chan_dung-ke_si

Chiêu Hồn Nước - Thơ Phạm Tất Đắc

07-10-2023

Lượt xem 1181

Đánh giá 2 lượt đánh giá

Chia sẻ

Chiêu Hồn Nước - Thơ Phạm Tất Đắc

 

Hăm lăm triệu trẻ già trai gái,
Bốn nghìn năm con cái Hồng Bàng.
Cũng nhà cửa, cũng giang san,
Thế mà Nước mất nhà tan hỡi trời!

Nghĩ lắm lúc đương cười hoá khóc,
Muốn ra tay ngang dọc dọc ngang.
Vạch trời thét một tiếng vang,
Cho thân tan với giang san Nước nhà.

Đồng bào hỡi! - Con nhà Hồng Việt,
Có thân mà chẳng biết liệu đời.
Tháng ngày lần lữa đợi thời,
Ngẩn ngơ ỷ lại ở người, ai thương!

Nay sóng gió bốn phương dữ dội,
Có lẽ nào ngồi đợi mãi sao?
Đồng bào chút giọt máu đào,
Thương ôi! Tội nghiệp đời nào xót đây!

Nên mau mau dậy ngay kẻo muộn!
Mà xót thương đến chốn Nhị, Nùng.
Xưa kia vẫn lắm anh hùng,
Dọc ngang trời đất vẫy vùng bể khơi.

Xưa cũng có lắm người hào kiệt,
Trong một tay nắm hết sơn hà.
Nghìn thu gương cũ không nhoà,
Mở mày mở mặt con nhà Lạc Long.

Non sông vẫn non sông gấm vóc,
Cỏ cây xưa vẫn mọc tốt tươi.
Người xem cũng dáng con người,
Cũng tai, cũng mắt ở đời khác chi.

Cảnh như thế tình thì như thế!
Sống làm chi, sống để làm chi?
Đời người đến thế còn gì,
Nước non đến thế, còn gì Nước non!

Nghĩ thân thế héo hon tấc dạ,
Trông non sông lã chã dòng châu,
Một mình cảnh vắng đêm thâu,
Muốn đem máu đỏ nhuộm màu giang san.

Ngọn gió lọt đèn tàn hiu hắt,
Tiếng cuốc kêu dậy mặt anh hùng.
Nghiến răng nuốt cái thẹn thùng,
Mà chiêu Hồn cũ lại cùng non sông!

Hồn hỡi Hồn, con Hồng cháu Lạc!
Bấy lâu nay giặc giã chiến tranh,
Bấy lâu thịt nát xương tan,
Bấy lâu tím ruột thâm gan vì Hồn.

Hồn hỡi Hồn, kìa non Nước cũ,
Bấy nhiêu lâu mặt ủ mày chau.
Bấy lâu ngậm tủi nuốt sầu,
Bấy lâu hèn kém vì đâu hỡi Hồn.

Trông bốn bể bồn chồn dạ ngọc,
Ngẫm năm châu khôn khóc nên lời.
Đêm khuya cảnh vắng êm trời,
Khôn thiêng chăng hỡi! Hồn ơi Hồn về.

Hồn trở về đừng mê mẩn nữa,
Tính nết xưa phải sửa từ giờ.
Hồn về Hồn cố cho nhờ,
Anh em Hồng Lạc, cõi bờ Việt Nam.

Hãy trở về chớ vì rượu thịt,
Chớ tham nhà cao tít nhiều từng.
Kìa con chim ở trong rừng,
Kiếm mồi đâu có lạc chừng quên cây.

Hồn trở về đừng say sắc đẹp,
Mà nặng tình kẻ khép phòng thu.
Đường đường một đấng trượng phu,
Lẽ đâu Hồn chẳng đền bù non sông.

Hồn trở về chớ mong giàu có,
Mà ước ao xe nọ ngựa kia.
Nghênh ngang mũ áo râu ria;
Trăm nghìn năm vẫn còn bia miệng cười.

Hồn cố về cõi đời chớ chán,
Mà vội đem lòng nản việc trần.
Bát cơm tấm áo manh quần,
Hồn ăn Hồn mặc nợ nần thế gian.

Hồn trở về bấm gan mà chịu,
Cảnh biệt ly tình hiếu đôi đường.
Trượng phu trí ở bốn phương,
Lẽ đâu Hồn chịu vấn vương xó nhà.

Hồn trở về nguyệt hoa chi nữa,
Mà thoi đưa lần lữa tháng ngày.
Xưa nay những kẻ tỉnh say,
Lòng mê có nghĩ việc hay bao giờ!

