chan_dung-ke_si

SAN CHA CHẢI - Truyện ngắn Ma Văn Kháng

13-05-2023

Lượt xem 2032

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

  truyện ngắn hay Ma Văn Kháng

SAN CHA CHẢI - Truyện ngắn Ma Văn Kháng

Nhà văn Ma Văn Kháng             
 

   Muốn biết thế nào là San Cha Chải, mình phải leo dốc cật lực một ngày trời. Một ngày ròng gánh cực lên non, nhưng lên tới nơi mình cảm thấy ngay là được đền bù. Trời mở toang tám cánh cửa cho mình phóng tầm mắt thỏa sức. Mình nhìn thấy sông Hồng một vệt lênh láng nơi lưng trời xa. Nhìn xuống phố huyện nhà cửa xúm xít như một bãi nấm, mình nghĩ mà buồn cười: Giá có thang dây tụt xuống, chắc chưa kịp sôi ấm nước, mà đi chân thì phải tận tối mịt. Gần đấy mà xa đấy, xa đấy mà gần đấy, đến hay!

   San Cha Chải, tiếng Quan Thoại, dịch ra Việt ngữ là Thôn Ba Nhà. San Cha Chải nay đã ba chục hộ, mà không khí vẫn heo hút như thời khởi thủy. Nơi đây, cỏ ngải tàn rồi cỏ ngải lại xanh như câu hát hết câu hát lại bắt đầu. Nơi đây cỏ ngải bị chân ngựa giẫm bốc mùi thơm tinh dầu nằng nặng. Nơi đây, hoa tục đoạn nở và tam thất rừng mọc nhơ nhởn cho riêng nó. Không khí thanh sạch mùi hoa lá. Yên bình như thời mở đất, chó nhà thiu ngủ trong nắng, chỉ hậm hực đánh hơi nếu có con thú lạ về. San Cha Chải không biết khóa sắt khóa đồng, chỉ lấy hai thanh gỗ gài bắt chéo, để ngăn gà nhà vào bới bếp mỗi khi vắng chủ. Nơi đây, gà rừng ăn lẫn gà nhà. én làm tổ đầu hồi. Nơi đây, trâu thả rông, mắt chưa thấy màu gì hơn màu chàm đen, màu lá rừng xanh, nên khi thấy thầy giáo Tính người miền xuôi mặc cái áo trắng toát như kẻ lạc bước tới đây, chúng liền lổm ngổm chống chân đứng dậy từ vũng đầm, hồng hộc chạy ra, giương hai cánh sừng nhọn. Thầy giáo Tính cười: "Thế nào, không cho tao đến lập trường dạy trẻ con học à?". Hiểu tiếng người, trâu San Cha Chải liền quay lui, mặt gằm gằm ngượng nghịu. Mấy tháng đầu, chưa có trường lớp, chưa có học trò, cất cái áo trắng duy nhất, thầy giáo Tính đánh bộ quần áo nâu dấn bùn khâu tay kiểu ta đi vác nước cho ông Mo Chúng nấu rượu. Rượu nấu bằng ngô. Ðược nước đầu, ông Mo Chúng biếu thầy một chai. Thầy tợp một hớp, kè lưỡi, kêu: Rượu này một chén ba ngày say xỉn, chỉ biết lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu. Rượu này, rơi một giọt xuống đất, giun ngửi say lử đử. Gà rừng gà nhà ăn phải giun này, cơn say mê mết truyền sang cả người ăn tiết canh nó. Mo Chúng gật gù: "Thầy biết người biết của, xứng đáng bậc sư phụ đấy! Rượu này được thế vì ngô ở đây bẩm thụ khí trời thanh cao, vì nước nguồn chảy ra từ lòng đất sâu thanh khiết, vì người nấu, người chuyên nước chưa vong thân".

   Mo Chúng sáu mươi tuổi, đang lập vườn thuần phục cây tam thất rừng, giàu có tiền bạc và trí khôn là nhà thông thái, bậc thánh triết dân gian, nói đúng quá về giọt nước ở San Cha Chải.

   Nước ở San Cha Chải quý lắm. Trong suốt, mỗi giọt lóng lánh như hạt bạc, nhưng nó phun từ lòng đất lên thì trôi tuột theo dốc đi. Một người Kinh thứ hai sau thầy giáo Tính, là cán bộ thủy lợi, lên San Cha Chải mới giữ lại được. Cái giếng xây vuông vức mỗi bề ba bước chân, trong trơn láng, ngoài gắn mạch cẩm quy, như cái kho kiên cố giữ báu vật, lúc nào cũng ăm ắp nước. Mo Chúng nói: "Nước ở dưới sâu nước không có ích. Nước muốn có ích phải chuyển động lên khỏi mặt đất. Muốn hữu ích phải làm việc".

