai ở tủ lạnh. Cô vui vẻ nhìn anh gọt táo, đôi má cô đã ửng hồng. Vói tay qua thành ghế, cô nắm lấy bàn tay anh. Anh ngước đầu nhìn cô, mắt anh ấm áp, anh hiểu cô muốn nói điều gì…
Anh đến với cô đều đặn mỗi ngày. Có lúc anh dậy thật sớm để đưa cô đi ăn sáng trước khi mỗi người đi một việc, có khi anh ghé đón cô về ăn trưa, hoặc xin nghỉ vài giờ để đưa cô đi một vài nơi mà cô muốn đến, nhưng thường thì tối nào anh cũng ghé lại, hoặc cùng đi ra phố, hoặc ngồi nói chuyện đến khuya. Thời gian cô đi công tác không còn bao lâu nữa, anh không muốn cô phải trống trải bất cứ giây phút nào cô còn ở đây. Anh cũng đã có thói quen phải nhìn thấy cô cười nói mỗi ngày.
Một buổi tối, trong khi chờ cô sửa soạn để đi ra phố, anh ngồi gọt táo và đọc một vài trang trong cuốn truyện cô để trên bàn. Tựa đề một truyện ngắn trong đó là Quà cưới. Bỗng nhiên anh buột miệng – Này, anh cũng sắp cưới đấy. Cô đang loay hoay chải tóc, cô vẫn tưởng anh đùa như mọi lần, cô vừa chải tóc, vừa cười – Thế à! Bao giờ? – Mười ngày nữa. Cô lại cười. Thế này thì là anh đùa chắc rồi. Cô quay lưng về phía anh, vừa mở tủ lấy áo vừa nói – Sao mà gấp thế, đợi em đi khỏi đã rồi hãy tính. Chớ bỏ rơi em trong lúc này!
Cô bước vào buồng tắm, vừa thay áo quần vừa hát. Miếng táo anh đang nhai trong miệng bỗng trở nên nhạt nhẽo. Anh không biết phải nói với cô như thế nào. Cô vẫn đối đãi với anh thân thiết như cũ, càng có vẻ thân hơn sau buổi tối ở quán cà phê. Hình như cô không nhớ là đã có khoảng cách ba năm giữa cô với mọi người. Và bởi vì mọi người lúc nào cũng chiều chuộng chăm sóc cô chẳng có gì thay đổi, cô yên chí mọi việc đều đơn giản với cô như đã từ bao giờ.
Cô đã ra khỏi buồng tắm. Anh bước đến bên tủ lạnh rót nước và nuốt ực miếng táo còn nghẹn ở cổ. Cô vui vẻ ngước nhìn anh – Nào, mình đi đi anh. Gót giày cô gõ lách cách, ríu rít. Anh đút hai tay vào túi quần đi theo cô, bất chợt miệng anh cũng huýt lên một điệu nhạc bâng quơ, anh muốn giấu đi nỗi bối rối đang quẩn ở trong lòng.
Bốn ngày nữa thì cô lên đường. Cô nửa muốn ra đi, nửa còn ngoái lại. Trái tim cô nhộn nhịp một điều gì khó tả. Cô gần như bình thản trước những kỷ niệm cũ, những dấu tích tình yêu của ngày xưa giữa cô và Nguyễn. Một lần tình cờ cô gặp lại Nguyễn ở nhà một người bạn cũ, và người bối rối hụt hẫng không phải là cô, mà là Nguyễn. Cô đã giữ được sự tự chủ của mình. Nhưng dù sao, lúc Nguyễn đã ra về, cô vẫn bị một cảm giác trống trải lan tỏa khắp trái tim, lòng cô man mác buồn. Cho đến lúc anh đến và hai người lại cùng đi ra phố. Ngồi sau lưng anh, trên chiếc xe dong ruổi giữa đường đêm, cô kể cho anh nghe những cảm giác của mình. Anh nói những câu ngắn và cô lại thấy lòng mình yên tĩnh, êm ái đến kỳ lạ. Cô áp mặt vào lưng anh, khép mắt lại…
Suốt một tiếng đồng hồ trong quán cà phê, cô chỉ chăm chú nhìn ly nước, và sau đó cô mỉm cười. Vẻ mặt của cô làm trái tim anh đập mạnh. Anh hút thuốc liên tục, cố che dấu những cảm giác đang dồn dập trong lòng. Đã ba năm trôi qua. Trước kia cô là người yêu của bạn anh. Tính nết và cả con người cô được cả nhóm bạn hữu yêu mến, họ xem cô như đứa em gái bé bỏng cần được chở che, một vài người cũng đã âm thầm yêu cô bằng một tình cảm khác mà họ sẽ giữ kín trong lòng vì quan hệ giữa cô và Nguyễn, trong số đó có anh. Cô không biết được điều này. Ngay cả khi Nguyễn phản bội và cô gục khóc trong vòng tay của họ, cương quyết ra đi. Anh đã dỗ dành, an ủi và chăm sóc cho đến lúc đưa cô ra sân bay, mắt cô sưng đỏ và không nói với anh dù một lời giã từ. Cô bay đi và mất hút giống như một cánh chim vô định, không có bất cứ một tin tức nào. Thế rồi bỗng nhiên cô trở lại, đằm thắm, dịu dàng, ngoan ngoãn… như xưa. Nhưng, đã ba năm trôi qua và anh sắp lập gia đình. Không thể nào thay đổi được…
Cô dựa lưng vào ghế ngồi, dịu dàng nói với anh điều gì đó. Anh khẽ nghiêng đầu lắng tai nghe và cô chồm về phía vai anh. Nhạc trong quán cà phê êm đềm một bản đàn Chopin, mái tóc thơm ngát của cô xoà trên vai anh nhột nhạt. Anh nghiêng sát lại cô thêm chút nữa, và bất thần cô áp gương mặt mát rượi của cô vào gương mặt nóng bừng của anh. Cô hôn anh, bẽn lẽn, dịu dàng…
Anh nhắm mắt lại, ghì chặt cô trong tay, trái tim anh đau nhói, anh không nói được một câu nào, anh đang rơi, rơi, rơi mãi…
Cô cũng không nói một câu nào, cô dựa vào vai anh, tin cậy. Cảm giác hạnh phúc đầy ứ trong trái tim cô. Nhạc Chopin trong quán vẫn êm êm trôi xuôi. Nụ cười trên môi cô dường như bất tận…
Cô vịn vào cánh tay anh. Họ đi như hai người đang bềnh bồng trong cơn say trên đường từ bãi đậu xe của khách sạn trở về phòng. Ánh đèn hồng từ phòng cô tỏa ra những tia sáng ấm áp, cô đến bên tủ lạnh lấy ra một chai nước, rót ra ly và đặt trong tay anh. Mắt cô long lanh, bừng sáng, mãn nguyện. Cô ngồi bệt xuống gạch dưới chân ghế ngồi của anh và mỉm cười, gương mặt cô rạng rỡ…
Trái tim anh thắt lại, anh không thể thốt ra một câu nào, bất chợt anh đưa tay vuốt ve mái tóc cô.
Cô sà vào lòng anh như một con chim vừa tìm được tổ. Cánh tay cô quấn quanh cổ anh thơm ngát. Anh cúi xuống và không cưỡng nổi cái hôn khao khát mà anh cố nén bao ngày. Cô áp mặt vào ngực anh, thì thào – Đừng về nữa, ở lại đây với em…
Anh ghì chặt cô vào lòng…
o O o
Anh đi từ sớm. Tờ giấy anh để trên gối, viết:
– Em ngủ ngon, anh phải đi công tác cách đây một trăm cây số. Em ở nhà ngoan, chờ anh. Anh sẽ cố để ngày mai trở về. Hôn em.
Cô mỉm cười, ra khỏi giường vươn vai tập thể dục. Cô hát suốt thời gian ở trong phòng tắm. Cô nhăn mặt, nhíu mày với chiếc gương soi. Cô cầm chiếc bao thuốc lá rỗng của anh săm soi rồi cất vào túi xách. Cô nhảy từng bậc cầu thang trên đôi giày gót nhỏ gõ lách cách vui vẻ. Cô nhìn mọi người chung quanh bằng ánh mắt tươi tỉnh ngọt ngào.
Ngồi trên xích lô, cô lục tìm bao thuốc rỗng của anh rồi đưa lên mũi hít mạnh. Dường như hơi hướm của anh vẫn còn tồn đọng quanh người, cô cắn chặt đôi môi, cố nén để khỏi bật kêu lên nỗi sung sướng đang vỡ oà trong lòng. Hình như tất cả mọi người, mọi vật chung quanh cô cũng thông cảm với cô điều đó. Cô đọc lại không biết bao nhiêu lần lá thư ngắn ngủi của anh, rồi cô thì thào một mình – Em sẽ chờ, hãy mau về với em.
Cô đến nhà một người bạn khác của Nguyễn, cũng là bạn của anh và cô. Cô muốn thổ lộ, muốn được chia sẻ, muốn được nhìn thấy những ánh mắt hoặc ngạc nhiên hoặc đồng tình của mọi người. Gót giày cô reo vui ngoài cửa.
Người thanh niên đang hí hoáy gói một gói lớn bọc giấy xanh đỏ. Trông thấy cô, anh reo lên – Hay quá, giúp anh một tay. Cô buông túi xách, ngồi thụp xuống, bàn tay nhỏ nhắn của cô gói nhanh thoăn thoắt, cô cột chiếc nơ hồng ở giữa, ngắm nghía với một nụ cười tươi tỉnh, xong cô đẩy về phía anh – Quà tặng cho ai mà gói kỹ vậy anh? Người thanh niên trả lời thản nhiên, nhưng cô nghe như tiếng sấm nổ, cô sững sờ, tưởng mình nghe nhầm. Cô hỏi lại và được xác nhận một lần nữa. Cô ngồi lặng đi…
– Ngày cưới của anh ấy cũng phải có em chứ? Người bạn trai vô tư hỏi, không để ý đến gương mặt trắng nhợt của cô. Cô cắn môi, nhìn lơ đãng ra ngoài đường – Vâng, tất nhiên rồi… Cô cầm lấy túi xách, viện một lý do nhỏ rồi bước ra khỏi nhà anh.