Hồn Nước về chớ chờ sức yếu,
Hồn Nước hãy định liệu dọc ngang.
Hay Hồn bảo chẳng biết đàng,
Hay Hồn không muốn vội vàng làm ngay.

Hay Hồn sợ tai bay vạ gió,
Hồn Nước đành phải bỏ non sông!
Hoặc Hồn quen thói phục tòng,
Nên Hồn cam chịu làm dòng ngựa trâu.

Hoặc Hồn chỉ cháo rau no đói,
Mà Hồn chẳng mong khỏi cơ hàn.
Hoặc Hồn đã trải lầm than,
Mà Hồn đánh mất cái gan tung hoành?

Hoặc Hồn ở thị thành phố xá,
Hoặc Hồn núp túp lá lều tranh?
Hoặc Hồn trong chốn rừng xanh,
Hoặc Hồn lẩn quất ở quanh sơn hà?

Hoặc Hồn ở Nước nhà chật hẹp,
Hoặc Hồn đi ẩn núp Nước người?
Đêm khuya cảnh vắng im trời,
Khôn thiêng chăng hỡi, Hồn ơi Hồn về!...

Hồn Nước về đừng mê mẩn nữa,
Tính nết xưa phải sửa từ giờ.
Hồn về, Hồn cố cho nhờ,
Con dân Hồng Lạc cõi bờ Việt Nam.
Còn chi sung sướng vẻ vang,
Bằng đem da ngựa sa tràng bọc thây.

Hồn trở về làm ngay ý muốn,
Chớ rụt rè sớm muộn nào nên.
Lẽ thường thành bại đôi bên,
Chớ đo đắn quá mà quên việc mình.

Hồn trở về hy sinh quyền lợi,
Mà tận tâm đối với Nước non.
Dù cho thịt nát xương mòn,
Cái bầu nhiệt huyết vẫn còn như xưa.

Hồn Nước trở về đừng mơ ác mộng,
Để Hồn trở thành ra giống ngựa trâu.
Hồn về Hồn kíp đòi mau,
Tự do hành động mặc dầu dọc ngang.

Hồn trở về bền gan dốc trí,
Chớ có thèm cái vị cao lương.
Tháng ngày dưa muối rau tương,
Chớ tham rượu thịt mà nương nhờ người.

Hồn trở về xoay trời đất lại,
Hồn trở về tát hải đạp sơn!
Chớ nề gió kép mưa đơn!
Mà đem gan chọi với cơn phong trần!

Hồn Nước hỡi! Xa gần nghe thấy,
Thì vùng lên! Kíp dậy mà về.
Hoặc Hồn ở chốn thôn quê,
Hoặc là Hồn ở phủ kia lầu nầy?

Nước non cũ bấy nay khao khát,
Ngày nầy qua ngày khác lại qua,
Mấy phen lệ nhỏ máu sa,
Mấy phen xót xót xa xa lòng vàng.

Mong Hồn tỉnh Hồn càng không tỉnh;
Mong Hồn về, Hồn định không về.
Non sông Hồn bỏ lời thề,
Cho non sông chịu trăm bề lầm than.

Hồn hỡi Hồn! Giang san là thế,
Giống Lạc Hồng tôi kể Hồn hay:
Kể từ Hồn lạc đến nay,
Đêm đêm khóc khóc, ngày ngày than than.

Cũng có kẻ trên ngàn nhỏ máu,
Cũng có người nương náu phương xa.
Nhiều người bỏ cửa bỏ nhà,
Cũng người lo nghĩ tuyết pha mái đầu.

Cũng có kẻ làm thân trâu ngựa,
Cũng có người đầy tớ con đòi.
Cũng thằng buôn giống bán nòi,
Khôn thiêng chăng hỡi! Hồn coi cho tường...!

Có mồm nói, khôn đường mà nói,
Có chân tay, người trói chân tay,
Mập mờ không biết dở hay,
Ù ù cạc cạc, công nầy việc kia.

Hồn hỡi Hồn! Đêm khuya canh vắng,
Hồn nghe có cay đắng hay không?
Tôi đây cùng giọt máu hồng,
Cũng xương cũng thịt con Rồng cháu Tiên.

Trông thấy cảnh mà điên mà dại,
Trông thấy tình mà dại mà điên
Mà sao không thể ngồi yên?
Sa câu gan ruột tôi biên mời Hồn.

Hồn nghe thấy nên chồn tấc dạ,
Hồn nghe xong nên khá mà về.
Chớ đừng tỉnh tỉnh mê mê,
Chớ đừng đo đắn trăm bề sâu nông.

Hồn trở về non sông Nước cũ,
Mà mau mau giết lũ tham tàn,
Mau mau giết lũ hại đàn,
Túi tham cướp hết bạc vàng của dân.

