chan_dung-ke_si

MỘT QUÃNG ĐƯỜNG – Tự truyện Tô Hoài (phần 1)

20-07-2024

Lượt xem 1661

Đánh giá 2 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Tô Hoài

MỘT QUÃNG ĐƯỜNG – Tự truyện Tô Hoài (phần 1)

Nhà văn Tô Hoài (1920-2014)

Chân Dung Kẻ Sĩ: MỘT QUÃNG ĐƯỜNG là tự truyện của nhà văn Tô Hoài, viết về quãng đường từ lúc ông đi làm, rồi bắt đầu bước chân vào nghề viết cùng với những nhà văn, những chí sĩ lừng lẫy đương thời như nhà văn Như Phong, nhà văn Nam Cao, nhà văn Nguyên Hồng... 

Trích:

...

Cũng hồi này, tôi gửi cho Tự Lực văn đoàn truyện ngắn Con gà ri. Truyện ngắn này đầu tiên tên là Mê gái đăng số 1 tuần báo Chủ Nhật của văn đoàn ấy.

    Một hôm, Đinh Hùng và Huyền Kiêu dẫn tôi đến làm quen với toà báo Chủ Nhật và nhà xuất bản Đời Nay.

    Khái Hưng reo ầm lên, gọi hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, nhà văn Thạch Lam và nhiều người xung quanh đến:

    - Tôi đã bảo mà? Tác giả truyện ngắn này còn rất trẻ! Rất trẻ!

    Tôi cảm động run cả tay, khi bắt tay mọi người. Nhưng ông Khái Hưng chỉ khen tôi mà không trả tôi đồng nào, cũng chẳng cho tôi một tờ báo biếu? Vẫn cái lệ toà báo chỉ trả tiền và biếu báo người được mời viết.

    Tôi đến với nghề văn đại khái như vậy. Tôi không có cảm tưởng nào mới lạ hơn khi tôi nghĩ lại những nghề bán giày, làm kế toán, đánh máy chữ, coi kho hay dạy trẻ học và những khi thất nghiệp với những mong ước của một người lương thiện muốn có một công việc làm.

    Tôi bắt đầu làm quen với nhiều người trong nghề mới của tôi. Nhưng không dễ quen được đâu. Cánh Tự Lực văn đoàn thì ăn mảnh. Vài người tìm cách chơi với họ "thấy người sang bắt quàng làm họ", ra vẻ hí hửng. Những ông kiểu như ông Lưu Thần thuộc đám trác táng cao đạo, cũng không để mắt đến tôi.

    Bọn lau nhau chúng tôi thì khá đông, có anh đã viết, có anh chưa viết và những anh không biết viết chuyên điếu đóm chạy hiệu để các đàn anh sai bảo. Mỗi đứa - có một biệt hiệu lố lăng: Cát Noát, Zannine Lệ Thuỷ, hoặc tên bố mẹ đặt cho lại đem lộn ngược lên cho lạ kiểu, như Thái Kim Điên, Thái Đình Gia (Đinh Gia Thái). Tôi ở trong đám đó.

***

Một hôm, Như Phong đến nhà tôi.

    Bấy giờ là cuối mùa hè năm 1943. Mấy năm trước tôi đã có lần gặp Như Phong, nhưng chúng tôi chưa quen nhau. Tôi chỉ biết trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy tôi đã đọc những truyện ngắn Như Phong từ hồi tôi làm nhà Bata, mua báo Tiểu thuyết thứ bảy bán cân. Truyện có một không khí mới, đem đến những suy nghĩ man mác đẹp cho người đọc. Anh hoạt động phong trào Thanh niên Dân chủ.

    Tôi đã có lần gặp anh ở toà báo Thế Giới, phố Phạm Phú Thứ gần chợ Hàng Da. Tôi đến đây vì thích nghe các anh ở tòa soạn hay nói chuyện thế giới đại đồng và chủ nghĩa cộng sản.

    Hồi ấy, tôi chưa vào nghề văn.

    Một bạn ở toà báo đã trỏ Như Phong và Trần Mai Ninh cho tôi trông thấy. Tôi lại nghe đồn Như Phong, trong ngày cưới, không chịu lễ sống các bề trên nhà gái, vì vậy nhà gái không cho đón dâu. Tuy thế, chuyện bản lĩnh con nhà giàu ấy cũng thật xa xôi với tôi. Tôi yêu văn Như Phong và vì tôi biết anh tham gia cuộc đình bút của các nhà văn chống ông chủ xuất bản Tân Dân. Anh đã bị mật thám Pháp bắt, sau khi các tổ chức báo chí công khai của đoàn thể phải đóng cửa. Những điều đó đủ cho tôi thật bồng bột, khi gặp Như Phong.

    Như Phong bảo tôi:

    - Đoàn thể muốn gặp...

    Tôi chỉ nhớ Như Phong cho một cái hẹn, đưa tôi quyển Tuyên ngôn, chương trình và điều lệ Việt Minh, một tờ báo Cứu Quốc. Sách báo bí mật của Tổng bộ Việt Minh hồi ấy in li-tô giấy xanh, gấp cả hai thứ lại chỉ báng bàn tay.

    Tôi biết đây là sự tin cậy, mặc dù chúng tôi chưa thật biết nhau. Thời kỳ ấy, thanh niên khao khát lý tưởng, như người đi nắng khát nước, chỉ nghe đồn cũng đã tìm đến bày tỏ nỗi băn khoăn và đánh bạn với nhau. Những người yêu văn những người viết văn cùng một lứa, chỉ đọc một truyện ngắn một bài thơ với những lời xa xôi bằng những chữ Ngày Mai, Trời Hồng, Nhân Loại... viết hoa, thế là chúng tôi đi tìm gặp nhau. Chúng tôi hiểu đấy là người cùng chí hướng.

    Đến ngày hẹn, tôi đi tàu điện xuống Quán Thánh, rồi rẽ về Hồ Tây, qua đường Cổ Ngư, lên phố "Lốc cốc No"(1).

    Cũng con đường này, những năm trước, tôi đi học trường Yên Phụ.

    Tìm đúng số nhà 126, tôi gõ cửa.

    Cái cửa gỗ màu gụ, chạm trổ, có quả đấm sứ và rèm vải treo trong. Đấy là một nếp nhà và một căn phòng đẹp. Nhà lát đá hoa, ghế sa lông, lịch treo tường, thoáng và đơn giản, lịch sự.

    Mở cửa mời tôi vào là một thanh niên. Anh mặc sơ mi trắng, đeo kính trắng và tự giới thiệu tên là Uy. Chỉ một cái bắt tay chặt và cách nhìn nhau, nói thế, cũng như với Như Phong hôm trước, chúng tôi nghiễm nhiên coi như đã biết và ngầm hiểu chúng tôi gặp nhau để làm gì.

    Trường tiểu học Yên Phụ ngày trước ở gần đây. Tôi ăn cơm đầu ghế buổi trưa chỗ hàng cơm bên cạnh nhà máy điện đầu lối vào Ngũ Xã. Hàng ngày trước kia, tôi vẫn đi qua cái nhà này. Đây là một dãy nhà sang, thường chủ Tây ở, hoặc nhà của những người đi làm có xe đạp, xe nhà. Nhà nào cũng nhiều buồng, bên cạnh có đường sỏi và dàn hoa, lối cho ôtô, xe nhà, đi cổng riêng. Tôi không thể tưởng rồi ra có ngày đi họp cách mạng, tôi lại vào cái nhà này.

    Bấy giờ còn chạng vạng, chưa tối hẳn. Tôi ngồi trong phòng trông ra cửa nách. Qua bóng loáng thoáng xanh đen lá cây na thấp ven tường, thấy đằng cửa nhà máy điện Yên Phụ có một người xuống xe tay, đi lại phía này, lững thững như người đi bách bộ.

    Tôi nhận ra đấy là Như Phong. Trước nhất ở dáng người bệ vệ, bộ quần áo tờ rô xám sáng, nách kẹp mấy quyển sách, đầu để trần, miệng ngậm cái tẩu gộc. Với tôi, đấy cũng là hình ảnh hấp dẫn của một kiểu nghệ sĩ.

    Một lát, thấy Nguyên Hồng và Học Phi đến. Nguyên Hồng là nhà văn nổi tiếng, đặc biệt khác lạ với những nhà văn tôi đã đọc. Những truyện anh viết về đời anh và cảng Hải Phòng sôi nổi cảm động, thiết tha. Và gần gũi bao nhiêu, khi đọc thấy anh kể anh nghèo lắm, anh ngồi viết chuyện đời anh từ năm anh mười sáu tuổi như thế nào. Trong gian nhà lá, cái mái ọp ẹp tối, sát đầu, kê giấy lên mảnh ván mặt chiếc hòm phản, cạnh vại nước ăn. Cứ thế, viết suốt ngày đêm đến đau cả ngực... Những chi tiết ấy kích thích tôi. Thoạt trông vẻ tất tưởi mà lại như không cần gì ai, tôi đã có cảm tình, lại nghĩ đây là người nghệ sĩ, một nhà văn của giai cấp công nhân, như Mácxim Goócky.

    Tôi vừa có mấy cái truyện ngắn in trên tuần báo Hà Nội Tân văn được tòa soạn trả tiền nhuận bút. Thế là tôi quyết định vứt những công phu chờ đợi và chạy chọt tìm việc làm, bước vào nghề viết. Bởi vậy, cái gì của người viết văn, tôi đương mộ, tôi đều thấy hay, muốn học đòi. Dáng dấp đĩnh đạc, bề thế của Như Phong, cách người lam lũ với vẻ mặt cóc cần đời của Nguyên Hồng đều làm cho tôi yêu cả.

