chan_dung-ke_si

THẦY KHIỂN -Truyện ngắn Ma Văn Kháng

14-07-2023

Lượt xem 972

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Ma Văn Kháng truyện ngắn hay     

THẦY KHIỂN -Truyện ngắn Ma Văn Kháng

Nhà văn Ma Văn Kháng        

       Ðó là những  năm giữa của cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp chín năm. Cả nước sau chiến dịch biên giới năm 1950 thắng lợi, rầm rộ chuyển sang giai đoạn tổng phản công giành thắng lợi hoàn toàn. Xã tôi ở bên này con sông Thi đối ngạn là cả một vùng tề, bên kia, bỗng nhiên như trở thành tấm gương đại điện, mọi mặt từ đi dân quân, đóng thuế nông nghiệp, xây dựng dân quân du kích đến học tập văn hóa đều phát triển mạnh mẽ lắm. Riêng về mặt giáo dục, hơn hẳn các xã xung quanh, xã tôi năm nay có hơn ba chục học trò tốt nghiệp kỳ thi tiểu học, được chuyển lên học cấp học trên. Hơn ba mươi trò vào năm thứ nhất trung học, hẳn nhiên xã phải cố gắng để mở trường cấp 2 rồi. Cái thuận để mở trường cấp 2 còn là vì ông Chiên, phó chủ tịch xã tôi, xuất thân chèo đò ngang, tính tình táo tợn lại có ông anh tên Sự mới được đề bạt phó ty giáo dục. Ông Sự làm nghề nông nhưng những ngày nông nhàn xách cái túi đồ nghề đi chữa đèn pin, kính bút, mồm miệng như cái tôm cái tép, thấm nhuần câu: Một người làm quan cả họ được nhờ, ủng hộ quyết liệt việc này. Ông nói: "Xét theo quan điểm nịch sử thì mở trường cấp 2 ở đây nà có ný". Ông phó ty nói ngọng muốn nói đến sự phát triển kinh tế, xã hội ở xã tôi. Xã tôi trời cho địa lợi, trên bến dưới thuyền, từ lâu đã hình thành một dẫy phố và một khu chợ buôn bán tấp nập; từ ngày phân đôi chiến tuyến ta - địch, chẳng hề suy giảm, trái lại, lại như được kích thích, trở thành cửa ngõ giao lưu, trao đổi hàng hóa hai vùng. Giờ thì đêm đêm dân buôn từ vùng tề bơi thuyền, lội sông sang, nườm nượp kẻ bán người mua dưới ánh đèn măng-xông xanh ngời. Nơi đây tiêu cả tiền ta, gọi là tiền trâu xanh lẫn tờ bạc Ðông Dương của Pháp; ở đây có đủ mặt các thứ hàng thiết yếu, cao cấp, từ tập giấy than đánh máy, lọ nước hoa Soir de Paris, đến thuốc chống sốt rét đặc hiệu Quinoforme de la croix... Nhìn phố xá tụ hội đông vui chẳng hề biết đến bom đạn đã có lúc ông Chiên xạm mặt choắt, gầm ghè cảnh cáo dân chúng rằng: Ðừng tưởng bở! Tây nó dùng nơi này để nuôi cấy Việt gian và vỗ béo các vị đấy. Rồi có ngày nó cho máy bay tới làm cỏ sạch sanh các vị cho mà xem!

   Việt gian tức là bọn gián điệp ngầm. Chẳng những thế, với từ đó, ông Chiên còn ám chỉ những kẻ từ bên kia sông sang, định cư làm ăn, buôn bán ở phố làng này. Phố làng này là nơi qua lại công khai của cả hai bên, và với người dân ở bên vùng tề thì đâu chả là đồng đất nước mình, nên tìm được đất lành là cứ việc đậu, họ đâu có nghĩ có ngày nằm trong vòng nghi ngại của ông Chiên.

   Trong số những người từ vùng địch chiếm sang đây ăn ở cùng đợt, tôi nhớ có ba người. Một người dắt cái xe đạp cuốc, được giới thiệu là cua-rơ vô địch vòng đua quanh Ðông Dương trước cách mạng. Một người béo lùn mặc áo da, vai khoác khẩu súng hai nòng, đi xe mô-tô, có chị vợ tóc phi-dê mở cửa hàng bán thuốc Tây. Và một người nữa dáng mảnh khảnh, đeo kính cận, có bà vợ già hơn tuổi làm nghề may. Ðến đây, người thứ nhất mở cửa hàng sửa chữa xe đạp. Ông thứ hai thường đi mô-tô tới chân núi săn bắn chim muông, cầy cáo. Còn người cận thị, khi xã tôi mở trường cấp 2 thì trở thành thầy giáo Khiển của chúng tôi.

   Thầy giáo Khiển từ vùng địch chạy ra, vốn là giáo học, được mời ra làm giáo viên kiêm Hiệu trưởng trường cấp 2 của xã. Trường chỉ có độc một mình thầy, thầy dạy tất cả các môn từ toán, lý, hóa, đến văn, sử, địa, vẽ, nhạc, thể dục.

   - E hèm, ta làm quen với nhau nào.

   Tôi vẫn nhớ như in buổi đầu thầy vào lớp, thầy trò bắt đầu quen biết nhau. Thầy hấp háy hai con mắt trẻ trung, nghịch ngợm sau làn kính cận nhìn chúng tôi, lũ thiếu niên quê mùa, từ mười một mười hai tuổi như tôi đến loại lộc ngộc mười sáu mười bẩy tuổi, cười cười đi lại  giữa hai hàng bàn, bảo từng người đứng lên, tự giới thiệu mình; tới lượt anh Ngôn trưởng lớp mười bẩy tuổi, thấy anh đỏ mặt sượng, nhú nha nhú nhí nói rằng anh đã có vợ, thầy liền vỗ vai anh, cười xòa:

   - Có gì mà ngượng! Trước sau hỏi rằng có ai thoát được cuộc sống lứa đôi?