   Mo Chúng tuổi cao mà lúc nào cũng luôn tay luôn chân. Thầy giáo Tính hết việc, gọi trẻ con tới lớp lại, dắt trâu kéo cây gỗ dẻ vè dựng trường sở. Mọi người đều làm việc. Cái giếng nước cũng làm việc. Nó cho người, ngựa, gà vịt nước để họ ăn uống tắm giặt. Nó còn làm cái gương soi. Lòng trong văn vắt nên nó soi gì cũng tỏ. Những đám mây trắng bay qua ngó xuống. Mấy đàn thiên nga đi tránh rét qua cũng liệng một vòng nhìn xuống. Mọi người trong làng đều đến lấy nước, soi mình. Các cô gái tới. Các em học sinh lớp một của thầy Tính tới. Hết trai khôi ngô Tráng A Lừ, Lý A Tếnh, đến gái xinh xẻo Seo Say, Seo Mùa. Phải để Mo Chúng giục: "Soi xem có đạt cái tước hiệu làm người chưa?", Pao mới tới. Pao tới sau cùng vì ngượng ngập, vì thấy mình to phộp, trời cho sức vóc thân thể hơn hẳn bạn bè mà lại ngồi cùng lớp. Chỉ thoáng qua một chút, Pao đã hiện lên trọn vẹn. Trên mặt gương nước, Pao tròn trĩnh, mặt sáng như cái mâm bạc, nét mắt, nét mày, phân minh như nét vẽ, không mảy may tư dục, tà niệm, lại ngác ngơ như ngọn măng mới chồi khỏi đất. Mo Chúng nói : "Bằng tuổi Pao, thằng Tủa đã biết đi cướp gái rồi đấy!". Tủa là anh trai Pao, có lớn có khôn, hai mươi hai tuổi đã là công an xã. Tủa đen cháy. Mặt soi trong nước vẫn thấy đỏ lừng bao ham muốn.

   Cả San Cha Chải chỉ có một người không tới giếng soi mặt. Ðó là Cư A Cấu, người quê đâu đó, một buổi chợ huyện tan thấy bà góa Lý Cài dẫn về cùng ăn cùng ở. Cấu lẻo khoẻo, da dẻ quánh chắc, mặt như ám khói. Mo Chúng nói: "Cấu đâu có phải đứt dây trên trời rơi xuống! Ông nó theo bọn Cờ trắng làm thổ phỉ cướp đường bị Tây bắt. Bố nó đón đường giết người buôn, lấy vàng bạc, bị Chính phủ ta bỏ tù. Nó là đứa lêu lổng, chuyên trộm cắp vặt ở bên Pa Cheo Phìn. Buồn cho bà góa Cài quá. Xưa, có hồi ở đội văn nghệ hát bài Mùa xuân hoa nở, họa mi còn đòi hát theo. Giờ lại chịu nó. Người không bằng cái giếng rồi".

   - Nhà này có ai tên là Cấu thì ra cho tôi hỏi. Chả lẽ đất San Cha Chải là đất hoang. Còn tôi là thằng bù nhìn giữ dưa, hả!

   Một buổi chiều sương sa, trưởng công an Tủa, mặt đỏ hăm, kìm chẳng được đã đến trước cửa nhà bà góa Cài quát vậy. Tủa vốn là người làm việc có trách nhiệm. Tủa tức lão Cấu lắm. Tủa quyết định bắt lão Cấu lên trụ sở viết kiểm điểm và sau đó trục xuất lão về quê cũ. Tiếc thay hôm đó, Tủa không gặp lão Cấu. Giáp mặt Tủa chỉ là bà Cài. Bà góa Cài ba mươi mà tươi mởn. Cổ trắng mịn, ngực bồng bềnh, đàn ông nhìn vào như bị say sóng. Bà lại có hai con mắt ướt, bình thường thì lăn tăn, lúc cười thì xoáy tít, khiến nhiều anh bị nó hút hồn chóng mặt. Chả hiểu đôi bên nói năng, trao đổi những gì, chỉ thấy lát sau, Tủa hứ một tiếng rồi chỉ mặt bà góa ỡm ờ: "Hừ, đại hạn lâu quá rồi hả? Nhưng chớ cậy mình đẹp mà đáo để với đây nhé". Rồi bỏ đi. Cái lý thua cái tình. Tình này lại là tình dục giống cái bếp lò nuôi lửa thâu đêm. Nghe chuyện này từ miệng Tủa, mọi người cười lăn lóc. Cài từ lúc thiếu nữ đã thuộc nòi đa tình, đa dục. Quyến quyện nhau với Cấu trong sắc dục, ngập ngụa trong chăn gối mây mưa, người đàn bà háo tình này còn đâu biết gì khác! Thôi, thể tình hãy cho qua.

*

   Chuyện qua đi.

   Bốn năm, bốn lần ngải tàn ngải lại xanh, Cấu như cây bén rễ, đã thành người San Cha Chải. Pao đã sang tuổi mười sáu, học xong lớp bốn, môn gì cũng khá, đặc biệt toán hay, vẽ đẹp. Thầy giáo Tính nói: "Tôi hết chữ dạy em Pao rồi. Cơm chấm cơm, tôi cũng chỉ học hết lớp bốn trường làng dưới xuôi thôi mà". Mo Chúng bảo: "Thế thì nếu thầy ưng, tôi sẽ dậy thầy các bài cúng mo. Học các bài cúng mo mắt sáng ra nhiều. Chẳng hạn câu này thầy biết nghĩa lý nó làm sao không? Ba buổi sáng cũng là một đời người. Còn chuyện đo đất đo trời buổi mới khai thiên thầy biết chưa?". Thầy giáo Tính gật đầu: "Cụ lại cho tôi nhấp chén rượu đầu nồi. Thế thì còn gì bằng nữa!". Rồi quay sang Pao: "Còn em Pao, như nguồn nước dưới sâu vận chuyển lên mặt đất thành giọt nước có ích đi!".