Cô đi lang thang qua nhiều con đường, cúi đầu nhìn bóng mình đổ dài dưới nắng. Cô nhớ những lời anh đã nói, những cử chỉ kiềm chế của anh mà cô không hiểu rõ. Cô nhớ sự bối rối của anh, nhịp tim đập gấp, cô nhớ ánh mắt âu yếm và nụ hôn cháy bỏng của anh đêm qua. Chỉ vừa mới đêm qua thôi, số phận sao mà khắc nghiệt?…
Nước mắt cô chảy xuống, nhiều người qua đường ngoái lại nhìn, nhưng cô chẳng buồn để ý, cũng chẳng buồn lau nước mắt, cô cứ đi, rồi bỗng nhiên cô thấy mình đứng trước cửa phòng bán vé máy bay từ lúc nào…
o O o
Anh đến chỗ cô sau giờ ăn sáng một chút. Quần áo anh còn đầy bụi bậm của chuyến hành trình xa, anh không kịp về nhà, anh nhớ cô. Suốt một ngày xa cô, anh đã không làm được việc gì cho ra hồn. Ban đêm anh mất ngủ, anh nằm suy nghĩ về anh, về cô, về mối tình bất ngờ nóng bỏng của hai người, anh lại nghĩ đến người vợ sắp cưới của anh, anh bị giày vò, cắn rứt ghê gớm. Anh tự nguyền rủa mình, anh nắm tay đấm vào giường đến bật máu. Vô ích. Trước mắt anh vẫn hiển hiện gương mặt dịu dàng ngọt ngào của cô, ánh mắt say đắm tin cậy và nụ cười chứa chan hạnh phúc. Anh như thấy được cùng với tiếng pháo đám cưới của anh, là đôi mắt sưng đỏ câm lặng, nỗi đau đớn chết người mà cô phải trải. Anh nghiến răng, vùi đầu vào gối, rên rỉ kêu Trời. Anh hút thuốc liên tục, và đến sáng anh tìm ra được một giải pháp. Anh phóng xe như bay biến, hồi hộp và mong ngóng được gặp cô. Anh yêu cô và sẵn sàng đánh đổi tất cả để được sống bên cô suốt đời. Sẽ không có một đám cưới nào hết, ngoài cô. Đời người nhiều khi cũng cần có một lần liều lĩnh đúng lúc. Anh thở phào, cảm thấy tâm hồn nhẹ lại. Tất nhiên anh sẽ gặp không ít rắc rối, không ít lời chửi bới, nhưng chuyện đó có nghĩa gì khi anh có được cô? Ngừng xe ở bãi đậu của khách sạn, anh giống như chạy qua suốt dãy hành lang, anh tưởng tượng ra khuôn mặt sáng rỡ và vòng tay quấn chặt của cô. Môi anh nở một nụ cười.
Cửa phòng cô mở rộng. Một người tạp vụ đang quét dọn lau chùi. Anh đứng ở cửa phòng hơi ngỡ ngàng. Không còn một dấu vết gì chứng tỏ cô đang ở đây. Chiếc va li, những đôi giày, mấy thỏi son và chai nước hoa cô vẫn để trên bàn, cũng không còn ở chỗ cũ nữa. Anh chưng hửng, không hiểu điều gì đã xảy ra.
Người tạp vụ ngửng đầu nhìn anh. Chị ta nhíu mày nhìn bộ quần áo bụi bậm, vẻ ngơ ngẩn trong đôi mắt của anh. – Xin lỗi, có phải anh tên là…? – Vâng. Anh hơi giật mình. Người đàn bà vui vẻ hẳn lên – À, ra anh đấy. Cô ấy có gửi cho tôi cái này, bảo giao lại cho anh. – Cô ấy đi đâu? – Đi máy bay sáng nay rồi, cô ấy về gấp, chỉ mới lấy vé hôm qua. Đây này, cô ấy gửi cho anh.
Bàn tay anh run lẩy bẩy khi anh cầm lấy từ tay người tạp vụ những món mà cô để lại. Đi những bước lảo đảo ra phía ngoài khách sạn, ngồi phịch xuống chiếc ghế đá gần nhất, anh mở chiếc phong bì.
Lá thư của cô chỉ có một hàng. Dòng chữ viết run rẩy “Anh không có lỗi trong bất cứ mọi điều. Mong anh hạnh phúc. Em yêu anh”.
Anh nhắm mắt lại, chết lặng…
Từ từ, anh đưa bó hoa lên ngang tầm mắt, sững sờ nhìn. Hoa cúc dại – Oải hương. Cô vẫn thường ví mình là loài hoa ấy, bé nhỏ, dịu dàng và hay lỡ duyên. Cô gửi nó cho anh như một lời giã từ nghẹn ngào làm trái tim anh đau nhói… Ôi, em làm như thế đúng hay sai? Anh bỗng nhìn đồng hồ tay và bật dậy. Anh chạy ra bãi để xe, mở công tắc và chạy như điên trên quãng đường ra sân bay. Anh vừa chạy xe vừa âm thầm cầu nguyện cho anh được gặp cô, dù chỉ là lần cuối cùng.
Hoa oải hương dịu dàng tỏa hương thơm sau lần áo còn đầy bụi của anh….
Điều chưa nói với tình yêu – Khuê Việt Trường (1952- )
Tôi nói với Hải, người tài xế đang chở tôi băng qua khu rừng ngập tràn cây cỏ, con đường sau một mùa mưa bão đã trở nên khó đi với không biết cơ man nào là ổ gà, ổ voi:
– Anh Hải, liệu có bác sĩ Bình tại trạm y tế xã không?
Hải không nhìn tôi, gương mặt vẫn nhìn thẳng về phía trước con đường, như anh sợ chỉ cần một cái chớp mắt là anh có thể lái chiếc xe lạc hướng.
– Chắc chắn mà, lúc nào bác sĩ Bình cũng đi cơ sở. Chẳng bù lại với các bác sĩ khác, chiều thứ bảy chưa hết giờ làm việc đã vội vàng phóng xe về thành phố. Tôi chẳng hiểu tại sao cô lại có thể ‘trèo đèo lội suối’ để đi tìm bác sĩ Bình thế? Mọi người gọi đó là “Bình hâm”!
– Tại sao gọi là Bình hâm?
– Đơn giản thôi, bởi bác sĩ Bình ra trường đậu cao mà lại chẳng chọn bệnh viện thành phố mà làm, cứ chăm chăm vào Trung tâm y tế huyện, ở nơi toàn là người dân tộc…
Tôi không hỏi thêm gì Hải nữa, nhưng tôi biết là Bình đã tạo nên một huyền thoại giữa cuộc sống đang dày đặc những ham muốn danh lợi này. Cuộc sống đã chứng minh rằng một cộng với một chưa chắc bằng hai và mỗi người đều biết rõ ràng là tại sao mình chọn con đường này mà lại không chọn con đường khác? Còn nếu cứ hình dung ra con đường băng qua rừng và chật hẹp, nhấp nhô biết bao nhiêu ổ gà, cả tiếng muỗi mòng bay vo ve này thì đủ biết cuộc sống của một bác sĩ như Bình chẳng phải là một cuộc sống lý tưởng với chiếc áo khoác trắng sang trọng, cặp kính cận trễ xuống mắt với bộ ống nghe đẹp đẽ trong căn phòng khám bệnh có trang bị máy lạnh.
Đã bao nhiêu lần tôi khuyên ngăn Bình hãy trở về, nếu không thích thì hãy mở một phòng mạch tư, bên cạnh đó với tấm bằng dược sĩ của tôi chỉ việc mở thêm phòng bán thuốc. Chồng khám bệnh, vợ bán thuốc giống như bác sĩ H đang được những người bệnh của thành phố này tin tưởng, mỗi buổi sáng mọi người phải tới phòng khám trước nhà ông ghi tên, đợi tới phiên mình.
Ba năm trời dài dằng dặc Bình vẫn không chịu về thành phố, bởi thời hạn lên miền núi của một bác sĩ như anh cũng đã là quá đủ. Những lần anh phóng chiếc xe dính đầy bụi đỏ về tìm tôi vào chiều thứ bảy, tôi thấy anh ốm hơn một chút, anh đen hơn một chút. Có khi làm việc quá sức, chẳng có thì giờ rảnh anh lại “trình diện” trước mặt tôi một đầu tóc quá lứa, một chiếc cằm lởm chởm râu chưa kịp cạo. Gặp nhau, anh lại kéo tôi ra quán bún bò. Đó là quán bún bò vỉa hè với khoanh giò heo mầm ngon mà anh vẫn thích. Bình bỏ ớt thật nhiều vào tô, anh vẫn giảng giải về chuyện ăn uống của mình: “Ăn miếng ớt cay xè, mới tận hưởng vị ngon của tô bún bò.” Tôi thì chịu cách ăn như thế, nhưng rồi tôi cũng cắn miếng ớt tê môi bởi đơn giản là mai sau, khi hai đứa về ở chung trong một mái nhà, tôi phải nấu cho anh những món ăn có nhiều ớt cay.
Cuối cùng thì chiếc xe cũng đi đến đích của nó, hay nói đúng hơn là đã đưa tôi tới đích mà tôi mong muốn. Trạm y tế xã chỉ là một ngôi nhà cấp 4 nhưng cũng đã xuống cấp. Từng mảng tường vôi vỡ ra vì lâu ngày bị mưa ngấm, còn cánh cửa sổ lại lắc la lắc lẻo dính vào vách, chỉ muốn rơi ra. Bệnh nhân của Bình cứ ngồi sắp lớp trước sân trạm xá, có người bồng cả con theo. Bình chẳng nhìn thấy tôi, ánh nắng hắt vào gương mặt anh đã bắt đầu lấm tấm mồ hôi. Anh đang khám bệnh cho một cậu bé người dân tộc.
Bình nhìn thấy tôi, anh đưa tay ra chào tôi như chào một người lính: “Em tìm bóng mát ngồi đợi anh một tí!” Một cô y tá trong đoàn kiếm cho tôi chiếc ghế, tôi kê chiếc ghế dưới bóng mát của một cây điều, nhìn anh làm việc. Dễ chừng tôi và Bình đã có trọn đủ mười năm quen nhau và yêu nhau. Thời gian đôi khi làm tan vỡ đi những mối tình, bởi thói quen sẽ làm xơ cứng đi những rung động. Nhưng với Bình, tôi cảm thấy dường như trong con người anh toát ra tính quả quyết của một người đàn ông. Nhưng nghĩ lui nghĩ tới thì có người phụ nữ nào lại không thích có bên cạnh mình một người đàn ông biết quyết định dùm mình những vấn đề mà mình còn đang lưỡng lự.
Hôm anh ra trường, thay vì sa vào buổi tiệc nhậu với bạn bè cho đến khuya tại một nhà hàng 3, 4 sao gì đó có khung cửa kính nhìn xuống bến Bạch Đằng nhấp nháy ánh đèn, anh dặn tôi trước: “Ăn mặc đẹp vào, đúng 6 giờ anh tới đón.” Sáu giờ anh đã dừng xe bóp còi kêu tin tin trước nhà. Rồi hai đứa ra ngay quảng trường nhà thờ Đức Bà ngồi ăn bò bía, uống nước mía. Sau đó thì anh chở tôi vòng đến hồ Con Rùa. Bàn tay chào kiểu lính của anh thật vui: “Giã từ sinh viên. Giã từ sinh viên.” Đêm hôm đó, tôi và anh cứ thế mà đi, đôi khi xe lạc vào một con đường không tên nào đó. Hơi ấm trong thân người của anh truyền qua tôi sao mà kỳ diệu.
Bình nói trong tiếng xe cộ ồn ào:
– Anh sẽ làm bác sĩ tình nguyện? Em có sợ không?
Tôi hỏi anh:
– Sợ gì?
– Sợ anh sẽ trở thành người dân tộc. Anh chẳng mở phòng khám bệnh tư nên chẳng xây cho em nhà lầu được.
– Anh là người dân tộc thì em làm cô dân tộc. Còn xây nhà lầu thì em chẳng lau chùi nổi đâu! Em lười lắm.