    Học Phi là người tôi biết mặt từ hồi "Bình dân". Năm ấy, tôi hay viết tin chống thuế, tin thợ dệt tranh đấu, tin hoạt động Ái hữu thợ dệt ở vùng tôi. Có khi tôi làm thơ. Thơ tôi gửi nhiều nơi mà chưa báo nào đăng. Tôi quý báo Tin Tức, báo Đời Nay vì các toà báo này hay góp ý kiến cả về cách viết từng câu kỹ lưỡng, dẫu trả lại bài. Hồi ấy, các anh tòa báo đã chỉ cho tôi trông thấy Học Phi. Học Phi ngồi trên giường có cái chăn dạ xám bên cạnh, chăm chú đọc bằng tiếng Pháp tiểu thuyết Người mẹ của Goócky. Truyện dài Xung đột của anh ký tên Tử Văn đương đăng từng kỳ trên báo Tin Tức. Tôi không thấy hay. Nhưng tôi phục truyện ấy vì truyện đã đăng trên báo công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương.

    Bấy giờ được gặp và quen ở đây, tôi cũng thật cảm động.

    Tôi cũng đương thành người viết văn và hoạt động cách mạng. Tôi ngẫm nghĩ, đây là cuộc họp quan trọng.

    Trời đã tối, Uy đưa chúng tôi lên cái gác sân thượng sau nhà, tảng như ngồi chơi. Ở đấy đứng lên, thấy cái dốc vào Ngũ Xã trong hồ Trúc Bạch dưới chân tường. Uy nói: Chúng ta bắt đầu họp. Và lần lượt đọc tuyên ngôn chương trình, điều lệ Việt Minh. Lại nói từ nay chúng ta là một tiểu tổ, cùng chí hướng đánh Pháp đuổi Nhật, theo điều lệ, tôn chỉ mục đích Việt Minh, hàng tháng đóng tiền nguyệt liễm vào quỹ đoàn thể.

    Trong bóng đêm hè bao phủ tối đen cái gác sân sau, trên đầu mảnh sân phơi cong queo những sợi dây thép làm cho tôi cảm tưởng như ngồi trong lưới. Nhưng ngoài cái lưới dây thép ấy bao la từng chùm sao nghiêng xuống và mặt nước sông Hồng đằng kia cuốn đi những ánh sao rơi. Ý nghĩ của tôi mênh mông xa và đầy tưởng tượng kỳ ảo lang thang ra ngoài cuộc họp trên cái sân gác chật chội này.

    Ngoảnh lại mấy năm trước, tôi phải thôi học, vào đời, bó buộc vào đời, không biết đời đưa đẩy mình đến đâu. Chỉ mấy năm mà lúc nào cũng cảm thấy dài thế, ngổn ngang thế, những chua chát, những mỉa mai, những chờ đợi. Niềm mơ ước mờ mịt, chắp nối, lông bông và thật cũng không biết ước mơ gì.

    Hôm nay cách mạng đến với tôi trên chặng đường mới.

    Mỗi chặng đường sâu vào cuộc đời, những ước mơ lại như những đợt sóng dồn về một hướng nước. Từ đây, tôi là người viết văn có lý tưởng cộng sản. Trong bóng tối đêm ấy và trong cuộc sống của tôi lúc ấy, tôi thấm thía nhận ra đời mình đã ràng buộc thật sự với lý tưởng ấy không phải mới bây giờ mà từ khi hoạt động phong trào Ái hữu thợ dệt Hà Đông.

    Ít lâu sau, Như Phong đến tìm tôi, lại hẹn xuống họp ở nhà Uy.

    Lúc ấy gần tối, chỉ có Vũ Quốc Uy với Như Phong và tôi.

    Đương ngồi nói chuyện, có một người bước vào ánh đèn. Anh bé choắt, lượt thượt cái vạt áo dài ma-ga tóc đen nhánh. Anh đội mũ “cát” vải màu đỏ kệch, đeo kính trắng cận thị, như cậu học trò trường huyện. Tôi tưởng ai hỏi gì, nhưng thấy Uy đã đứng dậy và bảo chúng tôi lên cái gác sân sau như lần trước.

    Anh người bé nhỏ nọ cũng lên theo. Uy giới thiệu đây là đồng chí cán bộ về nói chuyện tình hình. Tên anh là Bé(2).

    Anh Bé như đã biết tôi. Anh hỏi thăm tôi đương viết gì, khiến tôi lúng túng, ngượng nghịu. Anh lại hỏi cách sinh sống của tôi thế nào, có chắc chắn không, mỗi tháng viết được bao nhiêu tiền. Anh so sánh rồi nói thế thì người làm văn nước ta còn khổ, mỗi tháng kiếm mấy đồng bạc chưa được chắc lưng bằng người thợ có nghề. Anh cười, mặt tròn nét hẳn lại. Tôi thấy anh hồn nhiên như trẻ con và anh nói: "Nhưng mà viết văn là nghề tự do, khoái!"

    Trong khi họp, anh Bé đặt ra những cách thức khiến tôi vừa lo vừa hào hứng. Tôi có cảm tưởng họp thế mới là họp bí mật.

    - Phải giữ thật nghiêm các nguyên tắc để đối phó với tình hình xấu, nếu xảy ra. Khi biết có "chó"(3) đến, trong tay có tài liệu thì nhai nuốt chửng ngay. Ta phân công trước, lúc ấy ai chạy đằng nào cứ thế chạy, không bối rối. Chẳng may đồng chí nào bị "chó" bắt, nó đánh, cứ khai ngồi chơi. Đánh mãi cũng chỉ có thế, không để nó moi được gì.

    Anh Bé bảo mọi người cần có bí danh. Hễ đi đến nơi hẹn đều đặt dấu hiệu để xem biết trước chỗ mình đến có động hay yên. Nghe dặn những chuyện ấy, tôi cứ dần dần không còn thấy ở anh Bé vẻ ngơ ngác học trò trường huyện đi giày vải Bata với cái áo dài ma-ga tóc nữa. Trong cái nhìn và ý nghĩ tôi, anh to lớn lên và hoá thành người cán bộ có những nét ngang tàng khác lạ. Hai bàn tay anh xù xì mốc ráp và gợn chai. Cổ anh ngấn nắng cháy đen. Tôi đoán anh vừa xông pha nắng gió từ nơi xa về đây.

    Câu chuyện anh kể, càng tỏ rõ thế.

    - Cả nước ta đương sôi nổi cách mạng rồi. Tôi đi công tác qua vùng đồng chiêm, các cụ đồng chiêm suốt đời trong bùn lầy nước đọng, không ra khỏi làng bao giờ, thế mà các cụ hỏi có phải Hồng quân Nga vừa tiêu diệt mấy chục vạn phát xít Đức ở Ucờren, Hồng quân đương phản công khắp các mặt trận không? Rồi các cụ bảo tôi kể tỉ mỉ về từng trận Hồng quân tiến công phát xít Đức ở Kuốc, ở sông Đơniép. Đấy, quần chúng nông dân theo cách mạng, đã học hỏi và tiến bộ như thế...

    Anh Bé lại đọc tuyên ngôn, giảng điều lệ và chương trình Việt Minh. Từng đoạn, từng phần, sách lược đối với các giai cấp trong Mặt trận cùng với nhiệm vụ cách mạng của mỗi tầng lớp.

    Đêm nay nữa, ở cái gác sân thượng nơi góc phố vắng ấy, bốn chúng tôi ngồi quây lại với nhau chưa kín một mảnh chiếu, trên đầu ngang dọc đan những sợi dây thép ban ngày phơi quần áo, nhưng ngoài kia, đêm thành phố đương dìu dịu vào thu. Trong mênh mông có những chùm sao lóng lánh kỳ lạ Tôi trông thấy trên khắp nước, từng lớp người đã đứng lên trong vị trí của mình, đâu đâu cũng đương sôi nổi phất cờ cứu nước xông ra đánh Pháp, đuổi Nhật. Nước Việt Nam độc lập đương từ từ mọc, như ông trăng đêm rằm tròn vành vạnh ló ra trên đầu ô Yên Phụ và trong bóng dừa, bóng tre làng tôi.

    Từ đấy, thỉnh thoảng Như Phong và tôi lại đến nhà Uy họp. Ba chúng tôi thành một tổ bí mật. Tôi hiểu thế mà không hỏi thêm. Trong tình hình mà lúc nào mật thám cũng rình mò quanh mình, công tác ai làm người nấy biết, làm đến đâu biết đến đấy. Tôi không biết Uy làm nghề gì. Những lần sau không thấy Nguyên Hồng, Học Phi đến, tôi cũng không hỏi.

    Tôi thường thấy Như Phong ngồi xe tay, xuống xe ở phố gần đấy rồi lững thững đi bộ lại nhà Uy. Như Phong bảo tôi "Như vậy tụi "chó" sẽ tưởng mình đi chơi láo thôi. Luôn luôn ta phải đề phòng "chó và A.B"(4). Như Phong cũng bí mật. Nhưng ít nhất, tôi đã biết nhà anh trước chợ Đồng Xuân có cửa hiệu bán chè và đường cát - nhà buôn lối cổ của những gia đình gốc gác ở Hà Nội.

    Mỗi lần họp, tôi đóng một hào làm nguyệt liễm. Cũng đã quen giữ bí mật, đến đầu nhà Uy, tôi dừng lại, nhìn trước nhìn sau, xem có ai theo mình, có con "chó" nào đeo kính râm đứng đằng kia không, rồi tôi còn đi vòng vài lần, đến khi không thấy có người vơ vẩn, tôi mới bước tới cái cột đèn xi măng, nhìn lên. Không thấy có hòn đá đặt đấy. Thế là trong nhà yên, cứ vào.