   Pao soi mặt mình trong mặt giếng. Mặt Pao vẫn sáng trưng vậy. Rõ hơn là hai con mắt một mí, cái cằm vuông và gò mũi thẳng, toát ra một thần thái vừa chất phác hồn hậu, vừa văn vẻ, không hôn ám. Pao đã lớn, lớn thật sự rồi. Buổi sớm, nghe con gà gáy, Pao phắt dậy. Ngoài sân, con ngựa hồng một tuổi bậm bịch chân, răng nhe dữ tợn, thách thức. Trong hiên, anh Tủa đứng chống sườn, môi bậm, mắt nheo nheo cạnh chị dâu đang đẩy cối xay ngô rì rầm. Pao xuống sân, bước tới, tay trái đặt lên cổ con ngựa. Con ngựa phì hơi qua lỗ mũi trắng lóa. Thình lình, chân Pao gập lại và tay phải Pao như kìm ngoạm trúng chân trái con hồng, giật mạnh. Con ngựa ngã nghiêng, hai chân trên không đạp loạn xạ, cố chống cự. Pao nhanh như cắt vòng cả hai tay qua lưng bụng nó, cổ bành căng, hực một tiếng trong lồng ngực, xốc nó lên. Con ngựa như đứa trẻ quá khổ bị nhấc khỏi đất, kêu thất thanh sợ hãi. Anh Tủa cười gật gật: "Sức trai vật ngựa được rồi thì mọi việc nương ruộng giao cho em nhé, Pao!".

   Pao đã lớn. Pao đi cày nương đá. Pao phát rừng lau. Pao tham gia lực lượng công an của anh Tủa. Pao vác súng đi săn con lợn độc chuyên phá nương sắn. Một bận, ở giữa rừng già thuần phác gặp một thảm hoa sặc sỡ các cung màu nhưng ẻo lả, èo uột, chập chờn, người bỗng thấy mê mê như hít phải hơi độc, sợ quá liền cắm cổ chạy về. Gặp thầy giáo Tính ở nhà Mo Chúng đúng lúc trời đổi mưa, sấm sét rung trời. Mo Chúng nói: "Nó là cây thuộc phiện đấy, Pao à. Cái cây ra hoa kết quả gây hoảng loạn cả trời đất nên sấm chớp ầm ĩ lên đấy. Thằng Cấu đem cái xấu, cái ác về San Cha Chải rồi!".

*

   Cấu đem cái xấu, cái ác về San Cha Chải rồi. San Cha Chải bình an, chó không lo giữ nhà, nhà không cần khóa đồng, khóa sắt, chim dạn người, trâu không biết màu trắng, miền đất chưa vong thân, như người nhảy một bước vượt rào, nẩy nòi ra thằng ăn trộm.

   Kẻ trộm Cấu lẻo khoẻo, tiểu nhân lộ tướng, giờ đã có da có thịt. Ðầu hói mũi khoằm, mặt rỗ, mắt rắn, bao nhiêu tinh tướng ác nghiệt giờ hiện ra cả. Cấu thổ vào không khí thanh sạch San Cha Chải mùi á phiện khài khài. Tình dục và nghiện ngập là hai kẻ xấu dẫn đường cho tội lỗi. Cấu ăn trộm quả bí, ổ trứng, con gà đang ấp. Cấu chẹn đường người đi chợ. Cấu đột nhập vườn cây tam thất nhà Mo Chúng. Cấu nhăm nhăm sấp tiền năm nghìn, mười nghìn buộc dây chuối Mo Chúng giấu trên gác bếp. Cấu thù ông vì ông biết quá nhiều về nó.

   Cuối cùng cái phải đến đã đến. Buổi sáng ấy hiện ra trong tiếng người nhôn nhao và chó sủa hoang mang. Pao mở mắt đã thấy chị dâu giúi vào tay một túi lanh đựng bột ngô đồ, giục: "Chú cầm đi ăn đường. Ra trụ sở ủy ban, anh Tủa đang cần gặp".

   Trụ sở ủy ban xã mái lợp cỏ ủ ê sương mây, sân đầy người, cửa ra vào nghẽn tắc. Trong nhà, Tủa, trưởng công an xã, chễm chệ trên ghế. Dưới đất, Cấu áo rách xõa vai ngồi gục mặt trong hai cánh tay vòng qua gối. Cạnh Cấu, bà góa Cài váy lanh, áo hở cổ trắng nhễu, má đỏ rạn, ngực nở phập phồng.

   Tủa đập bàn, quát:

   - A Cấu! Mày chưa chết đã thối. Ðã nghiện hút lại không lo làm ăn, chuyên đi trộm cắp của người. Mày như lông mọc trên da cũ. Mọi người cầm cày cuốc, kèn sáo, mày lại thủ trong tay con dao nhọn để đâm ông Mo Chúng. Ông Mo Chúng bị mày đâm hai nhát, may chỉ vào tay vào chân, nhưng tội mày vẫn đáng tội chết. Mày là ngọn gió độc đem dịch bệnh về đây, ta sẽ đưa mày ra huyện để mọi người biết cái tội của mày.

   Bà góa Cài ngẩng cái cổ nõn nà lên, nhễ nhại:

   - Giải nó ra huyện thì giải, nhưng đừng trói nó. Cái lý người Mèo nói: Ðời người Mèo bị sợi dây dính vào mình là hỏng hết rồi, anh Tủa à.

