chan_dung-ke_si

CÔ TRÒ – Truyện ngắn Trần Tùng Chinh

23-11-2023

Lượt xem 1605

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Trần Tùng Chinh

CÔ TRÒ – Truyện ngắn Trần Tùng Chinh

Nhà văn Trần Tùng Chinh

Chân Dung Kẻ Sĩ: CÔ TRÒ là truyện ngắn trong veo của nhà văn người An Giang Trần Tùng Chinh. Ở đấy, có lũ học trò nghịch ngợm bày trò đua xuồng với cô giáo sợ nước của chúng, có trò thăm bịnh cô bằng một nải chuối, có cô "về năn nỉ ỷ ôi mẹ của cô" làm mạnh thường quân giúp lũ trò kinh phí đi tham quan dã ngoại...

Từ đó đến cuối năm cô làm việc không ngừng nghỉ. Cô dạy trên lớp hết cả sức mình. Trống đánh hết tiết, cô cũng “oải” cả người. Học trò có thể hỏi bài cô bất kỳ ở đâu, bất cứ lúc nào. Cô lại dạy phụ đạo thêm cho ai học yếu. Trò học thuộc loại khá cũng lò dò xách tập vào ngồi. Rồi ngoại khoá, rồi đi tham quan … Trường không đủ kinh phí, cô về năn nỉ ỷ ôi mẹ của cô làm “mạnh thường quân”. Mẹ cô chỉ còn biết mắng yêu: “Tôi nuôi cô chưa đủ hay sao còn phải nuôi luôn cả lũ học trò của cô đây hử?” May mà bố mẹ cô kinh doanh mua bán đã lâu, lại chỉ có mỗi mình cô nên “bảo trợ” cho cô tha hồ dạy học.

 

 Ngày cô vào lớp, Cả lớp đứng nghiêm chào cô. Trò đứng thẳng đến nỗi ưỡn cả ngực nhưng sau đó lại há hốc mồm nhìn cô. Tất nhiên là cô bối rối lắm nhưng rất dịu dàng cô cho cả lớp ngồi xuống. Trò cũng ngồi xuống nhưng chống tay lên cằm tròn mắt nhìn cô; sau đó cô sinh họat đôi điều ngắn gọn đầu năm. Vừa phổ biến nội qui cô vừa như tình cờ mở nắp của cái giỏ xách rất mi-nhon để trên bàn. Ở mặt trong có cái gương nhỏ xinh xắn, đính vào giỏ. Cô chỉ xem mặt mình có gì lạ không? có dính lọ nghẹ không mà sao có một cậu học trò cứ chỉ có việc nhìn cô từ đầu đến giờ, không ghi chép gì mà dường như cũng không nghe gì. Nhìn thấy mình trong gương, cô tự tin trở lại. Chả có gì. Nếu có thì là vì cô quá dễ thương trong một khuôn mặt gọn, mắt sáng đàng sau đôi kính trắng, mũi nhỏ mà cao, thanh tú. Và cái miệng lúm đồng tiền hay cười khoe ra một chiếc răng khểnh mà thôi.

Thế là cô đi một vòng hỏi tên để làm quen với lớp. Và cô dừng lại trước trò, lúc này đang đỏ bừng mặt, nhưng vẫn cứ nhìn cô :

- Em tên là gì?

Trò ấp a ấp úng:

- Tên em … xấu hoắc!

Cả lớp nhao nhao cười:

- Nó tên là Tèo đó cô!

Cô ngạc nhiên nhưng không cười:

- Tên Tèo dễ thương thôi, có gì là xấu nào?

Mắt trò sáng lên vui sướng và biết ơn:

- Thiệt hả cô!

- Thật mà!

À thì ra là tên Tèo. Cô vừa cảm thấy thú vị và tiếp tục đi hỏi tên các bạn khác. Và sau cái ngày sinh hoạt chủ nhiệm đầu năm đó, cô nhớ giỏi lắm chừng năm bảy tên là cùng. Nhưng tất nhiên là trong đó có cả tên Tèo.