Thế là Bình tình nguyện thật. Một năm, tôi chịu đựng nổi. Hai năm, tôi chịu đựng nổi. Dường như chiếc điện thoại ở vùng sâu, vùng xa nơi anh ở cũng thường xuyên trục trặc cho nên có khi nhớ anh quá, tôi gọi điện thì chỉ nhận lại những tín hiệu như tiếng gió gào. Có khi ngày chủ nhật tôi ôm gối xem hết chương trình này đến chương trình khác trên tivi. Xem xong tôi lại lục lọi kho sách cũ ra mà đọc. Người ta đi chơi với người yêu trong ngày chủ nhật, còn người yêu tôi thì lại bận khám bệnh, phát thuốc cho người nghèo.
Ở Công ty dược phẩm tôi làm việc, mọi người rất ngạc nhiên khi chẳng thấy ai đưa đón tôi. Tôi đi làm một mình, tôi đi về một mình. Đến độ chị Thư làm chung tổ với tôi phải buột miệng hỏi:
– Đám dược sĩ ở công ty này nhiều đứa được lắm. Em không chấm được đứa nào sao Lệ?
Tôi cười với chị Thư:
– Có ai tán em đâu!
Chị Thư bĩu môi:
– Không dám đâu. Tên Phấn kìa, nhìn tướng cũng được, cha lại đang làm ở cơ quan bộ tại Hà Nội. Làm dâu nhà đó có tương lai lắm đó!
– Em cho hắn ta hai điểm.
Chị Thư gật gù:
– Cũng phải. Hôm nó rủ em đi ăn hải sản, em nói nếu nó tình nguyện lên miền núi thì em đi ăn, nó nói em chạm dây. Còn tên Thích cứ nhìn lén em hoài, dù sao nó cũng chịu khó hơn mấy đứa khác, chỉ tội gia cảnh hơi nghèo, muốn mở tiệm thuốc tư nhân làm ăn mà không mở được.
– Con gái chưa chồng thì có biết bao nhiêu người theo đuổi!
Đến khi tôi hỏi Bình: “Anh có sợ mất em không?”
Mắt Bình nhìn thẳng vào mắt tôi: “Sợ chứ! Nhưng anh biết em rất yêu anh.”
Ai nói Bình của tôi không biết galăng?
Rồi Bình đến đón tôi vào một buổi trưa giữa xuân. Sự xuất hiện của anh làm cho cả công ty lao xao vì anh rất nổi danh bởi có một lần anh đã từ chối nhận số thuốc quá hạn bên kho Sở chuyển lên. Anh đã bất kể trời mưa, quay về thành phố với lô thuốc còn nguyên kiện. Rồi chính anh nhận lại lô thuốc mới đem lên lại miền núi.
Hôm sau cả công ty to to nhỏ nhỏ tôi tình cờ nghe được: “Té ra bà Lệ có người yêu là Bình hâm.”
Tình yêu hoàn toàn không có bản sao, hạnh phúc cũng chẳng có bản sao. Tôi quen hít hà trái ớt cay vì Bình. Tôi vượt rừng tìm đến anh vì tôi yêu anh, thế thôi. Nhà tôi trong năm mới có những giò phong lan rừng đích thân anh đem về. Anh hẹn đám cưới hai đứa sẽ tổ chức bằng… rượu cần và dàn nhạc là cồng chiêng, mã la. Tôi đợi anh đôi lúc thấm mệt: có khi tôi thì thầm một mình: “Bình ơi, em mỏi lắm rồi!”
Chắc Bình cũng biết ròng rã mười năm yêu nhau tôi sắp quỵ té, nhưng trong thẳm sâu lòng mình anh chẳng hề nói ra được. Bởi chúng tôi có nhau rồi, bên cạnh chúng tôi còn có bao nhiêu người cần anh? Tôi dành anh ra khỏi tay họ liệu tôi có yên lòng? Chính vì vậy mà tôi lên đường, tôi phải tìm tới anh.
Dưới bóng mát của những cây điều, bữa cơm trưa dọn ra. Không xa bên kia là tiếng suối chảy róc rách như là một bản nhạc ru trưa.
Bữa cơm có măng rừng, có cá lóc nướng trui. Bình xẻ cho tôi từng miếng cá. Bữa cơm ngon miệng cũng xong. Bình nói:
– Qua Tết anh sẽ chuyển về bệnh viện thành phố. Nhưng anh muốn mình làm đám cưới tại đây.
Tôi nhìn anh chăm chú. Rồi tôi rút trong túi xách của mình ra tấm giấy chuyển nhiệm sở. Tôi xin lên đây cùng anh.
Mặc kệ mọi người quanh mình. Bình ôm chặt lấy tôi vào lòng. Anh hôn tôi: “Em là người vợ tuyệt vời nhất của anh!” Tôi nhìn thấy một giò phong lan nằm nép mình nơi hiên trạm xá. Có thể đó là giò phong lan anh dự định tặng tôi mùa xuân này.
Thương nhớ Hoàng Lan – Trần Thùy Mai (1954- )
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: “Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?”
Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: “Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại.”
Trở về, thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.
Lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hòa trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy.
Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư cụ trụ trì: “Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúnh sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ?”
Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều.
Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: “Mấy con ếch lạy khéo không thưa thầy M.H?” Rồi bà cười ha hả: “Đi tu mà chẳng trót đời, làm thân con ếch cho người lột da.”
Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm…
Cô ruột tôi giận lắm, bảo: “Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng.”
Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói “Đừng.” Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?
Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn sáng sủa. “Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni.”
Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn…
Năm tôi mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Đế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia.
Cha tôi bảo: “Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?”
Tôi chỉ lắc đầu…
Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am – am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi tôi bắt đầu chướng tính.
Sư huynh hạch tôi: “Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác.”
Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ.
Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp tụng kinh, tôi biện bạch: “Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu đời đục mà tránh?”
Thầy hỏi: “Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không trong.”
Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì.
Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn những làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ.
Cô hỏi tôi tên hoa.
Tôi giảng: “Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng.”
Cô chìa tay với những ngón búp măng, hứng sương.
Tôi cau mày: “Này, đừng nghịch.”
Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi: “Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan.”
Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé.
Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: “Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy.”
Tôi tủm tỉm cười.
Sư huynh tôi cáu kỉnh: “Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm! Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đọa địa ngục hử?”
Tôi cự: “Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ!”
Từ đó, vài hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đây là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước giò.
Lan phụng phịu: “Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có!”
Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ. “Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi.”
Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: “Không can gì.”
“Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?”
Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu. “Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó.”
Tôi động lòng, hỏi: “Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu, chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói? Ngày xưa, Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong.”
Thầy cười: “Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi, mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên chín tầng mây.”
Tôi vái thầy mà thưa: “Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa.”
Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi.
“Anh không thích phong lan nữa sao?”
“Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan.”
Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như màu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh tỏa thơm ngây ngất.
Lan bảo: “Thích ghê, em chưa thấy bao giờ!”
Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên, lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương…
Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra.
“Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường.”
Tôi nghe tiếng, quay lại, sững người vì thấy Lan.
Ông chủ tịch âu yếm bảo: “Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng.”
Tôi hãi hồn, vội nói: “Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây.”
Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: “Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa.”
Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô bé thì chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt…
Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.
“Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần được; nó tránh như tránh tà.”
“Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều; thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó.”
“Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức.”
Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: “Khó tin!”
“Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra – bạn tôi nói, vẻ ông cụ non – Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn.”
Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp.
Mẹ Lan hỏi: “Nhà chùa có việc gì mà nhắn cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi.”
Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: “Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu…”
Trời chập choạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống. Lan lắc đầu, Quắn cố nài.
Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn: “Đồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi!”
Quay sang Lan, tôi nạt: “Đi về!”
Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi…
Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc: “Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?”
Tôi cau mặt: “Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?”
“Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến.”
“Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn.”
Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên tôi.
“Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?”
Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa…
“Em có thích nghe chuyện cổ tích không?”
“Thích.”
Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt.
Lan nghi ngờ: “Sao có người làm được như thế?”
Tôi gật đầu: “Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vậy. Vị thiền sư trả lời: ‘Bệ hạ hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua’.”
Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạ lùng.
“Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?”
Tôi bảo: “Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con!”
Lan cười… Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa.
Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá!
“Thôi, về đi em!”
Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp lóa những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật…
Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay.
Tôi bảo: “Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu.”
“Không có lửa làm sao có khói? Ăn ốc, đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên.”
Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười.
Cô bực tức: “Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?”
Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.
‘Con ma nữ’ đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp cứu.
Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: “Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con.”
Tôi cuống quýt: “Bác bảo con làm sao được?”
“Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra.”
Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ: “Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng?”
Tôi thở dài: “Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thủy Sám.”
Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi…
Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu.
Thầy hỏi: “Sao con bỏ học?”
Tôi nói: “Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng.”
Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú.
Tôi hốt hoảng vùng dậy: “Bạch thầy!”
Thầy tôi bảo: “Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn.”
Tôi nói: “Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An.”
Thầy lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi: “Tâm không an, có cầu cũng vô ích.”
Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ; nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió.
“Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?”
Thầy nhìn vào mắt tôi: “Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình.”
Tôi lắc đầu: “Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi.”
Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã úa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy, nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.
Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến: “Chú Ninh!”
Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. “Bác lên chùa cầu cho em đi bình an…” Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.
Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan:
Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu? Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan…
Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi…
Bất giác, tôi òa khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục lụy cuối cùng.
“Cứ khóc đi con” – Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt – “Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ.”
Tôi nức nở: “Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây hoàng lan không?”
Thầy bảo: “Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?”
Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.
Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.
Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.
Biển đời người – Trần Thùy Mai (1954- )
Bim mười lăm tuổi, người lép kẹp như con cá măng, mùa lạnh thì mũi lúc nào cũng ướt. Vậy mà cô Hạnh cứ làm như con cô là tiên.
Mỗi lần tôi đến, cô lại trách: “Vì mày mà sau này em Bim không đi thi hoa hậu được. Lớn lên lo mà đền cho nó.”
Tôi rụt cổ, gãi tai, biết là cô đang muốn nhắc đến những cái sẹo to trên người Bim.
Mẹ tôi bảo: “Một cái là do Măng rủ nó trèo cây đào. Một cái là Măng chơi u, xô nó té từ trên gác xuống. Một cái là do cô Hạnh sai Măng bưng bát canh, đi đến cửa nóng tay quá Măng hắt tung vào người nó.”
Nghe kể, tôi ân hận. Thật may là Bim chẳng trách bao giờ. Cứ thấy tôi là Bim nhảy lên: “Anh Tuấn, cho em hai ngàn đi chơi điện tử.”
Thế rồi, bẵng đi một dạo, mỗi lần tôi sang, Bim lơ đẹp. Tính tình khác, thân thể cũng khác xưa, cao hẳn lên, ngực lờ mờ hai chóp tròn mềm mại sau tấm áo.
Trời mưa đột ngột xối xả vào xế trưa. Đến chiều, con nước dâng nhanh chẳng mấy chốc ngập lòng đường, tiến vào nhà, treo lên phủ ngập giường chiếu. Cả vùng thành nội ngập tràn nước trắng xóa. Bơi đến trước sân, tôi cố vượt dòng tiến vào sát cửa. Cửa đóng, lại cài then phía trong.
“Bim ơi! Bim ơi!” Tôi gào to át tiếng mưa.
Tiếng Bim khóc nức nở gọi mẹ trong nhà vọng ra. Cố sức day cửa không được, tôi đành gắng trèo lên mái nhà dỡ ngói, lần xuống. Bim ngồi co trên bàn, thấy người leo vào nhà thì hét toáng lên, sau đó nhận ra tôi.