   Tủa đứng dậy, bé choắt, đen sắt, bước tới. Kéo Cấu đứng lên, quay ra cửa nhìn mọi người chứng kiến, Tủa đánh nhanh tia mắt vào khuôn ngực nở bồng của người thiếu phụ đa tình, đoạn tủm tỉm:

   - Tình yêu biết vận cả lý lẽ để tự vệ, mọi người nên học tập. Còn bây giờ, chiều lòng cô Cài, tôi có lời giải động cho nó đây - Ðấm nhẹ một cái vào lưng tên tội phạm, anh trưởng công an xã cao giọng, rành rọt - Từ nay mày không còn là người Mèo ta nữa - Ðoạn chống tay lên sườn, thét to:

   - Ðược chưa? Dân quân đâu, trói nó lại. Pao, dẫn nó lên huyện!

   Ðám đông ngoài sân, ngoài cửa dào lên một tiếng reo thán phục Tủa và giãn ra cho Pao dẫn Cấu đi.

*

   Ði sau Cấu là Pao chĩa khẩu CKC.

   Trời mở bốn phương, tám hướng, sáng choang như được một nguồn thần lực chiếu tỏa. Trần mây cao vút, vắt qua vắt lại những sợi mây trắng muốt, mảnh như lông đuôi ngựa. Vòm trời bát ngát như thuở ông Chày bà Chày mới làm ra đất ở chuyện đo đất đo trời Mo Chúng kể. Ðất rộng quá, nhờ nhái bén đo, nhái bén đo không nổi. Trời rộng quá, nhờ chim én đo, chim én đo không xong. Phải nhờ diều hâu. Ðất trời rộng rãi quá, một mặt trời, một mặt trăng soi chiếu không đủ. Phải chẵn ba mươi cái mặt trời, phải đủ ba mươi cái mặt trăng. Ðất trời bao la quá, Pao nhìn xuống chân mình, tự hỏi chẳng biết đôi giầy nào lạc bước tới đây. Ðất trời mênh mông quá, đời người rộng quá, Pao ngơ ngẩn tự hỏi, biết bao giờ mới hiểu hết mọi điều, mới trở nên khôn ngoan như anh Tủa của mình.

   Pao thấy mình bé nhỏ và nhìn xuống chân núi xa mờ thấp thoáng cảnh tượng phố huyện như trong hư giác, Pao có cảm giác như vừa từ xứ sở này bước sang xứ sở khác, lạ lẫm, khó hiểu vô cùng.

   Cấu hoàn toàn không giống Pao.

   Bị trói hai tay quặt ra sau mà Cấu vẫn phăm phăm bước. Gặp dốc, chân toại đít trệt đất, Cấu trượt từng đoạn dài. Sau mỗi khúc ngoặt, cái đầu mới gọt của Cấu lại nghênh ngáo nhìn trời. Có lúc lại dừng lại, hít hà thích thú vì chợt nhận ra một cảnh trí quen thuộc. Tới một vòng cua, nhìn thấy phố huyện nhấp nhô hình khối, lão quay lại hất hàm vào Pao, thân mật như bạn bè: "Pao, giá mà có một cái thang dây thả xuống thì có phải tiện không nhỉ?".

   Lát sau, tới đỉnh một con dốc. Cấu bỗng dừng chân và quay lại nhìn Pao, nằn nì:

   - Pao à. Bên trái ta là miếu Quan Âm thiêng lắm. Tay anh bị trói, nhờ cậu nhặt một cây sậy khô đặt cạnh nơi thờ phụng hộ.

   Bên trái đường là một hốc đá nhỏ, bên trong có một bát hương và ba cồ đá quàng vải đỏ từa tựa hình người. Tục truyền đó là miếu thờ Phật bà Quan Âm. Ai qua đây, đặt cây sậy sẽ được Phật phù hộ leo dốc chân không mỏi, xuống dốc gối không chồn, đường xa gặp nhiều điều may mắn.

   Pao nhặt hai cây sậy, một cho mình, một cho Cấu, đặt cạnh hốc đá thờ.

   - Cám ơn cậu. Thôi anh em ta đi kẻo nắng. Con mắt đánh lừa thôi chứ đường còn xa lắm.

    Cấu nói và rảo bước đi trước, tự nhiên như kẻ dẫn đường. Pao theo sát lão. Lát sau, một già một trẻ chênh vênh bên bờ một vực sâu. Cấu ngoái lại:

   - Cậu Pao này, cứ nghĩ một mình lại thấy   buồn cười.

   - Sao?

   - Anh Tủa thì đen thủi đen thui. Em Pao thì trắng hồng đẹp đẽ.

  - Sì!

  - Nói thật đấy. Cậu là giọt nước quý, là hạt bạc hạt vàng San Cha Chải. Tôi là con gái tôi mê cậu liền.

   - Sì!

   - Ơ kìa, anh trai Pao ơi, anh trai không biết là các em Seo Say, Seo Mùa mê mẩn anh như thế nào à. Húi! Chẳng bù ông Tủa. Ông Tủa mấy cũng chưa đủ. Cả con mụ Cài của tôi nữa. Chà, nhất là Seo Say, uống chén rượu đầu của lão Mo Chúng say thế nào thì nó say anh như thế đó. ồ, thế  anh trai Pao là con gà trống thiến à? Nếu không, sao không thử một lần xem sao!