Ngày lao động đầu năm. Cô chưa từng thấy ở đâu như ở đây. Học trò chịu khó dầm mình xuống sình lầy, hăng say chuyển từng tảng đất nhão nhoét – ít nhất là ba-bốn kí lô, để đắp một con đường từ cổng vào ba dãy lớp. Mà thực ra cô cũng chưa đi nhiều, chưa dạy nhiều để so sánh. Nếu có thì là lúc đi thực tập ở một trường trong thành phố. Lao động à? Học trò giỏi lắm là cầm 5-ba cây chổi quơ qua quơ lại bầy giáng nhện trên trần, sạt tới sạt lui ba góc lớp. Còn thì cầm chổi rượt nhau chạy chí choé như một lũ khỉ ở vương quốc Tề Thiên. Bỗng dưng cô thấy thương học trò quá.

Trong cái hàng cong queo của lũ học trò lấm lem sình đất, cô nhìn thấy trò. Trò đi lao động từ rất sớm. Nhưng khi thấy con gái tíu tít quanh cô, thì trò lui ra ngồi trên băng đá. Vẫn đưa mắt về phía cô. Rất hiền. Và đến khi bắt đầu làm việc, trò làm rất say. Trò đứng ở đầu hàng chỗ dít đất. Mồ hôi đổ dán áo vào lưng – cái áo sơ mi dài bỏ bên ngoài mà bắt đầu khó phân biệt đâu là áo đâu là đất.

Cô ra căn-tin và chỉ trong chốc lát, cô gồng mình xách vào một thùng nước đá. Nhưng đi chưa được 5 bước vì thùng quá nặng, cô đã thấy trò bỏ len bỏ xẻng, chạy ào đến bên cô:

- Cô ơi sao cô không để mấy bạn làm?

Vừa nói trò vừa chộp tay vào đỡ lấy quai thùng. Cô và trò cùng nhìn thấy một cục đất nhỏ từ tay trò rơi tõm vào thùng. Trò lúng túng. Còn cô thì mĩm cười lúm đồng tiền:

- Bí mật nghen! Có cô và em biết thôi đấy! Không thì các bạn chả ai dám uống.

Trò cười theo cô và thấy nhẹ nhõm hẳn.

Ngày 20 tháng 11. Cô đi theo học trò ra đồng. Nước đã bắt đầu rút, nhưng đồng vẫn còn mênh mang nước là nước. Cô cẩn thận gỡ đôi giầy xăng-đan để ở đầu xuồng. Rồi làm ra vẻ tỉnh táo, trong khi tay bấu chặt hai mép xuồng, cô phó mặc mình cho bọn chúng chèo ra xa. Những bụi bông điên điển còn vài bông hoa vàng sót lại cúi rạp mình xuống khi xuồng cô đi qua. Nước trong vắt, có thể nhìn thấy rong rêu quấn lưng chừng ngọn cỏ. Lũ cá rô đã già hơn so với đầu mùa nước đang ve vẩy đuôi như không khề biết sợ là gì. Đồng nhẹ thênh và mát rượi. Trò cặp xuồng mình cạnh xuồng cô:

- Nón lá nè cô đội đi cô! Kẻo bữa nay cô về nắng ăn đen thui ba mẹ cô nhìn không ra!

Cô cười. Trò móc mồi tép vào cần câu cho cô, nói:

- Cô thả vào bụi và chờ. Đừng giở lên giở xuống xem chừng hoài dễ mắc gốc. Hễ cái phao chao nghiêng là cô giựt liền nghen!

