chan_dung-ke_si

CHUYỆN CÔ CHIÊU NHÌ - Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

23-10-2023

Lượt xem 987

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Nguyễn Bá Học

CHUYỆN CÔ CHIÊU NHÌ - Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

Nhà văn Nguyễn Bá Học (1857-1921)

Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà văn Nguyễn Bá Học được coi là một trong những nhà văn đầu tiên viết truyện ngắn bằng chữ Quốc Ngữ của văn học Việt Nam hiện đại. Chuyện cô Chiêu Nhì của của ông đăng trên Tạp chí Nam Phong năm 1921, nằm trong hoàn cảnh buổi đầu sơ khai của văn chương sáng tác bằng chữ Quốc Ngữ nói trên. Mặc dù câu chuyện ra đời đã hơn một thế kỷ, nhưng nội dung câu chuyện nói về cách dạy con, cách làm người vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay.

Cổ nhân có câu cảnh ngôn rằng: "Con nhà giàu hay xa xỉ, con nhà sang hay kiêu căng". Thật như vậy, nhà giàu ăn tất cao lương, mặc tất gấm vóc, ở tất lâu đài, đi tất xe ngựa, thị dục ngày càng nhiều, đụng độ (1) ngày càng rộng; như thế muốn cho con em có thói cần kiệm làm sao được. Thực chưa hề có dạy con xa xỉ, mà xa xỉ đã thành ra cái thói quen.

Nhà sang gọi có người dạ, bảo có người vâng, nói dở không ai dám chê, làm dở không ai dám bẻ, tai chỉ nghe những tiếng phỉnh nịnh, mắt chỉ trông những người xu phụ. Như thế mà muốn cho con em có thói khiêm nhường làm sao được. Thực không hề dạy con kiêu căng mà kiêu căng đã thành ra cái thiên tính.

Than ôi! Xa xỉ tất là bại gia, kiêu căng tất là bại đức; vậy giầu sang là cái hạnh phúc hiện thời, biết đâu không phải là cái di hoạ cho con cháu! Cổ thi có câu rằng:

Phú quý bất dâm bần tiện lạc,

Nam nhi đáo thử thị hào hùng (2).

Người không hào hùng mà phú quý, chẳng cũng nguy lắm ru! Cho nên giáo dục ở trong nhà nghèo hèn thời dễ, giáo dục ở trong nhà phú quý thời khó. Nếu cho câu nói này là không thật, xin đọc câu cảnh thế tiểu thuyết (3) như sau này:

  1. Mức tiêu dùng.
  2. Phú quý không ham, vui với nghèo hèn, làm trai nên thế là hào hùng.
  3. Tiểu thuyết răn đời.

Ký giả vốn là người Kinh đô, nhân đi thiết trướng (1) và lưu ngụ tỉnh xa, cứ mỗi ngày hưu hạ (2), lại về câu lưu ít ngày mà hưởng cái cố viên phong vị. Mới hơn mười năm nay, phong khí mở mang, việc đời thay đổi, y quan đệ trạch (3) đều không còn cái quang cảnh cựu thời khiến người lưu lãm mỗi nơi, đều có cái tích kim quan cảm (4).

Một hôm tôi với người bạn đi chơi các phố đã hơi mỏi, đưa nhau vào nghỉ trong một cái trà lâu. Vừa ngồi trông ra ngoài bao lan thấy người bạn tôi nói:

- Kìa cô Chiêu Nhì đã đến! Cô Chiêu Nhì đã đến!

Mới nghe hai tiếng "cô Chiêu", tôi tưởng là một vị nữ công tử nào, lạc lối Đào nguyên đâu mà đến đó, tôi cứ chú ý mà xem. Ai ngờ bước vào là một con ăn mày, chừng 30 tuổi, đầu bù tóc rối, mặt bủng da chì, quần không che đùi, yếm để hở ngực, tả tơi như hoa gặp gió đã tàn, u ám như trăng tuần mưa đã úa. Thế mà bước đi ưỡn ẹo, vẫn ra cái phong vận đại gia. Một tay cầm mẩu "xì gà" hút lấy hút để, một tay dắt đứa con chừng ba bốn tuổi, mặt mũi bẩn thỉu, mới trông không biện (5) là con nhà nào, đầu không có mũ, đít không có quần, mình đeo cái áo tướp như bươm bướm.

Người con gái đi đến từng khách ngồi mà hỏi xin: tiếng nói khẽ mà nhỏ như tiếng ve sầu, mới nghe không rõ là nói gì. Người ta cho một đồng kẽm, không chịu lấy, cứ năn nỉ, đổi cho đồng xu, mới nhặt lấy mà đi chỗ khác.

Tôi đang trông đang nghĩ, người bạn tôi vừa cười vừa nói:

- Bác có muốn nghe cái lịch sử cô Chiêu Nhì này không?

Tôi cũng cười mà nói:

- Có.