   Mặt Pao nong nóng. Cấu bịa chuyện, lại chuyện trai gái tục tĩu. Nhưng có chuyện nghe, đường xa cũng đỡ nản. Mặt trời đứng bóng, cái đói râm ran bụng, tới đoạn đường có cây mí già rợp bóng, Pao dừng lại: "Nghỉ một tí" Pao nói, đi cách Cấu hai bước chân, móc túi bột ngô, ngồi xuống.

   - Này, ông Cấu, ngủ à. - Vốc mấy vốc ngô bột đút miệng, nhoai cổ nuốt, Pao quay lại, thấy lão già tựa lưng gốc mí, mắt gà gà, liền bước tới: - Há miệng ra, tôi bón cho. Cấu mở choàng mắt. Cổ họng nhún một miếng nuốt. Rõ ràng là đói ngấu rồi. Ðêm qua mò vào ăn trộm, rồi vật lộn với ông Mo Chúng, đã có gì vào bụng! Mệt, đói, lại đã nửa ngày đường, họa có sức ngựa dữ mới không lử lả!

Cấu há mồm, thè lưỡi. Nhưng tay Pao vừa chạm môi lão, lão đã giật lui, gục mặt xuống, rũ rượi:

   - Tôi bằng đứa bé lên một rồi.

   - Phải thế thôi. Cũng là tại ông thích làm kiếp già lừa ưa nặng, nhìn con mèo lại vẽ thành con hổ?

   Ngẩng mặt lên, tắt ngay một ánh nhìn dò xét lướt qua mặt Pao, Cấu gượng gạo há mồm. Miếng bột ngô quện nước bọt đắng ngắt nghẹn ắng. Lão nhoai cổ nuốt:

  - Thì tôi phải tự thồ lấy tội thôi.

  - Tôi không ngờ ông độc ác thế!

  - Tôi xấu hổ lắm. Tôi biết tôi hư đốn từ lâu rồi, cậu Pao à.

  - Hừ!

   - Nhưng cậu cũng thông cảm cho tôi! Tôi bị con mụ góa nó quyến rũ. Tôi bị con ma nó sai, con quỷ nó khiến. Tôi có muốn hại ông Mo Chúng đâu, thực tình là thế.

   Nước ứa khỏi hốc mắt, Cấu đứng dậy, mặt giần giật như là bị cơn tự thú giày vò. Hai tay bị trói, Cấu chỉ còn cách nhấc bả vai lên đập vào mặt mình. Mỗi lần đập là một lần rít qua hàm răng nghiến chặt tự rủa: "Cấu"! Mày là người không tốt. Cấu! Mày là con chó thối!".

  Pao vội chống súng đứng dậy, đưa tay xua, ngất ngứ nghẹn hơi:

   - Ông Cấu, không nên thế! Không nên thế, ông Cấu!

   - Cậu cứ để tôi tự trừng phạt mình. Cứ để tôi khóc cho tôi nhẹ lòng. Tôi biết, cậu có thù oán gì tôi đâu. Còn ông Tủa, thực tình ông cũng chỉ ghen tôi với cô Cài thôi. ối!

   Ðang than vãn và tự sỉ vả, Cấu bỗng như giẫm phải gai, giật nảy người, thét to một tiếng. Vừa lúc, gáy Pao cũng bị một mũi kim nhọn hoắt xuyên thấu buốt tới tận đỉnh đầu. Nhìn sang, thấy Cấu há hốc mồm, mắt đảo thiên đảo địa, chân nhảy tành tạch, cuống cuồng. Pao liền kêu to: "Ruồi vàng đấy! Chạy đi".

   Quanh Pao, quanh Cấu, đuổi theo hai người là những vòng bay vu vu. Lũ ruồi vàng làm tổ ở khu rừng vầu cạnh đường, vừa ngửi thấy hơi người, đã bay ra, nhằm họ hút máu, hút mồ hôi mặn.

   Cấu trước, Pao sau, cả hai cùng tung tóa, hốt hoảng. Qua cánh rừng vầu, hết bãi nương sèo, tới một bờ suối lớn, hai người mới dừng lại và vừa thấy  mặt nhau liền ôm bụng dụi xuống đất. Buồn cười lắm mà mệt quá không cất được tiếng. Cả kẻ tội phạm lẫn người áp giải đều như nhau. Cùng lem luốc, nhễ nhại.Cùng lử lả như sắp đứt ruột mà chết. Cùng dị hình dị tướng vì sưng vếu, méo mó mặt mày. Nọc ruồi vàng ác hiểm quá. Pao bị nó chích một phát vào gáy, một phát vào cổ, ngứa ran, nóng bừng. Khốn nạn là Cấu. Hai tay bị trói, chạy đã khó, lại vô phương chống đỡ. Ðâu có được như Pao còn có thể cởi áo, vừa chạy vừa văng áo đánh đuổi lũ ruồi ác. Ðã thế cái đầu trọc giờ mới thật báo hại lão! Ðầu lão, trước sau, trái phải, nổi cục nổi hòn mưng tấy. Ðau, buốt, nhức, ngứa, xót lão chỉ còn cách cọ lưng vào tảng đá bên đường và cắn răng nuốt nghẹn, để mặc nước ri rỉ chảy ở đuôi mắt.

   - Ngứa lắm, hả ông Cấu?

   - Ngứa!

   Lọt qua giữa hai hàm răng nghiến chặt là một tiếng rít gió. Ðau đớn, uất nghẹn, tủi nhục, đã có lúc Cấu nhảy dựng lên và hộc một tiếng kêu tắc nghẹt. Pao quay mặt đi. Pao chưa bao giờ gặp cảnh huống này. Chưa bao giờ Pao thấy một người già khóc tức tưởi uất hận như thế.