    Có lần, anh Bé trình bày bản Đề cương về văn hoá Việt Nam của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương và chúng tôi thảo luận. Tôi không nhớ đã thảo luận những gì. Có thể vì trình độ kém hiểu biết lý luận của tôi. Bởi vì, cũng hồi đó, nghe cắt nghĩa quyển Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa, tôi lại nhớ rành rọt, cụ thể.

    Quyển sách nhỏ Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa có những đoạn tôi chú ý đến thuộc lòng.

    "Lấy gì để đánh quân thù? Một dân tộc bị áp bức cũng như một giai cấp bị bóc lột, muốn tự giải phóng phải cầm vũ khí thẳng tay mà chiến đấu. Không thể tay không mà đánh giặc. Dân ta muốn đánh đuổi Nhật Pháp cũng không thể không sắm sửa và tận dụng võ khí. Có hai cách kiếm võ khí là tự chế, mua và chiếm của giặc.

    I. Dân ta phải tự chế một phần võ khí thì lúc nổi dậy mới có cái mà giết giặc. Bởi vậy, ngay từ nay, mỗi đội tự vệ hay tiểu tổ du kích phải sắm cho đủ những thứ này:

    a) Võ khí để đánh: dao chiến đấu (mỗi đội viên 1 con) gậy tày (mỗi đội viên một cái), giáo hay đinh ba (ít nhất mỗi đội 2 cái) Ngoài ra, có võ khí gì hơn càng hay (ví dụ: súng, nỏ v. v...).

    b) Khí cụ dùng để phá hoại (chung cho cả đội) một đôi lắc lê mở bù loong, một đôi cuốc chim, một đôi xẻng lục lộ, một cái kìm bấm để cắt dây thép. Ngoài ra, có mìn, thuốc nổ, cưa thép, búa tạ, càng hay.

    Chú ý: muốn đánh những thứ trên đây, tất cả cái hội viên cứu quốc từ nay phải tìm kiếm, tích trữ những miếng sắt vụn hay những đồ dùng bằng sắt có thể dùng để đánh võ khí.

    "Các đồng chí!

    "Các chiến sĩ cứu quốc!

    "Thời cuộc thế giới biến đổi rất nhanh. Phe Đồng minh (Anh, Mỹ, Nga, Tàu) càng đánh càng thắng. Phe phát xít xâm lược đã bắt đầu tan rã với việc phát xít ý thua bại và còn tan rã hơn? Quân Đức Hít-le đương bị Hồng Quân Nga đánh cho thua liểng xiểng. Mai đây, mặt trận thứ hai chính thức mở ở Tây Âu và Hồng quân tổng phản công một nhịp ở Đông Âu thì quân Đức sẽ bị kẹp nát giữa hai gọng kìm ghê gớm. Cách mạng sẽ bùng nổ tại Pháp, Bỉ, Hà, tại các thuộc địa khác của Đức và ngay tại Đức nữa.

    "Bên Viễn Đông, cuộc phản công của Đồng minh lấy lại Diến Điện đã bắt đầu. Nếu phát xít Đức ngã quỵ ở châu Âu, thì phát xít Nhật sẽ mất hết vây cánh. Đi đôi với cuộc tổng phản công của Anh, Mỹ, Nga, cuộc kháng chiến của Tàu sẽ thắng lợi hoàn toàn. Phong trào phản chiến ở Nhật và các thuộc địa Nhật sẽ mỗi ngày một sôi nổi thêm.

    "Ở Đông Dương, Nhật nghi kỵ Pháp và ghen ăn với Pháp. Pháp căm tức Nhật và chán cảnh làm đầy tớ cho Nhật. Nhật sửa soạn truất quyền Pháp và cho bọn Việt gian phản quốc lập chính phủ bù nhìn. Phần đông người Pháp chỉ đợi quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật là quay lại bắn Nhật.

    Hai kẻ thù Nhật Pháp ngày càng xung đột nhau dữ dội và tự làm cho nhau yếu sức.

    "Tất cả các lực lượng tự do và tiến bộ trên thế giới đang cùng chúng ta chiến đấu, tình thế Đông Dương ngày một có lợi cho cuộc vận động cách mạng dân tộc giải phóng của ta.

    "Chúng ta phải biết nắm lấy cơ hội ngàn năm có một đặng giành quyền độc lập, đuổi kịp năm châu.

    "Chúng ta phải hăng hái góp phần vào cuộc chiến đấu chung của thế giới chống lũ mọi phát xít, mưu hoà bình, hạnh phúc cho loài người.

    "Những rên xiết, kêu than của dân tộc, làm cho máu ta sôi lên. Lịch sử hơn bốn nghìn năm chiến đấu của dân tộc ta tiến bước.

    "Tình thế không cho phép chúng ta chậm chạp nữa. Hãy tích cực sửa soạn khởi nghĩa đặng bẻ xiềng, tháo ách cho dân tộc.

    Các đồng chí cứu quốc! Toàn quốc đồng bào ta đang trông đợi nơi các đồng chí. Tất cả các tổ chức Việt Minh hãy ganh đua thực hành những chỉ thị trên đây. Các đồng chí kỳ bộ phải hết sức đôn đốc và kiểm soát việc thi hành chỉ thị và báo cáo lên thượng cấp những kết quả xác thực.

    "Chúng ta phải thắng và chúng ta nhất định sẽ thắng!

    "Ngày mai vẻ vang của dân ta không xa nữa.

    "Đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp!

    "Tinh thần tích cực sửa soạn khởi nghĩa muôn năm!

    "Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm?(5)

    Cứ khi nào nghĩ đến những điều trên trong tôi lại dạt dào thấy khắp nước đương vào thời kỳ mới.

    Ngoài đường tối, từng đám công nhân nhà máy điện Yên Phụ, công nhân nhà in Iđeo(6) đương âm thầm đi men chân tưng đến xưởng làm tua đêm. ở chỗ bờ tường nhà in Iđeo xám dài dằng dặc, từ ngày còn đi học tới giờ, lúc nào tôi cũng thấy lom khom có mấy người phu xe cởi trần đương bán lại cho nhau giờ xe kéo. Lúc thi chửi, lúc thì cười, lúc đánh nhau, chốc chốc lại ồn ã lên. Xã hội cứ bối rối và buồn thảm như thế.

    Nhưng biết đâu, thằng Tây biết đâu được bên trong người thợ hay người phu xe, Tây biết đâu được chúng tôi ngồi họp trên cái sân thượng bé tí tẹo này, trong người có truyền đơn, có báo cách mạng, có con mắt và tinh thần bao quát nhìn ra thế giới. Mỗi chúng tôi bấy giờ đều trữ lắc lê, kìm, búa, có người có cả súng - như những công việc sửa soạn khởi nghĩa yêu cầu phải sắp sẵn thế.

    Có hôm, anh Bé đến nhà tôi trên Nghĩa Đô. Tôi hỏi:

    - Khi khởi nghĩa thì Văn hoá Cứu quốc làm gì?

    Anh đáp:

    - Khi khởi nghĩa, Văn hoá Cứu quốc cầm vũ khí đứng lên xông ra giết giặc nh các giới cứu quốc khác của đồng bào.

    Tôi cũng sắm được cái búa đanh, cái kìm và cái đèn Neông hai pin. Lần họp nào cũng kiểm điểm mấy thứ ấy. Chỉ là mấy vật nhỏ ấy làm cho tôi tưởng như đó là việc cuối cùng, việc to nhất góp phần làm nên cách mạng.

    Có lần anh Bé kể chuyện Việt Minh đã lập được nhiều chiến khu. Những khu giải phóng trên miền ngược sẵn sàng tham gia khởi nghĩa rồi. Các chiến khu ấy đã đánh Pháp, đánh Nhật, thằng Nhật sợ không dám mò vào rừng, Tây thì đã rút chạy khỏi các đồn bốt ở nơi hiểm trở. Các tỉnh thượng du Cao Bằng. Lạng Sơn Bắc Cạn đã nhiều khu giải phóng độc lập hoàn toàn.

    Tôi hình dung đến những vùng tự do, đất và trời xanh rời rợi và trong lặng quá, như chờ đợi.

    Tôi đã biết rừng núi trong một ngày Tết trên sông Thao ở Yên Bái, lần đầu tiên tôi làm quen. Cửa đền Đông Cuông có cây mai nở, khe khẽ reng reng tiếng nhạc ở tay bà then. Tôi lại trông thấy những vùng rừng rậm núi cao khi tàu tốc hành Hà Nội - Sài Gòn chạy xuyên qua cực nam Trung bộ, với những cái tên xa xôi, những Sông Lòng Sông, những Tua Chàm, những Xuân Lộc xanh đen đất đỏ Biên Hoà và rừng cao su mờ mờ như hoàng hôn suốt ngày. Mỗi lúc có đoàn tàu hỏa chạy qua, những người phu cạo mủ cao su lại ngẩng đầu nhìn theo đoàn tàu về Bắc. Người lớn, trẻ con nhấp nhô, bóng in lên nền rừng hết sức hiu hắt.

    Những nơi đầu sóng ngọn nguồn ấy bây giờ có Việt Minh đứng ra đánh Pháp đuổi Nhật cả rồi!

    Anh Bé kể chuyện trên Bắc Cạn có đội nữ du kích hồ Ba Bể. Ngày bé, có lần tôi đọc quyển truyện thần quái Sóng hồ Ba Bể. Tôi tưởng tượng hồ Ba Bể là nơi âm u có những ngọn sóng thần xanh biếc bỗng dưng nửa đêm nổi cao như núi, đến gà gáy sáng, sóng ập xuống, trôi hết cả rừng, cả làng mạc quanh bờ.