Hồn trở về cho dân tỉnh lại,
Không ngu ngu dại dại như xưa.
Không còn khó nhọc sớm trưa,
Không còn nắng nắng mưa mưa dãi dầu.

Hồn trở về mau mau Hồn hỡi!
Hồn trở về tôi đợi tôi mong.
Hồn về dạy dỗ con Rồng cháu Tiên.

Ngọn gió lọt đèn tàn hiu hắt.
Dân không còn Nước mất sao còn?
Hỡi Hồn Nước Nước non non!
Hồn về tôi sẵn lòng son giúp Hồn.

Tôi đây cũng không khôn cho lắm,
Nhưng cũng không dại lắm cho nhiều.
Tôi nay chỉ một lòng yêu,
Nên mong nên mỏi nên chiêu Hồn về.

Hồn hỡi Hồn! Hồn về Hồn hỡi!
Hồn hỡi Hồn! Hồn hỡi Hồn ơi!
Đêm khuya cảnh vắng êm trời.
Khôn thiêng chăng hỡi Hồn ơi Hồn về!

Bút viết xong tai nghe miệng đọc.
Miệng đọc xong giọt ngọc nhỏ sa.
Nhỏ sa nên chữ hoá nhoà,
Hoá nhoà nên mới in ra nghìn tờ.

In nghìn tờ mà đưa công chúng,
Công chúng xem mong bụng đổi dần.
Để rồi thúc kẻ xa gần,
Rằng mau nên trả nợ nần non sông!...


Năm 1926, ở Hà Nội có lễ truy điệu Phan Chu Trinh (mất ở Sài Gòn). Tác giả đang theo học năm thứ tư để chờ kỳ thi thành chung vì kích thích bởi phong trào bãi khoá, vì tiếng gọi của non sông, và vì không muốn cúi đầu theo lệnh của tên giám trường, ông quyết định sẽ giữ cái băng đen để để tang cụ Tây Hồ ở cái tay áo, và chờ cơ hội vượt ra khỏi nước, đồng thời đọc các thi ca ái quốc để hun đúc tinh thần.

Ý nguyện chưa đạt, lại dự thêm cuộc truy điệu cụ cử Lương Văn Can (nguyên hiệu trưởng trường Đông Kinh nghĩa thục) mất năm 1927, với tinh thần non nước, ông viết bài thơ này, đưa ra nhà in Thanh Niên để xuất bản.

Sách ra được vài hôm, ông và viên quản lý nhà in bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Khi ra trước toà án, viên chánh án người Pháp hỏi ông ai xúi viết bài này hoặc nhờ ai viết hộ, ông trả lời: “Đầu tôi nghĩ, tay tôi viết, công việc này hoàn toàn do tôi”. Do chưa đủ 18 tuổi, ông bị giam trong nhà Trừng giới để chờ xét nữa, rồi đưa lên Bắc Giang, rồi lại về Hoả Lò đến năm 1930 mới được thả.
 
Các bản in Chiêu hồn nước đều bị chính quyền thực dân Pháp truy lùng tịch thu. Những ai lưu trữ đều bị kết án, vì vậy nội dung bài thơ rất ít người biết, hoặc chỉ biết một vài câu, hoặc một đoạn ngắn. Mãi đến năm 1955, một ông giáo đã tặng một bản in còn sót lại của quyển Chiêu hồn nước mà ông lặng lẽ giữ lại cho ông Phí Văn Bái. Ông Bái sau đó cũng tặng lại cho Bảo tàng Nhà văn Việt Nam, nhờ đó mà mọi người lưu được toàn văn nội dung của tập thơ này.

Trích đoạn bài thơ này được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 8 giai đoạn 1990-2002, SGK Ngữ văn 8 từ 2003.

Nguồn:
1. Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX, NXB Văn học, 1976
2. Thái Bạch, Thi văn quốc cấm thời thuộc Pháp, NXB Khai Trí, 1968

Bài liên quan
  • Chữ nhàn - Thơ Nguyễn Công Trứ

    Chữ nhàn - Thơ Nguyễn Công Trứ

    So lao tâm lao lực[2] cũng một đoàn, Người trần thế muốn nhàn sao được. Nên phải lấy chữ "Nhàn" làm trước, Trời tiếc du, ta cũng xin nài.
  • Những cánh buồm - Thơ Hoàng Trung Thông

    Những cánh buồm - Thơ Hoàng Trung Thông

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà thơ Hoàng Trung Thông được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt Một năm 2001 với các tác phẩm Quê hương chiến đấu, Mời trắng và Tuyển tập Hoàng Trung Thông. Những cánh buồm là bài thơ về ước mơ thống nhất hai miền Nam - Bắc của nhân vật cha và con trong những năm tháng gian khổ của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
  • Quê Hương - Thơ Giang Nam