   - Ông Cấu này, bây giờ tôi cho ông tắm một tí nhé.

   Vừa nhướng hai mi mắt trên, Cấu vội cúi gập mặt, rầu rầu:

   - Tôi sợ phiền cho cậu. Với lại, tôi bị trói thế này.

   Pao nhìn dòng suối bên đường, nhìn quanh, ngần ngừ giây lát, rồi đi ra sau lưng Cấu, tay lần tìm nút dây trói:

   - Ông Cấu! Ông đã ân hận. Tôi tin ông.

   - Cám ơn cậu. Thân ong tự ngắt làm ba đoạn, tôi tự biết chứ!

   Cấu nhảy ùm xuống suối. Lặn một hơi, Cấu ngoi lên, thấy Pao lăm lăm ngọn súng dõi theo, liền nhe hàm răng xỉn:

   - Mát lắm, Pao ơi! thật không đâu mát như nước suối quê ta. Tắm đi, cậu.

   Pao lắc đầu. Cấu lại ngụp đầu, lại ngoi lên, kỳ cọ bả vai, xoa cổ, vò đầu, hít hà khoái trá. Rồi phởn, lão còn chúc đầu chổng phộc người, chồng cây chuối, vẫy vẫy hai cẳng chân giơ ngược gọi Pao. Lát sau, thỏa mãn, Cấu bò lên bờ đá, ý tứ khum khum tay che hạ bộ, mặc lại quần áo, đi đến bên Pao:

   - Cậu trói lại tôi đi! Rồi cậu tắm một cái đi cho mát mẻ. Xong, ta đi. Một thôi đường nữa là tới huyện rồi.

    Thít vòng dây cuối cùng, thắt thật chặt núi trói hai tay Cấu, Pao chỉ tảng đá bên bờ cho lão ngồi, rồi ghếch khẩu súng vào cạnh một bụi cây và cởi quần áo, tụt xuống nước. Nước mát lịm mời mọc. Pao vớt nước táp lên mặt, lên tóc. Thích quá, Pao nhúi đầu xuống nước. Pao chìm hẳn xuống nước như con rái cá. Hai lần như thế, ngoi lên Pao đều thấy Cấu giậm chân cười khành khạch: Lặn giỏi thế, San Cha Chải chỉ có Pao thôi!.

   Lần thứ ba, Pao nhô đầu khỏi mặt suối, đưa tay vuốt mặt, bỗng thấy hẫng con mắt. Chỗ Cấu ngồi giờ chỉ còn là tảng đá trống: "Ông Cấu!", Pao quát gọi, nhảy vọt lên bờ, nhấc khẩu súng và nổ một phát chỉ thiên. Núi vọng lại tiếng súng, tiếng Pao thét: "Cấu, lão đã lừa ta. Ta cho lão nợ một món to đấy!".

   Lừ lừ hai con mắt im phắc như hai vết dao xẻ, Pao đến nhà bà Cài. Gọi bà góa ra, Pao nói thật chậm:

   - Bà Cài. Ông Cấu hơi coi thường tôi... Nhưng tôi nói để bà bảo ông ấy: Nợ càng để lâu lãi càng lớn đấy!

   Bà Cài vênh đôi gò má cao:

   - Cấu với tôi thành người lạ rồi.

   Pao lừ mắt:

   - Bà cũng tưởng tôi còn là trẻ con, hử ?

    Pao lầm lì. Miệng ngậm. Mắt gườm, suốt ngày không mỏi. Soi trong giếng nước, có lúc giật thột, vậy đưa tay lên rờ mặt: Ai thế nhỉ ? Con người luôn xa lạ với chính mình. Con người luôn dao động giữa các cực căng thẳng. Chỉ có thể hiểu được nó bằng kinh nghiệm riêng, bí ẩn và sự từng trải cũng rất bí ẩn. Vì con người khó hiểu, khôn lường. Như anh Tủa đó. Anh Tủa được điều ra làm việc ở huyện, được đề bạt làm phó công an huyện. Nghe nói anh sẽ xây nhà gạch ở ngoài đó. Rượu ngô của Mo Chúng anh chê uống xổng, giờ anh uống toàn rượu Tây. Anh tuyển mộ cô Seo Mùa xinh nhất xã làm nhân viên văn phòng. Có người nói thấy hai người sống với nhau cùng buồng những ngày chủ nhật. Anh Tủa chỉ mặt Pao quát: "Cái thằng ngu xuẩn, dái có to mà không có hột kia! Mày không bắt lại được lão Cấu thì mày thay nó vào tù". Chị dâu bênh Pao, bảo Pao không có lỗi, lỗi là ở lão Cấu, là do xã dung dưỡng lão quá lâu. Anh Tủa quát: "Bà là cái chõ đồ xôi biết gì!". Pao uất. Pao đến nhà thầy giáo Tính, gặp Mo Chúng ở đó. Mo Chúng đã chữa lành vết đâm của Cấu. Mo Chúng bảo: "Ðừng lo! Cái gì đến nó khắc đến! đừng sốt ruột". Rồi ông thêm: "Cấu nó có lòng thành với Phật bà Quan Âm nên nó được phù hộ đấy". Pao ngất ngư: "Sau lúc ấy, cháu như người bị mê". Mo Chúng cười: "Thầy Tính và Pao biết câu hát này chưa: Mười tuổi tắm không biết rét. Hai mươi tuổi yêu không biết mệt. Ba mươi tuổi bắt chim không cần nỏ. Bốn mươi tuổi, giỏi buôn bán đường xa. Cháu muốn khôn trước tuổi à ?!".