    Bây giờ, ở nơi rừng thiêng nước độc ấy đã có đội du kích toàn nữ áo chàm đánh Tây đuổi Nhật.

    Anh Bé bảo tôi viết thành truyện để in báo Cứu Quốc.

    Báo bí mật có kỷ luật giấy và kỷ luật chữ. Giấy viết nhỏ bằng tờ giấy quấn thuốc lá, để dễ mang đi. Bài chỉ được hai trăm chữ.

    Bài Đội nữ du kích Ba Bể tôi viết khoảng chữ ấy. Tôi còn loay hoay viết những bài thật ngắn khác, viết xong xoe giấy lại, như cái ống lông ngỗng.

    Như Phong và Vũ Quốc Uy chuyển cho tôi báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh, báo Cờ Giải phóng cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Đông Dương. Tôi đọc số báo đặc biệt Cứu quốc Hải ngoại say sưa thấy hai chữ Việt Minh đã vượt ra ngoài biên giới được phe Đồng minh ủng hộ.

    Tôi cặm cụi viết những bài báo thật ngắn, chữ bằng con kiến. Những bài báo một hai trăm chữ mà viết rất khó, viết mãi không thành.

    Hồi này, nhà xuất bản Tân Dân đã mời tôi đến làm giao kèo viết. Tôi đã bán hàng tháng được bản thảo truyện ngắn và có tiền. Tôi chưa viết truyện dài bao giờ, thế mà nhà xuất bản Mới mua truyện dài đặt tiền, tôi viết luôn truyện dài Quê người. Cũng có cái dễ, đấy là những chuyện làng xóm tôi chắp nhặt viết lại mà thôi.

    

- o O o -

 

    Những năm còn nhỏ đi học, đời tôi rặt những mỉa mai tình cờ và tức cười. Bây giờ, khi tôi quyết định lấy nghề viết nuôi thân, tôi không nghĩ là tình cờ, nhưng thật tôi cũng không có mục đích gì đặt ra trước để cho rồi thành nghề văn và viết văn Tôi chỉ có cái lo lắng của một công việc mới tìm được.

    Tôi ham viết từ khi ít tuổi. Tôi có cảm tưởng học đến đâu viết đến đấy, - bắt chước viết đến đấy.

    Chín, mười tuổi, nhà tôi có quyển Kiều, các dì tôi hay bói Kiều. Bác thợ củi nhà tôi có quyển Học Kiều lẩy. Thế là tôi làm thơ lẩy Kiều. Đến khi tôi tha đâu về được một tập Tứ dân văn uyển, trong có nhiều bài dịch thơ Đường của Nguyễn Can Mộng và quyển Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên, tôi bèn loay hoay làm thơ tứ tuyệt, bát cú, làm văn tế và tôi dịch lại những bài thơ Đường người ta đã dịch, mặc dầu tôi không biết chữ Hán. Thày tôi ở Sài Gòn đã đem về những pho truyện dịch của Nguyễn Chánh Sắt, Chinh đông Chinh tây Tam hạ Nam đường, Càn Long du Giang Nam... Thế là tôi vừa đọc vừa viết kiếm hiệp. Rồi tôi say mê lung tung: Bông hoa rừng, Dao bay, Thuỷ hử, Gươm cứu khổ, Tố Tâm, Hồn bướm mơ tiên, Sống mà yêu...

    Có điều chưa bao giờ tôi bắt chước viết theo truyện của Khái Hưng, Nhất Linh, mặc dầu tôi thích đọc những truyện ấy. Bởi lẽ giản dị: viết truyện viển vông giang hồ kỳ hiệp, ai cũng có thể tưởng tượng, nhưng viết giống cái thật thì nhân vật trong truyện của các ông nhà giàu con quan có đồn điền như thế, tôi không biết những kiểu người ấy, không bắt chước được.

    Truyện Dế mèn phiêu lưu ký của tôi phảng phất những nét lẫn lộn Guylive du ký, Đông Kisôt, Têlêmạc phiêu lưu ký mà tôi đã đọc những bản dịch trong loại sách Âu Tây tư tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh. Tôi tự học tiếng Pháp bằng cách tập dịch. Tôi mê và tôi dịch nhiều của Môpátxăng, Mateclinh, Đô đê. Khi ấy, tôi hay viết truyện ngắn và cũng có khi làm thơ.

    Tôi đã thôi học hẳn và bỏ việc nhà Bata đã lâu, lại đi lang thang nhiều rã cả chân, và phải chật vật kiếm miếng hàng ngày. Đời sống trong xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả trong những sáng tác của tôi. Ý nghĩ tự nhiên của tôi bấy giờ là viết văn tả thực, văn xã hội.

    Tôi viết đủ thứ, viết được cái gì, tôi đều gửi báo. Tôi luôn gửi báo để thử sức và "xem thế nào". Báo ở Hà Nội hay Sài Gòn, báo nào tôi biết, tôi gửi tất: Nước Non, Cậu ấm, Mới, Đông Pháp, Việt Báo, Hạnh Phúc, Tiểu thuyết thứ năm, Ngày Nay, Tiểu thuyết thứ bảy... Tôi vẫn ký tên như tên tôi bây giờ. Mãi chẳng được bài nào đăng. Tôi cũng không nản.

    Vì thật sự khi nào đọc lại bài tôi cũng tự thấy còn xoàng thế nào ấy. Tôi vẫn viết, tôi chịu khó viết. Dần dần, đôi khi, cũng có báo đăng bài thơ, cái truyện ngắn, truyện vui cười, tranh khôi hài tôi vẽ.

    Hồi tôi mới mất việc ở nhà giầy Bata, có bạn quen là Bản trên Yên Thái bán hàng cho hãng Đainan Kôsi của Nhật ở Hàng Bồ mách tôi hãng ấy mở đồn điền trên Bắc Giang, đương cần chân thư ký công nhật. Tôi làm đơn nhờ bạn chạy hộ. Nhưng đi lại mấy lần vẫn chỉ thấy nó hẹn.

    Thế là tôi lại qua một thời kỳ thất nghiệp mới. Châu Âu, châu Á, chiến tranh thế giới cứ dần dần khói lửa mù mịt bốn bên xung quanh. Xứ Đông Dương co lại như con tôm khô, chẳng đào đâu ra việc làm, làng xóm tôi ngày một rạc rày khốn khổ hơn.

    Ngôi nhà hương hỏa, đáng lẽ ông bà ngoại tôi không được quyền bán, thế mà cũng đem cầm bán rồi.

    Ông trưởng Hải buôn lụa mua cái nhà ấy theo lối "cầm đoạn mại”. Nghĩa là số tiền người ta bỏ ra mua không nhiều, cái nhà đáng bạc nghìn chỉ cầm có một trăm bạc, người mua để ngỏ cho mình có cơ chuộc lại. Nhưng người bán cứ cùng túng mãi đi, lãi mẹ đẻ lãi con cộng vào gốc, thì chỉ trăm bạc ấy rồi cũng có thể dễ mất cái nhà giá bạc nghìn.

    Lúc ông ngoại tôi ấn ngón tay điểm chỉ vào cái văn tự đoạn mại, ông trưởng Hải cũng chỉ còn đưa thêm có hai chục bạc. Vì nhà tôi đã vay mượn tiêu trước rồi. Thế mà cũng phải biện đồng bạc cho ông lý Sùng đến áp triện chứng nhận, kèm theo bữa nhắm sơ sài mấy bánh đậu phụ, miếng thịt lợn luộc, tôi chạy lên chợ sớm mua vội về. Ôi cái xó rượu ông ngoại tôi ngồi, uống tiếp ông lý trưởng có ơn đến áp triện cho bán nhà, bao nhiêu năm nay tôi vẫn còn nhớ, vào một buổi sáng trắng nhợt, cả nhà tôi im phắc hay tránh đi đâu, không biết, nặng nề như nhà có đám.

    Còn ở nhà ngày nào chỉ ăn bám ngày ấy, thật khổ nhục. Công việc vẫn đành là không tìm đâu ra, cũng phải kiếm cách tháo thân đi.

    Tôi nảy ra sáng kiến đọc sách đạo Phật. Ngày ấy, tôi không hiểu. Nhưng bây giờ tôi biết đấy chỉ là lối kiếm sống mà thôi. Có thể vì tôi ảnh hưởng của Hồ. Biệt hiệu của Song Hồ là Hương Hát Tiên ông (ông tiên chùa Hương sông Hát), Hồ hay rủ tôi đi vãng cảnh chùa (cũng như đã đi chơi các nhà mõ quê gốc ở Đốc Tín).

    Đọc sách Phật rồi, tôi có sáng kiến bàn với các bạn là chúng ta sẽ đi du lịch Trung Nam Bắc bằng cách đi truyền chùa này qua chùa kia, đến đâu thuyết nhà chùa thết ăn một vài bữa rồi lại đi. Cửa Phật, ai ăn mày chẳng được. Khắp nước ta, làng nào cũng có chùa, vậy chúng ta có thể đi bất cứ đâu.

    Tôi đến mấy chùa vùng tôi tìm thêm sách Phật. Gặp cái ngạc nhiên đầu tiên là nhiều nhà sư không biết chữ nho, không biết quốc ngữ, không biết kinh kệ hay sự tích phật pháp ra sao. Chẳng qua người ta đi tu vì cảnh nhà, vì đói khổ...

    Tôi đến xin sách kinh của hai cái chùa to nhất Hà Nội.