   Thầy bảo: chính thầy cũng lấy vợ năm mười sáu tuổi. Nó là cái tệ tảo hôn! Thầy kể: 12 tuổi, bố mẹ dẫn đi xem mặt vợ, lúc về hỏi: mày thấy nó thế nào? Thầy ngơ ngẩn hỏi: cái gì cơ ạ? Ðêm tân hôn, thầy leo lên gác chuồng trâu trốn biệt. Hôm sau ông cậu đến, phân giải điều hay lẽ phải, rồi bảo: "Ðêm nay cháu cứ vào nằm cùng giường với nó. Ðàn bà ấy vậy mà nó có nhiều cái hay lắm cháu à. Thầy bị đẩy vào buồng cô dâu, nhưng thầy leo lên cái bàn ngủ suốt đêm. Cứ thế một tháng liền, cho đến khi cô dâu tủi thân đòi bỏ về nhà bố mẹ, mưu mô của thầy mới bại lộ. Thế là thầy lâm cảnh đành phải nhắm mắt đưa chân lúc tắt đèn. Và bây giờ  thầy mới hăm tám, mà đã một trai hai gái, người tóp như cành củi khô, còn bà vợ băm tư xổ ra như cái đụn rạ. "ấy, cái sự béo của bà ấy giải thích cái sự gầy của tôi, các em à". Thầy gãi tai, giả vờ ngượng nghịu, thanh minh cho cái thể trạng gầy còm của mình.

   Con trai nhà quê sớm phát triển tính tò mò, nghe chuyện thầy khoái lắm. Chuyện lan ra làng phố, ai cũng bảo thầy Khiển là người vui tính; người vui tính thường là người tốt bụng.

   Thầy Khiển quả là người vui tính. Ngoại hình thầy thoạt trông đã thấy ngồ ngộ rồi. Gầy xắt xeo, da bánh mật, đã thế lại mặc toàn đồ chật bằng vải dầy. Với cái thắt lưng xiết chặt, thầy chỉ còn bằng cái chét tay. Trong khi đó, cái mũ thầy đội vành lại rộng gần bằng cái nón. Cái mũ cát bo to ấy chụp lên trên một cái đầu quá khổ có mái tóc xoăn tự nhiên. Cặp kính cận lồi nuốt cả khuôn mặt nhỏ hoăn hoắt, nếu như không có cái miệng chuột hơi dẩu ra cùng hàng răng trắng tinh tủm tỉm nụ cười yêu đời một cách thường trực. Hai cái mắt kính và cái miệng thầy lúc nào cũng chúi chúi xuống những cuốn sách toán học, vật lý học bằng tiếng Pháp dầy cộm.

   Thầy Khiển dưới con mắt dân quê có vẻ như là một người tốt bụng và lập dị. Vì dường như có gì đó như là hai mặt khác biệt cùng có mặt một lúc ở trong thầy. Thầy vui vẻ tếu táo đấy mà cũng nghiêm cẩn chuyên cần đấy. Xô bồ đấy mà xem ra cũng đàng hoàng tề chỉnh lắm. Thầy rất thích ăn lòng lợn tiết canh, bún ốc, bún riêu ở ngoài chợ. Nhưng bắt tay ai xong thầy cũng lấy khăn tay ra lau. Trong nhà thầy khắp nơi là khẩu hiệu. ở bộ bàn ghế tiếp khách thì có dòng chữ viết: "Nếu ngồi chơi, Khiển đề nghị không quá 5 phút". ở cửa buồng thì: "Không có việc miễn vào". ở lưng cái ghế bành thầy dán một tờ giấy ghi hàng chữ yêu cầu khách ngồi không gác chân lên ghế. Còn trên tường, chỗ thì: "Lấy đâu để đấy", chỗ thì: "Nói khẽ, cười mỉm, đi nhẹ chân", "Trật tự kỷ luật"...

   Thầy hay ngủ trưa. Thầy hôn vợ trước khi đi làm. Thầy chơi thân với ông cua-rơ vô địch và ông thợ săn. Gặp nhau là họ xì xồ tiếng Tây với nhau. Nhưng, lắm khi thầy lại mang dáng dấp sĩ phu tử, nói chuyện đời toàn dẫn lời Khổng Mạng. Chẳng hạn, thầy không phàn nàn cảnh sống thiếu thốn ở vùng tự do, thầy bảo: cơm độn sắn khoai, mặc áo vá, chân đi dép cao su, có sao đâu! Vì Ðức Khổng phu tử đã nói: "Kẻ sĩ gặp thời thì đi ngựa đi xe, không gặp thời thì đội nón đi bộ, các em à".

   Hồi mới vào học, anh Ngôn lớp tôi lớn tuổi đã có vợ nên có ý ngại ngùng việc đèn sách. Thấy vậy, thầy Khiển mắng liền:

   - Này, anh Ngôn có biết câu này của một triết gia Pháp không? "L'homme nes' improvise pas". Con người không nhất đán mà thành được. Anh cũng nên biết câu này nữa của Khổng tử: Chung ư vi sĩ, thủy ư vi thánh nhân. Bắt đầu là học trò, chung cục là người thánh. Ðáng thương cho kẻ nào không được làm học trò!