   Pao muốn khôn trước tuổi! Quên cả mối tình mới nở với cô Seo Say, ngày đêm Pao nung nấu ý chí thanh toán khoản nợ với lão Cấu. Pao rình ở trước nhà bà Cài. Pao nấp ở nương nhà bà góa nọ. Lão Cấu không phải là con thú, không thể sống đơn độc một mình. Lặng lẽ Pao theo sau người đàn bà đa tình này đi chợ. Bà này địu trên lưng những cái ống điếu, những cái gáo gỗ, những quả nhạc đuôi ngựa. Tay đàn bà không làm ra được những đồ vật này. Dõi theo bà này từ xa, thấy bà bán hết những vật dụng nọ, lại ra hàng may mặc mua hai bộ quần áo đàn ông, Pao chắc mẩm Cấu chỉ quẩn quanh đâu đây, như kiến bò miệng chảo nóng thôi. Bạn bè Pao cười: "Pao à, cứ chui gầm giường nhà bà góa Cài là bắt được lão Cấu đấy". Lại có thằng thêm: "Nhỡ không phải lão Cấu thì sao?". Những đứa khác nhao nhao: "Ai! Ai?". Pao biết, chúng ám chỉ ai rồi, mặt đỏ rần rần, Pao bỏ đi.

     Một lần, có việc sang thôn bên, trở về đến đoạn miếu Quan Âm thì trời nhá nhem. Ðang đi, bỗng vấp nhẹ, Pao ngẩng lên, liền thót người đứng ngay đơ, mặt đỏ dừ. Trời, ngay cạnh hốc đá thờ, một người đàn ông đầu trọc đang hấp hổm trên bụng một người đàn bà tóc xõa rối, váy áo tung tả nằm trên thảm cỏ ngải. Sao lại làm tình với nhau giữa ban ngày, nơi đường lối đi lại! Sao Pao lại lỡ bước tới đây! Xấu hổ cho Pao quá. Quay ngược trở lại con đường vừa đi, Pao chạy trong mê. Qua cơn mê hoảng, Pao dừng lại, vì sực nhớ. Cái đầu trọc méo mó của người đàn ông sao giống đầu lão Cấu. Vội vàng, Pao quay trở lại. Tới hốc đá nọ. Pao sững người, lưng như sụt mất đốt sống, mồ hôi toát đầm đìa. người đàn ông đầu trọc đã biến mất. Cạnh hốc đá thờ chỉ còn lại bà góa Cài ngồi trên thảm cỏ nhầu, cổ, mặt lấm tấm mồ hôi, vừa xốc lại váy áo, đang thong thả chải đầu. Cỏ ngải xanh bị chà nát bốc mùi tinh dầu thơm nằng nặng. Khóm ngải tàn rồi khóm ngải lại xanh. Câu hát hết rồi câu hát lại bắt đầu. Thời gian đã đi qua bao lâu không nhớ, chỉ biết lại đến một hôm xóm thôn nhộn nhạo tỉnh giấc. Nhìn ra đường thôn, mình lại thấy: Cấu đi trước, hai tay bị trói quặt sau lưng, Pao đi sau, nách cắp khẩu súng kíp, má trái có vết xước rớm máu, mắt lì lì. Ðang giờ vào lớp, học trò thầy giáo Tính chen đến cạnh Pao, líu tíu: "Anh Pao ơi, anh bắt lão ấy ở đâu thế?". "Nó cào anh, anh có đau không, anh Pao?". Pao không đưa lão Cấu vào trụ sở ủy ban xã. Pao dẫn thẳng Cấu ra huyện. Coi như mấy năm qua vẫn là trên đường đi chưa đến đích.

     Cấu đi trước, Pao đi sau. Cảnh lặp lại, nhưng không giống lần trước. Vì lần này qua miếu Quan Âm, Pao chỉ chống một cây sậy cho Pao. Hai người đi tắt không qua rừng vầu có ruồi vàng. Qua con suối lớn, Pao không dừng lại. Ðường đi không có tiếng nói đi theo. Vì lần này Cấu còn có chuyện gì mà nói. Vì lần này môi Pao không một lần mấp máy. Pao đã khôn rồi. Pao nghiêm nghị ngẫm nghĩ. Pao câm lặng như núi đồi, như cảnh trí vô thanh.

     Vô thanh cả trời đất, xóm làng San Cha Chải, vì từ sau hôm Pao áp điệu Cấu ra huyện, ba ngày qua, vẫn không một tin tức theo gió bay về. Một tuần qua, cũng vẫn vậy. Thầy giáo Tính sang nhà Mo Chúng, xoa xoa hai bàn tay, khấp khởi:

     - Hóa ra Pao nó rình ở nhà bà góa Cài, Mo Chúng à.

     - Vậy à?