    Chùa Quán Sứ và chùa Bà Đá. Tôi lại gặp cái ngạc nhiên nữa. Nhà chùa cũng cánh vế và có quan thầy. Chùa Quán Sứ của quan Thiếu Hà Đông có chùa Hương giàu sụ và nhiều chùa to ở các tỉnh. Chùa Bà Đá của phái tuần phủ Nguyễn Năng Quốc - một ông quan giàu có vợ lai tây lại cứ nhận mình là sư. Cánh này có chùa Trầm và mấy chùa xung quanh lép vế hơn cánh Quán Sứ.

    Dù sao, cũng quyết lên đường. Chí giang hồ thúc giục hay sự cùng khổ xui đi, đằng nào cũng thế.

    Cùng đi với tôi, có Điều và Tề - hai anh thợ cửi người làng vừa mất việc dệt cửi ở Vạn Phúc. Hai cậu cũng lây cái bệnh phiêu lưu ngông cuồng của tôi. Không đứa nào có đồng xu dính túi. Chúng tôi cũng không lấy đấy làm cái để tâm, chỉ có Điều biết lo hơn. Điều giắt theo trong người con dao cạo chuôi gỗ. “Đến chỗ nào khó kiếm, ta vào trong xóm cạo đầu cho trẻ cũng có thể được miếng” - Điều nghĩ thế.

    Ngày lên đường đi vào núi chùa Trầm của chúng tôi bắt đầu một buổi sáng tại cầu Am đầu làng Vạn Phúc. Nhiều bạn thợ dệt trong hội Ái hữu dạo trước ra tiễn chúng tôi. Như là một cuộc đua xe đạp bắt đầu.

    Từ Vạn Phúc, qua La Tinh và mấy cánh đồng vào đến xóm Phượng. Chúng tôi hỏi thăm đường đi chùa Hỏa Tinh.

    Đến gần chợ Trúc thì tối. Nhưng chùa Hoả Tinh không có sư, chỉ có ông tự. Ông tự chùa Hoả Tinh lại điếc. Không cách nào giảng giải được, tôi quát rõ to vào tai ông tự và ra hiệu:

    - Nhà chùa thổi cơm cho chúng tôi?

    Ông tự đã nghe ra, xuống bếp nấu cho niêu cơm không.

    Mỗi đứa chỉ được một bát. Đêm ấy, chúng tôi ngủ trên chùa.

    Ông tự thương người nhỡ độ đường, đem cho chiếc chiếu ba thằng đắp. Gần sáng, chúng tôi trỗi dậy, máy nhau đi. Sợ ông tự dậy đòi tiền cơm.

    Nửa buổi trên đường vào Trầm, đến một ngôi chùa trên dãy đồi thấp. Chùa này toàn sư nữ. Tôi được các bạn đẩy ra làm tay ăn nói. Tôi cũng nói như tối qua, nhưng thưa gửi dịu dàng cẩn thận:

    - Nam mô a di đà Phật, nhà chùa cho chúng tôi ăn mày một bữa.

    Sư bà nhớn nhác nhìn ra. Có lẽ tưởng bọn cướp ngày ập đến. Rồi sư bà nói rì rầm như khấn:

    - Nam mô a di đà Phật, nhà chùa chúng tôi đây quanh năm phải đi khuyên giáo thập phương. Khách ít lắm, vô duyên lắm, mấy hôm nay cũng đương chạy bữa, chư vị ạ.

    Nghe câu nói thiểu não và thấy cung cách nhà sư cù rù như bà già trong làng suốt đời chưa ra khỏi cổng xóm, tôi nghĩ có cất công thuyết phục cũng bằng thừa. Thế là chúng tôi lủi thủi ra.

    Ở chùa này đi, giữa ba chúng tôi xảy chuyện hục hặc với nhau. Không biết tại câu chuyện quá đà hay tại nửa buổi chưa biết trông bữa vào đâu, bụng lép mà sinh cáu gắt. Đầu tiên, chúng tôi cãi cọ về chuyện đệ tam, đệ tứ. Khi tranh luận, Điều hay hung hăng và đuối lý thì gây sự. Nó khăng khăng “đệ tứ ra đời sau đệ tam thì đệ tứ là mới hơn. Không đúng thì việc gì người ta phải nghĩ ra đệ tứ. Đệ tam quốc tế cũ rồi”.

    Rồi nó kể tội tôi:

    - Mày là con nhà tiểu chủ mày theo đệ tam. Tao là thợ, cả đời chỉ có cái thoi dệt giắt đít, tao theo đệ tứ. Tiểu chủ không bao giờ tranh đấu đến đầu đến đũa. Hồi chống thuế, không có chúng tao thày dùi thì mày cũng bỏ rồi. Tao là thằng thợ dệt, tao phải tranh đấu với đứa có khung cửi. Giai cấp công nhân sẽ đánh đổ hết những đứa có khung cửi. Con nhà tiểu chủ là chúa nước đôi. Mày đấy?

    Thế rồi, gầm ghè rồi, đấm đá nhau. Thằng Tề bênh tôi. Nhưng hai đứa tôi yếu hơn Điều và đến lúc nó lấy con dao cạo ra, chúng tôi chạy.

    Rồi cũng quên ngay trận thụi nhau, một lúc, lại đi với nhau. Bởi vì nhiều lần to tiếng rồi vẫn đi như thường. Nhưng rồi cũng chỉ đi với nhau được vài hôm. Xem chừng khó bởi vì những ba miệng ăn. Ừ muốn về thì chúng mày cứ về đi. Vả chăng, tôi cũng đã nhận ra nếu cả ba thằng dẫn rượu đi chắc không tài nào kiếm ăn nổi. Đấy là lý do chính khiến tan cuộc hào hứng du lịch xuyên Bắc, Trung, Nam chưa được vài ngày.

    Một mình tôi đi. Tôi nhịn đói vào chùa Trầm.

    Sư ông chùa Trầm mặc áo lụa nâu, người vạm vỡ, nước da bánh mật, khỏe như tay lực điền, có đôi mắt khoằm khoằm cú vọ. Chẳng ra vẻ sư mô gì.

    Sư ông thạo tình hình, thời thế, biết cả chuyện sáng sớm lính Nhật quay mặt về phía đông chào mặt trời và Thiên Hoàng. Sư ông cũng sõi giá gạo, giá ngô chợ Trúc, chợ Đơ. Sư ông chửi cánh chùa Quán Sứ, kể các khoé bịp của các sư chùa Hương.

    Mới đến đầu xóm, tôi đã nghe người ở đầu ghế hàng nước bép xép rằng xóm này đến lắm trẻ con giống mặt sư ông. Lạ một cái là những đứa trẻ nào giống sư ông, sư ông đều gọi nó lên chùa cho làm tiểu, bắt chăn trâu cắt cỏ, hầu hạ nhà chùa, như con cháu trong nhà vậy.

    Vừa gặp, sư ông đã nói:

    - Nhà chùa tôi không cần che mắt thế gian. Bá ngọ những thằng chùa Hương núp đít Phật? Chúng nó bịp đời. Toàn thằng ngô con đĩ đem đổ vàng đổ bạc cho thằng ngô con đĩ.

    Dường như nhớ cách lúc tôi còn đứng bán giầy Bata ở Hàng Đào, Hàng Khay, tôi tán tầm phào:

    - Bạch sư ông, cái nhẽ đời thì hữu sự tự nhiên hương, nhưng lắm lúc cũng phải quảng cáo một ít cho người ta biết, không nên nhún mình quá trong thời buổi này. Cái người viết quyển Trỏ nẻo chùa Hương là thằng bạn tôi đấy.

    Sư ông sừng sộ lên:

    - Quyển ấy thì ra cái chó gì! Đây tôi mà quảng cáo khuếch trương ấy à, cứ đếm đầu chùa của tôi cũng bằng mấy chúng nó. Từ chùa Hỏa Tinh vào đây, rồi qua Vô Vi Trăm Gian, So, Sở sang chùa Thày... ối? Gấp đôi! Gấp ba!

    Nhưng chửi "bọn chùa Hương chúng nó" xong, sư ông lại dịu mặt, nhìn tôi:

    - "Sừ" cũng làm cho tôi một quyển nhé. Chùa Bà Đá chúng tôi ở ngoài Hà Nội có nhà máy in.

    Sư ông ngỡ tôi là tay học trò tìm nơi tĩnh để nghỉ hè học thi. Nhà chùa có thổi cơm chứa trọ. Chỗ hai bên nhà khách, cạnh chùa hang, đã đóng lên những tầng gác gỗ ngăn trên dưới thành từng cái buồng nho nhỏ. Nhà chùa vẫn cho người tỉnh về thuê ở chơi, hoặc học trò làm chỗ ôn thi, hoặc những người thừa lương yêu am thanh cảnh vắng muốn trốn nợ đời vài ba hôm.

    Người ngoài xóm cũng đồn sư ông kiếm bẫm về những ngăn buồng ấy. Cả trai gái đi chơi chùa thuê chiếu, thuê chỗ ở từng buổi, từng ngày, cẩm như nhà "xăm” chứa gái ngoài tỉnh.

    Trưa ấy, tôi nhịn vì không tiện bảo nhà chùa cho ăn. Sư ông mời, tôi nói khoác đã ăn sáng ngoài chợ Trúc. Đói một tí, nhưng giữ được thế, và đến chiều, vào bữa có thể thoải mái.

    Quả nhiên, cơm chiều có thịt trâu, cả rượu.

    Sư ông và tôi ngồi đối ẩm gật gù. Một chú tiểu đứng hầu rượu. Cái cằm lẹm giống bố đáo để. Sư ông cắt nghĩa việc đi tu ăn thịt uống rượu của sư ông.

    - Cái tượng trên chùa chẳng qua bằng gỗ bằng đất chứ bằng gì? Tu là tu tại tâm, tâm chính thì đạo thành...

