chan_dung-ke_si

ĂN CHỊU THỬ MỘT LẦN – Truyện ngắn Minh Quân

09-12-2023

Lượt xem 1281

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Minh Quân

ĂN CHỊU THỬ MỘT LẦN – Truyện ngắn Minh Quân

Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà văn Minh Quân (1928-2009), dịch giả của tác phẩm nổi tiếng Túp lều bác Tom, tên thật là Công Tằng Tôn Nữ BÍCH LỢI. Sự nghiệp văn chương của bà gồm hơn 40 tác phẩm gồm tập truyện, truyện dài, truyện dịch...

Nói về bút danh như đàn ông của mình, bà chia sẻ:

- Thật ra ngày trước tôi ký nhiều bút hiệu, cốt để che mắt bọn mật thám thời Pháp. Về sau, có lần ông chủ bút tạp chí tôi vẫn cộng tác nói với tôi bằng giọng phách lối rằng phụ nữ không thể viết nên hồn nếu không nhờ các ông nâng đỡ. Tôi đã nói thẳng với ông ta rằng “Tôi xin từ biệt báo ông! Sẽ chẳng bao giờ tôi viết cho ông nữa, ông khỏi nhọc công nâng đỡ”. Sau đó, tôi bỏ hết những bút hiệu phụ nữ như Bích Thủy, Bích Lan, Chí Lan, Minh Tâm… và ký toàn những bút hiệu đàn ông: Minh Tuấn, Bửu Lợi, Minh Quân, cuối cùng tôi giữ luôn bút hiệu Minh Quân. Từ khi tôi đoạt giải cuộc thi truyện ngắn của Hội Bút Việt thì hình tôi được in lên sách. Cũng từ đó, tôi đã lộ ra là phụ nữ, không còn được các ông chủ báo ngỡ là đàn ông nữa - vì tôi muốn được thấy tên mình trên sách báo nhờ ở thực lực chớ không phải nhờ họ nâng đỡ như lời tuyên bố của ông chủ bút năm nào. Và cũng từ đó, độc giả trẻ của tôi không còn gọi tôi là “chú” nữa. 

 

ĂN CHỊU THỬ MỘT LẦN

TỦ SÁCH TUỔI HOA 

1

Trời rét như cắt, rét căm căm. Có lẽ chưa năm nào Huế rét tợn như năm nay. Tâm run cầm cập, thu hai tay vào túi áo cho đỡ rét, nhưng vô ích. Nó để ý điều này: cứ phải rướn người lên, lấy gân, thở thật mạnh thì mới nghe bớt lạnh, nhưng cứ hễ quên đi một phút, thở bình thường, không rướn người lên, không lấy gân tức thì cơn giá rét tăng khủng khiếp.

Thuở bé, Tâm nghe bà kể chuyện rằng các xứ bên Tây phương vào mùa đông còn rét hơn xứ mình nhiều: mặt nước sông đông lại cứng như nước đá, người ta có thể chạy băng qua sông khỏi cần thuyền, đò chi cả. Tâm cho là thật thích thú khi được băng ngang qua như thế. Nhưng giờ đây, chỉ nghĩ đến nó đã rùng mình, vì nó đã nếm, không phải qua loa, sơ sịa mà là nếm kỹ mùi lạnh của những ngày đông.

Nói như thế, không có nghĩa là nay Tâm đã lớn lao chi cho lắm. Nó mới bảy tuổi đầu. Nó không ngu đần quá mức, song quả thật nó kém lanh lợi so với các trẻ cùng lứa tuổi. Tâm bị cả nhà ghét bỏ (nói cho đúng ra thì cả Đại Gia Đình đều ghét bỏ, trừ có mỗi bà ngoại, bà mất rồi) chỉ vì một tội không do nó làm ra: nó không được xinh đẹp đã đành, nó lại còn đen cậy, đen kịt, tóc quăn mắt lồi, môi thì dày, mũi lại tẹt. Nom nó, người ta nghĩ rằng Tạo Hóa chơi khăm, ở hình thù đứa trẻ cái gì cũng già tay. Chắc lúc sáng tạo giống dòng nhà nó - người da đen đầu tiên trên quả đất - Tạo Hóa cố ý làm nổi bật cái xấu lên, cũng như Ngài làm nổi bật cái đẹp của giống dân da vàng, da trắng, nhất là da trắng vậy !

Người ta cứ nghĩ bên Tây bên Mỹ mới có nạn kỳ thị da mầu. Không ! Người ta lầm to, ở đây cũng có, có điều ít người biết đó thôi: bằng cớ là Tâm bị đối xử tàn tệ độc ác chỉ vì màu da của nó.

Tâm không biết mặt mũi cha nó ra sao, còn mẹ nó, nó chỉ nhớ mang máng thôi, vì từ khi lên bốn nó đã mất mẹ, mất biệt, không tin tức.

Cũng không ai nói rõ nguồn gốc nó. Nó chỉ mang máng hiểu rằng nó ra đời trong một Đại Gia Đình xứ Huế, mẹ nó là con gái Út của Đại Gia này. Các cậu, các dì nó đều mang những chức tước to lớn và chừng như để xứng đáng mang những chức tước đó, người nào cũng khệnh khà, khệnh khạng, hết sức quan liêu kiểu cách trong giao tiếp với bên ngoài cũng như lúc đối xử với nhau trong gia đình.

