chan_dung-ke_si

ÔNG VÀ CHÁU - Truyện ngắn Đỗ Kim Cuông

14-07-2023

Lượt xem 1132

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  truyện ngắn hay ĐỖ KIM CUÔNG

ÔNG VÀ CHÁU - Truyện ngắn Đỗ Kim Cuông
Nhà văn Đỗ Kim Cuông
 
ị tướng ấy đã ngoài tuổi bảy mươi, nhưng vóc dáng còn khỏe mạnh, da đỏ au. Từ Hà Nội vào Nha Trang ông không đi bằng máy bay theo đoàn, chỉ mất có hơn hai giờ đồng hồ mà ông lại ngồi tàu xuyên Việt. Thời gian đi có dài hơn, những hai ngày một đêm. Miền Trung lại đang mùa mưa bão. Lụt trắng Huế, cầu đường bị hư hại nhiều chỗ. Cùng đi với vị tướng còn có một cô bé cũng đã ngoài tuổi đôi mươi xinh đẹp và nhí nhảnh: "Sao không đi máy bay hả ông?". Ông tướng cười nhìn cô cháu gái, giọng bình thản: "Biết còn có dịp nào ông lại được đi trên con đường này, hả cháu. Tuổi ông già rồi... Như cái bóng...". "Cháu xin lỗi ông... Cháu cũng thích đi tàu được nhìn ngắm phong cảnh. Đi máy bay thì chẳng thấy gì hết". Ông như không nghe thấy lời cô cháu gái, trôi trong niềm suy tư. "Người già sống bằng kỷ niệm, cháu ạ. Có đi như thế này, ông mới nhìn thấy những đỉnh núi Trường Sơn, nhìn thấy dòng sông Bồ, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Trà, Đèo Cả... Tuổi trẻ của ông gửi lại ở đấy cháu ạ. Ôi, cái thời "Nam tiến". Ông và đám bạn trai Hà Thành cất vang câu hát "Ta đi, ta đi mang hồn sông núi..." Và ngâm hoài câu thơ: "Từ thuở mang gươm đi mở nước. Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long".
 
Tàu hỏa đến Nha Trang vào một buổi chiều. Tàu dừng, hai ông cháu hòa vào dòng người đi ra cửa ga. Không ai đến đón ông cả. Vả chăng, vị tướng cũng muốn thế. Ông đã cố ý đi tới trước một ngày theo như giấy mời của Ban lễ tân "23 tháng Mười". Và ông cũng đã tự chọn cho cả hai ông cháu một khách sạn rẻ tiền - đúng hơn là một nhà khách của một cơ quan. Nhưng từ chỗ ở, ra biển chỉ có hơn trăm bước. Ông cảm thấy mình có lý khi chọn phương án đi sớm một ngày. Chiều mai ông sẽ gặp bạn bè từ trong Nam ngoài Bắc đổ về đây. Lại những cái bắt tay, những lời hỏi thăm và câu chuyện sẽ cuốn hút ông vào những vại bia quanh bàn tiệc.
 
Sau bữa cơm chiều, trời còn sáng, vị tướng dắt cháu ra biển. Cô cháu gái có dịp trút bỏ bộ quần áo đi tàu và diện một chiếc váy hoa sáng, đẹp ngời ngợi. Lần đầu cô gái đến Nha Trang, đứng trên bờ cát chỉ cách có mươi bước chân đã là những đợt sóng trắng luôn tung bọt trắng xóa. Chiều biển động, nhưng lại tạo ra một vẻ đẹp mê hồn. "Nửa thế kỷ trước, đây là chiến địa đấy cháu. Máu đổ, chết chóc, khói bụi mịt mù và cả bầu trời râm ran tiếng đạn pháo... Này cháu, cháu có thấy cái mỏm đồi có mái nhà ngói đỏ nhô lên kia không?". "Dạ có ạ!". "Gọi là đồi La San. Lúc ấy, ông ở đấy với hai khẩu sơn pháo 75 ly. Đứng từ đấy, ông có thể quan sát tới tận Cầu Đá. Có lúc ông lại leo lên đỉnh Tháp Bà nhìn qua sông để xác định điểm chuẩn cho pháo bắn...". "Chiến tranh là bắn giết nhau hở ông?". "Phải, bắn giết nhau - nhưng là một cuộc chiến đấu có mục đích. Một bên là những người giữ đất, còn phía bên kia là những kẻ cướp nước". Mai sớm, ông sẽ đưa cháu lên chơi Tháp Bà và sẽ đưa cháu xuống thăm một cái xóm chân cầu". "Có gì lạ lắm không ông?..." "Không có gì lạ với mọi người, như ngàn vạn xóm chài khác. Có chăng, chỉ riêng ông...".
 
- Ông kể cho cháu nghe đi!
 
Cô gái cầm tay vị tướng và dìu ông ngồi xuống một chiếc ghế đá lạnh băng.
 
- ờ thì ông kể. Dù chả mấy người biết chuyện này, kể cả bố cháu. Bố cháu là một nhà khoa học, chỉ quen nhìn cuộc sống theo những lo-gic của toán học. Ngọn núi là ngọn núi. Rừng cây là rừng cây, mà ít chịu hiểu rằng trong đất còn có cả máu. Trong mỗi thân cây còn có cả mầm mống luôn động cựa... cháu ạ, ở cái xóm chân cầu giữa những ngày lửa máu ngút trời ấy, ông đã yêu và được yêu.
 
Vào mỗi buổi tối, khi tiếng súng tạm ngưng, chiến sự im ắng, ông và vài chiến sĩ xong ca trực lại xuống chân đồi trú trong những nhà dân. Dạo ấy, ông mới chỉ là anh lính pháo thủ. Trẻ khỏe, yêu đời, vô tư. Người con gái ông quen và yêu ngày ấy là con của một chủ tiệm tạp hóa nhỏ. Cha cô có một con thuyền đi đánh cá, còn bà mẹ và cô con gái vừa lo việc nội trợ vừa bán hàng. Vào những ngày chiến tranh bùng nổ, cả xóm chân cầu trở thành nơi đóng quân của bộ đội, tự vệ. Những trái đạn pháo từ tàu chiến của Pháp ngoài biển bắn vào, đạn moóc-chi-ê từ các phòng tuyến của địch ở trong phố bắn sang đều rơi xuống triền đồi phía tây hoặc vào bãi cát ven biển. Dân trong xóm Cầu, trai tráng khỏe mạnh thì đi dân công vác đạn, gánh gạo, tải thương. Các bà các chị thì nấu cơm, vắt cơm cho bộ đội.
 
Cháu ạ! - Vị tướng già im lặng trong giây lát nhìn vào khoảng không gian bao la của biển cả trong ánh hoàng hôn của buổi chiều tà. Mặt biển đang dần sẫm lại. Trong lúc ở vùng trời phía tây vẫn le lói lên những ánh vàng. Ông lại tiếp: Ông đã nhớ không rõ mình được gặp cô gái bán hàng xén mấy lần. Không có những cuộc dạo chơi. Không thư từ hò hẹn. Điểm duy nhất để ông có thể gặp gỡ trò chuyện cùng với cô ta là ở khoảng sân dưới tán cây trứng gà xanh um, sai trái. Ông ngồi xay bột. Cô gái ấy ngồi bên vừa đổ nước vào chiếc cối vừa trò chuyện vui vẻ.
 
Phải mất 6 năm sau, ông và người con gái ấy mới chính thức được là vợ chồng... Đám cưới được tổ chức trong rừng, ở một bản người Ê Đê dưới chân đèo Ma-đơ-rắc. Không biết ai báo tin cho cô gái. Cô đã cải trang làm người buôn hàng chuyến và đi tìm ông. Và ông cũng chỉ sống với "bà ấy" được vừa đúng ba đêm, rồi chia tay nhau. Dạo ấy, Pháp đang đổ quân lên càn Tây Nguyên. Đơn vị ông phải đi chiến dịch.
 
Thêm 5 năm nữa, vào năm 1955, ông mới nhận được tin tức của vợ con. Người ta dẫn đến cho ông một đứa trẻ 5 tuổi, gầy yếu. Những dấu sẹo ghẻ lở in đầy trên hai bàn tay và cặp chân nó. Chỉ nhìn đôi mắt, khuôn mặt của đứa trẻ ông biết chắc đó là con mình. Đó cũng là bố của cháu bây giờ, cháu ạ.
 
- Còn người con gái ông yêu...?
 
- Là bà nội cháu. Vị tướng nói chậm rãi - Chỉ tiếc rằng bà nội không còn sống. Những đồng chí cán bộ ở vùng này tập kết ra Bắc, bảo với ông rằng: sau lúc sinh con được vài tháng, bà đã mất vì băng huyết.
 
- Vậy mà ông sống chừng ấy năm để nuôi bố cháu? - Cô cháu gái như muốn chia sẻ nỗi vất vả của người ông.
 
Vị tướng như không nghe thấy điều thắc mắc của đứa cháu nội, hoặc giả ông tránh trả lời - Cháu ạ! Đời người thực ngắn. Nhưng với ông lại là quá dài... Chỉ từ ngày có cháu, niềm vui mới trở lại với ông... Cháu mang hình bóng của bà.
 
Mặt biển đã sẫm lại và vô số những con thuyền đánh cá ngoài khơi đã tỏa sáng ánh đèn, kéo thành một dãy dài như một đường phố nổi. Vị tướng hít từng hơi dài không khí trong lành của biển cả. Ông cảm thấy sảng khoái và dễ chịu. Ngày mai "hội quân", ông sẽ gặp lại vô số bạn bè từ thời trai trẻ. Nhưng tự trong sâu thẳm của lòng mình ông biết rằng dù có vui bao nhiêu đi chăng nữa, ở ông vẫn len vào một khoảng trống vắng không có gì bù đắp nổi.
 
Lấp lánh trên bầu trời là những vì sao.
Gió thổi ào ạt trên những chòm lá dừa.

Bài liên quan
  • CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: CHUYỆN Ở BẢN PIÁT là một trong chùm ba truyện ngắn của nhà văn Tuyên Quang “viết văn phải có văn” Vũ Xuân Tửu, thắng Giải Nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2005-2006.
  • MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Một bữa no là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 480, ngày 25 tháng Chín năm 1943. Tác phẩm, là một tiếng kêu cứu về nhân cách của người dân Nước Nam đang bị sự bần cùng, cái đói, cái rét, do thực dân Pháp tạo ra, hủy diệt.
  • NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nắng trong vườn là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Thạch Lam, Đời Nay xuất bản năm 1938.
  • HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai hào là truyện ngắn trong tập truyện đầu tay Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích của nhà văn Lê Văn Trương, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934.
  • TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trẻ con không được ăn thịt chó là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao, in lần đầu trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 444, 19 Tháng Mười Hai 1942.
  • CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chim khách kêu là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Kiên, được trao giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 và giải thưởng Văn học Đông Nam Á (Thái Lan) năm 2002.
  • ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Đôi mắt là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao in lần đầu trên Văn Nghệ số 2 năm 1948. Đây là một trong những tác phẩm giá trị nhất của nhà văn Nam Cao. Năm 1996, ông đã được nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I cho truyện ngắn nói trên cùng với các tác phẩm Nhật ký Ở rừng, Chí Phèo và Sống mòn.
  • TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trước cảnh hoang tàn đế thiên đế thích là truyện ngắn in trong tập truyện ngắn đầu tay cùng tên của nhà văn Lê Văn Trương, gồm 11 tác phẩm, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934. Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964) được xem là nhà văn có số lượng tác phẩm lớn nhất Việt Nam với 200 tác phẩm đã in và 40 tác phẩm chưa in bao gồm truyện ngắn và tiểu thuyết. Lê Văn Trương là thành thành viên quan trọng hàng đầu của nhà xuất bản Tân Dân, cùng với các nhà văn nổi tiếng như Tản Đà, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Lan Khai, Thanh Châu, Ngọc Giao, Tchya Đái Đức Tuấn, Trần Huyền Trân, Nam Cao, Bùi Hiển…
  • NƯỚC ĐỜI LẮM NỖI – Truyện ngắn Phạm Duy Tốn

    NƯỚC ĐỜI LẮM NỖI – Truyện ngắn Phạm Duy Tốn

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nước đời lắm nỗi là truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Tốn, một trong những thành viên sáng lập của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, đăng trên Nam Phong số 23, Tháng 5 – 1919.
  • CÂU CHUYỆN MỘT TỐI CỦA NGƯỜI TÂN HÔN – Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

    CÂU CHUYỆN MỘT TỐI CỦA NGƯỜI TÂN HÔN – Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Câu chuyện một tối của người tân hôn là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Bá Học đăng trên Nam Phong số 46 – năm 1921. Đây có thể nói là truyện ngắn tiên phong của văn học hiện đại Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ viết về đời sống công nhân cơ cực dưới thời thực dân Pháp cai trị nước ta.