    Những điều sư ông trần tình khiến tôi hiểu rõ hơn được câu chuyện người ta xì xào làng này nhiều trẻ con giống sư ông.

    Cho tới năm 1958, ngót hai mươi năm sau, tôi theo đoàn làm phim Vợ chồng A Phủ vào chùa Trầm quay một số thước ngoại cảnh. Bao nhiêu năm rồi, sư ông có già đi nhưng vẫn lực lưỡng quắc thước thế. Nhưng không còn nhớ tôi. Hay không muốn nói là có nhớ. Ít lâu sau nghe tin cụ sư phải đi tù.

    Tôi ở lại chùa Trầm có đến tuần lễ. Buộc vào câu sư ông đã mời tôi viết sách quảng cáo chùa. Tôi dựa đấy mà ở. Mỗi buổi chiều, ngồi nhắm rượu và "đàm đạo” miên man. Nhưng không phải chỉ có chuyện chùa chiền. Lung tung, chuyện nhà quê kẻ chợ, đủ cả. Vốn vài ba câu sách Phật của tôi chưa phải mở ra. Xem chừng sư ông cũng không thích chuyện phật pháp mấy.

    Có hôm tôi đi biệt cả ngày. Tôi phân vân chưa biết viết thế nào. Ngồi trên đồi So trông xuống mà lo. Nhưng rồi tôi cũng viết xong. Tôi đưa sư ông mấy trang viết bút chì, đầu đề là Qua dòng sông Hát. Đấy là sự tích các chùa dọc theo bờ sông Hát mà sư ông đã kể. Tôi thêm mấy đoạn tả phong cảnh, mỗi chỗ chêm mươi câu thơ lục bát.

    Thế là xong. Có thể kể đấy cũng như truyện kiếm hiệp Tráng sĩ rừng Thông, những sáng tác câu cơm đầu tay cầu may của tôi. Tôi không còn cớ gì ở lại. Sư ông cũng bảo sư ông sắp có việc ra chùa Bà Đá. Sư ông đã nói giáo từ hôm kia hôm qua. Có thể nhà chùa đuổi khéo tôi.

    Tôi cũng tỏ vẻ cứng. Tôi thiết gì ở đây? Tôi kể tôi còn vãng vài cảnh chùa nữa. Tôi nói:

    - Nhờ sư ông giới thiệu tôi vào chùa Vô Vi.

    Sư ông cười khanh khách, khoái chí:

    - Chùa Vô Vi cũng một tay mỗ đèn nhang, đấy không có sư.

    - Thế thì chùa Trăm Gian.

    Sư ông trừng mắt:

    - "Sừ" vào Trăm Gian cứ vào, chứ "sừ" nói ở Trầm vào thì các bà lão trong ấy ghét đấy. Mấy con mẹ trốn chúa lộn chồng, tôi khinh lắm.

    Tôi vào chùa Trăm Gian.

    Tôi tiếp tục cuộc phiêu lưu của tôi. Tuy nhiên cũng phấp phỏng vì lời sư ông doạ.

    Chuyến lang thang này thực tên là đi ăn mày nhà chùa. Nhưng cũng để lại cho tôi những kỷ niệm mà thời gian dù mài tròn đi thế nào, vẫn còn nhớ.

    Nơi tưởng đáng lo thì lại đáng nhớ. Chùa Trăm Gian, một ngôi chùa cổ trên đồi, thấp thoáng trong những bóng cây thông già. Đôi lúc, gió thổi qua, làn thông lại thở dài.

    Cô tiểu nữ quảy nước ngoài giếng, bước ra cổng tán nhà hậu, đi thanh thản. Dưới cái khăn vuông nâu, đôi mắt to và trong. Cái nhìn quyến luyến như ngừng lại.

    Mỗi khi chiều xuống toả lưa thưa trong cành thông lại nghe tiếng chuông thu không. Nện một vồ rồi cô tiểu buông thõng tay, đứng nhìn thành chuông, niệm rì rào. Rồi chuông dồn những tiếng cuối, hoà tiếng tụng kinh, bóng người và bóng chuông. Tưởng như lúc ấy, người con gái đi tu kia, buồn quá chỉ còn dập đầu chết bên chuông hay là chợt tỉnh, dương xăm xăm xuống bậc tháp, theo tiếng chuông hoàng hôn đưa nỗi vui buồn đến trên mỗi mái nhà trong đồi. Cô tiểu bỏ chùa xuống với cuộc đời hay xuống với tôi chăng. Nhưng cũng chỉ có đôi mắt thế thôi.

    Buổi tối, dưới nhà hậu, vang tiếng giã gạo thình thịch. Tôi nhòm trộm khe cánh cửa, thấy in bóng lên vách, hai cô tiểu đứng cối, cái đầu trọc trắng hếu nhấp nhô bên chiếc quang đèn dầu.

    Tôi phải ngủ biệt tịch trên chùa chính, đắp chiếu nằm trong ruột bệ ông hộ pháp Thiện. Hôm đầu còn ẩm mùi đất mốc, sau chỗ nằm quen, có hơi người ấm như cái ổ.

    Đêm tháng mười, trời rét buốt sắc như thuỷ tinh. Thế mà vẫn thoảng đâu đưa đến mùi hoa sói cúc vạn thọ, mùi hương.

    Không biết mùi thơm bốc ra từ các bát nhang trên kia hay từ ngoài ánh trăng vào..

    Có đêm thức dậy, trăng trong ngần qua cửa ngăn, lô nhô những đầu tượng, tôi có cảm tưởng chùa đông người hẳn lên.

    Nhưng lại chợt lạnh ngắt. Tại trăng sáng, tại tiếng chày giã gạo của các cô sư nữ hay tại chiều nào tôi cũng đứng đón nhìn cô tiểu ra gánh nước rồi lại tương tư vụng cô tiểu lúc thỉnh chuông mà bâng khuâng không ngủ được.

    Tôi đến chùa như khách vãng cảnh. Sư bà cũng ngỡ tôi là cậu học trò ngoài tỉnh. Sư bà gọi tôi bằng "cậu". Sư bà kể chuyện ngày trước còn ở nhà, sư bà cũng có cậu em trạc tuổi tôi nho nhã dáng học trò như tôi, "cậu cháu vừa đỗ giáo học”.

    Một hôm khác, sư bà thở dài:

    - Năm mô a di đà Phật, rồi có người nó hãm hại, vu cho cậu cháu đi “hội kín”. Phải tòa áo đỏ bắt đi đày Côn Lôn. Đã mười năm rồi, chẳng biết có còn sống không.

    Rồi sư bà "nam mô phật" liên tiếp, tiếng thở dài chìm xuống.

    Tôi hiểu được nỗi sư bà mến tôi, để tôi quanh quẩn ở chùa như người nhà. Ấy chỉ vì sư bà nhớ thương người thân.

    Suốt ngày tôi đi vơ vẩn ngoài đồng, trên đồi, chiều về, nhà chùa bưng lên cái mâm gỗ cơm gạo đỏ, muối vừng, đậu rán dầu lạc chấm tương và bát canh dưa nấu lạc. Ngày rằm được ăn oản chuối. Cứ hai buổi chiều ngày đầu tháng giữa tháng nhà chùa phải thắp hương, thật khó nhọc. Chiều mười tư tôi cũng xuống nhà hậu lấy hương đi cắm. Chùa Trăm Gian có đến mấy trăm bát hương phải cắm. Mỗi cửa một bát một nén, một trăm gian khuất dọc hai bên hành lang, trên chùa chính, dưới nhà tổ, chỗ thờ hậu, các tháp ngoài vườn. Các cô tiểu phải rảo bước cắm hương mới kịp lên thỉnh chuông chiều.

    Ở chùa hồi này chỉ còn có sư bà với hai cô tiểu - sư bác và một tiểu đi khuyên giáo xa. Mỗi chuyến quang gánh đi thiên hạ xin ăn cũng biền biệt hàng tháng. Suốt ngày, sư bà và hai cô tiểu đi làm đồng, chiều về chưa vào bữa đã phải chạy lên đèn hương rồi vào tụng kinh, ra thỉnh chuông dai dẳng hàng giờ.

    Ở chùa Trăm Gian, tuy được ăn uống no đủ, nhưng tôi cũng định khi nào sư bà không cho ở nữa thì tôi trở về Vạn Phúc. Không thể đi tiếp được nữa. Điều ngạc nhiên, tôi nhận ra sau cùng là không phải dễ chỗ nào cũng có chùa Trầm hay chùa Trăm Gian cho ta ăn. Kiếm ăn các chùa nào có dễ?

    Thằng Điều ở Vạn Phúc lại trở lại cuộc đi với tôi và chúng tôi cùng nấn ná ở Trăm Gian. Nếu không có một việc bất ngờ xảy ra, chắc còn lần khân ở đấy.

    Một hôm, lý trưởng, phó lý trong làng đem tuần ra hỏi nhà chùa xem có khách vãng lai đến ở không. Chúng tôi đưa thẻ thân cho bọn chức dịch.

    Phó lý hất tay không xem thẻ, hạch:

    - Các quan nhà binh sắp về "ma nớp" tập trận, người lạ mặt phải đi ngay bây giờ?

    Nhưng lý trưởng tỏ ra kỹ lưỡng công việc hơn phó lý, lão xem thẻ thân rồi vặn:

    - Chúng mày quê ở ngoài phủ loài vào đây làm gì? Ma cà bông ma cà cúi hả?

    - Chúng tôi đi chơi.

    Thế là ma cà bông rồi. Đem ra điếm, trói lại giải lên huyện.