“Anh Tuấn! Em tưởng kẻ cắp, sợ quá! Mẹ bảo đóng cửa, ai gọi cũng đừng mở.”
Tôi lội đến gần Bim: “Đồ ngu. Khi mẹ dặn thì trời chưa lụt.”
“Mẹ về ngoại từ sớm chưa về, có sao không anh ơi?”
“Mẹ không quay lại giờ này được đâu. Nước lên nhanh lắm, công an cấm không ai được vào cổng thành.”
“Sao anh vào được?”
“Trèo qua mặt thành. Anh mà không tới kịp, nước lên ngập đầu thì Bim thành bèo.”
Mới trao đổi có mấy câu, nhìn lại, nước đã vượt quá lên mấy tấc.
“Trèo lên gác thôi em!”
Bim đứng dậy, nhưng sụm xuống, hai chân tê cóng vì ngâm nước lạnh. Tôi cầm hai tay Bim, kéo vòng qua cổ: “Bám chặt lấy, anh cõng.” Tôi trèo từng bậc một lên thang, một tay quàng ra sau giữ cho Bim khỏi rơi xuống nước…
Trời sập tối, hai đứa ngồi thu lu trong gác hẹp. Tôi sợ nước lên nữa không còn lối thoát, thò tay lên dở ngói, bẻ một khoảng rui lớn, phòng có nguy thì trèo qua mái nhà. Bim khóc rấm rứt một lúc rồi thiếp đi. Hơi thở Bim nóng như sôi phập phồng qua má tôi. Bim sốt rồi. Tôi hốt hoảng. Trời tối thui, chỉ nghe tiếng mưa ào ào trên mái, sát bên tai.
May sao trên gác có tấm chăn cũ. Tôi lần lần cởi chiếc áo ướt cho Bim lấy chăn quàng lại. Cả đêm tôi ngồi ôm cô bé như ôm món quà gói kỹ trong chăn. Cầu cho trời mau sáng, lại cầu cho đêm cứ dài mãi ra vô tận. Sờ áo thấy khô, lại mặc vào cho Bim; trời tối, tôi chẳng nhìn thấy gì, cũng chẳng dám chạm mạnh, vậy mà người cứ run run. Bim thì cứ mê sảng, hết gọi mẹ lại đến sợ chuột.
Mãi đến trưa mai nước mới xuống. Cô Hạnh thuê đò chống vào đến ngõ, thấy nước ngập tràn đến mái nhà, cô khóc váng lên: “Con ơi là con.” Thấy tôi thò đầu ra khỏi lỗ ngói, cô trợn tròn mắt như quỷ thần. Tôi bơi ra, kéo đò vào, chỉ cho cô Bim nằm mê man.
Cô lại khóc rống lên, lần này vì mừng. “Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Măng ơi! Tao cho mày con Bim!”
Hai ngày sau, Bim tỉnh lại. Cô Hạnh đút cháo.
Nằm trên giường, Bim bảo: “Anh Tuấn phá mái, bẻ rui nhà em, em bắt đền.”
Lại bắt đền! Tôi cởi trần, hì hục dọn hàng tấn bùn non ngập đầy sân.
o O o
Từ đó, năm nào cũng vậy, trời mới mưa to tôi đã trực ở nhà cô Hạnh rồi. Số Bim là số sướng, mười bảy tuổi rồi mà chưa động tay dọn lũ lấy một lần.
Mẹ tôi bảo: “Sao mà ai cũng thích đẻ con trai. Ăn cơm nhà vác ngà voi thì nó là số một. Lo kiếm việc làm ăn đi con ạ, cả ngày hết đàn hát lạt xách xe đi chùi bóng mặt đường, con gái nó không ưa đâu!”
Nhìn tôi trong bộ đồng phục công nhân mầu xanh, Bim lo lắng: “Rồi ai chở em đi học?”
Tôi dỗ dành: “Chịu khó đi xe đạp, hôm nào về sớm anh chở đi buổi chiều đỡ nắng.”
Ngày đầu đi làm, nhìn ra cả vùng đồng nước Vân Cù mênh mông, thấy cột điện chữ A mọc lên giữa những giường ruộng ngang dọc, tôi ngớ ngẩn hỏi: “Người ta dùng máy gì mà đưa mấy cái cột nặng thế này ra đến đó?”
Anh Hạp, tổ trưởng của tôi cười: “Cái xác mày khênh ra, chứ máy gì mà thi công được ở đây?”
Tôi nhìn, phát hoảng. Lần đầu tiên được giao khiêng bộ chân tó để dựng cột, tối về tôi ngủ mơ, nói sảng: “Mẹ ơi, núi đổ, lôi con ra, lôi ra.” Mẹ lay mãi, tôi mới tỉnh, mồ hôi ướt dầm mình.
Dần dần, tôi mạnh lên, cơ bắp nổi đầy tay, lên rừng xuống biển cũng không còn sợ nữa. Đi đâu thì đi, chiều đến về nhà, việc đầu tiên là tắm gội cạo rửa tinh tươm, đến trường đón Bim về. Có hôm thấy Bim chờ một mình, vắng ngắt.
“Bạn em đâu cả?”
“Tụi nó rủ nhau đi ăn chè.”
“Lần sau em cứ đi với bạn, nhắn lại với bà hàng nước cho anh biết chỗ đến tìm là được.”
Bim cười ngúc ngắc hai đuôi sam: “Ai lại thế! Anh đi làm mệt cả ngày, về mà không thấy Bim, anh có buồn không?”
Lòng tôi như chao đi, lần đầu tiên thấy trên khuôn mặt Bim nét dịu dàng thiếu nữ. Bim của tôi lớn rồi và biết nghĩ, không còn ngốc nghếch ham chơi như tôi tưởng. Bất giác tôi ôm Bim vào lòng.
Bim cười nhắm mắt, rúc vào ngực tôi hít một cái thật dài rồi chuồi người, đẩy tôi ra.
“Sao thế?”
“Người ta cười.”
“Đồ sợ chết.”
Một buổi sáng chủ nhật bên suối Trà Am, lần đầu tiên Bim cho tôi ôm trong tay… Bim cười, ghé cái tai nhỏ hồng hồng sát ngực tôi, lắng nghe tiếng tim đập.
“Nhè nhẹ thôi, anh siết mạnh em đau cả người.”
“Bim ơi!”
“Gì anh?”
Tôi bồi hồi nhớ cái đêm trời lụt: “Cho anh cõng Bim đi xem suối.”
Chân tôi đi qua những mỏm đá. Tôi giữ chặt Bim sau lưng.
“Đừng lo. Hai bộ xà sứ vừa nặng vừa cứng anh còn cõng qua suối Nam Đông, bây giờ cõng Bim nhẹ và mềm như con gấu bông, anh đi lên thấu trời.”
Bim cười, tiếng cười như tiếng suối. Tôi đặt Bim ngồi trên cành cây ươi đổ ngang, giữa những cánh hoa nhung đỏ hé mở.
“Anh Tuấn ơi! Con muỗi!”
Tôi định đập, Bim bỗng xua cho nó bay đi: “Tội nghiệp, tha cho nó anh ạ.” Bắp tay Bim sưng lên một đốm hồng.
Tôi gãi cho Bim, Bim nũng nịu: “Tuấn không có móng tay, gãi bằng cục chai trong lòng bàn tay ấy…”
Cô Hạnh than thở với tôi: “Em nó ăn nhiều mà sao vẫn xanh. Hay là có giun?”
Tôi chạy mua thuốc xổ. Lại mua cho Bim một đôi giày vải. Sáng sớm tôi đến, gõ cửa, dựng Bim dậy. Bim mắt nhắm mắt mở, chạy thể dục với tôi từ Tây Linh ra đến Tây Lộc rồi lại theo đường vòng quay về.
Bữa đầu, Bim khóc mếu: “Tuấn độc tài.”
Dần dần quen, sáng nào tôi không ra, Bim giận lẫy.
Tôi hỏi Bim: “Có muốn học bơi không, sáng ra bến Me bơi mát lắm, anh tập cho.”
Bim lắc đầu quầy quậy: “Mắc cỡ lắm!”
Tôi chợt nhớ, chân Bim có sẹo. Chẳng hiểu sẹo ra sao? Nếu giờ mà lại có một đêm lụt như đêm nào, tôi sẽ đếm lại những cái sẹo trên người Bim, tôi sẽ đền cho Bim bằng cả đời tôi.
o O o
Cái tin Bim đi thi người đẹp làm tôi ngạc nhiên. Cô Hạnh hớn hở: “Chương trình có phần thi mặc áo tắm, nhưng toàn thể phụ huynh đều phản đối, dọa nếu thi áo tắm thì đem con về. Thế là Ban Tổ chức phải chịu.”
Tôi cười: “Chắc cô Hạnh là người phản đối mạnh nhất.”
“Nghe nói giải thưởng mười triệu cháu ạ!”
Nghe giọng cô hí hửng như trẻ con, tôi cười thầm. Hy vọng Bim của tôi trúng giải quá mong manh, nhưng thôi cứ để cho cô tha hồ bay bổng.
Những ngày sau đó tôi quay như cái vụ. Nào chở Bim ra tiệm Mỹ Trang thuê áo soirée. Nào chở Bim đi may áo dài. Tối lại, ra nhà Bim đàn cho Bim tập đi. Rồi lại phải chọn áo. Tôi ngắm lui ngắm tới Bim của tôi trong hơn hai chục cái váy. Cuối cùng chọn được một cái soirée mầu lam óng ánh, vải dịu và mềm.
Bim giãy nảy: “Cái này cũ rồi.”
“Nhìn ban ngày, cũ thế, nhưng dưới ánh đèn nó sẽ đẹp rực lên. Còn những cái kia trông huy hoàng, nhưng lên sân khấu sẽ cải lương hết cỡ, rồi em xem.”
Nói mà Bim không nghe, tôi lại giở thói “độc tài.”
“Còn thi ứng xử nữa, em nói kém lắm làm sao thi đây?”
Tôi kiếm một cuốn sổ nhỏ, lần giở sách báo, tìm những câu châm ngôn sắc sảo ghi vào. Câu nào cũng ngọt ngào bay bổng, toàn những lời có cánh về tình yêu, tình bạn, sắc đẹp, vân vân và vân vân…
Đêm thi đã đến, cô Hạnh lo lắng nhịn cả bữa ăn chiều. Tôi cũng đã xin nghỉ phép hai hôm. Giờ đây, trong tiếng nhạc đánh chậm bài La Paloma, Bim đang xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu.
“Vũ Túy Diễm, nữ sinh lớp 10 trường…”
Tôi dụi mắt. Có phải là Bim của tôi đây không? Tôi bỗng nhớ đến những trái táo trên sạp hàng trái cây của mẹ tôi, vốn tầm thường khiêm tốn, chỉ cần lấy khăn lau một lượt, phun nước lên, bỗng bóng loáng, chín ửng, ai nhìn cũng muốn cắn.