Trước năm lên bốn, Tâm không hề nếm mùi bị hắt hủi, bạc đãi vì bên cạnh nó có bà ngoại. Bà ngoại hiện thân của một bà tiên nhu hậu lúc nào cũng hết lòng bên vực đứa cháu bất hạnh của mình.

Lúc đó Tâm còn bé lắm, song nó đã biết tránh những tia nhìn sắc, bỏng của các cậu các dì mỗi lần chạm mặt. Tâm vẫn thường nghe mà nó không hề để ý - mấy người này đề nghị bà nên đem nó vào viện mồ côi cho khỏi nhục nhã vướng bận khó coi, cho khỏi mang tiếng, khỏi bị người ta dị nghị nọ kia. Song trước sau bà ngoại vẫn kiên quyết không nghe theo. Bà nói.

- Đừng xui bậy tao, vô ích. Tao già rồi, tao không ngu hơn tụi bây đâu. Nó có tội lỗi gì, sao lại tính chuyện đầy đọa nó? Nhà mình nghèo túng gì mà không cưu mang nổi một đứa bé bằng hạt mít thế này? Nó đã không cha, còn mất mạ, tụi bay còn lòng dạ nào ...

Và bà ngừng lại thình lình, tấm tức khóc, dai dẳng không thôi. Tâm thấy bà khóc, nó thương bà lắm, nó ôm chặt bà, như cố an ủi, dỗ dành để bà nguôi. Một lát, bà nghẹn ngào nói với Tâm:

- Bà thương cháu lắm, nhưng bà đã già rồi, nay mai bà chết, không biết cháu sẽ ra sao ...

- Cháu chết theo bà!

Tâm hăng hái nói.

Ngoài bà ngoại, còn có vú già là biết thương Tâm. Nhưng vú già bận việc, không có thì giờ đâu mà săn sóc nó.

Ngày bà ngoại lo đã đến: bà lâm bệnh. Và cơn bệnh tăng lên mỗi ngày, sức khoẻ bà hao mòn theo. Cho đến một hôm, bà tắt thở.

Tâm còn bé quá, chưa biết đau buồn là gì, nó chỉ ngạc nhiên thấy cả nhà tụm lại quanh bà, mà bà thì không cử động nói năng, cứ y như bà ngủ. Họ lăng xăng may sắm quần áo mới cho bà, khiêng bà ra khỏi giường tắm táp như là săn sóc một em bé và sau cùng họ đặt bà vào trong một cái rương to, bên ngoài sơn đỏ chói.

Tận lúc đó, con bé mới đâm hoảng xông lại gần áo quan bà, hét dựng, phản đối:

- Không, mấy người không được bỏ bà vô đó, bà của Tâm! Để bà ngủ trên giường kia!

Tức thì, nó bị ngay một tát tai đánh bốp vào giữa mặt làm nó tối tăm mặt mũi, oà ra khóc. Cậu Phủ - tức là cậu Cả, là quan Phủ - nghiêm giọng truyền:

- Bay đâu, đem con khốn xuống nhà ngay! Dì Cử, chị kế mẹ Tâm, có chồng là Cử Nhân, quắc mắt, thêm:

- Câm miệng! Mi mà còn làm ồn lên thì biết.

- Hu hu, con muốn được thấy bà, xin dì cho con được thấy bà, con không khóc nữa!

Dì Cử vẫn không nao núng, giọng dì lạnh băng:

- Câm! Tao biểu mi câm!

Trong lúc Tâm còn ngơ ngác chưa hiểu mô tê gì thì một giọng khác, đanh ác hơn, gằn từng tiếng.

- Thấy bà hả? Đừng hòng: từ rày không khi mô mi thấy bà nữa con Mọi Đen tê. Bà chết rồi, con ngốc!

Tâm lặng người đi. Bà chết rồi. Nghĩa là bà sẽ mất biệt như mẹ nó? Trời ơi! Rồi đây ai bênh vực nó? Ai săn sóc nó? Tâm sợ hãi cho đến nỗi ráo cả nước mắt, riu ríu đi theo người đàn ông mà cậu Phủ du nó lại lúc vừa rồi. Tâm không biết đó là người nào, nó chưa hề thấy mặt người này, trông bộ dạng thật hung tợn, làm nó càng hãi. Hắn lôi Tâm đi xềnh xệch. Xuống đến nhà ngang hắn giao Tâm cho vú già, dặn:

- Giữ kỹ hắn đó nghe? Đừng cho hắn sổng ra, quan quở chừ, nghe!

2

Ngày tháng trôi qua. Tâm hứng chịu nhiều khổ sở, đau đớn. Vú già không có uy quyền như bà ngoại nên không thể bênh vực nó hiệu quả. Vú chỉ biết khóc mỗi khi thấy nó khóc, và pha nước muối xoa cho nó mỗi khi nó bị đòn sưng mặt, bầm da.

Tâm nhớ bà tha thiết, nó thầm ao ước giá bà trở về cùng nó thì nó có bị đòn, bị mắng cũng cam lòng. Nhưng điều ao ước viển vông đó không bao giờ trở thành sự thật.