   Nói câu sau cùng, thầy nhếch mép, đưa ngang mắt, như có ý ám chỉ ai đó.

   Thầy Khiển của chúng tôi đã từng qua đời học trò và bây giờ tài giỏi như là đã đạt tới bậc thánh nhân. Lĩnh vực nào thầy cũng tinh thông, tỏ tường. Lịch sử Ðông Tây kim cổ thầy làu làu. Tưởng như nhắm mắt thầy cũng vẽ được tấm bản đồ thế giới, đủ đường nét khúc khuỷu, rắc rối. Ðộng tới cái gì thầy cũng có thể đào sâu tới gốc rễ. Ðã sâu sắc thầy lại tài hoa. Giỏi giang thì chắc không chỉ có mình thầy, nhưng cái duyên, cái tài hài hước thì khéo chỉ mình thầy có. Thầy bình truyện Kiều thì cả lũ chúng tôi cứ ngây ra ngỡ ngàng, kinh ngạc như lần đầu thấy được một tòa lâu đài cực kỳ tráng lệ. Thầy bắt chúng tôi học thuộc lòng bài Cái hồ của La-mác-tin, Mùa xuân của Vích-to Huy-gô, lại dạy chúng tôi mấy câu tán gái tục tĩu dân dã.

   Nhưng mà tài nhất phải nói là thầy dạy các môn toán, lý, hóa. Sách giáo khoa không có. Thầy dịch từ sách Pháp thành bài dạy. Mỗi bài toán thầy dẫn chúng tôi vào một cuộc đấu trí thật say mê. Cái đẹp của toán học, chúng tôi nhận ra, thú vị và thần phục như thấy thầy không com-pa mà văng tay một cái là có được một hình tròn vành vạnh và tấm bảng đen trong giờ thầy dạy sặc sỡ các loại phấn mầu, đẹp như một bức gấm thêu. Tôi nhớ mãi những buổi sinh hoạt dã ngoại, cắm trại ngoài trời. Chúng tôi lần theo các dấu hiệu bên đường, hồi hộp từng bước đi, phát huy trí sáng tạo để vượt qua một cây cầu hỏng, một khe suối sâu, hay giải một câu đố hiểm. Trong ánh lửa trại bập bùng lay động bóng đêm, thầy dạy chúng tôi hát. Rồi thầy bảo: Các em hãy coi như người đi xa, thử kể về làng mình xem. Chúng tôi chưa biết nói thế nào thì anh Ngôn trưởng lớp đã nhanh mồm yêu cầu thầy kể về làng quê chôn nhau cắt rốn của thầy. Thầy gật đầu, trầm ngâm: "Quê tôi là một làng nhỏ xa xăm như cái làng Mùi của văn hào Lỗ Tấn". Anh Ngôn nghe đến đấy lại giơ tay xin hỏi: Lỗ Tấn là ai? Thế là, được dịp, từng nấc thang, thầy nâng chúng tôi lên những tầng hiểu biết mới. Chúng tôi biết Lỗ Tấn là đại văn hào Trung Quốc thời cách mạng. Chúng tôi biết cả Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang và Tứ thư, Ngũ kinh, những từ ấy hàm chứa đại khái nội dung gì! Chúng tôi chạm đến tư tưởng nghiêm nghị của Ðê-các, triết lý thiết thực của La Phông-ten, những vở kịch phàm trần của Mo-li-e-rơ, chất anh hùng lý tưởng của kịch Coóc-nây...

   Dạo đó đã làm gì có phòng thí nghiệm và đồ giảng dạy được cấp phát. Ðể dạy bài sức đẩy của nước, thầy phải gửi tiền sang vùng tề bên kia sông mua mấy tấm kính và mắt tít về gắn lại thành một cái bể nước nhỏ. Lại nằn nì mượn được ba quả bóng ten-nít của ông thợ săn. Vào buổi học, thầy thả ba quả bóng nọ xuống nước bể. Lạ sao, ba quả thì một quả nổi lềnh bềnh, một quả chìm xuống tận đáy, một quả lửng lơ giữa bể nước. Vì sao thế? Từ hiện tượng nọ thầy khắc sâu vào trí nhớ chúng tôi nguyên lý tàu ngầm. Thầy mượn chiếc vành xe của ông cua-rơ về, gá lên mặt bàn, vừa quay vừa giảng về chuyển động. Nhân có buổi bộ đội huyện đấu bóng với thanh niên xã, thầy dành một buổi ngoại khóa mời một cầu thủ nổi tiếng đến chơi. Cầu thủ này trong trận đấu vừa rồi có cú sút phạt góc rất tài tình: Quả bóng thoạt đầu đi theo một đường thẳng nhưng về cuối lại quẹo về bên phải, lọt vào cầu môn. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ vậy? Thầy vẽ hình quả bóng lên bảng, chia quả bóng thành bốn phần, rồi phân tích sức hút của quả đất, về lực đá và tác động của mô-men quay, rồi chỉ phần dưới bên phải quả bóng, và hất hàm hỏi anh cầu thủ: "Có phải anh đá bằng má trong bàn chân vào phần này quả bóng không?" Anh cầu thủ gật đầu, công nhận đúng. Chà! Cuộc sống hiện ra dưới ánh sáng khoa  học lý thú biết bao nhiêu. Lặn xuống nước phải nhịn hơi. Con cá giật lên khỏi mặt nước bỗng thấy trĩu cành câu. Tra cán cuốc phải dộng ngược... Giờ đây chúng tôi đã hiểu các hiện tượng nọ ở chiều sâu nguyên lý. Bừng lên trong chúng tôi một ngọn lửa khao khát hiểu biết, được nhen nhúm, từ tay thầy. Và nhìn ra xung quanh chúng tôi nhận ra những vùng còn tối tăm mù mịt.