Nhân rót một chén nước chè đầy. Bạn tôi vừa dấp giọng vừa nói:

- Cô này, lúc còn nhỏ, tôi biết, là con gái một nhà phú quý, đây tôi không muốn nói tên, là để danh dự cho một người tai mặt. Cô là con thứ hai, cho nên gọi là "Nhì".

Cha anh đều phát đạt sớm, có danh vọng thế lực một thời, không may đều thất lộc đi sớm; chỉ còn một mẹ hiền lành quá, không có tư cách giáo dục. Hiếm hoi chỉ còn một cô là con gái, nâng niu như hòn ngọc trên tay, không nỡ để một chút gì cho trái ý con cả.

  1. Dạy học.
  2. Nghỉ hè.
  3. Mũ áo nhà cửa.
  4. Mối cảm xúc xưa nay.
  5. Phân biệt.

Bấy giờ cô Chiêu còn nhỏ, đã có tính hay hỗn hay hờn. Cả ngày chỉ hát hổng cười đùa, mắng đầy sai tớ, phàm trong nhà vá may nấu nướng không biết một việc gì. Năm 14, 15 tuổi đã biết vuốt ve làm dáng, hộp son bình phấn, ấy là cái đồ nữ tắc nữ công. Mẹ thấy con hoa ướp hương xông, cũng ra ý mừng thầm: con trẻ đã ra vẻ người lớn. Gặp những ngày thanh minh, trùng cửu tất cho con sửa xe sắm ngựa, để đi khoe cái tốt cái đẹp với người.

Từ bấy giờ cô Chiêu tính càng kiêu ngoa, nết càng phóng túng, nay chán thứ mặc cũ này, mai sắm thứ thời trang khác, hết sức chua ngoa, cùng cực xa xỉ. Không hội hè đình đám nào cô không đi xem; không ngõ liễu đường hoa nào mà cô không đi dạo. Những lũ thiếu niên hoàn khóa (1) ở hai bên đường, khêu cô bằng mắt, ghẹo cô bằng lời, cô càng ngắm nghía càng vui, lấy thế là người ta khen cô xinh cô đẹp. Cho đến phu xe con hát không ai là không biết cô, tranh nhau đón rước chào mời, cô càng ra mặt hào, càng lên vẻ quí; còn bao nhiêu lời vặt nghị (2) cùng danh tiếng ông cha, cô không đoái hoài chi đến cả.

Chẳng bao lâu, lời ve tiếng én nghe đã ỏi cả tai, người mẹ muốn làm thinh không được. Một tối chờ con đi chơi về, đuổi cả con ăn cái ở ra bên ngoài, sẽ gọi cô Chiêu đến mà nói: "Mẹ xem nay con đã lớn, chưa có chỗ xứng đôi, mà con cứ suồng sã rong chơi, không giữ giá con nhà, mẹ e không có người hay chuộng đến con nữa. Nay mẹ những lo đêm lo ngày vì con, nếu con không sửa đổi tính nết con đi thế nào, con để phiền cho mẹ mà cũng tự khổ cho con nữa".

Cô Chiêu nghe mấy lời từ huấn, như gió thoảng ngoài tai, cứ thản nhiên không cảm động, lại bảo mẹ rằng: "Gái có chồng như gông mang cổ; người ta ở đời ăn chơi cho thoả, con ơn cha nhờ mẹ được no cơm lành áo, ấy là có phúc có phận, chồng mà làm gì. Mẹ, đừng khóc nữa! Nào ai phiền não mẹ, chẳng qua là mẹ tự cầu lấy phiền não!". Nói rồi, nguây nguẩy đi về chỗ ngủ.

  1. Bãi học trở về.
  2. Chê bai dị nghị

Người mẹ nghe bấy nhiêu lời, biết con mình đoạ lạc đã sâu, không sao mà cứu vớt được nữa, càng hối từ khi còn nhỏ mình quá yêu con mình chính mình hại con mình đó. Cứ một mình ưu ưu uất uất, đau ngấm đau ngầm, không được bao lâu mà chết. Lúc sắp chết còn cầm lấy tay con ứa hai hàng nước mắt, muốn khuyên con hối cải, song nói đã không nên lời, mà cô Chiêu cứ dạ sắt gan vàng, không đau cũng không ngứa.

Khi người mẹ đã chết, cô càng không cố kỵ (1) gì nữa; bao nhiêu của tư trang đồ tế nhuyễn cầm bán huỷ hoắc cho hết.

Nước bạc đã thạo, lược rượu cũng cao, tinh thần ngày một hao tổn, ngọc thể ngày một võ vàng, lại mượn ả Phù dung, để làm đồ bổ trợ. Ngày đêm đi theo một chàng đãng tử, như điên như dại, như mộng như si. Ít lâu thấy mình đã có mang, trước còn cấm con ăn đứa ở không được hở han ra ngoài. Sau nhân sự nhỏ mọn trong nhà đánh chửi đứa đầy tớ, tức mình nó đem cái bí sử của cô mà tuyên bố ra ngoài, tiếng lành đồn xa, tiếng dữ cũng đồn xa, thực cô đã đứng đầu con gái tự do ở nhà Nam Việt.