Cậu Phủ của nó đã hết làm quan. Cậu về hưu non, về nhà - cái nhà năm gian rộng thênh thang trước nay chỉ có mình Tâm, bà và vú già ở mà thôi - cùng với vợ con.

Cậu bảo rằng cậu chán hết mọi sự đời, chỉ muốn yên thân vui thú điền viên. Cậu chăm chút kỹ lưỡng từng cành hoa, cái lá. Sáng sớm, cậu sai Tâm ra bắt sâu, bón phân, trong lúc cậu mợ và các tiểu thư, công tử còn vùi mình trong chăn ấm, hoặc đang ngồi nhấm nháp từng ngụm trà thơm bốc khói!

Tâm xuýt xoa vì rét, co ro, cóng róng như con gà mắc mưa, trông thật thảm hại. Nó thu một tay vào túi áo, còn tay kia thì vạch lá bắt sâu. Thỉnh thoáng nó ngừng tay, thở mạnh, há miệng to cho hơi ấm bay ra, giơ tay đón bắt làn hơi ấy và xát mạnh hai tay vào nhau cho đỡ cóng.

Nó vẫn không chừa thói ao ước vớ vẩn. Có lần nó ước biến thành cái cây để hứng sương, chịu mưa mà không rét, lại được bàn tay người chăm sóc. (Bây giờ nó hết ao ước được thấy mặt bà rồi).

Tâm vừa làm việc vừa lắng tai nghe những mẩu chuyện rời rạc trong nhà vọng ra. Nó làm việc lơ đãng thật. Nhưng làm sao nó chăm chú nổi? Trong nhà có trà nóng, có lò sưởi và tiếng cười đùa của bọn trẻ lớn hơn và bằng cỡ nó cứ như chọc vào màng tai nó kia thôi!

Tâm nghe giọng mợ lanh lảnh:

- Năm ni răng mà lạnh ghê! Chưa đến tiết Đại Hàn mà lạnh thế ni ...

Giọng cậu khàn khàn, đùng đục:

- Minh, coi mược thêm áo ấm vô con nờ! Đừng có khinh thường, bị cảm hàn chừ!

- Ăn thua chi mô, ba! Con Tâm nó đứng ngoài sân kìa, có răng mô! Con ...

Tức thì cậu ngắt lời con trai, giọng ông giận dữ khác thường:

- Quân ngu! Mi mà lại đi so bì với con Mọi Đen nớ, hử?

Tiếng mợ bênh con:

Thôi! Có chi đáng đâu mà ông nổi nóng lên mắng con dữ rứa cho hắn tủi?

Và mợ đổ tất cả lên đầu Tâm:

- Thiệt tôi khổ quá! Cái nhà này sinh chuyện luôn vì chứa con Mọi Đen trong nhà. Làm ăn lụn bại, con cái bị la rầy ... Tống đầu hắn đi mô thì tống cho rảnh mắt. Chịu hết nổi... chịu hết nổi rồi!

Mấy lời mợ như ngọn đuốc châm vào đống rơm khô: cơn giận của cậu bùng lên, cậu hét toáng:

- Việc chi đến bà mà nay đòi tống mai đòi đuổi? Nuôi hắn tốn kém lắm răng? Hắn ăn hột cơm thừa cơm cặn, hắn không ăn thì đến đổ cho chó chớ chi đó mà tiếc mà kể lể?

Tâm nghe những lời cậu bênh vực mình vừa xót xa vừa cảm động. Thì ra, trong cuộc đời bất hạnh của nó cũng còn có một người đoái tưởng, thương xót. Tâm cảm thấy sung sướng cho đến nỗi một phút nó quên cả lạnh! Thì ra lâu nay nó lầm, nó cứ tưởng cậu cũng như mọi người...

Đột nhiên, tiếng mợ nó the thé chì chiết:

- Không tốn kém bao nhiêu! Tôi ăn từ đường hương hoả nhà ngang dãy dọc chi mô? Nhiều lắm răng? Ông nói mà không biết rờ sau ót. Cơm cao gạo kém, mỗi thứ mỗi tiền, ông giao cho tôi mỗi tháng bạc muôn bạc ức chắc? Nì, tôi nói cho ông biết ...

Giọng mợ nhỏ dần, rít qua hai hàm răng đen bóng và khít rịt, Tâm không nghe rõ nữa. Nó thở dài, bâng khuâng nhớ đến bà. Dù sao, Tâm nghĩ rằng mình cũng được cậu bênh vực cho ít tiếng, thế cũng quý rồi, Tâm không dám mơ ước chi hơn.