“Vũ Túy Diễm năm nay mười bảy tuổi, sở thích đọc truyện, ca hát, nấu ăn…”
Hừ, Bim có nấu ăn bao giờ đâu, thoáng nghĩ thế nhưng chẳng nghĩ được lâu vì tôi còn bận dán mắt vào cô gái trên sân khấu, cô gái vốn là Bim của tôi. Một chút ngập ngừng làm tăng vẻ quyến rũ thơ ngây trong dáng đi uyển chuyển. Chiếc soirée mầu lam bạc ôm khít lấy tấm thân mảnh mai nẩy nở, lớp váy trong rất ngắn cho thấy đôi chân dài thẳng băng, trắng muốt. Lớp váy ngoài xẻ bốn đường rất cao ôm rất khéo, làm dáng người đài các thướt tha. Bim đang cười… đôi môi tô son mầu hồng, sống mũi cao mềm mại thanh tú, đường nét nào cũng sắc sảo, rực rỡ hơn hẳn thường ngày. Chỉ có đôi mắt là vẫn mở to, ngơ ngơ dưới cặp lông mày cong như trăng hạ huyền.
Bên cạnh tôi, cô Hạnh hể hả: “Đi lùng suốt ba bữa mới mua được đôi tất ngoại mỏng đẹp như vậy đó. Cháu thấy chưa, tôn tạo lên một chút thôi là ăn đứt… ủa Tuấn, làm chi mà sững ra rứa, con Bim chứ ai xa lạ?”
Điểm ngoại hình Bim cao nhất tất cả thí sinh. Tiếc rằng Bim chẳng nhớ câu nào trong số những câu tôi đã tủ cho cô bé.
Ban Giám khảo hỏi: “Em nghĩ gì về ngày 8 tháng 3?”
Bim đứng ngẩn một lúc: “Em nghĩ… 8 tháng 3 là một ngày nhộn nhịp…”
Biển người lố nhố làm Bim hốt hoảng.
Sau này, Bim bảo: “Em quớ quá, nhìn xuống mà chẳng thấy Tuấn đâu. Chỉ thấy tay với đầu người, hàng vạn cái.”
Cô Hạnh cứ tiếc mãi: “Giá nó trả lời được, thì đã là hoa khôi xứ Huế.”
Bim được danh hiệu á khôi thứ nhất. Với tôi thế cũng danh giá quá rồi. Đi đâu người ta cũng trầm trồ thằng Tuấn tốt số, có người yêu đẹp lắm trúng giải nhì kỳ thi Duyên dáng Cố đô.
o O o
 “Ngày nhộn nhịp” đã tới. Tôi xin nghỉ, nhưng anh Hạp không cho.
“Hôm nay thay gấp đường dây ở đường Huyền Trân Công Chúa. Thương tình mày chưa vợ cho nghỉ buổi chiều thôi.”
Tôi lắp bộ xà sứ trên đỉnh cột, vừa vặn ốc vít vừa nhìn ra xa, thấy có mấy gánh hàng hoa đang bán. Có hoa hồng nhung đỏ thắm, hay quá, Bim rất thích hoa hồng ở Huế vì nó nhỏ hơn nhưng nở tự nhiên, chứ những búp hồng từ xa chở đến đẹp thì có đẹp nhưng do bị phun thuốc nên chẳng bao giờ nở. Làm xong, áo quần còn lấm lem, tôi phóng tới ngồi lựa hoa.
Mấy cô giáo mặc áo dài đang trả tiền hoa nhìn tôi mỉm cười: “Cô nào may mắn mới gặp anh này.”
Tắm xong, mặc bộ đồ bảnh nhất, tôi phóng đến Bim. Trên bàn một lẵng hoa vừa to vừa đẹp, hoa hồng Đà Lạt đỏ tươi xen lẫn hoa thạch thảo lấm tấm trắng. Tôi khựng lại.
Cô Hạnh hể hả: “Tuấn này, bây giờ văn minh thật, người ta tặng nguyên cả lẵng hoa, cứ thế mà đặt trên bàn chẳng mất công cắm tỉa gì nữa.”
Tôi ngồi yên, rầu rầu.
Bim từ trong phòng đi ra: “Hoa 8 tháng 3 của em đâu?”
Thấy vẻ mặt tôi như thiển ý, Bim giải thích: “Không phải của ai đâu. Đó là quà tặng của Hội Phụ nữ, khen tặng thành tích đóng góp…”
Tôi tươi lên như cây héo được tưới nước. Chiều đó, dắt Bim đi ăn kem, tôi khoe đã được thao tác trên cột, lắp đặt xà sứ thành thạo.
Bim cầm bàn tay tôi, áp những cục chai to vào má “Tuấn nhớ làm việc cho giỏi, sau này nuôi Bim.”
“Ừ, ba năm nữa là Tuấn vững rồi, Bim thích gì Tuấn cũng mua.”
Bim cười, nét mặt giờ đây lại mộc mạc như những trái táo chưa chùi bóng: “Bim chỉ cần ăn cơm có cá, và mỗi tuần được đi ăn kem như thế này.”
Tôi trêu: “Em bây giờ là á khôi xứ Huế rồi, phải kiêu lên đi chứ.”
Tháng năm, thành phố cử Bim đi Sài Gòn dự thi hoa hậu.
Cô Hạnh khoe: “Kinh phí hạn chế nên ngoài hoa khôi, chỉ có á khôi thứ nhất mới đi được.”
o O o
Ngày Bim đi, tổ tôi thi công lắp đặt đường dây số 6 ở trạm Nong. Bim dặn lui dặn tới: “Bốn giờ chiều là tàu đi ngang qua ga Hương Thủy. Tuấn nhớ chạy qua ga, Bim thò đầu ra cửa sổ, cầm cái khăn mầu xanh, chào Tuấn một cái rồi Bim đi.”
Nghe tiếng còi tàu, tôi ba chân bốn cẳng phóng xe. Tàu đi ngang, lừ lừ một chút rồi phóng nhanh, mất hút. Tôi đứng bần thần ngẩn ngơ trên sân. Lủi thủi về trạm, tôi đọc mấy dòng chữ trên máy nhắn tin của anh Hạp: “Tuấn ơi đừng chờ nữa. Bim đi máy bay rồi.”
Tối đó đến thăm cô Hạnh, cô liến thoắng: “Có người Mạnh Thường Quân có lòng ủng hộ quê hương, bỏ tiền ra lo đi lại, ăn ở cho thí sinh Huế…”
Tôi nhìn cô. Thảo nào, mẹ tôi vẫn gọi cô là Hạnh tồ.
Cả hai cô gái đều phải về sớm không dự kỳ thi hoa hậu được vì ai cũng thiếu một phân chiều cao. Cô Hạnh thất vọng. Tôi thì mừng. Giờ đây, tôi đã biết ích kỷ. Sau khi Bim nhận giải 5 triệu ở kỳ thi Duyên Dáng Cố Đô, căn nhà nhỏ đã được lát gạch hoa láng bóng. Buổi trưa, Bim vác gối ra nằm, đi ngoài đường nhìn vào thấy cô nàng nằm khoanh trên sàn như con chó Nhật.
“Vào trong mà ngủ, không được nằm đây.”
“Trong kia nóng lắm.”
“Nóng thì mở quạt. Con gái nằm ngay giữa cửa để phơi cho thiên hạ nhìn à?”
Bim ấm ức: “Tuấn độc tài. Sau này chỉ có hành hạ Bim!”
Tổ tôi nhận thi công đường dây Bắc Hải Vân, cả tháng đi liên miên. Cuối tuần mới về chở Bim đi chơi Trà Am. Tôi nói với Bim tôi làm việc khéo nhất trong tổ. Anh Thạp đề nghị tăng lương sớm cho tôi…
Bim chỉ bảo: “Thế à?”
Hai đứa đi men theo con suối.
“Tuấn cõng Bim nhé?”
“Thôi. Lớn rồi, cõng như con nít, kỳ lắm!”
Bim ngồi dưới bóng cây ươi, giữa những bông hoa nhung đỏ. Muỗi từ ven suối bay lên, Bim tự đập bép bép liên hồi, không nhờ tôi… Tôi ngửa lòng tay nhìn những cục chai to, ngó vu vơ lên trời…
o O o
Rồi tôi gặp người đàn ông ấy, một tối trời trăng. Gã ngồi song song với Bim, nơi chỗ tôi thường ngồi. Thấy tôi vào, Bim chào, ngượng ngùng.
Cô Hạnh bảo: “Đây là Tuấn, cháu cưng của cô. Năm nào trời lụt cũng nhờ một tay nó.”
Gã chào tôi qua loa rồi nhìn lên trần nhà: “Chỗ này chỉ cần bỏ vào chừng năm ngàn đô, lên thêm một tầng kiên cố thì chẳng lo gì lụt.”
Tôi về nhà, ngồi nhìn ra cửa sổ, châm thuốc hút.
Mẹ tôi hỏi: “Măng, con sao vậy?”
“Có gì đâu?”
“Sao con ngậm ngược điếu thuốc?”
Lúc bấy giờ tôi mới nhìn thấy cái đót thuốc đang cháy phừng phừng. Tôi ngước lên nhìn mẹ. Cái nhìn của người vừa bị dao đâm.
Mẹ tôi đỏ mắt: “Chuyện con Bim phải không? Lâu nay mẹ nghe đồn…”
Bà nổi tam bành: “Đồ tham vàng bỏ ngãi. Cái năm trời lụt to, không có Măng thì còn đâu mà gả đi Tây đi Tàu!”
Tôi quờ tay, ngăn lại:
– Thôi mẹ ơi. Chuyện xưa rồi, đừng nhắc.
Tôi biết, Bim của tôi từ nhỏ loanh quanh nơi cái xóm thấp như rún biển, cả đời mới ra khỏi thành phố một lần. Gã phương xa kia với Bim là cả một chân trời. Cũng phải thôi. Ai muốn giam mình trong ao, mà chẳng muốn vươn ra ngoài biển rộng?
Mai lại, đang làm việc, tôi nháng một nhát búa vào tay. Ngón cái dập nhỏ máu.
Anh Thạp nhìn tôi thẫn thờ quấn băng vào vết thương, cười: “Công anh xúc tép nuôi cò, cò ăn cho lớn, cò dò cò đi.”
Thằng Tín cầm lấy cái búa đứng thay vào chỗ tôi, trêu già: “Cò khôn, cò ăn cơm Tây. Ăn chi tôm tép ruộng lầy quê ta…”
Tôi trừng mắt: “Chó chết. Câm!”
Trở về, tôi sốt cao, vết thương sưng húp. Mẹ tôi lo cơm cháo hơn một tuần. Bim không biết tôi ốm, có lẽ còn lo cho ngày đi…
Ba năm sau. Tôi đã lên bậc, tăng lương hai lần. Làm được bao nhiêu tiền nướng hết vào thuốc lá. Tính lầm lì, cả ngày chỉ biết làm.
Đi làm về, chưa thay áo, tôi nghe mẹ nói:
– Con Bim mới về, có bồng con qua đây thăm.
– …
– Lấy chồng Việt kiều, đi Tây về mà không mập, lại còn gầy đi nữa chớ.
– …
– Đi ba năm về mà không có được một món quà cho ra hồn…
– …
– Sao Măng im như thóc không nói gì cả vậy?
– Thì có gì đâu mà nói. – Tôi ư hử.
Mẹ tôi im. Nửa như cụt hứng. Nửa lại như mừng thầm. Mừng cho con trai đã quên khuấy chuyện xưa.
Hơn tuần sau, Bim gọi điện cho tôi.
– Nghe mẹ nói lụt năm nào anh cũng vào dọn cho mẹ, em cảm ơn anh nhiều lắm!