Cô lại cười. Cầm cần câu hồi hộp gì đâu. Nhưng cô không phải chờ lâu. Một con cá rô không lớn lắm đã giãy rung cả cần câu. Mắt nó tròn như mắt trò nhìn cô. Cô thấy nó tội nghiệp nên gỡ nó ra thả nó lại đồng. Học trò cười bảo cô không “sát cá”. Con cá nào được cô câu dính thật là phước đức. Sau một phen hú vía, thế nào nó cũng bơi tung tăng đi kể cho bạn bè nghe. Thế là chả con nào ăn câu nữa.

Cả bọn hét lên đòi nghỉ câu và tắm. Ở lớp, cô tự tin bao nhiêu, còn ở đồng mênh mông nước này cô lúng túng bấy nhiêu. Thật khó mà ngăn được niềm hứng thú hồn nhiên của học trò cô. Cả con trai lẫn con gái. Chúng nó bơi, lặn, hụp, tát nước nhau chí choé. Xem chừng thấy cô có vẻ buồn khi đứng ngoài cuộc, chúng nó bày ra trò đua xuồng.

Mọi chuyện “bình yên” cho tới lúc này. Đến khi cô té tõm xuống nước, cô mới biết là chúng giở trò đua xuồng để cô được hoà mình trong dòng nước mát lạnh đến chân tơ kẽ tóc. Xuồng lật úp. Cả bọn vỗ tay la hét, té nước tung mù trời đến lũ cá rô chắc cũng sợ hãi mà bơi đi mất. Lên xuồng trở lại, cô mới phát hiện ra đôi giày của cô đã mất tích. Lũ con gái tỏ ra rất lo lắng trong khi tụi con trai thì lại hơi hối hận. Chúng chuộc lỗi bằng cách dàn hàng ngang trên đồng đi mò giày lại cho cô. Trời ngả về chiều, gió bấc đầu mùa se se lạnh, ánh nắng chiều lấp lánh rợp mắt đồng. Lũ học trò hụp lặn bắt đầu lẩy bẩy run, răng va vào nhau lập cập nhưng chỉ tìm ra một chiếc. Cô tuyên bố tặng chiếc còn lại cho đồng nước. Đám con gái pha trò, chắc là lũ cá giữ lại một chiếc làm kỉ niệm rồi. Cô trò lên xuồng quay trở về. Đến lúc đó, cô thấy trò một mình giữa đồng, không bỏ cuộc. Sục sạo một đỗi nữa ở chỗ xuồng chìm, cuối cùng giơ lên khỏi mặt nước chiếc giày của cô, môi trò tím tái đi vì lạnh:

- Em xin lại của con cá rô nè cô!

Sau ngày hôm đó, lẽ ra trò bị bệnh mới phải. Nhưng không, lại là cô. Học trò đến thăm chật cả nhà. Chúng lăng xăng chíu chít uống của cô hết ba-bốn bình trà, leo lên vặt sạch cây mận-trái già lẫn trái non-rồi biến. Nhưng chỉ một lát sau trò quay trở lại một mình:

- Tụi nó về hết rồi cô. Toàn là quậy thôi. Em phải quay lại hỏi cô đỡ chưa?

Cô rưng rưng cảm động nhưng vẫn cười lúm đồng tiền bảo rằng cô sắp trở lại dạy rồi. Trò rút trong ba lô học trò ra một nải chuối, quả nào quả nấy tròn căng:

- Cô ăn bồi dưỡng cho mau hết bệnh nghe cô!

Rồi ngồi im như củ khoai. Không nói. Cứ lâu lâu lại ngước nhìn cô. Và cười.

- Thế ở nhà có mấy anh em? Cô bắt chuyện
- Dạ ba, em là anh hai. Trò thưa và giới thiệu thêm
- À, vậy là anh hai giỏi lắm đây. Chắc là giúp mẹ nhiều việc lắm nhỉ?

Mắt trò đột nhiên buồn thiu.
- Má em mất ba năm nay rồi cô ơi!

Cô ấp úng xin lỗi. Và ngờ ngợ nhận ra tình cảm của trò, từ cái ngày đầu tiên. Tiếng trò thật nhẹ bên tai cô:
- Má em có cái lúm đồng tiền và nụ cười y hệt cô.