Nỗi sung sướng vì được bênh vực làm con bé khốn khổ bước chệnh choạng, nó cảm thấy nó nhẹ tênh. Tiếng cậu cất lên:

- Thôi! Đừng nói lắm rát tai. Ta không bênh vực chi hắn mô, đừng nhiều chuyện. Bà ưng tống hắn đi mô thì cứ việc, có giỏi cứ tống đi, coi! Miễn thuê cho tôi một đứa siêng năng giỏi giắn như rứa đặng thay vô là được, một đứa cho lanh chân lẹ miệng, chớ không phải con Bếp chằng tinh, nấu canh bỏ sâu trong nồi. Đừng dài lời. Con nhỏ suốt ngày quay như cái vụ: bửa củi, tưới cây, vo gạo, xách nước, mua cao lâu cho mẹ, mua bánh bò, bánh ướt cho con. Một buổi sáng mà chạy mua năm bảy món ăn, người ni, món ni, người khác, món khác. Đời chừ chớ phải thuở trước mô ... bạc ngàn chưa chắc thuê được như rứa. Đứa mô mà ở nhà ni e rằng phải có ba đầu sáu tay mới bưa nổi với mẹ con bà.

Mợ hét:

- Nuôi mà không cho sai à? Rứa nuôi để chi? Để thờ à? Có phải chỉ để bắt sâu và tưới cây cho ông không thì cho biết thử coi?

Cuộc đấu khẩu giữa hai người chưa chấm dứt ngang đó song Tâm nản, hết tò mò, hết muốn nghe. Nó muốn biết rõ là ban nãy nó lầm: nó như từ tầng cao rơi tuột xuống vực thẳm sau khi nghe những lời phân bua rành rẽ của cậu nó. Nó muốn khóc, song nước mắt nó như khô cạn từ lâu. Nó bật thành tiếng:

- Mẹ ơi! Bà ơi! Không ai thương con hết!

Tâm không bao giờ kêu cha.

3

Đến tuổi nó, đáng lẽ phải được cắp sách đến trường. Nhưng không ai nghĩ đến việc khai tâm mở trí cho một con Mọi Đen như nó cả. Tâm cũng không lấy làm lạ, nó chỉ hơi tiêng tiếc mỗi khi nó vớ được cuốn sách - bất kể sách gì, sách của ai - đâu đó, đang mải mê lật xem thì bị ngay một anh hay một chị, con của cậu nó xông lại giằng ra khỏi tay nó, nói mỉa:

- Thôi! Mọi Đen mà cũng bày đặt đọc sách!

Tâm còn ngơ ngác, ngỡ là nó bị trừng phạt về cái lỗi dám phạm thượng mó đôi bàn tay đen đủi bẩn thỉu vào sách của họ, thì ngạc nhiên làm sao: họ vứt ra xa, chứ không phải giằng lại để cất. Tâm không tiếc nữa, nó tủi thân thấm thía.

Tâm lờ mờ hiểu rằng hạng như nó thì chỉ được ăn cơm thừa, canh cặn, thứ chỉ để dành cho chó. Song sự thực còn tệ hơn, nó còn thua con chó nhà cậu: vì mỗi lần có khách lạ đến nhà, cậu vẫn mang chó khoe, chứ nó tuyệt nhiên không. Nó là cái gai, là con vật bẩn thỉu xấu xí ... bằng cớ là nó không được pha nước trà cho khách, không được chường mặt lên nhà trên bao giờ.

Mỗi năm, mỗi tuổi, nỗi khổ nhục chồng chất, tăng trưởng theo năm tháng. Vú già không chịu nổi thói cư xử tệ ác của cậu mợ nó, xin thôi. Tâm ước gì mình cũng dễ dàng xin thôi như một kẻ tôi tớ vậy!

Vú già trước khi đi, kêu nó ra chuồng heo, giúi vào tay nó hai tờ giấy 10 đồng mới toanh đỏ chói, nghẹn ngào mà nói với Tâm:

- Này Tâm! Con ráng mà siêng năng kẻo bị đòn khổ thân, nghe chưa ? Vú về quê ...

- Rồi chừng nào Vú ra ?

Tâm hốt hoảng hỏi. Vú buồn rầu:

- Chắc không ...

Nhưng thấy con bé rơm rớm nước mắt Vú chữa lại:

- Chắc lâu lắm ...

- Vậy mà Vú nói Vú thương con ... Ai cũng bỏ con, đi hết ...

- Vú thương con lắm chớ, phải chi cậu mợ cho phép, Vú đem con về quê liền. Con ưng ở với Vú không? Nhà Vú nghèo khổ, mà ... mà điều Vú thương con, dầu bữa cơm bữa khoai ...

- Con không sợ nghèo khổ. Con ưng ở với Vú hơn, sao Vú không xin ...

Vú già lấy tay bưng miệng đứa trẻ lại, giọng lo ngại:

- Chết! Con đừng nói dại, ai nghe được thì khổ thân. Ráng chịu khổ ít lâu ... Mai sau con lớn Trời Phật thương, con sẽ được sung sướng ...

- Trời Phật không thương con đâu, con biết! Giọng hờn dỗi Tâm ngắt lời Vú già. Vú gắt:

- Nói bậy, ai nói với con là Trời Phật không thương con? Mang tội chết!

- Ai nói, con biết mà! Con đen nên Trời Phật cũng ghét con ...

- Đừng nghĩ bậy, Tâm! Trời Phật công minh lắm ... con phải ...

Từ nhà trên có tiếng mợ quát the thé:

- Con Mọi Đen lủi đi mô rồi?

- Nó ra ngoài chuồng heo nói chuyện với Vú già đó, mạ nờ!

- Chuyện chi lâu lắc rứa? Tâm tỉ chuyện chi rứa? Nói trộm nói xấu chi tau?