   Nhưng rồi đã xẩy ra một cái gì đó như là một sự trục trặc. Ðã xẩy ra một sự trục trặc bất thường, khởi đầu là một tiết dạy của thầy. Tiết ấy thầy dạy về cơ thể con người, tôi đi học muộn, Vừa bước vào lớp tôi liền bị thầy gọi lên bảng và còn đang ngơ ngác đã thấy thầy chỉ cái mặt bàn bảo tôi bước lên. Ô hay! Lớp học hôm nay sao đông thế! Tôi dụi mắt. Thì ra ở cuối lớp có kê thêm một hàng ghế, lúc này trên hàng ghế nọ đã chật người và tôi nhận ra đứng đầu tốp người nọ là ông Chiên phó chủ tịch xã.

   "Em cởi áo ra!? Tôi vừa định thần thì nghe lời thầy Khiển. Cởi áo? Thế là thế nào? Tôi hơi co người lại, nhưng kìa thầy đã giục một lần nữa. A, thế thì tôi hiểu rồi. Thầy dùng thân thể tôi để làm đồ dùng giảng dạy. Thầy dạy cho học trò chúng tôi biết: thân thể người ta chia ra làm ba phần, đâu là đầu, đâu là tứ chi. Chỗ nào là ngực, phần nào là bụng, là lưng.

   Xoay người tôi đối diện với các vị chức sắc và lớp học, lần này thầy làm tôi đỏ dừ mặt vì thầy lại ghé tai tôi, nói thầm: "Em cởi quần ra!Ôi, cởi quần! Tôi run lẩy bẩy vì sợ, vì ngượng ngùng. Nhưng, kìa thầy đã lại ghé tai tôi thầm thì: "Chú bé can đảm! Hãy giúp thầy để thầy dạy các bạn..."

   Tôi không hiểu mình đã cởi dây rút và tụt cái quần đùi ra như thế nào. Người tôi cứng đơ. Mắt tôi tóe vòng xanh đỏ, rồi nhòe nhòe. Tôi như cái máy, mặc thầy xoay trước đặt sau, lẩn mẩn giảng giải và chỉ trỏ từng bộ phận ở phần dưới của cái cơ thể hoàn toàn trần trụi của tôi, cho cả lớp học nghe.

   Cuối cùng, tôi nghe thấy thầy bảo các bạn hoan hô tôi đã can đảm, và tôi vội xỏ chân vào hai ống quần, kéo ngược lên, rồi nhẩy phịch xuống đất, chạy về chỗ ngồi, giữa tiếng vỗ tay ầm ĩ của bạn bè và tiếng xô ghế của ông Chiên ngồi dự ở cuối lớp.

   Câu chuyện tôi cởi truồng ở giờ dạy nọ của thầy Khiển không ngờ gây ồn ĩ và trở thành đầu đề của bao cuộc phiếm luận, đàm tiếu của những người nhiễu sự. Những người này bảo thầy Khiển thế mà thâm. Rõ là trật c. ra trước mặt lão Chiên mà lão chẳng làm gì được. Cứ hằm hè, dậm dọa chúng tao đi nữa, hỡi thằng chèo đò ngang gặp thời thế lên mặt hống hách kia! Ha ha được dịp thế là quán nước bến đò rầm rĩ câu chuyện về anh em Chiên - Sự. Hai anh em nhà này y hệt nhau, cùng thất học mà hung hăng lắm. Rõ là thời lai đồ điếu thành công dị chưa! Chiên chỉ là anh chở đò ngang mà nghênh ngang một cõi, bất chấp luật lệ, muốn bắt chẹt ai cứ tự tiện. Còn Sự được cất nhắc, vì hay lên mặt với mấy người tản cư, dị ứng với người trí thức, coi kẻ có học tuốt tuột là Việt gian gián điệp. Cả hai cùng mắc thói tí tởn đàn bà con gái. Chiên thì công khai ăn ở với một chị chồng đi bộ đội, làm bún bánh ở bờ sông. Còn Sự thì được đặt tục danh là Sự sờ nặng để nhắc ông nhớ viết đúng chính tả tên ông vì hồi học bình dân ông hay viết sai nhiều và cũng ám thị luôn tật xấu hay sờ soạng nữ nhân viên trong cơ quan.

   Tất nhiên chuyện đến tai bố tôi, một nông dân đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ và võ vẽ dăm ba chữ thánh hiền. Một hôm, ở trụ sở ủy ban xã về, mặt hầm hầm, ông gọi tôi lên, bảo tôi kể lại câu chuyện rồi đấm mạnh tay xuống bàn, nói rằng ông sẽ kiện thầy Khiển. Kiện thầy Khiển vì thầy đã làm nhục con ông.

   "Thôi ông ơi, chẳng qua là cái sự bất đắc dĩ chứ thầy nào có dụng tâm vậy". Nghe mẹ tôi can ngăn, bố tôi lặng đi một lúc, xem ra có vẻ nguôi, rồi thở ra nhè nhẹ: "Tôi thì tôi sẵn sàng bỏ qua, nhưng anh em nhà lão Chiên thì nó không để thầy yên đâu".