Cô nghe mắt mình cay cay. Và ước chi mình là một ông thầy giáo để được ôm trò vào lòng.

Tết. Cô quyết định đi một vòng nhà học trò lớp chủ nhiệm. Tất nhiên nhà của trò, cô đến đầu tiên. Căn nhà lợp lá trên nền đất. Tài sản chỉ là chiếc giường, một bàn thờ, một tủ đứng gắn hình sau cửa kiếng. Cô nhìn thấy má trò, tấm hình trắng đen. Má trò cười lúm đồng tiền, ẵm bên hông một em bé, hai đứa đứng phía trước đều đi chân không. Một đứa ốm nhom cao nhòng. Trò chỉ :

- Em đó cô!

Cô cười:

- May mà lớn lên em không còn là “cây tăm” nữa!

Trò cũng cười:

- Ra đồng vác lúa vài ba vụ là mập lên liền hà cô!

Đến khi tía của trò bước ra thì cả trò lẫn hai đứa em đều lủi mất. Trò giống tía ở nụ cười rất hiền. Chỉ khác là cuộc sống “gà trống nuôi con” vất vả, đã tạo nên ở tía trò một sự khắc khổ toát ra từ nước da ngăm đen và đôi mắt sâu rất sâu.

- Thằng Tèo tui, nó nhắc hoài, hôm nay mới biết cô giáo đây. Nó thì khờ khạo lắm, có gì cô rầy nó dùm. Tội nghiệp, từ khi má nó mất, thằng nhỏ cực quá!

Tía trò còn nói nhiều nữa. Chuyện nhà, chuyện của trò và các em trò. Rồi cuối cùng, hai tía con trò tặng cô hai chậu hoa vạn thọ và một nhánh mai ở nhà trồng. Cô chỉ biết vâng dạ rồi nhận quà. Và chợt nhận ra cô mắc nợ học trò mình nhiều quá.

Từ đó đến cuối năm cô làm việc không ngừng nghỉ. Cô dạy trên lớp hết cả sức mình. Trống đánh hết tiết, cô cũng “oải” cả người. Học trò có thể hỏi bài cô bất kỳ ở đâu, bất cứ lúc nào. Cô lại dạy phụ đạo thêm cho ai học yếu. Trò học thuộc loại khá cũng lò dò xách tập vào ngồi. Rồi ngoại khoá, rồi đi tham quan … Trường không đủ kinh phí, cô về năn nỉ ỷ ôi mẹ của cô làm “mạnh thường quân”. Mẹ cô chỉ còn biết mắng yêu: “Tôi nuôi cô chưa đủ hay sao còn phải nuôi luôn cả lũ học trò của cô đây hử?” May mà bố mẹ cô kinh doanh mua bán đã lâu, lại chỉ có mỗi mình cô nên “bảo trợ” cho cô tha hồ dạy học. Công việc bề bộn nhưng có nhiều niềm vui. Cô nghĩ đôi khi công việc và tình cảm học trò hoà lẫn vào nhau đến cô còn khó phân biệt được. Nhưng cũng nhiều khi, cô nghĩ, không biết vài năm sau, liệu cô có còn nhiệt tình như thế này không? Giả dụ như mai mốt cô lấy chồng thì sao? Hay khi bố mẹ cô già, cần có cô thay thế trong việc kinh doanh chẳng hạn?

Cô chia xẻ những điều đó với trò. Trò trầm tư hơn. Rồi sau đó nói một câu tưởng chừng không ăn nhập gì đến băn khoăn suy nghĩ của cô:
- Em chỉ mong thằng Tơ và thằng Tí em của em sau này được học với cô thôi!

Trò đâu biết rằng khi cô tiễn trò tốt nghiệp ra trường, chính cô cũng mong như vậy. Mong ước và cố gắng. Nhưng ngày mai như thế nào, làm sao cô biết được, trò ơi!

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.