- Thôi! để Vú đi! Đừng có bịn rịn Vú thêm buồn! Cất hai chục ni để dành mua chè đậu ván ăn nghe?

- Con không thèm ăn chè, con ưng đi theo Vú ...

Tâm giữ chặt áo Vú, song Vú già nhẹ nhàng gỡ tay Tâm ra, nước mắt ròng ròng lăn dài trên đôi má nhăn nheo, Vú đi thẳng, không quay lại. Tâm nức lên, oà khóc, quên cả bị mợ rầy.

4

Nhờ hai chục bạc Vú già cho, Tâm được hưởng cái ngọt ngào, bùi ngậy và thơm qua những chén chè đậu ván của dì Bình.

Nó tiện tặn, không dám ăn mỗi ngày, cứ năm ba ngày mới cất lẻn ra ngõ, đón dì ấy đi ngang, mua một chén.

Tâm rất yên lòng thưởng thức món quà quý giá, vì vào giờ ấy cậu mợ đã yên giấc nghỉ trưa. Chị bếp cũng nằm khoèo trên bộ ván giữa nhà ngang đánh một giấc.

Nhưng hai chục to lớn đó vẫn không là cái kho vô tận, cho đến một hôm kia, Tâm ăn đến đồng bạc cuối cùng. Nó nhai thật kỹ hay nói đúng, nó không nhai, nó ngậm trong miệng chờ cho nước bọt thấm qua hạt đậu ván bùi ngậy và hạt đậu tan ra, lẫn trong những hạt nếp nhừ bấn, bây giờ nó mới nuốt đi. Chờ một lúc dì Bình mải cuối xuống thò cái vá đồng sáng loáng bám những hạt đậu bám quanh xoong chè, Tâm thè lưỡi liếm quanh lòng chén, thật kỹ, thật sạch. Và nó chắc lưỡi thèm thuồng. Tâm nghĩ thầm một cách hối tiếc:

- Phải chi hôm kia đừng ăn, để bữa ni ăn một bữa cho đã thèm rồi nhịn cũng sướng!

Dì Bình tuy không thấy Tâm liếm chén chè, nhưng đến khi nhận cái chén, dì định nhúng vào chậu nước mang theo rửa qua loa bỗng dì ngừng lại kêu to:

- Tâm, bộ mi liếm răng sao mà cái chén sạch dữ ri?

Tâm bẽn lẽn không nhận mà cũng không chối, cắm đầu chạy thẳng vô nhà.

Tâm vốn ghét những khi nhà có việc. Nó đã bận luôn tay, mà mỗi khi nhà có việc nó lại càng khổ thân hơn: dậy từ khi gà gáy đầu vài lần, vài mãi tới khuya lắc, khuya lơ mới được phép đặt lưng xuống ngủ.

Nhưng hơn nửa tháng nay nó cứ ngong ngóng trông có việc (nghĩa là có chuyện cúng kính) đặng mình được dịp vét nồi ... chè. Thường sau khi múc cúng xong, chị Bếp ưu tiên vét nồi, song dù vét kỹ đến mấy cũng sót chút đỉnh. Bằng giọng hách dịch của bọn đầy tớ nhà sang, chị kênh kiệu bảo Tâm:

- Con tê! Vô vét nồi đi tề! Mau lên rồi lấy xơ mướp mà chùi sạch cho tau đặng chiều nay tau nấu cơm. Sướng không? Tau để phần cho mi đó, con yêu nợ!

Tâm cười toét miệng, bày cả mấy cái răng sún, đón nồi chè không như đón của quý!

Vậy mà nửa tháng nay nó trông đợi hoài công. Chưa tới kỳ giỗ chạp không có vía vang gì hết, nên việc cúng kiếng không đến. Tâm thèm chè ghê gớm.

Để đỡ thèm, mỗi bận mợ hay các anh chị sai ra phố mua sắm gì, nó nấn ná chờ đến khi dì Bình gánh chè đi ngang mới đi mua, nếu liệu việc không gấp. Đi ngang gánh chè dì Bình, Tâm trùng trình đứng lại, gặp lúc dì đang mở xoong chè múc cho khách hàng thì nó len lén phồng mũi hít lia lịa, dáng bộ trông thật đáng thương.

Có khi, bỗng dưng một ý nghĩ khùng khùng đến với nó; nó ước trở thành cái xoong đặng đựng chè cho sướng!

5

Một bữa, Tâm tần ngần đứng nhìn thực khách bỗng nó để ý thấy con Lìn,(con bà tàu bán cao lâu) ngồi ăn chè một cách ngon lành, ăn xong nó đứng lên không xỉa tiền ra trả cho dì Bình như thói quen trước nay và như mọi khách hàng khác mà dõng dạc nói:

- Ăn chịu một bữa, dì Bình!

Tâm ngạc nhiên hơn, khi nó thấy dì Bình cười toe toét:

- Được! Muốn ăn mấy thì ăn, không can chi!

Ăn mấy thì ăn không can chi? Ăn mấy thì ăn không can chi? Suốt ngày, suốt đêm lúc làm việc, lúc ăn cơm cho chí tận lúc ngủ câu đó cứ vang vang trong đầu nó! Láy đi, láy lại như một điệp khúc không ngừng!

Chà! Cái dì Bình bán chè coi vậy mà tử tế biết chừng nào! Nếu dì đã tử tế, dễ dãi với con Lìn đến mức đó thì chắc dì cũng không hẹp bụng chi đối với Tâm ...

Tâm cứ vương vấn ý nghĩ: ăn chịu chè dì Bình một bữa. Hừ! Mình mà ăn chịu thì mình ăn hai ba chén cho đã thèm, ăn chi một chén mất công ...

Song Tâm chỉ hăng hái, quyết liệt trong đêm tối, trong lúc nằm ngủ hay trong khi quơ củi vo gạo. Mỗi lần gặp dì Bình gánh chè ngang tầm mắt, quyết định tiêu tán mất. Nó sợ quá: ngộ dì ấy trở mặt giở chứng níu áo đòi tiền thì có mà chết gấp! Tâm không dám. Chớ sao! Ai cấm dì tử tế với con Lìn mà không tử tế với Tâm! Tâm, một con bé mồ côi, nghèo khổ đen thui, đen thủi thế này ...

Ngày ngày chậm chạp trôi qua. Sự thèm khát càng nung nấu, thôi thúc trong lòng nó. Nó vẫn không tiến tới quyết định được, nó do dự, chần chờ. Nó đâm giận mình, có gì khó khăn đâu: Chỉ việc ngồi xuống, điềm nhiên biểu dì Bình múc chè cho ăn, ăn xong, đứng dậy dõng dạc nói:

- Ăn chịu một bữa, dì Bình!

Thế là chu! Có gì là khó đâu. Mà nó sợ kia chứ? mà nó không dám thực hành chứ?

Một đêm Tâm nằm mơ, nó thấy nó làm được điều nó muốn, không vấp chút trở ngại nào cả. Mọi chuyện êm xuôi hết. Và nó còn nhớ khi nó đứng lên, lấy lai áo lau miệng nói mấy tiếng "ăn chịu một bữa dì Bình" thì dì ấy không chỉ cười toe toét và chỉ nói: "Được, muốn ăn mấy thì ăn, không can chi" mà còn khuyến khích nó ăn thêm bằng giọng ngọt ngào:

- Ăn nữa đi, Tâm! Tau thương mi lắm, Tâm ơi!

Rồi kỳ diệu làm sao: sau câu ấy, tức thì dì biến thành bà ngoại. Tâm nghĩ: phải rồi, không phải dì Bình bán chè, mà bà ngoại, nên bà ngoại mới thương mình cho ăn thả cửa. Nó kêu lên: "Ngoại ơi" rồi sà tới ôm chặt ngoại - nhưng ngoại xô nó ra, gánh gánh chè lên. Tâm khóc ngất ...

Tỉnh giấc, Tâm ngơ ngẩn hồi lâu. Suốt ngày hôm đó, Tâm như người bị ma đốt hồn - lời mợ nó - Song nó không để ý chi đến điều bị mắng mỏ, nặng nhẹ. Nó lẩm bẩm:

- Mình phải ăn chè. Mình cứ ăn chịu là xong! Con Lìn ăn được, mình ăn được!

6

Xế trưa hôm ấy, Tâm chờ mợ vào phòng là phóng tuốt ra ngõ đón gánh chè dì Bình. Gớm! Con bé mới sốt ruột làm sao chứ! Ngóng hoài không thấy. Để đỡ sốt ruột, Tâm tự hỏi mình: "lạ kỳ, sao người lớn không ăn chịu kìa?" và nó tự trả lời một cách thoả đáng "Chắc người lớn ăn chịu không được, dì Bình không bán, chỉ có con nít mới được phép ăn chịu" Nó thêm: "Người lớn con nít gì cũng ăn chịu thì dì Bình làm sao có tiền?" Tâm cười toét một mình bằng lòng sự thông minh của nó lắm. Vậy mà cậu mợ và mấy anh chị nó cứ chê nó là ngu, là đồ Mọi Đen!

Từ đằng xa, dì Bình gánh chè thong thả đi tới phía nó. Trống ngực Tâm đánh thình thình. Nó hốt hoảng, cảm thấy can đảm hầu tiêu tán hết. Nó quay đầu lại tính rút lui nếu ngay lúc đó mà con Lìn và hai người đàn bà nữa không vẫy gánh chè của dì Bình về phía họ. Nhờ mấy người đó, Tâm thấy can đảm bỗng được phục hồi. Nó đĩnh đạc tới gần gánh chè, chờ đợi.

Bọn khách hàng cười nói ba hoa song Tâm không nghe chi cả, trong đầu nó kế hoạch gần như đảo lộn. Nó thấy ghét mình, giận mình quá đỗi. May sao dì Bình hất hàm về phía nó, mời:

- Ăn chè không? Ăn đi Tâm!

Tâm sà ngay xuống, gật đầu, giọng chắc nịch không khác gì những lúc hai chục bạc mới hao hụt vài đồng:

- Múc cho em một đồng đi!

Dì Bình lẳng lặng múc chè trao cho nó. Tâm đón lấy, nhìn quanh trước khi múc muỗng thứ nhất cho vào miệng. Chao ơi là ngọt, là bùi! Tâm ăn rất dè xẻn, nhon nhón từng hạt đậu, chỉ nơm nớp sợ hết. Chờ cho mấy người kia đứng dậy quay lưng nó mới đưa trả chén không, bụng còn thèm nhưng tự nhủ: để lần khác, ăn nhiều sợ lần khác dì Bình không bán.

Tâm sắp sửa nói "ăn chịu một ..." nhưng nó chưa kịp mở miệng thì dì Bình đã chìa tay giục:

- Trả tiền đây, Tâm! Mau tao còn đi bán kẻo chiều, trời mưa ...

Hoảng hốt, Tâm lắp bắp:

- Dạ, em không ... có tiền ... em ... em ...

Dì Bình cau mặt, trừng mắt, gằn giọng nạt dồn:

- Không có tiền hử! Không có tiền sao dám ăn? Tính quỵt phải không?

- Dạ em ăn chịu ... một bữa ...

- Ăn chịu? Nói ngon không? Nì tau nói thiệt, không có tiền thì đừng có liều, ăn ẩu. Muốn xin phải nói trước, con Mọi Đen! Mi tưởng tau quên hử? Có hai ba mạng chớ phải hai ba chục người ăn mà quên? Trả tiền mau! Không tau đòi mợ mi ra chừ đây!

Tâm run như cái giẻ phơi trước gió:

- Em lạy dì, em không có tiền, dì đừng đòi mợ em ...

- Không có tiền thì cởi áo thế vô! Quân điêu! Tau không giỡn với mi! Cởi áo ra ...

- Em có một cái áo đây thôi, cởi ra lạnh chết, tội nghiệp em. Em lạy dì! Ví lại, em cởi thế cho dì, mợ em thấy ở trần, mợ em ...

- Mược kệ mi! Tau không cần biết ... đồ gian giảo, điêu ngoa! Mi có trả không thì nói?

Bỗng dưng, dì Bình thấy con bé sao mà dễ ghét quá chừng đi: môi thì dày, đúng là môi miệng quân tham ăn tham uống; mắt thì lồi thấy mà gớm ghiếc, da mặt thì đen kậy, đen kịt như quỷ sứ hiện hình - dù là dì chưa từng thấy quỷ sứ bao giờ - Mà ghét nhất là hắn đã lập tâm, tính ăn quỵt ... hèn chi khi hồi hắn không ăn liền, chờ cho mấy người tê ăn xong ... quân gớm thiệt! Quân ni không tha được, phải trị ... trị ...

Tiếng dì Bình càng phút càng to dấm dẳn, ráo riết. Tâm lạy lục, van xin vô ích. Những tiếng đó vang tận nhà trong. Lũ trẻ con ùa ra, đứng xem như xem xiếc. Một đứa thót vào mách mẹ liền. Mợ Tâm vừa quấn vội mái tóc dài, vừa hỏi chõ ra:

- Chi rứa bây? Con Tâm tê?

Trong lúc hai chân bà không ngừng bước ra ngõ. Tâm đứng chết sững, nước mắt nhòe nhoẹt. Dì Bình được thể, cất giọng ơn nghĩa:

- Dạ, bẩm bà, bà nghĩ ai chịu nổi chưa: thà hắn xin tui một chén tui không tiếc chi, đằng ni hắn phỉnh tui ... cha sanh mẹ đẻ tới chừ tui chưa từng thấy con ai chừng nớ mà điêu rứa ...

Không cần hỏi ất giáp chi, mợ Tâm sấn lại, túm áo con bé lôi tuồn tuột vào nhà ...

7

Con Mọi Đen bị một trận đòn mê tơi, đáng đích, nhiều hơn, dữ hơn bất cứ trận đòn nào từ trước đến nay. Con Mọi Đen ban đầu còn kêu ca, van lạy, toan phân trần nhưng không ai nghe nó cả: cả các anh, các chị, cả cậu và cả chị Bếp. Đứng ngoài, chị ta còn phụ hoạ thêm.

- Con ni tệ thiệt! Lần mô nhà cúng con cũng cho hắn vét nồi chớ con có rớ tới mô!

Sau, nó im lìm chịu trận. Không phải nó mặt sứa gan lim như mợ vẫn bảo mà vì nó cạn hơi, mòn sức đi rồi.

- Thôi! quân nớ có đập bị bông, hắn có biết đau đớn chi mô mà đập cho mỏi tay. Đập rứa bưa rồi! Đi lên, kẻo tối lại mất công xức dầu khuynh diệp, mất công sắp nhỏ bóp tay!

Cậu nói vọng xuống. Mợ buông tay du con Mọi Đen vô một xó, rửa tay, đi lên.

Anh Hoài hỏi chị Cúc:

- Tau đố mi tại sao con Tâm hắn làm chuyện động trời rứa?

- Tại cơ thể hắn cần chất đường

- Bông! Tại răng cần chất đường?

- Tại vì hắn hay dậy sớm ra sân bắt sâu cây cảnh cho ba, chất đường thêm nhiệt lượng cho cơ thể, chống lại cái lạnh, ví lại ...

- Tầm bậy rồi! Mi nói rứa mà vô thi là zê rô cho coi! Chất béo tức là chất lipit mới gây ...

- Thôi! Ồn ào quá, buổi trưa cho cha bây nghỉ một chút. Hết chuyện nọ đến chuyện tê rần rần cả ngày.

Người cha gắt hai con. Bà mẹ sừng sộ, gây liền:

- Ông nói ai rần rần? Lại binh con Mọi Đen phải không? Muốn đóng trang thờ hắn phải không?

- Ai nhủ bà đóng trang thờ hắn? Ăn nói chi mà hàm hồ hàm chứa ...

Tức thì bà lồng lên, nhiếc nhóng chồng đủ thứ. Hết chuyện con Mọi Đen mợ xoay qua chuyện khác. Giọng đay nghiến mợ nói:

- Chỉ biết ăn với lại ăn thôi: hết bánh sen tán đến bánh đậu xanh khô, bánh kẹp chưa hết đã đòi bánh ga-tô, bánh thuẫn. Khi mô cái thẩu bánh hơi vơi vơi là kiếm chuyện. Ăn như tằm ăn lên ...

- Nói rứa mà không sợ người khuất mặt khuất mày hai bên vai vác ghi chép à? Cả một lũ con bà cũng ăn chớ một mình tôi ăn mô? Hễ bưng cái thẩu ra là đứa ni một cái, đứa tê hai cái, có trưa mô tôi uống nước trà, ăn bánh ngọt mà khỏi con bà dự vô? Tôi ăn chi nhiều nhặn của bà mà kể lể? Rứa chớ hồi tôi tại chức, tiền vô như nước, một bước xe, hai bước xe, kẻ hầu người hạ răng bà không kêu ca giùm chút? Ai vô hưởng? Cậu mạ tôi có đội mồ lên hưởng mô, mô nà? ... Tôi ...

Tuy cậu từng hét ra lửa, quát ra bạc nhưng trong phạm vi gia đình cậu không bao giờ qua mặt nội tướng nổi. Mợ trả đũa:

- À! Rứa là tự miệng ông nói ra đó nghe? Bây giờ tôi hiểu lòng dạ ông rồi đó! Ông không muốn cho con ăn, ưng để chúng ăn lường ăn quịt, hay hơn phải không ?

Mợ vô tình nhắc lại tội lỗi cháu cậu, tưởng cậu sẽ ngán mợ, ai ngờ quá giận vì bị vợ cho là mình tham ăn với con, cậu phát khùng lên, cậu kể phăng ra:

- Tại ai? Tại răng đến nỗi hắn phải ăn lường, ăn quịt? Ngày mô mà con bà không ăn của ngọt? Mà có khi mô bà thí cho hắn một rẻo bánh không? Nì, bà trả lời cho xuôi coi?

- Trời ơi! Ông binh con Mọi Đen dữ, hỉ? Tôi giao nhà cửa lại cho cậu cháu ông, mẹ con tôi đi chừ đây! Tôi không ham đâu ...

Cậu ngắt lời mợ, đanh thép:

- Đừng có ồn, thiên hạ người ta cười cho thúi óc, tui hỏi bà từ con Bếp, Vú già cho chí bọn tôi tớ trước ni, có đứa mô dễ sai, dễ khiến, làm luôn tay luôn chân như hắn chưa? Bà thí cho hắn mấy trự bạc công? Có tấm áo mô lành không? Vừa vừa chớ! Còn lưu lại cái đức cho con chớ! Ăn ở chi mà cạn tàu ráo máng, trời mô mà dung hử? Đừng có nói tôi binh. Không ai thương yêu gì thứ đó, cái chi cũng phải phải, phân phân chớ ...

Mợ nghẹn họng. Mợ lảm nhảm vài câu chiếu lệ rồi thôi. Hai bên hưu chiến.

8

Không ai rỗi hơi tìm hiểu nguyên do nào khiến một con bé nhút nhát lại cả gan như vậy. Tội nghiệp: Tâm không hiểu rằng ăn chịu nghĩa là ,ăn mà không trả tiền ngay, nhưng vẫn phải trả vào ngày khác. Hoặc muốn văn chương và kinh tế học hơn thì nói thế này: "Đó là một hình thức vay mượn, tuy không bằng hiện kim". Nó ngỡ rằng khi một đứa trẻ không có tiền mà muốn ăn quà thì cứ ăn, miễn ăn xong, nhớ nói "ăn chịu" và phải nhớ nói trước chớ để sau như nó thì người bán hàng sẽ đòi tiền và lúc đó vô phương cứu vãn!

Nó ngu ư? Không đâu: rõ ràng nó nghe con Lìn nói:

- Ăn chịu một bữa, dì Bình!

Chớ con Lìn có thêm "mai mốt trả tiền" đâu mà biết? Nếu con Lìn có nói thêm mấy tiếng sau thì có cho nó vàng khối, nó cũng không dám liều lĩnh vậy. Thật đáng thương cho cái đầu óc tối tăm như màu da của con bé!

Tận đến lúc bị trận đòn nhừ tử Tâm vẫn còn băn khoăn về tội trạng mình. Nó tự hỏi: hay là bởi nó đen đủi xấu xí dì Bình không bằng lòng cho nó được ăn chịu. Thế thôi!

Minh Quân

 

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.