Lâu lắm mới nghe Bim nói – giờ giọng Bim khác xưa, từ tốn, buồn buồn. Cái vẻ buồn làm lòng tôi bỗng chùng xuống. Muôn vàn điều muốn nói mà sao chẳng nói được gì? Lâu quá tôi lầm lì đã thành thói quen, phản xạ nói năng hầu như chẳng có.
Mãi mới kiếm được một câu để nói:
– Em gắng giúp mẹ sửa cái nhà. Ở có một mình mà năm nào cũng vất vả.
Bim ấp úng: “Thương mẹ lắm mà chưa làm sao được anh ạ. Tiền chồng, chồng giữ, tiền vợ, vợ giữ, em mới sang đâu làm được bao nhiêu…”
Tôi thở dài: “Nghe mẹ anh nói, em gầy hơn trước?”
“Dạ, em đi làm xa lắm, mỗi ngày đi về phải ngồi trên xe điện ngầm hơn bốn tiếng đồng hồ. Ngồi trên xe chẳng biết làm gì, cứ nhớ nhà, nhớ hồi xưa…”
Hai tiếng “hồi xưa” nghe sao mà âm vang. Tôi lặng yên, bồi hồi lắng nghe tiếng rung ngân của hai chữ đơn sơ ấy.
“Hồi xưa, anh tốt với em nhiều lắm. Khi ra đi, em cứ nghĩ sau này giàu có sẽ đền công anh…”
Giọng Bim nghẹn như sắp nức nở. Bỗng dưng, nước mắt tôi giàn ra không giữ nổi. “Bim ơi, lớn rồi sao còn nói ngơ ngơ?”
Chiều đó, tôi về lại Trà Am, ngồi một mình dưới gốc cây ươi bên suối. Nước cứ chảy xuôi, chảy mãi. Bim ơi, biết nơi đâu là biển của đời người!
Ốc mượn hồn – Nguyễn Đức Thọ (1955- 2001)
Tôi kém anh Đạt mười tám tuổi đời, mười tám năm tuổi lính, tức là kém anh một kháng chiến chống Pháp, nhưng giữa chúng tôi đã có một tình thâm giao hơn hai mươi năm trời. Tôi là lính của anh, là em kết nghĩa và lâu nay anh vẫn nói với vài người bằng một giọng tự hào: “Thằng Thụ là thằng em vong niên của tôi.”
Khi tôi là thằng lính mới tò te, anh Đạt là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai, trung đoàn pháo binh Bến Hải. Sau chiến dịch Khe Sanh, trung đoàn chỉ còn vỏn vẹn hai mươi bốn người rút ra bờ bắc giới tuyến lập một bộ khung mới để nhập vũ khí, nhận thêm tân binh.
Anh Đạt phát hiện ra tôi ở nhà bếp tiểu đoàn:
– Này, thằng vo gạo dưới suối ơi, mày tên là Thụ phải không?
– Dạ đúng.
– Mày là học sinh chuyên toán?
– Vâng.
Mặt anh Đạt hớn hở hẳn lên, chìa tay ra bắt tay tôi:
– Mày lên đây. Mẹ! cái thằng quân lực gà mờ. Thằng giỏi toán phân đi làm bếp, thằng thủ kho phân đạm hợp tác xã đưa lên làm kế toán. Mai mốt đánh nhau tính không ra phần tử có mà bắn cái cục cứt! Chiều nay mày lên trung đội chỉ huy nhận nhiệm vụ mới nghe chửa?
Thủ trưởng Đạt là thần tượng của tôi. Ở gần một con người tuyệt vời là may mắn nhưng đôi khi cũng phát mệt. Đơn vị nhận pháo mới tận Phú Thọ, hành quân bằng tàu hỏa xuôi về phương Nam. Đến ga Khoa Trường, tàu dừng chờ thông đường. Đã hơn mười giờ khuya, sương xuống lạnh đầm đìa vai áo, hình như mấy khẩu pháo và mấy chiếc xe xích cũng cảm thấy lạnh nên co lại sau lần vải bạt phủ kín nặng nề. Nhà ga cho biết khoảng năm giờ sáng tàu mới có thể chuyển bánh.
Anh Đạt lay vai tôi:
– Từ đây về làng còn mười cây số. Đánh nhau bao năm trong Nam không thấy nhớ mấy, lúc này về đến đây bỗng nhớ mẹ đĩ và chúng nó ghê quá mày ạ!
– Hay là… − tôi bàn nho nhỏ − Thủ trưởng bàn giao cho anh Sơn rồi tạt về nhà thăm chị và các cháu một lát.
Anh Đạt thoáng lặng yên rồi đi hội ý với tiểu đoàn phó. Tôi vào phòng trưởng ga ngỏ ý mượn chiếc xe đạp Phượng Hoàng. Tay trưởng ga lắc đầu nguây nguẩy.
Tôi gay gắt:
– Người ta đi chiến đấu không tiếc xương tiếc máu, mượn cái xe đạp mấy tiếng đồng hồ ông lại tiếc. Thật không biết xấu hổ!
– Mày lên lớp tao đấy hở thằng lính nhóc bọ? − Tay trưởng ga vạc lại tôi. − Mày tưởng làm ở cái ga xép này không tốn xương máu hay sao?
Anh Đạt phải can ra, nếu không tôi đã gây sự với thằng keo kiệt một trận.
Tiểu đoàn phó bảo tôi đi cùng anh Đạt, đề phòng bất trắc:
– Nếu ông ấy trúng phong cũng mặc, bằng mọi giá mày phải cõng lên đây trước giờ tàu chạy, rõ chưa?
Anh Đạt vẫn hồn nhiên nói:
– Rất hay, mày về nhà tao coi thử cái gái lớn có vừa mắt không, mai mốt tao gả cho.
Gà gáy nửa đêm, chúng tôi về tới nhà. Anh Đạt bồi hồi bấm đèn bin soi mặt, ngắm từng đứa con đang ngủ quay lơ trong ổ rơm. Chị Đạt bối rối nhìn chồng, chân tay cứ như thừa ra lóng ngóng chẳng biết làm gì. Tôi ý tứ mắc võng ngoài hiên, vừa đặt mình là ngủ thiếp.
Gần sáng tôi nghe tiếng người rì rầm:
– Bố nó ạ, con Hoe cứ đòi bỏ học. Thằng Tý anh ở lại lớp bốn thêm năm nữa. Thằng Tý em học lớp hai nhưng chỉ viết được mỗi cái tên nó.
Anh Đạt ho khan, mỗi khi nén cười anh thường hay ho khan:
– Mẹ nó lo cho chúng nó ăn no là tốt rồi. Đứa nào học dốt, sau tôi cho vào bộ binh. Chiến tranh còn dài lắm.
– Nói như bố nó, thà đừng cho con đi học!
– Quân đội là trường đại học chính quy nhất, mẹ nó yên tâm, vào đó dốt cũng thành giỏi.
Cuộc hội ngộ của vợ chồng anh Đạt diễn ra khi mình ngủ nên lúc chia tay tôi vẫn chưa nhìn rõ mặt chị. Chúng tôi lại lên đường, chỉ nghe tiếng chị chào:
– Hai anh em đi chân cứng đá mềm.
Ra ngõ, anh Đạt bảo:
– Mày đi trước cho tao bám càng. Cha mẹ ơi, buồn ngủ ríu cả mắt!
Tôi đi như chạy về phía ga Khoa Trường, băng đồng mà đi. Anh Đạt theo sau thở hồng hộc coi bộ mệt tợn. Phải đi nhanh vì còn rất ít thời gian.
Thế nhưng anh Đạt vẫn cố nói đùa:
– Mất sức chiến đấu quá mày ạ! Leo lên bụng bà ấy còn mệt hơn đánh căn cứ Mỹ!
– Thủ trưởng có làm ăn được chút nào không?
– Phải có chứ. Hai phát rưỡi!
– Sao lại hai phát rưỡi mà không tính ba?
– Mày chưa vợ nên không biết. Dân pháo binh, tầm hướng để đâu? Phát đầu chưa quen, sai mục tiêu nên chỉ tính phân nửa, hai phát sau thì tốt.
Tay trưởng ga keo kiệt đứng chờ ngay cửa vào. Tôi lạnh mặt đi qua.
Hắn níu vai anh Đạt, nói nhỏ:
– Xin lỗi đồng chí, tôi rất ân hận. Tôi đã sửa chữa khuyết điểm bằng cách chờ đồng chí có mặt mới báo tín hiệu thông đường và cho tàu chuyển bánh.
Anh Đạt bắt tay hắn:
– Xin cảm ơn, cảm ơn nhiều. Tôi không giận đồng hương đâu. Dân Thanh Hóa quê ta có mượn vợ thì cho mượn chứ không thể cho mượn xe đạp. Hầy…
Tàu kéo còi rời ga, mặt trưởng ga méo xẹo như đang ăn phải ớt. Anh Đạt ngồi dựa lưng vào bánh pháo nhìn xa xăm về phía biển, hừng đông đang rạng dần những tia rẻ quạt. Ngôi sao Mai vẫn sáng lấp lánh đợi chờ.
– Làng tao ở phía ấy.
– Ơ hay, thủ trưởng quên là em cũng mới vừa ở phía ấy lên à?
Cuộc sống người lính đã đưa chúng tôi đi nhiều chiến trường khác nhau. Quảng Trị, Nam Lào và Tây Nguyên xuống miền Đông Nam Bộ rồi vào tận Sài Gòn mùa xuân năm 1975. Thủ trưởng Đạt coi tôi như một đứa em thân tình. Khi tôi sốt anh chăm sóc tôi, tự tay nấu cháo. Tôi nghịch ngợm có tiếng, đến đâu thấy gái là tán như chảo chớp. Anh hăm he:
– Mày đừng cậy đẹp mã. Tán cho vui đời, tán để thò đuôi chuột vào con người ta là không xong với tao đâu.
Thứ tài sản quý giá nhất của anh là chiếc kèn Acmonica luôn mang theo bên bao khẩu súng ngắn. Không ai có thể mó tay vào chiếc kèn. Còn mọi thứ quần áo, lương khô, bột trứng, đường sữa tiêu chuẩn anh cho lính dùng ít khi giữ lại để dành. Mỗi tối liên hoan văn nghệ, tiết mục thổi kèn của thủ trưởng Đạt có hai bài kèn “Vì nhân dân quên mình” và “Tiểu đoàn 307.” Hình như anh chỉ biết thổi hai bài ấy. Tiếng kèn của anh theo chúng tôi từ những đồi cọ miền trung du vào tận thành phố Sài Gòn hoa lệ. Hôm anh em kêu mệt, anh lại lôi kèn ra thổi say sưa.
Ngày đại thắng ngồi trên xe diễu binh, anh ngẩn người ra ngắm đội quân nhạc mặc quân phục trắng chỉnh tề cử những bản hành khúc hùng tráng.
– Mẹ kiếp! Đời chúng nó thích thật! Nếu cho tao trẻ lại tao xin đi làm lính thổi kèn. Nhạc như thế mới gọi là nhạc, hay đến mức tóc muốn dựng ngược!
Anh hỏi tôi:
– Mày biết tên các kèn loại không?
– Em chịu.