    Chúng tôi phải ra điếm thôn Tiên Lữ. Nhưng trai tuần không trói. Chúng tôi chỉ phải ngồi chịu rét, làm mồi cho muỗi đói suốt đêm. Hôm sau, bị giải lên huyện Chương Mỹ.

    Từ Tiên Lữ ra, đã thấy lố nhố từng tốp lính khố đỏ, lính da đen đi cùng đàn lừa và la kéo những khẩu đại bác xủng xoảng vào con đường đồi gồ ghề đất bùn như pha son. A, lính đi tập trận. Sau những cái tường đá ong nhợt nhạt, người làng đứng lặng lẽ nhìn ra. Đi với mỗi đám lính, có một ả me Tây, gánh hai thùng nặng chĩu bánh mì xúc xích, giăm bông, các thứ kẹo, chuối trứng và bia, rượu. Mỗi me lại mướn hai ba người gánh theo các đồ ăn uống như thế. Có me thuê hẳn một xe tay lùn "Ô mích" cái mặt bự phấn và cặp môi đỏ chót cao vắt vẻo ngồi trên mui. Đó là những me Tây được nhà binh cho thầu bán thức ăn uống cho các quan làm "ma nớp" đánh trận giả.

    Những cảnh xe thức ăn uống và lính tráng đủng đỉnh như thế, tôi đã quen mắt từ hơn mười năm trước, khi còn học trường Yên Phụ. Buổi sáng, tôi thường đứng xem lính trong thành ra tập thổi kèn "bú dích" và tập trận giả ở đường Cổ Ngư bên Hồ Tây. Cạnh mỗi đám lính bao giờ cũng phấp phới xanh đỏ mấy me Tây quang gánh và xe cộ bán bánh, bia rượu... Đấy gần trại, có lần lính khuân cả bàn ghế ra bãi bày các thứ ăn uống. Các quan Tây mề đay óng ánh, lon vàng choé, uống rượu đỏ lự mặt, ngồi quát tháo và ra quất roi, đá đít đám lính tập trận trên bờ hồ.

    Nước Pháp đã thua trận bên châu Âu. Toàn quyền Đờ cu đã mở cửa Đông Dương rước Nhật vào. Nước cờ đương đổi, thế mà cảnh tập trận của lính Tây vẫn ngềnh ngàng bấy nhiêu súng ống, vẫn các me quẩy thức ăn uống đi theo. Chẳng khác ngày trước.

    Anh tuần đinh nói:

    - Nhân thể tớ ra chợ Đơ, chứ hơi đâu giải người lên huyện!

    Chúng tôi đi với anh ta như người trong làng ra tỉnh.

    Đến thị xã Hà Đông, anh bảo:

    - Bây giờ các đằng ấy đi đâu thì đi!

    Thì ra phó lý thôn Tiên Lữ và lý trưởng khác cánh nhau, đâm phiền người ta. Thế cũng là thật tan cuộc du lịch phiêu lưu. Tôi trở về Nghĩa Đô.

    Mùa nước to, trai tráng dương bị các trương phiên, khán thủ đốc đi hộ đê sông Cái. Làng tôi canh điếm nước trên địa phận Tú Tổng. Tôi có bằng “xécvica”(7) nhưng vì chưa sửa được cái lễ mâm xôi con gà vào hộ tư văn – có chân tư văn được mỗi năm hai lần ra văn chỉ chia phần dự lễ đức Khổng Tử. Vẫn bạch đinh, cho nên phải chịu phu phen tạp dịch và tuần phiên cắt lượt đi đê như trai làng chân trắng.

    Cảnh canh đê, trống giục trống dồn, năm nào cũng thế.

    Chánh tổng cưỡi ngựa dong nhan trên đê cao. Lý trưởng xách batoong bước lừ lừ, đến điếm là giơ gậy lên hét.

    Buổi tối, cái đèn ba dây chong giữa điếm. Các cụ chức việc mò ra đánh tổ tôm. Đã cho phu canh gác, thấy quan phủ Hoài hay Tây lục lộ Hà Nội về khám thì tang vật tổ tôm hay tài bàn, xóc đĩa đều biến mất. Trong điếm chỉ có khay nước để các cụ thức nhắp canh đê. Ở bãi cỏ sườn đê, phu các làng ngủ lăn lóc.

    Các xóm dưới bãi chạy nước lên, người lớn và gà lợn, trẻ con rúc ráy bên vệ vỏ. Ngày nào cũng có người chết đuối.

    Nước lớn, củi rều trôi về nhiều. Những người tiếc của trời đã chạy nước lên lại nhào xuống bãi, bơi ra vớt củi, có người bị cuốn đi.

    Sông Hồng chướng đỏ như pha máu, cuồn cuộn giữa hai bên làng mạc đợi tai vạ đến. Trống ngũ liên, tù và nổi sùng sục giữa đêm, rợn gáy.

    Tôi viết cái truyện ngắn Nước lên, hôm đi hộ đê ở Tứ Tổng về. Tôi tả quang cảnh bi thảm của một năm sông Hồng nước lớn. Truyện ngắn này tôi gửi tuần báo Hà Nội Tân Văn.

    Về sau, chị Hằng Phương kể cho biết truyện tôi viết vào giấy lèm nhèm, chữ tôi lại gẫy nét, khó xem. Chị tình cờ lấy trong đám truyện loại lên đọc và thấy đáng chú ý. Đấy là truyện ngắn đầu tiên của tôi in trên báo được trả tiền nhuận bút. Hồi ấy, không phải cứ có bài đăng báo thì toà báo trả tiền người viết như thể lệ bây giờ. Toà báo chỉ trả tiền người nào được mời, còn như mình gửi bài "lai cảo" thì người ta đăng đến bao nhiêu bài cũng thế thôi. Bởi vì đấy là anh gửi cho báo chứ người ta có mời anh viết đâu! Bởi vậy, đồng tiền báo Hà Nội Tân văn "mở hàng" cho tôi vào nghề và những quyển tiểu thuyết Đỏ và đen của Stăngđan, tiểu thuyết của Panai Istrati mà anh Vũ Ngọc Phan khuyên tôi đọc, đó là cái duyên quyến tôi vào nghề văn.

    Tôi không thể so sánh và tưởng tượng ra giá một bài báo với công sá những công việc đã làm bấy lâu để kiếm sống.

    Hãng giày Bata mỗi tháng trả lương tôi sáu đồng. Bấy giờ, một cái truyện ngắn tôi được mười đồng, lại có băng quấn quanh tờ giấy bạc, ngoài để tên ông... Ôi, lịch sự? Mà một tháng, tôi có thể viết mấy cái truyện ngắn! Điếc không sợ súng, tôi cứ lia tràn. Tôi khoắng một đêm xong cái truyện ngắn, là thường Tôi vào nghề văn từ truyện ngắn Nước lên - nếu có thể nói truyện đăng được trả tiền, là vào nghề. Rồi tôi gửi liên tiếp cho báo Hà Nội Tân văn những truyện ngắn Bụi ô tô, Một đêm sáng trăng suông, Bệnh già, những truyện thiếu nhi, Trê và Cóc, ông Trạng Chuối và một cái kịch loài vật. Tôi thành cộng tác viên của báo được trả tiền bài. Nhưng mỗi lần đến toà báo, tôi vẫn phải vòng quanh phố Hàng Buồm không biết bao nhiêu lần mới mạnh bạo bước vào cửa nhà in Trung Bắc, nơi hàng ngày anh Vũ Ngọc Phan đến làm việc tòa soạn.

    Cũng hồi này, tôi gửi cho Tự Lực văn đoàn truyện ngắn Con gà ri. Truyện ngắn này đầu tiên tên là Mê gái đăng số 1 tuần báo Chủ Nhật của văn đoàn ấy.

    Một hôm, Đinh Hùng và Huyền Kiêu dẫn tôi đến làm quen với toà báo Chủ Nhật và nhà xuất bản Đời Nay.

    Khái Hưng reo ầm lên, gọi hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, nhà văn Thạch Lam và nhiều người xung quanh đến:

    - Tôi đã bảo mà? Tác giả truyện ngắn này còn rất trẻ! Rất trẻ!

    Tôi cảm động run cả tay, khi bắt tay mọi người. Nhưng ông Khái Hưng chỉ khen tôi mà không trả tôi đồng nào, cũng chẳng cho tôi một tờ báo biếu? Vẫn cái lệ toà báo chỉ trả tiền và biếu báo người được mời viết.

    Tôi đến với nghề văn đại khái như vậy. Tôi không có cảm tưởng nào mới lạ hơn khi tôi nghĩ lại những nghề bán giày làm kế toán, đánh máy chữ, coi kho hay dạy trẻ học và những khi thất nghiệp với những mong ước của một người lương thiện muốn có một công việc làm.

    Tôi bắt đầu làm quen với nhiều người trong nghề mới của tôi Nhưng không dễ quen được đâu. Cánh Tự Lực văn đoàn thì ăn mảnh. Vài người tìm cách chơi với họ "thấy người sang bắt quàng làm họ", ra vẻ hí hửng. Những ông kiểu như ông Lưu Thần thuộc đám trác táng cao đạo, cũng không để mắt đến tôi.

    Bọn lau nhau chúng tôi thì khá đông, có anh đã viết, có anh chưa viết và những anh không biết viết chuyên điếu đóm chạy hiệu để các đàn anh sai bảo. Mỗi đứa - có một biệt hiệu lố lăng: Cát Noát, Zannine Lệ Thuỷ, hoặc tên bố mẹ đặt cho lại đem lộn ngược lên cho lạ kiểu, như Thái Kim Điên, Thái Đình Gia (Đinh Gia Thái). Tôi ở trong đám đó.