   Thầy Khiển tôi chẳng yên được với anh em nhà ông Chiên - Sự đâu. Các anh lớn ở lớp tôi và tôi là đứa bé nhất lớp, ngày ngày đều dõi theo thầy với tâm trạng nơm nớp lo ngại cho thầy. Chiên, Sự đều chẳng phải tay vừa. Chiên thì bạo tợn, Sự thì lợi khẩu. Mà trong tay họ giờ là quyền hành, nhưng hình như thầy Khiển của chúng tôi, chẳng biết gì đến điều nguy hiểm đang đe dọa thầy. Hai mắt kính thầy cứ lấp láy. Cái miệng chù chù của thầy cứ ho hó. Thầy vẫn một phong thái tề chỉnh, đàng hoàng, vô tư và hồn nhiên, không thiện không ác, như bẩm sinh tính người. Mỗi giờ dạy của thầy vẫn đều đặn là một dịp thầy phát tiết anh hoa. Thầy vẫn là thầy, bất cần biết ngoại cảnh.

   Thầy Khiển không biết gì về anh em lão chèo đò, chữa đèn pin kính bút ư? họ có thể trả thù thầy. Họ có thể bắt thầy kiểm điểm. Họ có thể thi hành kỷ luật thầy. Thậm chí có thể sa thải thầy. Mà thầy, tiếng vậy cũng yếu thế lắm. Thầy chỉ có bà vợ xồ xệ với chiếc máy khâu cọc cạch cùng ba đứa con nhỏ. Thêm nữa có chăng là ông cua-rơ mở cửa hàng sửa chữa xe đạp và ông thợ săn cùng bà vợ bán thuốc tây. Nhưng bạn bè nếu là chỗ dựa của thầy cũng đã lung lay rồi. Vì sau chuyện nọ ít lâu họ đã biến mất. Nghe kể lại thì hóa ra, một đêm đầu tháng vừa rồi, các ông bà bè bạn nọ của thầy đã bí mật vượt sông, trở lại vùng tề. Họ đi, để lại nỗi dị nghị trong dư luận dân làng về tư cách chính trị của thầy. Rồi giữa lúc đó lại xẩy ra việc một chiếc máy bay hai cánh của Pháp đã xà xuống phố thấp đến nỗi cánh quạt nó thổi tung cả mái cọ lợp chợ, và ông Chiên quả quyết rằng: máy bay Pháp nó rà soát lại những địa điểm bọn gián điệp báo cáo, để chuẩn bị oanh tạc nay mai đấy, hãy liệu hồn!

   Lúc này chúng tôi mới nhận ra thoảng qua gương mặt lút sau đôi kính của thầy Khiển một chút nén chịu nỗi tủi nhục đang bao vây mình. Nhưng chỉ là thoảng qua thôi. Cũng thoảng qua như một câu nói của thầy ở buổi sáng hôm ấy: "Chúng ta phải sẵn sàng đối phó nếu nhà trường bị phi cơ Pháp oanh kích". Thoảng qua thôi vì ngay lập tức tất cả chúng tôi bị cuốn vào không khí bận rộn chuẩn bị đón đoàn cán bộ Ty Giáo dục về thăm và kiểm tra trường.

   Ðoàn cán bộ Ty Giáo dục có ba người, dẫn đầu là ông Sự. Ông Sự, chỉ hao hao giống ông Chiên vì hai người cùng mẹ khác cha. Mặt mỏng, mắt trầm, miệng bẹt như miệng cá trê, trông vẻ ngoài ông Sự hơi lù đù. Ngồi trên một cái ghế tựa ở cuối lớp suốt ba giờ dạy của thầy Khiển, mặt ông cứ lì lì, mắt ông cứ gườm gườm, và thỉnh thoảng lại như thạch sùng đánh lưỡi tách một cái hoặc giả vờ ngúc ngắc cổ để liếc mắt về phía mấy chị  nữ sinh lớn của lớp. Trong khi ấy, đáp lại thái độ thiếu cởi mở của ông, thầy Khiển là một phong cách linh hoạt, biến hóa tài tình.

   Giờ thứ nhất thầy ôm chồng vở bài tập tới cửa lớp. Cửa đóng vì gió lạnh. Hai tay vướng bận. Thầy xoay người lại, dùng mông hích vào cánh cửa rồi đi giật lùi vào. Sau đó ngoảnh lại, mắt thầy tươi vui và đắc chí như vừa vượt qua được vật chướng ngại. Ðó là giờ số học. Thầy giảng bài thật khúc triết và văn hoa, nhưng thỉnh thoảng lại làm như vô tình, hất hàm về phía ông Sự và hai ông trong đoàn Ty Giáo dục, hỏi rất trịch thượng: "Có hiểu thật không mà sao lầm lì thế, các cậu?".

   Giờ thứ hai là giờ hóa học. Giờ này thầy nói toàn tiếng Nghệ An. Ôi cái tiếng miền Trung âm sắc lạ tai gây ấn tượng lạ lùng về sự phong phú của tiếng nói Việt Nam. Kết thúc giờ dạy, thầy nói: "Tiếng Nghệ cũng hay lắm chứ. Ở đời, đừng có bao giờ nghĩ chỉ có mình là hay, là đẹp, các em à!".