    Quê Hương - Thơ Giang Nam

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Quê Hương là tác phẩm bất hủ của nhà thơ Giang Nam, được ông sáng tác tại Hòn Dù, Khánh Hòa, trong tâm trạng trào dâng khi ông nhận được hung tin "cô bé nhà bên" của ông đã bị giặc bắn*. Năm 2001, ông đã được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật cho tập thơ Quê Hương, Hạnh phúc từ nay và Thành phố chưa dừng chân.
  • Tình Tháp Mười - Thơ Bảo Định Giang

    Tình Tháp Mười - Thơ Bảo Định Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà thơ Nam Bộ Bảo Định Giang có những sáng tác đậm tình đất và người sông nước Miền Tây quê hương ông. Bài thơ Tình Tháp Mười dưới đây rút từ Đường Giải Phóng, tập thơ được trao Giải thưởng Nhà Nước về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 2001.
  • Bến Đò Ngày Mưa

    Bến Đò Ngày Mưa

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Bến đò ngày mưa là bài thơ của thi sĩ thị xã Bắc Giang Anh Thơ, rút từ tập Bức Tranh Quê. Đây tập thơ đầu tay của bà sáng tác khi còn rất trẻ nhưng đã trở thành một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của bà.
  • Lời mẹ dặn - Thơ Phùng Quán

    Lời mẹ dặn - Thơ Phùng Quán

    Chân Dung Kẻ Sĩ: "Lời mẹ dặn" cùng với "Chống tham ô lãng phí" là hai bài thơ nhà văn Phùng Quán viết năm 1957. Đây là nguyên nhân khiến ông bị kỷ luật, mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi. Từ đó cho tới thời kỳ đổi mới, Phùng Quán phải tìm cách xuất bản một số tác phẩm của mình dưới bút danh khác và câu cá ở Hồ Tây để kiếm sống. Vì thế, bạn bè văn nghệ mô tả cuộc đời ông thời kỳ này bằng sáu chữ: "cá trộm, rượu chịu, văn chui". 
  • Cuộc chia ly màu đỏ - Thơ Nguyễn Mỹ

    Cuộc chia ly màu đỏ - Thơ Nguyễn Mỹ

    Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa Chân Dung Kẻ Sĩ: Cuộc chia ly màu đỏ là tác phẩm hay nhất và nổi tiếng nhất của nhà thơ Nguyễn Mỹ. Bài thơ, như một bộ phim hùng vĩ, có đại cảnh, có trung cảnh, có cận cảnh, có diễn viên... Nhà thơ Nguyễn Mỹ đã sắp xếp câu chữ, khiến chúng đứng bên nhau, chói sáng, để dù màn bạc mà chúng xuất hiện trên đó, dù đã tắt từ lâu, nhưng ánh sáng của nó thì để lại mãi mãi trong những người yêu thơ. Năm 2007, các tác phẩm thơ và tập ký Trận Quán Cau của nhà thơ Nguyễn Mỹ được Nhà nước trao Giải thưởng nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
  • Đợi - Thơ Vũ Quần Phương

    Đợi - Thơ Vũ Quần Phương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Tốt nghiệp Đại học Y khoa rồi làm bác sĩ 2 năm mới đi làm thơ, nhưng nhà thơ Vũ Quần Phương thực sự đã tạo được vị thế. Năm 2007, ông được Nhà Nước trao tặng Giải thưởng Nhà Nước về Văn học Nghệ thuật.
  • Nhớ Bắc - Thơ Huỳnh Văn Nghệ

    Nhớ Bắc - Thơ Huỳnh Văn Nghệ

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ được người đời sau gọi là Thi tướng rừng xanh, do ông vừa làm thơ hay lại cầm quân giỏi, với những trận đánh vang dội tiêu diệt quân Pháp ở chiến trường Miền Đông. Năm 2007, ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật cho các tác phẩm Chiến khu xanh, Bên bờ sông xanh, Rừng thẳm sông dài. Tới năm 2010, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
  • Dừa ơi - Thơ Lê Anh Xuân

    Dừa ơi - Thơ Lê Anh Xuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà thơ Bến Tre Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến) được rất nhiều người yêu mến qua các bài thơ nặng tình với non sông đất nươc như; - Dáng đứng Việt Nam, Nguyễn Văn Trỗi, Trở về quê nội và Dừa Ơi. Năm 2001 nhà thơ Lê Anh Xuân được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Năm 2011, ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi/ Mà lá tươi xanh mãi đến giờ/ Tôi nghe gió ngàn xưa đang gọi/ Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua.