chan_dung-ke_si

MÙA ĐÔNG ẤM ÁP - Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ      

21-03-2023

Lượt xem 2889

Đánh giá 6 lượt đánh giá

Chia sẻ

MÙA ĐÔNG ẤM ÁP - Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ      

      Tôi đứng trên phà vừa rời bến từ bãi cháy sang Hồng Gai. Thành phố trên sông huyền ảo và lung linh lạ thường. Ðèn sáng lóe trên các con tàu ra khơi đánh cá, trên những chiếc tàu lớn ghé vào cảng ăn than. Ðèn từ các ngôi nhà cao thấp lô nhô trên lưng chừng núi, kéo cao đến đỉnh núi cũng còn lấp lóe. Mặt sông loang loáng nước. Sóng ầm oạp và gió từ sông đưa lên làm tôi ớn lạnh. Tôi bỗng thấy mình bé tí teo, lơ lửng giữa một khoảng không thăm thẳm cao và mịt mùng sóng. Mọi thứ chợt ùa về trong tôi, dù nó là những kỷ niệm xa tít tắp. Tôi không có ý định ngày nào cũng phải nhớ về nó, khi cuộc sống của tôi bây giờ đã khác lắm rồi. Nhưng cũng không bao giờ quên. Nó là một phần đời của tôi, là ngưỡng cửa đầu tiên tôi đập mặt mình vào khi tôi hơn hai mươi tuổi.

      Năm tôi hai mươi hai tuổi. Một buổi sáng tỉnh dậy. Tôi nhận được phong thư. Nét chữ của anh. Người đàn ông hơn tôi mười hai tuổi "Ðến với bọn anh đi. Rừng núi và sông nước sẽ đón em. Bé tí ơi, đi một ngày ra khỏi nhà là bé có bao nhiêu thứ để sống có ích. Bọn anh ở đây có hôm quên cả ngủ vì cuộc sống tuyệt vời quá, ngủ thấy tiếc lắm. Em đừng mang nhiều thứ lỉnh kỉnh, nhảy xe hàng và xuống nhé.

      Hôn cô bé tí ti và yêu em nhiều. Anh".

      Tôi đọc đến thuộc lòng từng chữ, chỗ xuống dòng hay ngắt đoạn. Mối tình đầu tiên. Thoáng va chạm, run rẩy đầu tiên. Tất cả tôi gửi gắm nơi anh. Dù anh đã một lần sang sông. Anh bảo: số anh phải thế. Ai cũng có số cả, việc anh lấy vợ và bỏ vợ là hợp cách. Nếu cứ cố chống, nó sẽ hại đường khác, tốt nhất là kệ. Tôi tin anh bởi anh có cái gì vừa gặp tôi đã tin ngay. Mắt anh thăm thẳm buồn. Ðôi môi cũng buồn, và cả dáng người cũng buồn rười rượi như thể lần đắm đò thứ nhất đã đè nặng sự cay đắng lên người anh.

      Hai ngày sau. Buổi chiều. Tôi đã đến bến phà và chuẩn bị sang sông. Phà đông nghẹt người, xe cộ và hàng hóa. Nắng đã tắt. Trên sông tràn lan một mầu đỏ ối của hoàng hôn. Mầu đỏ lịm hắt từ đâu đó loang dài trên mặt sông, ánh trên khuôn mặt những người cùng chuyến với tôi. Chắc mặt tôi cũng có cái màu đỏ. Tôi yêu cuộc sống, yêu tất cả những gì xung quanh tôi, những người đàn bà lầm lụi, những người đàn ông đen sạm vì gió biển. Tôi là người đang sung sướng. Thế mới biết, bà bao giờ cũng đúng tuy có lúc bà nói hơi nhiều. Nước mắt chảy xuôi. Bố mẹ có thể chết thay con, còn con thì phần lớn chết vì người khác, ví dụ như người yêu chẳng hạn. Tôi bỏ nhà để đến với anh thế này chỉ được bà đồng ý. Còn bố mẹ thì cấm triệt để. Ngày ấy, con gái mới lớn lại đi xa một mình, đến chỗ người đàn ông mới bỏ vợ, liệu có ai dám to gan mà cho đi chưa? Nhưng tôi thì quyết tâm, đi bằng được. Tôi đã thắng.

 

     Phà chậm chạp trôi qua sông. Tất cả thấm đẫm một sắc màu huyền ảo bởi tôi nhìn chúng bằng ánh mắt kẻ đang yêu. Một người đàn ông ngồi bên một cái lồng chim. Ông ta hình như ngồi sẵn trên phà từ lâu dù phà bao lần cập bến và lại sang bờ bên kia. Ông đang chăm chú vào việc của mình là vặt lông chim. Những cái lông chim bé bé, mềm mại bay quẩn trong không gian và rắc đầy trên mặt sông, chỗ con phà đi qua. Trong ráng chiều, trong tiếng xịch xịch của động cơ, những tiếng lít chít của những con chim trong lồng, những con chim non tròn xoe đỏ bầm máu như những quả sim to đang trơn trụi quẫy đạp dưới đất. Tôi bỗng thấy chóng mặt. Tôi hoa mắt. Phần vì đi đường xa. Phần vì những cái mắt chim bé tí, đen nhánh như hai giọt mực nhìn tôi. Tôi thấy thương chúng quá. Người ta ăn những con này, may ra mỗi con được một phần tư miếng. Tôi đến bên ông, ngồi thụp xuống và giữ lấy tay ông:

      - Cháu xin ông. Ông đừng thịt chúng. Có ai mua đâu mà ông thì cứ vặt lông chúng mãi thế?

      Ông già ngẩng nhìn tôi. Ðôi môi khô nứt nhệch ra đầy vẻ quái ác. Hai mắt đục lờ như mắt cá ươn. Một khuôn mặt dị dạng. Tôi bỗng chùn lại. Ông ta cúi xuống, tiếp tục túm lấy những con chim bé bỏng và miết lông chúng nhanh như máy.

      Tôi thò tay vào túi, chỗ tiền ít ỏi bà dúi cho tôi chắc đủ trả cho ông ta chỗ chim còn sống trong lồng.

      - Cháu muốn mua chỗ chim còn sống.

      Ông ngẩng nhìn tôi, hơi nhệch nhệch một bên mép, giọng khản đặc:

      - Năm trăm.

      Chỗ tiền tôi có, có thể mua được gấp bốn lần chỗ chim đó.

      Tôi mở nắp lồng. Lũ chim chao đảo sấp ngửa đè lên nhau. Tôi nhẹ nhàng lôi từng con ra và thả chúng. Tuổi trẻ thật ngu xuẩn và hiếu thắng. Gần hết bọn chim tôi thả không bay lên được vì chúng đều bị thương không nặng thì nhẹ. Tôi, lúc ấy, trước mắt mọi người chắc là một con bé thừa tiền và ngu ngốc. Một vài con chim đập đập cánh lập bập bay lên. Thật tiếc cho số chúng. Con nào yếu thì rơi ngay xuống phà. Vài con khỏe mạnh thì bay vù lên, trên nó là bầu trời, dưới nó là mặt nước mênh mông. Tôi nhìn theo, xót xa vì biết thế nào nó cũng bị rơi. Sóng và gió ầm ào, sức chúng làm sao sống nổi. Tôi cúi xuống và tìm kiếm những con bị rơi, nhặt chúng bỏ vào lồng. Thương nó, tốt nhất là để nó yên thân trong lồng còn hơn thả tự do cho chúng. Chúng không thể bay bởi sức tàn lực kiệt.

      Phà cập bến.

      Tôi bắt đầu phải nghĩ đến tình cảnh của mình.

      Không ai đón tôi cả. Anh không đến. Hàng quán lưa thưa. Mọi người ai vào đó, chẳng ai còn sức mà nhìn tôi cùng chiếc lồng chim nữa, ngoài mấy đứa trẻ con. Làm gì bây giờ. Tôi tẩn ngẩn đứng lại. Việc đầu tiên phải giải quyết là chiếc lồng chim và những con chim không có khả năng bay. Chúng đáng để thịt. Thật mua dây buộc mình. Tôi đưa chiếc lồng chim vào tay một ông già bán nước "Cụ mang lũ chim này về thịt đi, chúng cũng sắp chết rồi". Tôi đặt chiếc lồng chim xuống chân và chào cụ rồi quay đi ngay. Cụ già ngây ra nhìn tôi, rồi nhìn những con chim bé bé đen đen đang loạch xoạch quẫy đạp.

      Anh không đón tôi.

      Mắt tôi bắt đầu cay xè. Ðây là nơi nhiều người qua lại tôi cố nhịn chứ phải chỗ vắng vẻ, có lẽ tôi khóc từ lâu rồi. Tôi là người kém bản lĩnh. Sai cũng khóc, tranh luận để đúng về mình xong cũng khóc. Tức bực cũng khóc. Tôi không hề biết mình phải đi đâu vì tôi không còn nhớ lắm cái địa chỉ anh viết thư cho tôi. Một bà cụ già nghe tôi trình bày, cụ cũng trình bày lại một cách rất rắc rối. Tôi không hiểu gì cả ngoài việc là đường sá ở đây lòng vòng lắm. Lần đầu tiên đi xa không cùng bố mẹ. Xung quanh tôi toàn là người xa lạ và bận bịu. Bây giờ đang là giờ cơm nước. Sau lưng tôi, phà đã đầy khách và chuẩn bị sang sông. Tiếng máy nổ xịch xịch. Những người cùng chuyến phà với tôi biến đi đâu như thể họ tan vào đất tự lúc nào. Tôi chỉ nhìn thấy ông lão bán chim. Ông ta đang ngồi xuống uống rượu với quả khế xanh, và hút thuốc lào.

      Tám năm trôi qua nhanh như chớp mắt nhưng cũng chậm như sên. Khi hạnh phúc,  thời gian qua mau. Khi đau khổ, thời gian dừng lại. Tôi bây giờ là một thiếu phụ, dù mới bằng tuổi anh ngày ấy. Có khi chưa bằng. Ðẫy đà và uy nghi, tôi béo và mỡ màng chứ không nhí nhảnh như năm nào đến đây. Và bây giờ đi đâu đã có kẻ đưa người rước. Tốt nghiệp đại học ngoại giao, nhưng tôi không làm cố định ở đâu cả. Có cơ quan ở đó vài năm, có nơi hai tháng. Tôi chuyển đi phiên dịch hay làm ở văn phòng đại diện cho các cơ quan nước ngoài ở Việt Nam. Chồng tôi cũng là một nhà doanh nghiệp. Con gái tôi lên bốn tuổi. Nó xinh hơn bố và mẹ. Người ta bảo tôi có phúc, nhất là bố mẹ tôi. Mẹ bảo: "Lắm khi đang ngủ, tao lại giật mình đánh đùng không hiểu mày có lấy được chồng hay không? Nằm ngẩn ngơ một lúc, nhớ ra là mày có chồng mà có con rồi, tao mừng không thể tả được. May thế không biết".

      ... Ngày ấy. Lúc cho xong cái lồng chim, và sau khi ngơ ngơ nhìn ngó một lúc tôi bắt đầu đi bộ. Ðường bụi lầm và đen đúa vì đất và than. Những chiếc xe Ben bò ì ạch trên đường với những tấn than như con bọ hung. Nhà cửa, cây cối, tất cả nhuốm một màu xám xịt. Nước mắt tràn ra khỏi mi, tôi không giữ nó trong người được nữa rồi. Tôi dừng lại. Hà Nội của tôi bây giờ xa lắc. Bố mẹ đang ngồi bàn về tôi trong sự đau khổ bởi tôi là đứa con không vâng lời. Tôi thèm được về, trong căn nhà với ba con người đó. Tôi bắt đầu ân hận.

      - Trúc, Trúc, có phải Trúc không?

      Tim tôi khua loạn xạ trong lồng ngực vì đã có ai đó gọi tên tôi. Nhưng không phải tiếng của anh. Một người thanh niên đang lao xe tới chỗ tôi đứng.

      - Em là Trúc?

      - Vâng ạ. - Tôi ngây người nhìn anh. Anh đen hay bẩn? Mũi anh ta hin hin.

    - Anh Hoạt nhờ anh đón em.

    - Thế anh ấy đâu ạ?

    - Anh ấy phải ở nhà thu xếp để em đến. Hậu phương bao giờ cũng phải vững chắc thì mới thắng lợi được! - Anh ta cười, nụ cười hồn hậu.

    Tôi ngồi lên xe. Chiếc xe anh đèo tôi giống y chiếc xe thồ, chỉ khác là không có hai cái sọt thôi. Anh ấy và tôi ngả nghiêng trên con đường lầm bụi. Tôi thấy mình vui lên vì đã bắt được tín hiệu của anh, người đàn ông tôi có đầu tiên trong đời. Anh đưa tôi đến trước một dãy nhà ngói chênh vênh bên sườn núi, có mấy cái cây con con đen đúa vì bụi. Cửa sổ mở ra núi, nhìn hút lên cao là cây cỏ hoang dại. Mọi vật khô khốc. Những chiếc giường cá nhân, những chiếc chiếu đen đen, sơ sài và tạm bợ. Tôi nhìn quanh. Trong góc phòng, chỗ tối nhất đang phát ra tiếng khầng khậc. Anh đưa đường mủm mỉm cười:

     - Anh Hoạt đấy. Thôi coi như anh xong nhiệm vụ với anh Hoạt. Anh phải đi về đội đây. Bọn anh còn phải tiếp tục khảo sát thực địa. Lúc nào rỗi, em và anh Hoạt sang bọn anh chơi.

    Tôi nhìn chăm chăm vào phía góc phòng nơi đang nhịp nhàng phát ra những âm thanh quái đản. Anh đấy ư? Một khuôn mặt phì phì, ung ủng với một cái mồm há ra thở nặng nhọc như kéo cưa. Hai tay thả thõng thượt như người hết sinh lực. Hai bàn chân đen nhẻm thò ra ngoài chiếc chăn rách. Trông anh, từ cổ xuống giống như một xác chết.

    - Anh Hoạt, anh Hoạt ơi! - Tôi lay người anh khe khẽ.

    - Hừm... - Anh hù tôi một cái rồi trở mình, xoay lưng vào mặt tôi. Ngủ tiếp.

    Căn phòng thoáng yên tĩnh.

    Nước mắt tôi lại thánh thót rơi. Bố mẹ có yêu thương tôi và các cụ ngày ngày có dạy dỗ tôi trăm nghìn sự thì chắc cũng chưa bao giờ nghĩ sẽ dạy tôi phải xử lý với tình huống này như thế nào.

    Bóng tối ập xuống. Trong không khí có mùi ngai ngái của khói củi. Tôi tựa cửa ngóng vu vơ ai đó mà tôi chẳng biết. Thế còn sướng hơn là ngắm một người đang ngủ li bì, quanh người nồng nàn mùi chua chua của rượu, một thứ rượu rẻ tiền và chóng say.

    Bây giờ, sau nhiều năm, tôi mới hiểu ra những gì xảy ra với anh và tôi ngày ấy là hợp quy luật. Nhưng ngày ấy, tôi và mọi người thì nghĩ rằng anh là một lão đàn ông đàng điếm, trai lơ và ích kỷ. Một con người không có tình yêu. Bố mẹ tôi thì cho anh là kẻ lọc lừa.

    ... Lúc ấy, khoảng bảy giờ tối thì anh dậy. Khuôn mặt anh mờ mịt như người vừa ở trong hàng thế kỷ chui ra. Sau hơn hai trăm cây số và mấy lần phà, tôi được nghe anh đón tôi bằng câu đầu tiên "Anh khát quá. Anh thèm ăn một bát canh rau gì đó man mát. Hoặc là uống một gáo nước lã cũng được. Nước mưa ngọt lắm". Những người cùng phòng ái ngại nhìn tôi và lặng lẽ tản đi hết. Tôi lại khóc rấm rứt. Anh thì trố mắt ra nhìn tôi, vẻ không hiểu gì cả. "Sao thế em? Chúng mình gặp nhau thế này vui quá còn gì. Hay em đang gặp chuyện gì buồn. Thế em đến lúc nào đấy, ăn gì chưa?". Tôi khóc vì anh nhưng anh thì nghĩ là tôi khóc vì một cái gì đó. Nói ra chẳng giải quyết được cái gì cả. Và anh ôm lấy tôi. Thế là mọi nỗi uất hờn tan đi hết. Tôi yêu anh. Một tình yêu đầu tiên, thánh thiện và trong sáng vô cùng. Tôi yêu tất cả những gì có ở nơi anh. Và anh là người đẹp nhất trong tất cả những chàng trai xung quanh tôi. Người con gái đến tuổi dậy thì có những đụng chạm đầu tiên với một người đàn ông, thường bị xúc động ghê gớm và không bao giờ quên.

    Ðêm đến. Hai chúng tôi đi bộ ra rừng. Tôi vui vẻ trở lại và không thấy mệt mỏi. Ðêm ở rừng âm u, huyền bí. Xa xa, tiếng sóng biển ầm ĩ. Tôi và anh ôm lấy nhau. Rồi anh bỏ tôi ra, thao thao kể về những công việc của anh dưới này. Ði khảo sát địa hình của những mỏ than. Lập đề án khai thác than và đưa chúng vào sử dụng. Có bao nhiêu cách khai thác. Và đủ mọi chuyện đã xảy ra trong những ngày anh ở đây. Anh kể cho tôi nghe về những chuyến đi săn đêm. Rồi biển động thì con sóng to ra sao, tiếng nó va vào kè đá thế nào. Anh hào hứng kể với tôi mọi chuyện, cả chuyện anh trêu các cô gái mỏ thế nào, như thể tôi là một thằng bạn lâu ngày anh gặp lại. Ðến một thảm cỏ khô khô, tôi và anh cùng ngồi xuống. Anh hôn tôi. Một nụ hôn loang loáng chạy qua môi tôi, môi anh mềm, mát lạnh. Môi tôi nóng run rẩy. Anh chạm vào tôi như gió thoảng rồi buông ra ngay, khi tôi chưa kịp trấn tĩnh. Tôi ngây người nhìn anh và tự hỏi: anh chán tôi rồi hay sao?

    Anh vẫn tiếp tục kể mọi chuyện. Còn tôi thì bắt đầu nghi ngờ anh. Rồi anh thì thào "Về ngủ đi. Em đi xa chắc mệt lắm". Tôi trả lời "Em có thể ngồi đây với anh đến sáng. Em lặn lội xuống đây với anh không phải để ngủ". Anh cười "Vớ vẩn. Sương xuống sẽ làm em quay lơ ra. Mà anh thì ngày mai cũng phải đi làm. Hôm nay đã say cả ngày rồi. Vì em đấy. Chúng nó bảo anh là người hạnh phúc nhất nên phải khao rượu. Mà tính anh đã uống phải say xỉn thì thôi. Uống lởm khởm súc miệng khó chịu lắm".

      Tôi im lặng. Trên trời, những chùm sao nhay nháy một cách yếu ớt. Hóa ra tôi chẳng quan trọng gì với cuộc sống của anh cả. Anh chồm người lên tôi. Tôi im lặng và chờ đợi. Người tôi run lên vì anh gần gũi tôi quá. Anh hỏi: "Yêu anh không, bé con?". Tôi gật, người nóng bừng. "Trước anh, bé đã yêu ai chưa?". Tôi lắc. "Sao bé có vẻ từng trải và bạo dạn lắm. Anh nghĩ là em đã có một ai?". Tôi tiếp tục lắc. "Em yêu anh và tin anh nên em không sợ anh". Anh ngồi thẳng dậy, cười: "Con gái chết vì cái sự tin đó. Hết đời như chơi đấy bé ạ, nếu không biết giữ mình. Bạ ai cũng tin thì nguy. Nhỡ anh hại đời con gái của em và bỏ em thì sao?". Tôi thấy ngần ngại: "Sao lại hại em. Chúng mình yêu nhau và sẽ lấy nhau". Tôi nói và ngồi lên, vòng hai tay ôm lấy người anh. Anh im lìm như pho tượng. "Mọi chuyện xa xôi lắm bé con ạ. Anh vừa thoát cuộc sống gia đình. Thỉnh thoảng đón thằng cu, chăm sóc nó là anh thấy sung sướng. Anh chưa tưởng tượng ra mình sẽ lấy vợ và lại đẻ con. Ðó là cả một sự mạo hiểm". Tôi nóng mặt: "Thế tại sao anh nói là anh yêu em?". "Anh yêu em ngay từ khi nhìn thấy lần đầu. Nhưng em còn chíp hôi lắm. Vả lại, chắc gì em sẽ yêu anh mãi? Anh tin là em sẽ chán anh trước. Nhất là anh già rồi, chỉ kém bố mẹ em có vài tuổi thôi". "Vậy anh gọi em xuống đây để làm gì?". Tôi cáu "Ơ hay nhỉ. Ði thế này em không thích sao. Em được đến một vùng đất mới mẻ và đáng yêu. Anh thì được đi đây đi đó. Ðược sống như ý muốn của mình chứ không sống theo ý thích của người khác. Hồi bé thì sống theo ý bố mẹ. Lớn lên một tí, chưa hiểu đời là cái gì và nên xử lý với nó ra sao thì a lê hấp, lấy vợ. Một cô vợ ngày ngày dạo quanh anh như một ông công an mặc váy trong nhà. Trong túi áo của nàng sẵn một cái còi, cần đến là thổi toét toét, ngay cả khi đi ngủ". Anh cười và ôm lấy tôi. Môi anh lại lướt nhanh trên môi tôi. Mát mẻ dịu dàng như miếng lê. "Cài khuy áo ngực lại, cô bé. Ngực em lộ ra hết trước mặt anh rồi". Tôi nóng bừng người. Trong bóng tối, có một chút loe loé sáng của một ánh đèn hắt xa xa, ngực tôi lộ ra, trắng như  mầu sứ. Anh nhẹ nhàng, chăm chú cài áo cho tôi như tôi là con của anh. Anh phủi nhẹ nhẹ đất ở quần tôi và kéo tôi đứng dậy. "Về đi. Ðừng bao giờ ra chỗ lạ mặc cái áo dễ bật cúc như thế này. Nó sẽ kích thích đàn ông, lúc ấy em sẽ bị vạ lây đấy". "Anh không yêu em sao?" Tôi thảng thốt hỏi. "Yêu em và thương em lắm chứ, bé con của anh. Nhưng đừng bắt anh phải sống khác mình. Hiểu cho anh nhé". Tôi cay đắng, im lặng đi theo anh. Ðến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ là lúc ấy, tôi không còn hiểu anh là kiểu người gì nữa. Theo như tôi được biết, trai gái yêu nhau thì phải hôn nhau và ham muốn được sống với nhau. ít nhất là anh phải có những hành động gì đó với tôi, khi chỉ có hai đứa với nhau, giữa núi non và biển cả. Chúng tôi là hai kẻ tự do hoàn toàn cơ mà. Mẹ cũng dạy tôi nhiều. Tôi cũng được nghe nhiều, và cả đọc truyện nữa, hình như chưa có trường hợp nào tương tự thế này. Tôi và anh không nói gì cả và về nhà. Anh nhường phòng cho tôi và sang nhờ một người bạn. Biết tôi sợ ma, anh rủ chị cấp dưỡng bếp ăn tập thể về cùng ở với tôi cho vui. Ðêm đó, với tôi là đêm trắng. Trong khuya. Không gian lành lạnh của một ngày đầu đông. Tôi nghe tiếng gió khua lá cây rừng xào xạc. Thỉnh thoảng có tiếng tu huýt của một giống chim rừng gì đó bay vèo qua. Rồi tĩnh lặng. Loáng thoáng,  tiếng ngáy của anh bên kia tấm liếp được gió đưa qua bên tôi. Tôi nghĩ đến bố mẹ, giờ này chắc bố mẹ cũng không ngủ được vì còn phải cùng nhau tưởng tượng ra những cạm bẫy nào mà tôi sẽ mắc phải.

      Sáng hôm sau, anh chạy sang phòng tôi. Khuôn mặt anh tràn trề sinh lực chứ không như lúc anh mới tỉnh cơn say rượu. Tôi tin là hôm qua anh ngủ rất ngon. "Chào. Bé ngủ ngon không? Hôm nay bé ở nhà với các chị nhé, anh phải đi làm đây. Bảo các chị ấy dẫn ra chợ nhé. Tham quan chợ một lúc rồi về ghi nhật ký, vài chục năm nữa giở ra đọc, thích lắm bé ạ". Anh vô tư trèo lên cái xe đạp mà không cần thấy tôi đang trân trối nhìn anh. Anh nháy mắt với tôi, và phóng vụt đi. Tôi không bao giờ nghĩ hiểu rằng trên đời lại có một cái loại tình yêu quái quỷ như thế này. Chị cấp dưỡng tay bóp chặt nắm tiền, cười: "Ði chợ mua cua bể và mực. Làm món chả mực và cua rang muối. Em sẽ thích lắm". Tôi bèn cáo từ chị và ở nhà một mình.

      Tôi ngồi im lìm giữa một căn nhà tồi tàn sơ sài như trong khoang thuyền của người ngư dân sống cuộc đời chài lưới. Nằm ra giường và nhìn ra sân. Ngoài trời, nắng đầu đông loang vàng. Gió se se lạnh. Tôi thấy trống trải và hụt hẫng. Như người đứng trước một cuộc chạy thi, trước mặt là vòng hào quang rực rỡ. Chạy mãi, chạy hết hơi đuối sức, trước mặt còn lại một bãi đất hoang, lởm chởm đá.

      Một ngày nữa trôi qua. Một sự lập lại như ngày trước. Anh rất quan tâm chăm sóc đến sức khỏe của tôi. Làm mọi món ăn bằng đồ biển cho tôi thưởng thức. Nhưng anh không hề hôn thêm tôi lần nào nữa. Tối đến, anh để tôi ở nhà và đi câu tôm cùng bạn bè. Anh không cho tôi đi vì sợ tôi bị lạnh sẽ ốm. Và anh không muốn tôi mất ngủ, da sẽ xấu lắm.

      Ngày thứ ba. Anh đưa tôi ra bến phà để sang Bãi Cháy. Tôi về. Trước mặt tôi, đó là cả một chặng đường dài tít tắp với ba lần sang sông. Không còn cái đích là tình yêu trước mặt để vẫy gọi nữa. Tôi về với căn nhà be bé như cái tổ chim che chở cho tôi. Lúc ấy, tôi mới hiểu gia đình quan trọng như thế nào.

      Tôi vừa đi. Hai mắt cay xè, mòng mọng nước và cố gắng kìm nén để đừng khóc trước anh. Phà rùng rùng sang ngang. Anh đứng trên bờ vẫy tôi rối rít. Anh hét lên trong gió là bao giờ xong việc sẽ về thăm tôi. Anh chuyển hẳn công tác về vùng mỏ, nó hợp với nghề và sở thích của anh. Tôi quay đi, hạ cái túi lỉnh kỉnh những tôm, cua, sò, huyết và mực khô anh mua biếu bố mẹ tôi xuống. Bắt đầu khóc. Khóc như mưa giăng qua mắt. Khóc như bị hun khói ngày rằm tháng bảy vào lễ chùa Hà cùng mẹ. Tất cả, tan nát và mịt mờ đau khổ.

      Rồi tôi cũng về tới nhà.

      Ðến bây giờ sau nhiều năm, tôi vẫn còn nhớ nét mặt của bố mẹ khi nhìn thấy tôi hiện ra ở cửa như một kẻ bại trận, với một ít chiến lợi phẩm lục đục trong túi. Bố mẹ già xọp đi. Cả khuôn mặt toát lên màu xám xịt, như thể hai người vừa chạy thoát được một trận bom. Tôi vào nhà, quăng đám đồ đạc ra đất, ngồi phịch xuống giường. Người khô khốc và nặng trĩu. Bố mẹ nhìn tôi đầy vẻ kinh hãi và không ai bảo ai, chạy thẳng ra đường. Hai người ngó mỗi người một ngả, rồi quay nhìn nhau, và lại ngó nghiêng như tìm ai đó. Rồi, cả hai cùng vào. Mẹ hỏi: "Nó đâu?" Tôi ngơ ngác: "Ai cơ ạ?". "Thằng khốn ấy chứ ai?". Tôi thấy nhẹ bỗng: "Anh ấy chuyển hẳn về đó công tác. Bao giờ có điều kiện sẽ về Hà Nội chơi thôi ạ". "Ai đưa mày về đến đây?". Mặt mẹ đỏ dần lên. "Con tự về mẹ ạ". Mẹ hét lên: "Làm sao đến nông nỗi này con ơi. Thôi thế là xong đời rồi. Nó xơi mày xong nó đi đằng nó rồi mày lại tự bò về chứ gì? Thằng khốn nạn. Nó bỏ vợ con bơ vơ. Nó lại lừa con tôi. Tôi phải giết nó. Thân tàn ma dại rồi con ơi. Sao tôi khổ thế này. Tôi có ác độc gì đâu mà giời phạt tôi". Mẹ đau khổ thật sự, lồng lộn lên như con thú bị thương. Trông mẹ già xọp và quằn quại. Ai không biết tưởng như một tai họa gì đó như cơn lốc ào vào nhà tôi. Tôi ra sức thanh minh rằng anh tốt lắm, anh chăm chút tôi bằng tình cảm của một người anh với em gái, rằng tôi chưa hề bị anh xơi một tý nào, rằng anh còn dạy tôi cách sống ra sao giữa những người đàn ông xa lạ. Tôi càng bênh vực anh thì bố mẹ càng gầm rít. Tôi khóc vì nhớ anh và vì cuộc tình của tôi và anh hình như tan vỡ. Còn bố mẹ thì tưởng tôi là kẻ lầm đường lạc lối, bị một thằng Sở Khanh mang cuộc đời con gái đi mất. Và tôi là kẻ thất tình. Bố mẹ đi theo con đường suy nghĩ của bố mẹ trong sự tưởng tượng. Tôi thì lại sống bằng cái dĩ vãng của ba ngày chua chát vừa qua, khi hiểu rằng anh không yêu tôi như tôi tưởng. Tôi là kẻ bỏ đi - trước mắt bố mẹ.

      Sau đó, bố mẹ đã bằng khả năng của mình xử lý anh. Nhưng hình như anh cũng không vì thế mà bị làm sao cả. Anh là người có chuyên môn, lại dám xông xáo, hình như anh lên lãnh đạo.

      Tôi và anh chia tay nhau. Phần vì tôi tự ái. Phần vì bố mẹ. Phần vì tôi cũng xinh đẹp và có nhiều người mê. Và ba năm sau, tôi lấy chồng. Một người chồng tuyệt vời trước mắt mọi người. Ngày cưới tôi, mẹ tôi khóc hu hu. Tôi hỏi tại sao, mẹ bảo "Giời thương tao, tao chết cũng nhắm mắt, nó biết mày mất trinh mà vẫn làm đám cưới to thế. Thời mẹ, con gái như con chỉ đáng gọt gáy bôi vôi thôi. Cố sống cho tử tế với nó, lúc nào nó cáu quá, có đánh con thì con cũng cố mà chịu  nhé". Tôi im lặng nhìn mẹ. Không hiểu mẹ có bị lẩm cẩm không. Hay là tôi phải gào lên với mẹ và mọi người rằng, tôi không bị mất gì cả, chẳng ai trộm cắp gì của tôi cả.

      ... Những lon bia. Những đĩa thức ăn đặc sản của vùng biển đầy ự trên bàn chờ đón đoàn của tôi về công tác. Họ về đây ký hợp đồng mua than của ta. Tôi có nhiệm vụ giao dịch và là mối dây giữa hai cơ quan. Những lời chúc tụng và những ánh mắt đàn ông nhìn ngắm tôi. Tôi quen với những thứ đó rồi. Chỉ có điều, chưa một người đàn ông nào nhìn tôi như Hoạt ngày ấy. Bây giờ, quay trở lại Hồng Gai, tôi đã thành người khác. Tôi có nhìn thấy một cậu thanh niên xách một túm chim rừng, con mỏ dài, con mỏ ngắn. Màu lông rất đẹp. Anh ta hỏi tôi có mua không, hai ba nghìn một con. Tôi cười lắc đầu chợt nghĩ, ở Hà Nội chim quay mười bảy nghìn một con, đắt thật. Tôi nhớ anh cồn cào, dù tôi rất yêu chồng và con tôi. Hai chuyện đó, theo tôi, hoàn toàn chẳng can dự gì với nhau cả.

      Ðêm đến. Tôi đi ra biển. Khoảng rừng ngày xưa chúng tôi ngồi với nhau  giờ người ta san phẳng và xây nhà rồi. Nhà mọc san sát. Trang trí nội thất đẹp như những khách sạn mini. Trên đầu tôi, vẫn những vì sao lưa thưa, có vì sáng rực, có vì nhạt nhòa, trên biển ánh sáng nhiều và chi chít hơn ngày xưa rất nhiều. Cuộc sống ngày một đi lên, sung túc hơn. Càng sống, càng thấy anh đúng. Những cái gì ngày xưa tôi oán giận anh, ngày nay tôi làm đúng như vậy. Hóa ra, con người, từ lúc sinh ra đến lúc chết đi ai cũng đi chung một con đường. Vừa giống nhau, lại vừa khác nhau. Người  may mắn thì ít xa vào ổ gà. Người đen đủi thì hay rơi xuống hố. Những cái sự bắt đầu và kết thúc thì như nhau cả. Tôi im lìm nhìn biển đen thẫm trước mặt. Mùa đông năm nay đi về hướng nào chẳng biết. Tháng mười một nhưng nắng vẫn hoe vàng. Tôi chỉ mặc một chiếc váy thun mà không bị lạnh. Ai đó bảo rằng biển ấm vào mùa đông và mát vào mùa hè. Biển muôn đời đáng yêu và dễ gần. Hồi chiều, tôi tìm đến nơi ngày xưa anh công tác. Người ta bảo anh đi khỏi đó lâu rồi. Anh ưa sự khám phá. Hình như anh vào khu mỏ mới nghiên cứu và khai thác than mỏ nhỏ. Những mỏ vô danh và chưa ai đặt chân tới. Có người thì bảo hình như anh và bốn người nữa trong một lần đi thăm dò mỏ mới, hít phải chất titan gì đó trong khe sâu và chết rồi. Có người lại bảo anh chuyển sang Hải quan, chuyên đi tàu trên biển bắt bọn buôn lậu quốc tế. Nói chung, tôi chẳng nhận được những thông tin gì cụ thể về anh, ngoài việc anh là người ưa làm việc, ưa khám phá. Anh vẫn độc thân. Cuộc sống và niềm vui của anh là công việc. Còn nhớ, ngày ấy, khi chia tay tôi, anh có viết vài dòng cho tôi, đại ý là anh đã trải qua mọi sự rồi. Ngay trong tình yêu cũng vậy, anh yêu tôi nhưng anh không vì tôi mà sống khác. Anh hôn tôi bằng đôi môi của người đàn ông từng trải chứ không thèm khát nhục dục của kẻ mới lớn. Anh, lúc ở rừng với tôi, anh có thể nhịp nhàng mà chiếm đoạt tôi, và biến tôi thành nô lệ của anh vì tôi rất ngây thơ và tin anh. Nhưng anh không muốn bởi vì tôi còn cuộc đời của tôi. Với anh, điều đó không quan trọng, miễn là khi tôi đi lấy chồng, tôi còn nguyên vẹn với chồng.

     Tôi không còn nước mắt để khóc nữa. Người đàn ông đã có vợ thường tìm trong tình yêu mới vẻ đẹp tinh thần chứ không phải sự cuồng si của thể xác. Anh không muốn lấy tôi bởi anh không muốn tôi đau khổ. Anh bảo: "Lấy nhau sẽ phải đẻ con, anh cũng yêu thương con của chúng ta thôi nhưng cái tình yêu đó không thể bằng tình yêu của một chàng trai chưa bao giờ có vợ và con. Anh vẫn phải dành anh cho con của anh với người vợ cũ. Như thế, chúng mình và các con đều đau khổ vì không ai được trọn vẹn cả".

      Anh ở đâu? Sao tôi nhớ anh thế này. Bao nhiêu năm, tôi sống và tôi hiểu rằng, chẳng bao giờ tôi gặp được người đàn ông nào thay thế được anh trong tâm tính của tôi.

     Sương nhè nhẹ buông. Trong gió có mùi tanh nồng nồng của biển. Có mùi mặn mặn của muối. Tôi thấy nóng bừng người vì nhớ anh.

      Tôi đang sống trong một năm không có mùa đông.

 

Quảng Ninh 2-1992   

Nguyễn Thị Thu Huệ      

 

 Cùng tác giả: Hậu Thiên Đường

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.