   Giờ thứ ba là giờ chính tả. Ba ông cán bộ Ty Giáo dục cùng ngơ ngác hơn vì thầy toàn dùng giọng Sài Gòn. Lại có phần giống như mọi lần, anh Ngôn trưởng lớp vẫn cố tật hay quên và nhanh nhẩu, sau khi thầy đọc một câu dài, liền bật dậy gãi đầu, gãi tai, hỏi: "Thưa thầy sung sướng với xấu xa viết thế nào ạ?" Nghe anh Ngôn hỏi vậy, thầy liền bảo cả lớp buông bút, nhìn lên bảng. Trên bảng đen hiện lên hai chữ s. và x. to đùng thầy vừa vẽ xong. Nói thầy vẽ là đúng, vì khi thầy hỏi: chữ s. giống con gì, chúng tôi đều đồng thanh đáp là nó giống con chim. Và cũng như thế, chữ x. giống con bướm. "ấy thế, thầy nói, miệng tủm tỉm, mặt tỉnh không, anh Ngôn nhớ cho thầy: sung sướng viết ét sì, chữ ét sì trông giống hình con chim, còn xấu xa viết ích xì, chữ ích xì giống hình con bướm. Hay nói một cách ngắn gọn dễ nhớ: sờ chim là sung sướng, xờ bướm là xấu xa. Ðược chưa nào". Các chị nữ sinh nhạy cảm gục đầu ngay xuống mặt bàn cười nghẹn. Còn thầy, thầy đi xuống cuối lớp, đến trước ông Sự, đủng đỉnh: "Tôi chỉ nhân nhượng anh, một lần này nữa thôi đấy nhé, anh Ngôn!" Các anh học trò lớn lớp tôi đều hiểu hàm ý trêu chọc của thầy, nhưng không ai dám quay lại nhìn ông Sự, vì  cũng còn đang thú vị về sự ứng đối, liên tưởng cực kỳ nhạy bén, thông minh của thầy.

   Sấm sét hiển nhiên là sẽ dội xuống đầu thầy Khiển tôi rồi. Chuyện từ miệng học trò, từ mồm hai ông cán bộ tháp tùng ông Sự loang ra ngoài sân. Bố tôi cũng biết. Bây giờ ông cũng nhận ra là hồi xẩy ra câu chuyện tôi cởi truồng ở lớp, ông đã bị ông Chiên kích động, xúi giục. Ông cũng đã có phần nhận ra thầy Khiển tôi không phải là người xấu. Và ông lo ngại cho thầy. Chiên, Sự đều chẳng phải tay vừa, Chiên thì bạo tợn, Sự thì lợi khẩu. Mà trong tay họ giờ là quyền hành.

   Quả nhiên là ông phó ty đã chằng chằng nhìn vào hai mắt kính thầy Khiển và nhếch mép, kẻ cả:

   - Thế mới biết nàm ông thầy  khó nắm!

   - Ông nói như lời thánh dạy vậy.

   Thầy Khiển đáp, tay chập một như là khúm nịnh. Ông Sự trợn mắt:

   - Khó  ở chỗ nào, ông giáo có biết không?

   - Dạ, ở chỗ phải tri kỷ tri bỉ.

   - Cái gì?

   - Phải tri kỷ tri bỉ. Tức là phải tự biết cái kém cỏi, bỉ tiện của mình.

   - Phải giỏi chính sách! Chính sách ! Hiểu chưa!

   Ông Sự quát. Thầy Khiển ngẩng lên, ngập ngừng:

   - Vâng, phải giỏi chính sách và ... chính tả nữa ạ!

   Tới đây thì ông Sự không giữ bình tĩnh được nữa. Ông xả một tràng liên tục. Ông kết tội thầy là vô chính trị. Ông nhắc lại lai lịch thầy vốn dân vùng tề. Ông kể lại việc thầy tán chuyện trai gái buổi đầu nhập học. Ông dựa vào thế kẻ có quyền, lấy cái lý để thắt buộc cái thói gàn gàn ngông ngạo dở dương của thầy và cho rằng thầy là kẻ phản nghịch, xỏ lá, ba que, là phần tử bất trị, là quân phá hoại. Suốt một buổi họp ba tiếng đồng hồ nhận lời mắng mỏ, quy kết xối xả nặng nề của ông Sự, thầy Khiển cứ nín thít. Tới khi thấy ông phó Ty đã có vẻ mệt, thầy mới rụt rè nhìn ông, hỏi: "Ông đã nói hết chưa ạ" và thầy khẽ khàng, rành rọt:

   - Tôi từ cha sinh mẹ đẻ, thầy mẹ bán hai mẫu ruộng lấy tiền cho ăn học, chỉ cốt trở thành người tử tế. Tôi tự nghĩ, con người ta, trừ cao nhân dật sĩ, thiên tài ra, còn thì kể từ ông giáo trường làng như tôi, tới nhà nông canh điền, kẻ chèo đò ngang, anh thợ chữa khóa rong, cũng là sàn sàn như nhau, thì nên coi vui vẻ sống là đức tính hàng đầu. Nước trong là vì nguồn không đục. Lòng có thiện thì mới biết vui cười.

   Ông Sự nghe đến đó thì rối trí quá, liền đập bàn, át: "Thôi thực tế sẽ trả nời ông!".

   Và, thực tế đã trả lời.

   Tháng 8 năm đó, vào một ngày nước sông Thi dềnh tới cao điểm, ngập tràn hai bờ, một đàn đacôta Pháp đã bay tới ném bom triệt hạ phố làng tôi. Thiên tai phối hợp với địch họa, thật tàn bạo. Hơn một trăm người chết. Cái phố đông vui trên bến dưới thuyền trống trơ một vùng tóc tang, sau cơn khủng khiếp chỉ còn sót lại mấy cây gạo cụt cành, tơi tả. Nỗi kinh hoàng còn ám ảnh trên mặt ngơ ngác, trong tâm trí hoang mang và len lỏi vào trong giấc mê dữ của cả bố tôi, người cứng vía nhất nhà. "Máy bay đấy, chạy đi!". Một đêm ông hét toáng lên vậy, rồi bật dậy, sờ tấm lưng đẫm mồ hôi, lập cập tìm cái điếu, rồi nhìn mẹ tôi, lầm thầm: "Tôi thấy rõ ràng ba cái tàu bay nó dàn hàng ngang đen sì sì mà chẳng thấy báo động gì sốt! Hãi qúa! Hừ, mẹ cha quân Việt gian nó leo cao chui sâu chỉ điểm phá từ trong phá ra". Mẹ tôi ngồi yên, lát sau thở dài. Bố tôi nói vậy có ý ám chỉ ai; mẹ tôi biết rồi. Ôi sự đời nông sâu, lòng người uẩn khúc, biết đâu mà ngờ!