     - Nó rình cả đêm như con mèo rình con chuột. Muỗi hút máu đỏ mọng cả hai bàn chân. Lão Cấu nửa đêm mò về, nó biết. Nó cứ để mặc. Gần sáng, lão  dậy, mở cửa đi ra. Nó mới đưa tay ra tóm cổ lão, áp lão vào bờ tường: "Sao hôm ấy tắm xong ông đi đâu mà tôi gọi mãi không thấy về. Thôi, anh em ta đi kẻo nắng". Bà Cài chạy ra, tốc váy xong lại cào cấu Pao. Rồi kêu van: "Em đừng trói nó, tội nghiệp, Pao ơi!". Pao nói: "Tất cả là do trâu be muốn mang ách thôi, đừng trách oán gì tôi".

     - Pao là người có trí lực đấy! - Mo Chúng nói.

     Thầy giáo Tính thêm:

     - Hồi đi học, Pao là đứa hay xấu hổ, ít nói lắm. Một bận tôi cho cả lớp vẽ tự do. Pao nộp tôi bức tranh vẽ một con chuột nhắt đứng run rẩy cạnh một khối hình tròn. Tôi hỏi: "Khối hình tròn là cái gì?". Nói đáp: "Thưa thầy, đó là phía sau lưng con mèo". Con người ta nói thì không nhất thiết, nhưng nghĩ ngợi thì nhất thiết phải có - Ngừng một lát, thầy giáo Tính cắn môi, gật gù: - Sao đến giờ vẫn chưa thấy Pao nó về. Liệu có bị Cấu lừa lần nữa không? Sao, tôi cứ lo. Cái xấu, cái ác, sao nó quỷ quái, nó khôn ngoan hơn cái tốt cái đẹp?

     - Không! Cái xấu cái ác là cái ích kỷ nhằm hại người nên nó phải khôn ranh quỷ quái. Cái tốt, cái đẹp là cái hiền hậu, nó vô tư bền vững hơn. Nó là cái khởi thủy. Có điều nó phải chuyển động, để tự khôn lớn dần lên, để trở nên có ích. Như thầy đấy. Mười năm thầy ở lại đây dạy trẻ con Mèo rồi. Cái tốt, cái đẹp của thầy lớn lao, cái gì so nổi.

     - Thế thì có khi huyện giữ Pao lại?

     - ừ, có thể là huyện giữ Pao lại!

     Huyện giữ lại? Ðể làm báo cáo thật tỉ mỉ. Ðể Pao đi các nơi kể chuyện cho mọi người  học tập, rút kinh nghiệm. Bọn can án thường bỏ trốn, bắt lại chúng là một công việc rắc rối, phức tạp. Nhưng, huyện giữ lại thì cũng có hạn thôi chứ. Hai tuần trôi qua rồi. Sốt ruột, chiều nào thầy giáo Tính cũng sang Mo Chúng trò chuyện và ngóng mong. Thì trưa ấy, nghe tiếng nước rơi tành tạch ở giếng nước, thầy giáo Tính liền ngó ra. Cạnh giếng, một người trai trẻ, ngực trần, thân tròn trĩnh, dáng thẳng như cây thông nhựa, đang đứng trong màn nước trắng xoá đổ từ chiếc gáo múc ở trên đầu xuống. Lát sau, đặt chiếc gáo  trên bờ giếng, người nọ đưa hai tay lên vuốt mái tóc rậm đen, ngửa mặt nhìn lên trời cao. Trên anh, vòm trời xanh thăm thẳm cổ kính, như một linh hồn thanh tao ẩn mật lớn lao đang tỏa xuống xóm thôn San Cha Chải niềm ưu ái thật dịu dàng  và nhân hậu thiết tha. Ôi! San Cha Chải! Thế là sau một ngày leo dốc cật lực ta lại trở về với mình.

     Thầy giáo Tính gọi tên người học trò cũ và chạy ra. Mừng quá, mồ hôi ướt đầm trán, thầy lắp bắp:

     - Pao! Sao Pao đi lâu thế mới về? Sao lâu quá thế, Pao?

     Pao khoác vội cái áo, chắp tay:

     - Thưa thầy, em không biết tháng biết ngày, em tưởng không lâu.

     - Lâu đấy. Tôi có tính ngày. Pao đi từ ngày thứ hai tuần trước.

     Cảm động long lanh hai khoé mắt, Pao ngập ngừng, rưng rưng:

     - Thưa thầy, em cám ơn thầy vẫn dõi theo em. Em mong được thầy thông cảm, vì suýt nữa em lại tủi hổ. Vì chả lẽ gạo ngon không có người nấu. Vì chả lẽ lại có chuyện người cầm cương, người cưỡi ngựa chống nhau, hả thầy? Em đưa ông Cấu ra huyện gặp anh Tủa em, anh Tủa em bảo: Ðể lâu quá năm năm, án thối rồi. Mày bắt nó làm gì! Lại mang tiếng là tao vì mê con mụ Cài mà ghen tức nó! Thiếu gì gái non mà tao phải dây vào con mụ nạ dòng. Vả lại, tao đang thiếu gì việc to lớn khác. Thế là em phải đưa ông Cấu ra tỉnh. Ra tỉnh đi mất hai ngày đường. Hai ngày, không lâu, nhưng đường  từ huyện ra tỉnh  bằng phẳng nên mỏi chân quá. Gần đấy mà xa đấy, xa đấy mà gần đấy là thế. ồ, thế là đã năm năm! Em qua tuổi hai mươi từ lúc nào, thầy ơi!

     Nói hết câu cuối cùng, Pao liền bật khóc. Pao khóc tiếng khóc tủi hờn như con trẻ. Người San Cha Chải mình nghe Pao khóc, nói: Ðó là tiếng khóc lớn khôn của Pao.

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.