– Tao chỉ biết hai loại. Cái to kềnh xoắn ruột ốc là Ô-boa, cái kia là Trom-pet. Ngày xưa, xứ đạo quê tao có hai cái kèn ấy. Hai thằng hòa với nhau nghe sướng tai lắm!
Hôm tôi đi phép ra Bắc, anh lội chợ cả ngày lùng mua mấy bộ đồ thun gửi ra làm quà cho con. Tôi đưa tận nhà, con anh chẳng đứa nào mặc vừa. Anh không thể ngờ các cháu đã lớn đến mức nào. Chị đành đem ra chợ Còng bán, mua gà đãi tôi, mua nếp, thịt nạc làm ruốc bông gửi vào cho anh. Anh không hiểu hoàn cảnh quê nghèo luôn thiếu ăn. Chị cũng không hiểu anh ở trong Nam cuộc sống vật chất đâu đến nỗi không được miếng ngon.
Nhận quà gửi vào, anh cứ lẩm bẩm:
– Thương mẹ đĩ chu đáo. Nhớ tao lắm rồi đây! Biết ngay thế nào cũng gửi quà quê vào. Cảm ơn mày Thụ ạ! Nếu mày chê không cầm cho tao là vợ chồng tình cảm sứt mẻ. Mẹ nó hay ghen lắm!
Tôi chỉ cười thầm trong bụng: bố mày lẩn thẩn bỏ mẹ!
Mỗi đợt đơn vị chọn người đi học đào tạo sĩ quan, tên tôi luôn đứng đầu danh sách nhưng anh Đạt gạt ra.
– Mày tướng mạo thư sinh, khỏi chết chỗ bom đạn là may rồi. Đừng theo đường binh nghiệp như anh. Cố gắng ôn thi đại học chuyển ra ngoài làm quan văn hay hơn.
Tôi chỉ biết cảm ơn anh. Vâng, tôi không thể làm chỉ huy như anh: Khi cần anh có thể hét ra lửa. Khi vui anh vẫn biết giáo dục lính theo cách nửa đùa nửa thật:
– Mẹ chúng mày. Bộ đội đếch gì ăn nói tục như dom!
Tất cả cười. Cười để biết bỏ tật xấu. Nếu lần sau lỡ mồm coi chừng ăn bạt tai. Tôi là thằng láu lỉnh hay cãi lý nhưng chưa bao giờ dám cãi anh. Không phải tôi sợ tính nóng Trương Phi, mà tôi nể bụng dạ thẳng thắn nhân hậu trong cách sống của anh.
Lúc tôi chuyển ngành đi học đại học báo chí, anh buồn vì phải chia tay nhưng làm bộ giấu khéo: Mày nhớ về đơn vị chơi với anh em nhé! Trong học tập phải khiêm tốn mới mau tiến bộ. Đừng hứng lên là nói linh tinh. Ở với anh chín bỏ làm mười, ở trường phải dè mồm kẻo vạ miệng. Làm báo vui nhưng khó đấy! Viết dối thì dễ, viết cho hay cho đúng không phải dễ đâu!
Trong thâm tâm chưa bao giờ tôi muốn rời xa anh Đạt. Đã quen có người bao bọc, thời gian đầu mặc áo sinh viên tôi không khỏi cảm thấy bơ vơ…
Mùa khô năm 1986, anh Đạt được phong đại tá, tôi mừng hơn khi anh nhắn sang Kông Pông Thom theo sư đoàn để viết bài phản ánh cuộc sống chiến đấu của người lính tình nguyện. Anh cưng tôi hơn con cái, đi đâu cũng cho xe chở và lính bảo vệ cẩn thận. Làm như tôi là lãnh tụ không bằng.
Hôm ngày lễ thành lập quân đội, thấy tôi mặc đồ dân sự mang máy ảnh đi dạo phố, anh tức tối, mặt sa sầm:
– Này Thụ, mày có còn là thằng lính không?
– Thủ trưởng hỏi em chả hiểu. Thì em vẫn là thằng lính, em mới mò theo anh sang tận đây viết về lính.
– Thế hôm nay là ngày gì? Tại sao mày không mặc quân phục?
Tôi ngớ ra. Anh đưa cho tôi chiếc áo sĩ quan còn thơm mùi vải.
– Mày phải mặc vào không tao tống cổ đi bây giờ.
Chiến trường Campuchia lúc đó căng thẳng và rất phức tạp. Anh nghêm khắc khét tiếng, hơi tí là ký quyết định kỷ luật những người vi phạm quy chế quân tình nguyện. Tôi quen trung úy Lân, người thành phố Hồ Chí Minh, chuyên gia dân vận ở huyện xa mới bị gọi về nhà khách làm kiểm điểm. Lân đẹp trai, giỏi tiếng Khơmer nên dân địa phương rất quý, gọi là Lục thum. Điều đáng lưu ý là Lân yêu một Mémai[1]. Chị ta tên là Sao Phia, chồng bị Pôn Pốt giết, hiện là Hội trưởng phụ nữ huyện. Lân bị quy tội quan hệ nam nữ bất chính với bà góa, mặt mũi bơ phờ vì thiếu ngủ vì lo lắng. Đã vậy tuần nào Sao Phia cũng lên tận nhà khách thăm. Họ gặp nhau, ôm nhau khóc rồi bịn rịn chia tay. Sợi dây tình đã trói chặt hai người rồi, có trời mới bắt họ xa nhau được. Tôi nghĩ thế.
Có lần Sao Phia rủ thêm cả bí thư huyện ủy, chủ tịch huyện, huyện đội trưởng lên thăm Lân, đòi vào sở chỉ huy yêu cầu đại tá Đạt trả Lân về lại địa bàn. Gương mặt Sao Phia có vẻ đẹp mặn mòi, dáng đi duyên dáng hơi khép nép. Anh chàng Lân đã chết mê chết mệt đôi mắt to đen thẳm có cái nhìn hiền dịu thoang thoảng nỗi buồn xa vắng của chị. Sao Phia bàn với Lân rủ anh bỏ trốn về quê chị, hai đứa sống với nhau làm dân cũng được. Lân thở dài lắc đầu nhưng vẫn khẳng định sẽ lấy chị làm vợ dù bị kỷ luật nặng đến mức nào. Hình như Sao Phia đã có thai được vài tháng, thỉnh thoảng lại thì thầm vào tai Lân rồi kéo tay anh đặt vào bụng mình. Mặt Lân bỗng ngời lên rạng rỡ…
Tôi rất thông cảm hoàn cảnh nên âm thầm nghĩ cách cứu Lân. Nói thế nào để anh Đạt chịu nghe là điều cực khó khăn. Hồi đơn vị ở bên Lào, các cô gái hiền lành xinh tươi như trong mộng rất thích múa Lăm vông với bộ đội Việt Nam quanh đống lửa đêm trăng. Tất nhiên lính tráng chúng tôi khoái hơn mèo thấy mỡ, nhưng thằng nào cũng sợ anh Đạt.
– Các đồng chí cứ vui thật thoải mái, múa thật đẹp vào. Cấm chỉ không được sờ vú đấy. Sờ là tao chặt tay. Còn táy máy cái kia mời ra tòa án binh nhận án tử hình. Điều đó không cần bàn cãi.
Tôi nghe mấy sĩ quan kháo nhau có thể Lân sẽ bị tước quân tịch áp giải về nước. Đến mức này mình can thiệp làm sao xoay chuyển nổi cơ sự? Chần chừ mãi, nhân hôm liên hoan chia tay, chỉ còn hai anh em ngồi ôn lại chuyện đời bên chai rượu Bayon, tôi nhắc anh Đạt, xin xóa án kỷ luật cho trung úy Lân.
Anh trợn mắt lên:
– Không được. Mày tưởng tao không thương nó ư? Nó là một thằng tao còn mê huống chi mấy bà Mê mai Campuchia. Tao cần có nhiều sĩ quan giỏi như nó, nhưng tha cho nó tức là tạo cơ hội cho bọn phản động nói xấu quân tình nguyện, nói xấu chính quyền bạn.
– Chấp gì luận điệu của địch, thủ trưởng ơi. Mình sẽ có cách giải thích thấu tình đạt lý.
– Tao hiểu cái tình của thằng Lân là tình yêu đích thực. Cái lý trong bản kiểm điểm cũng là tình yêu đích thực. Nhưng không thể đem tình yêu nam nữ thường tình ra để thanh minh cho sự nghiệp của quân tình nguyện. Không thể đem một mối tình không biên giới để giải thích với Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc. Xương máu bao đồng đội đổ xuống để cứu dân tộc này… Trời ơi, mày đừng cho tao là thằng quân phiệt.
Có lẽ do hơi rượu hay một sức mạnh tinh thần nào giúp sức tôi đứng dậy vung tay nói oang oang như đang đứng trên diễn đàn quan trọng:
– Em chưa bao giờ cãi lại anh. Em xin lỗi. Anh vừa nói quân đội ta đã cứu dân tộc này thoát khỏi họa diệt chủng, đem lại hạnh phúc cho họ. Em đồng ý một dân tộc bắt đầu từ những con người cụ thể, như Mê mai, như chị Sao Phia. Quân tình nguyện giúp nhiều người, trung úy Lân góp phần đem lại hạnh phúc cho một người bằng tình yêu của mình. Làm cho một người đàn bà góa có chồng, cho chị ta những đứa con, tại sao lại gọi là có tội? Nếu cần anh lập tòa án binh để xử thằng Lân, em xin nán lại, đứng ra bào chữa cho nó.
Đại tá Đạt ngồi yên lặng. Lát sau anh ôm vai tôi, mỉm cười thân thiết:
– Gớm thật. Cái lý của mày hay đấy. Thôi ngày mai em cứ về nước. Anh sẽ gác chuyện thằng Lân lại. Cho nó quá giang xe chở em về lại địa bàn. Hừ hừ… mày đã cản trở được tao, cái thằng lỏi đáng yêu của anh.
– Anh phải hứa tha cho trung úy Lân đấy.
– Thì hứa. Tiên sư mày. Đi ngủ đi, lấy sức mai còn lên đường.
o O o
Khá lâu sau, nhận được thư tôi mới biết cuộc sống của anh Đạt đã thay đổi.
… Rút quân ở Campuchia về, anh chuyển ngành ra dân sự. Anh đã được cấp nhà, cũng coi được, có trệt, có lầu, có khoảng sân nhỏ treo phong lan đặt bể cá kiểng. Anh thấy mình già thật rồi Thụ ơi. Anh đã đón chị vào. Đứa gái lớn lấy chồng, ba thằng sau không thằng nào có nghề nghiệp ra hồn, vào đây đi làm thuê làm mướn lung tung. May là ngoan, chẳng đứa nào hư. Địa phương quý anh lắm, họ phân vào ban viết sử chiến tranh. Chắc chú ngạc nhiên phải không? Một đời thấm đẫm chất Militaire giờ ngồi làm quan thái sư tỉnh lẻ. Thu xếp lên anh chơi nhé! Lúc rỗi rãi đem cái kèn Acmonica ra thổi dỗ thằng cháu ngoại, bỗng nhớ đơn vị ghê gớm.
Tôi cứ nghĩ anh đã yên thân lúc cuối đời.