   Thầy Khiển bị sa thải khỏi ngành giáo dục sau trận bom nọ ba hôm. Ôi, thầy Khiển, thầy Khiển của chúng tôi. Thầy không thoát khỏi cảnh thân cô thế cô giữa cộng đồng. Thầy rộc rạc cả người, sự sống chỉ còn lại đôi mắt kính cận, nhiều lúc ngây đờ như vô cảm. Nhìn cảnh thầy còm nhom, một chiều thu hiu hắt cùng ba đứa con gầy guộc, nức nở trước mộ mẹ, chúng tôi không sao cầm được nước mắt. Ôi, cuộc sống! Chi phối chúng ta không phải là một sức mạnh vô hình. Tất cả đều rất cụ thể và đơn giản đến không ngờ.

   Ðơn giản như hôm nay ngủ ở đâu, ăn cái gì? Ngày mai ăn cái gì, ngủ ở đâu? Hỡi ôi, người thầy giáo tài hoa, vui tính và ngông ngạo đã đem cả sở tri sở thức của mình mà tu bổ dân trí, người sẽ sống thế nào đây trong hoàn cảnh hẹp hòi và khắc nghiệt này? Hay là người rơi vào cơn quẫn trí, tự mình minh chứng cho sự nghi ngại của mọi người là đúng. Ðã gầy còm nay thầy thêm choắt cheo lại như thần khí đã vơi cạn, hồn vía đã mất vài phần, thầy ngẩn ngơ, vật vờ như cái bóng vô định. Kính đeo trên mắt mà cứ tìm quẩn. Ðang đi bỗng nhiên lại rạp xuống   mặt đường như kiếm vật vừa đánh rơi. Ra đường mũ không đổi, hai nách cắp hai chiếc dép, mồm thì lẩm bẩm: "Chim mỏ quặp, cá mõm ngang, người lưỡi nhọn là đáng sợ lắm".

   - Tao lo cho thầy quá, nhưng nói với thầy, thầy lại cười khà, đáp: quân tử dựa vào mình, em ạ. Tao đã mua cho thầy một mảnh đất ở cạnh nhà tao, dựng một túp lều tạm cho bốn bố con thầy rồi. Tao chắc là thầy sẽ qua khỏi, sẽ xoay xở được.

   Anh Ngôn nói vậy vào một hôm tôi đến anh từ biệt để theo chú tôi lên tỉnh học tiếp. Cơ sự này, Tây nó sẽ còn cho máy bay bắn phá tiếp, năm học đầu tiên cấp trung học, có lẽ sẽ chỉ còn lại là những kỷ niệm đầy luyến nhớ với chúng tôi thôi.

   - Thôi mày đi. Thỉnh thoảng viết thư về thăm thầy. Tin chắc sẽ có những người rộng lượng, biết đánh giá cái tài, cái tâm thật sự của thầy.

   Anh Ngôn nắm tay rồi lắc lắc, cười ứa lệ.

   - Anh Ngôn này.

   - Mày còn thắc mắc gì...

   - Em chỉ sợ...

   - Thôi, mày đừng nói nữa - Anh Ngôn cướp lời tôi, giọng nghẹn tắc - Tao đang lo bời bời đây. Thầy mà ngã lòng, mà sợ hãi chạy sang vùng tề thì lão Chiên, lão Sự nó phải đốt pháo ăn mừng. Mà tao thì... chết mất. Không! Không bao giờ thầy là kẻ gian, có đúng không? Thầy vui tính, có khi chơi ngông, nhưng thầy tốt bụng, thầy là người đàng hoàng, kẻ hẹp hòi hay đố kỵ, ít học sao hiểu được thầy!

   Tôi xa làng từ đó. Và không ngờ xa thế, cả ba chục năm liền. Cả ba chục năm, khi ngồi trên ghế học đường, lúc trong quân ngũ, lại có thời như thân cò kiếp vạc ăn nơi thung xa ở xứ người, vậy mà có lúc nào thôi bồn chồn về số phận thầy Khiển? Con người ta không nhất đán mà thành. Hình thành được một con người là cả một công cuộc lâu bền và khi đã hình thành thì con người ta là vĩnh viễn, bất biến. Vẫn biết là vậy. Vẫn biết thầy Khiển là vậy mà vẫn âu lo. Liệu người thầy kính yêu của tôi, con người tài năng, tâm huyết thật sự nọ có vượt qua được cái nhỏ mọn của chính mình và tật đời thiển cận thói thường dị khí tương thù để thoát khỏi kiếp phận long đong?

   Cuối cùng thì một khúc sông trắng lặng đã hiện ra trước mắt tôi như để nhắc nhở tôi ý tưởng một cách ngôn cổ đại: người ta không bao giờ tắm hai lần trên cùng một con sông. Sông Thi đã miệt mài chảy qua đôi bờ lịch sử, giờ như một tứ thơ, phiêu lãng giữa bát ngát lúa ngô.