Người trưởng tộc nghe biết, giận lắm, bắt cô uống thuốc sổ, rồi đuổi cô ra khỏi nhà, nỡ nào để danh giá một nhà trâm anh ô nhục vì một đứa con bất hiếu. Bấy giờ cô Chiêu như bông liễu đã dính đất bùn, hoa thơm đã rơi lỗ hỗn (2), bao nhiêu người khi trước được biết cô là vinh, đến bây giờ lại lấy quen cô là nhục; thấy bóng cô ai cũng lánh mặt, nghe tiếng cô ai cũng bĩu mồm. Thương ôi! Vừa mới ngày nào thân vàng vóc ngọc, mỹ miều thay! Một vị tuyệt diệu giai nhân, nay đã bẽ bàng thay lá rụng hoa rơi, thành ra một cái uế vật trong đường, không ai thèm ngó đến!

  1. Kiêng kỵ.
  2. Cái lỗ bẩn thỉu, hỗn trọc.

Đang lúc nghiêm đông, mưa phùn gió bấc, đường vắng người đi, trời đen như mực, cô Chiêu mình mặc cái áo bông rách, xo ro như con cò bị bão, đứng dưới đầu hè nhà người ta, ruột đói như cào, cơn nghiện vừa đến, đứng không vững dựa mình vào tường mơ màng trông thấy mẹ mặt giận hầm hầm như tức tối vì thấy con không nghe lời di chúc.

Than ôi! Nhỡ nhàng một giọt mưa sa, đường cùng thân gái biết là về đâu! Bất đắc dĩ, cô gõ cửa một cái nhà láng giềng cũ, xin ngủ nhờ một tối, sớm mai sẽ nhờ người tìm nơi cho mà đi ở vú. Nhà kia đánh lửa mà xem, biết là cô con gái nhà ông Mỗ bà Mỗ tủm tỉm mà nói rằng: "Con nhà khuê tú, sang trọng đã quen, xưa nay chỉ biết sai người, nay chịu cho người sai sao được. Nhà chúng tôi đây không phải là lữ quán, không dám dung quý nhân". Nói rồi, tặng cô một bát cơm và mấy đồng tiền, mời cô đi chỗ khác.

Cô Chiêu nghe bấy nhiêu lời mai mỉa đau đớn hổ thẹn nghìn phần, vội lùi chân ra vừa được mấy gian nhà, liền ngã xuống bên đường, mê mẩn không biết gì nữa.

Đêm đã khuya, mưa đã tạnh, mây vừa quyển (1), trăng vừa lên, chợt nghe tiếng chân người từ xa lại gần, ấy là cái cứu tinh của cô Chiêu đã đến. Khán Xuân là một người phu điếm trong phố, tuân lệ vừa đi tuần. Bên đường chợt thấy có thây người, lại gần mà xem là một người con gái. Sờ ngực còn có hơi thở, vội cõng ngay về điếm. Lấy rơm mà sưởi, lấy nước cho uống, dần cô Chiêu tỉnh lại. Khán Xuân mừng lắm, hỏi nhân sao mà nằm đây. Cô Chiêu nhân kể lể sự mình, và có ý hối hận, nghĩ mình sống không bằng chết, nay đã đội ơn cứu tử, cam lòng kết nghĩa ba sinh. Khán Xuân vốn là anh lạc phách gặp cô Chiêu là ả hàng cơm, hai bên liền kết bạn cùng giao (2), cũng được cái tiên duyên túc đế (3). Được một năm sinh được đứa con, cứ ban ngày Khán Xuân đi làm tôi trong phố, cô Chiêu bế con đi ăn mày, tối tối lại về cùng hưởng cái tư vị đoàn viên nơi điếm sở.

  1. Cuốn
  2. Kết giao trong khốn cùng.
  3. Duyên trước, gốc xưa.
  4. Cuốn.

Cái lịch sử cô Chiêu Nhì kết quả là thế, hồng nhan mạt lộ, nghĩ cũng nên thương, ai biết rõ câu chuyện này, cũng đồng thanh thán tức.

Tôi ham nghe câu chuyện, trông ra trời đã chiều hôm. Tôi từ bạn về nhà, còn bâng khuâng như có điều gì nghĩ ngợi.

Bèn khêu đèn mà chép kỹ càng, để bạn nữ lưu đọc xem, cũng có điều cảnh giới.

Tạp chí Nam Phong,

Số 43, Tháng Giêng 1921

CHUYỆN ÔNG LÝ CHẮM - Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

CÂU CHUYỆN NHÀ SƯ - Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

CÂU CHUYỆN GIA ĐÌNH - Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.