Cũng tình cờ, tôi gặp lại anh chàng Lân đa tình ngày trước. Lân to béo đến phát sợ, chở vợ con bằng xe hơi đời mới đến chào tôi. Chị Sao Phia nói tiếng Việt khá sõi nhưng vẫn ăn mặc theo lối Khơmer. Trông hai người thật hạnh phúc và khá giả.
– Anh là ân nhân của vợ chồng tôi. Khi ta rút quân, tôi giải ngũ, hai đứa đưa nhau về PhnômPênh mở một tiệm vàng. Đáng buôn bán làm ăn phát đạt thì bị cái họa kỳ thị. Tôi đã nhập quốc tịch, có thẻ căn cước hẳn hoi, đóng thuế đầy đủ nhưng mấy ông UNTAC đến làm phiền hoài. Họ cho là tôi được cài lại. Sau mấy vụ thảm sát Việt kiều, chúng tôi hoảng quá thu vén trở về thành phố Hồ Chí Minh. Hiện đang ở nhờ nhà má ruột.
Tôi chúc mừng vợ chồng Lân rồi nhắc khéo:
– Anh chị nên đến thăm đại tá Đạt, ông mới đúng là ân nhân. Tôi chỉ là người chứng kiến thôi.
Lân không nói gì, xin tôi địa chỉ anh Đạt rồi ra về. Vợ chồng con cái thò tay ra cửa xe vẫy mãi.
Đi quần đảo Trường Sa về, tôi mang theo một món quà của lính đảo tặng đến thăm anh Đạt. Đó là một chiếc vỏ ốc xà cừ lấp lánh khá to. Theo tài liệu nghiên cứu đây là loại ốc hiếm thời xa xưa. Nó đã chết nhưng bên trong có một loài còng gió tá túc. Con còng lớn lên rồi mắc kẹt luôn không ra được, phải mang trên mình một vỏ ốc quá tải, thỉnh thoảng nó lại thò mấy chiếc chân như những que tăm ra cố xoay xở. Chiếc vỏ ốc rung rinh, ánh xà cừ phản quang lấp lánh.
Anh Đạt lấy làm thú vị, ngồi ngắm rồi bật cười ha hả:
– Chí lý. Thật chí lý. Tao bây giờ cũng giống như con còng trong vỏ ốc. Cả đời tung hoành ngang dọc. Về đây có cái nhà thành con ốc mượn hồn. Muốn đi đâu cũng đành chịu.
Chị Đạt, mái tóc đã bạc trắng, có vẻ không vui khi nghe anh nói.
Tôi vội gạt đi:
– Tặng anh thả trên hòn non bộ làm cảnh cho vui mắt. Anh còn thèm chiến trận thì xin mời sang Nam Tư đánh thuê. Đúng là người hiếu chiến. Hòa bình, sum họp vợ con dưới một mái nhà ấm cúng thế này anh còn chưa ưng sao?
Thằng út, đứa con của đêm gặp nhau vội vàng khi tàu dừng ở ga Khoa Trường, giống anh như lột xác, lên tiếng góp vào lời tôi:
– Bố cháu lo những vấn đề mang tính toàn cầu, chú ạ. Hiện nay thế giới có bao nhiêu điểm nóng bố đều theo dõi rất sát.
Anh Đạt lườm yêu nó:
– Mẹ mày, chú mày với cả mày nữa chẳng thông cảm cho tao. Có thể đó là bệnh nghề nghiệp của người viết sử chiến tranh. Ai mà thích đổ máu vì súng đạn, có họa thằng điên!
Tôi biết anh Đạt khó thích ứng với hoàn cảnh cuộc sống dân sự. Ở quân đoàn ai cũng nói anh dại. Thà về hưu, đơn vị cấp đất, nhờ anh em mỗi người một tay làm nhà rồi nghỉ ngơi có hơn không. Chui đầu về tỉnh lẻ, một vị đại tá chiến công lẫy lừng nhưng ra đường vào công sở có ai biết là ai. Nếu không nhờ mấy anh em lính cũ sư đoàn chạy chọt các cửa dùm, chưa chắc anh đã có căn nhà này mà ở. Máu cục bộ địa phương thì nơi nào chẳng có, nên rất khó hòa nhập thoải mái.
Suốt bữa rượu, anh Đạt trầm ngâm nhìn tôi ăn uống rồi cuối cùng thốt ra một câu đầy dư vị cay đắng:
– Mình đi khắp xứ Đông Dương, khắp nước Việt Nam, bây giờ mới thấm thía thế nào là dân ngụ cư. Tự nhiên nhớ làng quê, nhớ phiên chợ Còng loe ngoe hàng quán, nhớ bến cá gió lùa lẫn khuất mùi nước mắm…
o O o
Thằng út đến nhà tôi lúc mờ sáng, nó òa òa khóc như mưa gió:
– Chú ơi, bố cháu chết rồi!
Tôi bàng hoàng tưởng muốn ngã sụp xuống.
Anh khoẻ mạnh hăm hở với đời thế, sao vội đi hở anh? Anh hẹn hôm nào ra Bắc chơi một chuyến cho ra chơi. Xuống chợ Còng uống rượu ăn cua nướng, theo thuyền đánh cá ra đảo Hòn Mê bắt hải sâm nhúng tái làm gỏi, đi vào xuống xe Đông Hà lang thang dọc đường số 9 vào nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn mắc võng nghỉ lại thăm mộ cho bằng hết những người trung đoàn cũ nằm lại đó. Hết tiền à, không lo tao thổi kèn, tao đeo kính đen giả làm xẩm ngả mũ cối xin, mày làm cò mồi chìa tiền ra cho thế nào chẳng có người cho theo… ha… ha.
Anh hẹn sao anh không chờ? Sao anh lỡ hẹn? Có bao giờ anh lỡ hẹn với ai đâu…
Nghe kể lại mới biết anh chết vì chuyện hóa giá căn nhà đang ở. Giá sáu mươi triệu, từng ấy năm công tác anh được giảm mười một triệu, còn lại bốn chín triệu. Khổ thế, cứ nghe triệu triệu mà kinh cả người. Anh hoảng, tìm đâu ra từng ấy tiền. Có người nói nếu có bằng liệt sĩ, có thẻ thương binh thì được tiêu chuẩn nhà tình nghĩa. Anh đi các nơi xin xác nhận. Bây giờ mới biết vì sao anh xin về đây: ông cụ thân sinh là liệt sĩ thời Nam tiến, hiện còn mộ nằm ở nghĩa trang tỉnh. Hội đồng hóa giá cho anh giảm 12 triệu, chạy mờ mắt bở hơi tai lôi cả ông bố thời Nam tiến dậy, kết quả chỉ thêm một triệu đồng, chỉ xấp xỉ một chai rượu ngoại, chưa đủ một bữa đi bia ôm nhà hàng.
Tay cán bộ tiếp nhận hồ sơ giải thích rất nhã nhặn:
– Qui định chung không được giảm quá mười hai triệu, bác ạ.
Anh Đạt nổi khùng:
– Người ta liệt sĩ mười hai triệu. Bố tao cũng liệt sĩ có một triệu thôi à?
– Bác đừng nóng, nếu tính tiêu chuẩn con liệt sĩ thì bác phải thôi tiêu chuẩn Đại tá. Cơ chế thị trường mà! Bác phải thương Nhà nước với chứ! Cộng thành tích cống hiến của cả nước lại thì lấy đâu ra nhà mà cấp hở bác?
– Cơ chế cái con c…
Anh Đạt văng tục rồi bỏ về nằm ốm liệt giường.
Lúc ấy Lân đến thăm. Lân lo lắng đưa anh đi viện, phụ thêm tiền thuốc men chu đáo. Cả nhà rất cảm động trước tình nghĩa người thuộc cấp cũ. Thằng út chủ động đề nghị Lân mua căn nhà làm chỗ ở và buôn bán. Như thế anh Đạt sẽ có tiền nộp hội đồng hóa giá, số dôi ra mua một mảnh vườn có ngôi nhà nhỏ ngoại ô để anh chị dưỡng già.
Không ngờ anh Đạt đồng ý:
– Anh biết chú tốt. Chú mua tức là chú giúp anh. Anh không muốn để nợ nần lại cho con cháu trả. Anh cũng chẳng ham hố cái nhà to…
Lân trả tiền sòng phẳng theo giá thị trường, đưa vợ con về ở làm ăn. Bất ngờ thuế nhà đất tăng vọt. Bên mua chịu thuế thì Lân hết vốn. Bên bán chịu thuế thì coi như anh Đạt chẳng còn gì. Cái bí nảy ra cách gỡ bí. Chính chỗ này làm anh Đạt phát bệnh trọng. Luật quy định người thừa kế được miễn giảm thuế. Anh Đạt phải viết giấy làm sao để Lân được sở hữu căn nhà một cách hợp pháp.
Anh buồn suốt một tuần, cả ngày không nói câu nào, bữa ăn chỉ húp lưng chén cháo trắng. Ăn miếng ngon nào là nôn ra thông thốc. Anh không chịu đi nằm viện. Nửa đêm anh lồm cồm bò dậy tìm giấy bút ngồi vào bàn viết…
Tôi đã đọc nhiều bản di chúc. Nói chung người sắp chết thường sáng suốt. Chữ anh viết chân phương rõ ràng trên giấy trắng có hàng kẽ… Nhưng anh Đạt ơi, có lẽ đây là bản di chúc lạ lùng nhất trên cõi đời.
Tôi có bốn con đẻ và một con nuôi. Các con đẻ đã được ăn học có nghề nghiệp, tôi tin các con sẽ vươn tới tương lai bằng nghị lực và hai bàn tay của chính mình. Riêng con nuôi là Nguyễn Lân chưa có nhà. Tôi quyết định cho cháu được thừa kế căn nhà được hóa giá, kính mong cơ quan hữu trách xác nhận quyền sở hữu hợp pháp của cháu.
Hơn bốn mươi năm theo Đảng phục vụ quân đội, tôi luôn coi mình là người cộng sản. Tôi yên tâm và tự tin với suy nghĩ ấy. Giờ chết đi, tôi hoàn toàn thanh thản. Không băn khoăn oán trách một điều gì với bất cứ ai.
Phần tang lễ nhờ đơn vị cũ cho tôi được hưởng theo quy cách người lính. Phiền đội quân nhạc cử hai người một đồng chí Ô-boa, một đồng chí Trom-pet đến thổi hai bài. Bài Tiểu đoàn 307 thổi lúc truy điệu, bài Vì nhân dân quên mình thổi lúc hạ huyệt. Thế là tôi mãn nguyện.
Các con. Bố là lính, coi như bố hy sinh ở chiến trường. Đừng nhận tiền phúng điếu. Lẽ đời có lúc phải biết từ chối, mong các con hiểu lòng bố. Chiếc kèn Acmonica bố gửi tặng phòng truyền thống sư đoàn. Chú Thụ sẽ thay mặt mẹ và các con làm chủ tang. Bố tin chú hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi đã tiễn đưa nhiều đồng đội hy sinh nhưng tôi gan lì ít khóc. Đọc xong những dòng di chúc của anh Đạt, tôi khóc lả người, khóc hết nước mắt một đời lính gom góp lại.
Ôi anh Đạt ơi, anh sẽ được thỏa lòng. Cầu chúc anh yên giấc ngàn thu.
Chú thích:
[1] Mémai: phiên âm từ tiếng Khmer, có nghĩa phụ nữ góa chồng. (BT)

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.