   Tôi bước lên đò ngang, nhập vào đám các bà các chị gánh gồng qua sông sang phố chợ khi người lái đã chống mái chèo đẩy con thuyền gỗ khỏi bờ. Người lái đò! Chợt nhận ra ông trong sửng sốt và không nén được tò mò, tôi cúi xuống bà lão có gánh trầu cau ngồi trên cáng thuyền bên cạnh mình. Bà lão nhỏ bét, da bánh mật, phụng phệu miếng trầu, nghe tôi hỏi, hai con mắt như hai hạt bạc, lăn tăn ánh cười nửa như nhạo báng nửa như vô tư:

   - Chẳng ông Chiên thì còn ai nữa! Ông anh ông ấy tên Sự, vừa mất tuần trước. Ấy, hùng hùng hổ hổ được ít lâu, rồi cuối cùng đâu lại vào đấy!

   Tôi ngẩng lên, hiêng hiếng mắt về phía đuôi thuyền. Thuyền đã xa bờ. Trần mây cao bổng, gió vi vút diễn đạt cái bao la vô cùng, đưa con người vào trạng thái sụt hẫng vì chợt nhận ra mình quá bé nhỏ giữa niềm cô quạnh. Thuyền nhích ra giữa dòng, và người lái đò chừng như đã nghe thấy câu trả lời tôi của bà lão bán trầu cau, giờ mới hất hàm về phía tôi, bắt chuyện.

   Trả lời câu hỏi của ông, tôi là ai, có việc gì mà hỏi ông, tôi đáp: tôi quê ở đây, nhưng giờ họ hàng, cha mẹ đã chuyển cư ra tỉnh cả rồi. Tôi về đây là để thăm thầy giáo Khiển. Tôi chính là chú bé can đảm đây. Tới chi tiết này, ông lái và cả chuyến đò như sực nhớ, bật cười à à. Và ngay lập tức, như đã nấp sẵn ở đầu đó trong ký ức người này người nọ, nhưng câu chuyện vui có buồn có về thầy giáo của tôi được dịp sổ lồng, sống động cả lòng thuyền, mặt sông.

   Ngắt cái cười đang hồi nắc nẻ, bà lão bán trầu cau hất mắt về phía ông lái đò, đột ngột đay đả mà nhẹ tênh:

   - Mà sao hai anh em nhà ông hành người ta quá thể thế! Không cho người ta dạy học. Người ta chuyển sang làm nghề chụp ảnh, cũng lại lấy cớ là mua lậu giấy ảnh, để cấm đoán. Người ta chuyển sang nấu kẹo mạch nha, cất tinh dầu bạc hà cũng lại tìm cách  triệt vi tróc vẩy. Nhưng mà sinh sự thì sự sinh, hạ được người ta có dễ đâu, ông nhẩy!

*
*   *

   Cứ tưởng người lái đò bị khích vậy thì nổi giận. Nào ngờ, ông lại chành cái miệng chuột, cất tiếng cười khề khề:

   - Nó là cái chuyện đối địch thì dịch lại đây. Bên là thừng, bên là chão. Chẳng bên nào chịu bên nào.

   - Sung ngái một lòng, bưởi bòng một dạ mà sao dở trò thảm ngược với nhau thế!

   - Bủ ơi, nó là cái tức khí vặt, ngông ngạo vặt, sĩ diện vặt, được thua vặt. Ông có chữ nghĩa thì khinh ông thất học. Ông thất học thì ganh với ông có chữ nghĩa.

   Con đò chênh mạn tránh một lượn sóng, dấn qua dòng chẩy giữa lòng sông. Bỏ qua câu hỏi móc máy đáo để của bà cụ am hiểu sự đời, ông lái đò đứng dậy, nhoai cánh tay đẩy mái chèo và nhìn tôi, chuyển giọng vui vẻ khác thường:

   - Chú bé can đảm ơi, chú không gặp may rồi. Thầy Khiển của chú vừa qua đò sáng nay. Thầy lên tỉnh đón cậu con trai đỗ Tiến sĩ ở Nga về nước. Trên ấy, thầy còn có cô con gái làm Hiệu trưởng trường Trung học nữa đấy. ở đây, giờ chỉ còn mỗi cửa hàng sinh vật cảnh thầy nhờ tôi trông coi hộ thôi.

   Tôi đã lên bờ bên này. Ngỡ ngàng trước một thị trấn làng quê tấp nập, càng kinh ngạc khi đứng giữa cửa hàng sinh vật cảnh của thầy Khiển tôi. Si, tùng, trắc bách diệp, thiên tuế, đại lộc bên đào, mai, súng, lựu, nguyệt quế, ngô đồng, gốc lớn, u nổi sần sùi, mốc mác, thân thành thanh nhã, cách điệu, chen đua cùng lưới hổ, xương rồng, ngà voi, cúc mốc dáng kiểu kỳ cục, lạ mắt. Xanh om cây lá một vùng vừa quần tụ trong chế ngự, vừa quẫy động ngoài ràng buộc, cây nào cây ấy gò gẫm mà vẫn tự nhiên, in dấu nét tài hoa của người gây trồng. Tôi đi qua các dáng trực, siêu, hoành, huyền, các thế long giáng, phượng vũ, hạc lập, dừng lại ở một gốc si cổ thụ, thế "phụ tử nương thân" ở đó thân lớn là cha già gốc to, dáng thẳng đứng, thô cứng mà vẫn phảng phất vẻ hồn hậu, vui tươi.

12-1996

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.