    Nghe anh em nói uống một chén nước mắm rồi uống rượu, không bao giờ say. Tôi cũng uống hẳn một chén nước mắm. Nhưng chỉ nhấp một ngụm rượu đã say đừ ra như mọi khi. Có khi đi đánh nhau lối đòn hội chợ nữa. Hồi ấy, làng văn hay đánh nhau lắm. Thiết Can viết một bài trên báo Hà Nội Tân văn chê Nguyễn Doãn Vượng. Vượng đón Thiết Can đánh Thiết Can ngay trước cửa nhà in Trung Bắc giữa phố Hàng Buồm, Nguyễn Bính đương in truyện ký Ngậm miệng trên báo Tiểu thuyết thứ năm. Thượng Sĩ viết phê bình, đọc sách cho báo Tin Mới, nhắn Nguyễn Bính: không nộp tiền "mãi lộ" sẽ phết cho một bài chửi. Nguyễn Bính nhắn lại: chửi thì đánh. Rồi đánh thật. Tôi cũng hung hăng trong đám đánh hôi ấy.

    Những cái vỡ lòng trong nghề văn cũng là những bông lông la đà của đám này.

    Tôi quen Đinh Hùng và Huyền Kiêu ở nhà xuất bản Tân Việt. Kim Hà dắt tôi đến nhà xuất bản ấy ở phố Hàng Cót.

    Nhà xuất bản ở trong Sài Gòn mới ra làm ăn ngoài này. Ông Lê Văn Văng chủ nhà xuất bản đương cắm cờ chiêu mộ đám trẻ. Nhà xuất bản đã ra quyển Đám ma tôi của Hoài Điệp (Đinh Hùng) và Những đêm sầu của linh hồn của Phiêu Linh (Nguyễn Đức Chính), hai ngòi bút mới nhoi ra trong đám trẻ.

    Chúng tôi xúm đến nhà xuất bản ấy, coi như nhà mình. Các bạn chữ tốt như Huyền Kiêu thì viết thơ của mình lên những tờ giấy hồng điều treo đầy tường. Các bạn hay chim gái như Đinh Hùng, Nguyễn Bính thì gạ gẫm ve vãn cô em gái chủ nhà xuất bản đương học trường đạo La Coócđe trên Quần Ngựa.

    Một hôm, trước cả bọn chúng tôi, ông Tân Việt cao hứng, tuyên bố.

    - Tôi sẽ cho hai anh này đi học đến đỗ “bắc"(8).

    Hai anh này là tôi và Kim Hà, Kim Hà còn dốt hơn tôi. Anh không hề được cắp sách đến trường. Hai chúng tôi vui sướng và vui lây cả đến Nam Cao - khi này, Nam Cao đương là ông giáo trường tư Công Thanh ở làng Thuỵ. Ba chúng tôi đã bao lần ngồi ghế đá vườn hoa Écke cạnh chùa Quán Thánh trông ra Hồ Tây ban đêm. Gió hồ cuối thu thổi vào rào rạt như nguồn cơn của lòng người. Ngỡ như ngọn gió đương thổi cái tương lai tốt đẹp đến cho mình.

    Tôi biết Kim Hà từ hồi "Bình dân". Anh chính trị phạm Giang Đức Cường thợ ảnh báo Tin Tức giới thiệu tôi với Kim Hà trong cuộc mít tinh ở nhà Đấu Xảo ngày 1 tháng 5 năm 1938. Anh Cường nói Kim Hà viết văn. Kim Hà hăng hái đi mít tinh trong đoàn thất nghiệp như tôi. Rồi quen Kim Hà tôi cũng không thấy anh viết văn. Suốt ngày, Kim Hà gò cổ gõ trang kim. Nhà anh có nghề làm vàng mã.

    Thế rồi, một hôm anh đưa cho tôi quyển tiểu thuyết anh viết dày đến ba bốn tập giấy kẻ. Truyện tên là Cái nhà gạch. Chữ to tướng. Bởi mắt anh toét lèm nhèm, lại toàn viết đêm.

    Cái nhà gạch là chuyện Kim Hà kể sự tích mẹ anh ký cóp, xoay xoả để làm nên cái nhà gạch hai gian mà anh đương ở đấy.

    Ít lâu sau, Kim Hà đến bảo tôi:

    - Cái nhà gạch của tao được giải thưởng Tự Lực văn đoàn.

    Kim Hà mở tờ tuần báo Ngày nay đăng tin giải thưởng văn chương hàng năm của Tự Lực văn đoàn cho tôi xem. Kim Hà được giải thưởng thật. Mà giải nhất. Đọc báo xong, tôi cũng chưa tin hẳn. Phải đến hôm Kim Hà đưa tôi ra nhà Mạnh Phú Tư là người có cuốn tiểu thuyết Làm lẽ cũng được giải thưởng. Mạnh Phú Tư giỏi tiếng Pháp, viết văn bằng đánh máy, ở trong cái ngõ gần Cửa Nam một mình một buồng, mặc áo ngủ láng đen lưng thêu con rồng vàng, thế mà chỉ được giải ba. Bấy giờ tôi mới thật tin, nhưng vẫn lạ lắm.

    Quyển Cái nhà gạch của Kim Hà viết sự thực, sự thực mạnh mẽ đến nỗi người đọc không thấy chữ nữa, chỉ gặp xù xì toàn cuộc sống. Nào Kim Hà gò trang kim. Nào Kim Hà bị mẹ chửi, phải nhịn đói. Nào Kim Hà đi chơi nhà thổ, mắc bệnh lậu, mẹ lại chửi thế nào... Cũng phải, Kim Hà làm gì có chữ. Kim Hà chỉ có đời thực của mình thôi.

    Kim Hà được lĩnh trăm bạc tiền thưởng. Trăm bạc Đông Dương hồi ấy còn to lắm. Khoái quá, một độ anh vứt cả đục trang kim vàng mã. Chơi bời thế nào mà lại mắc bệnh lậu lần nữa, người cứ ốm rê đi như cái tã.

    Tiểu thuyết Cái nhà gạch, nhà xuất bản Đời nay bảo để nhà văn Thạch Lam chữa rồi in. Nhưng cả mấy năm cũng chẳng thấy in. Anh đến đòi bản thảo mấy lần, không được.

    Anh không đến nữa. Nhưng anh cũng không bực mình mà lại có một bằng lòng giản dị. Cũng như công mình đục trang kim bán cho hàng mã, đã lấy được tiền rồi thì thôi. Anh viết quyển khác.

    Anh viết Tiếng còi nhà máy, Nhà xuất bản Tân Việt in.

    Tiếng còi nhà máy, anh ngồi ở nhà nghe còi tầm ở Nhà máy thuộc Da, nhà máy Bia ô Mền, nhà La Pho rồi anh tưởng tượng ra truyện. Cái tài tự nhiên của Kim Hà đã trút tất cả cho Cái nhà gạch, quyển này tuy được in nhưng không còn gì nữa. Chủ nhà xuất bản Tân Việt trả Kim Hà mỗi tháng mười đồng. Anh cũng lại bằng lòng. Anh ngỡ Tân Việt bắt đầu nuôi anh lương tháng để sắp cho anh đi học. Kim Hà bấy giờ đã ngoài ba mươi, mặt rỗ chằng chịt, bệnh hen nặng, người lử khử như con cò ruồi. Thế mà lúc nào cũng khoái đời. Ông Tân Việt chỉ trả tiền anh được bốn tháng. Còn tôi chỉ được một dòng quảng cáo sắp in truyện Đen trắng (chưa viết bao giờ) lên bìa một quyển sách của người khác, thì chẳng được xu nào.

    Toàn chuyện hão.

    Chuyện hão nữa là cô "em gái" ông chủ mà cái bạn ngấp nghé, lại chính là vợ lão. Ông ta bịa để câu đám trẻ.

    Chúng tôi được chiêu mộ đến cũng muộn, vào lúc nhà xuất bản vừa qua đận khó khăn ban đầu. Ông Lê Văn Văng này vác một túi bạc ở Mỹ Tho ra làm xuất bản. Nhiều bậc nhà văn đàn anh, các ông Lan Khai, Trương Tửu đã xúm đến trổ tài đào tiền lão, lão sắp khánh kiệt.

    Lão gần kiệt lực mới học được nghề, trước nhất là, biết cách đối xử với từng hạng người viết văn. Cái khó vào nghề đã qua, bây giờ, mánh khoé xuất bản đầu tiên lão trổ ra là lão cấm cửa mấy vị quân sư quạt mo nọ. Việc thứ hai, lão đánh tiếng gọi bọn mới viết lách và cũng còn ít tuổi đến, như chúng tôi, dụ dỗ làm công không. Cứ chiêng trống rùm beng rằng sắp có lớp nhà văn mới xuất hiện. Ông Trương Tửu viết bài phèng la "Tôi thắp hương cầu nguyện..." cho lớp trẻ ra đời. Một nhà xuất bản khác, nhà Tân Dân ra loại báo thiếu nhi dưới hình thức sách, tên là Truyền Bá. Báo Hà Nội Tân văn của anh Vũ Ngọc Phan sắp phải đóng cửa, vì người bỏ tiền ra in báo là Vũ Đình Dy thân Nhật đã trốn đi. Anh Vũ Ngọc Phan cũng chỉ là người làm công. Anh tìm việc mới cho tôi. Anh Vũ Ngọc Phan và anh Nguyễn Công Hoan mách tôi với nhà xuất bản Tân Dân. Ra loại sách "Truyền Bá" cho thiếu nhi, ông Tân Dân mời tôi viết thử cho nhà ông quyển Con dế mèn, sách bán được khách mua, ông Tân Dân đặt tôi viết tiếp. Tôi viết Dế mèn phiêu lưu ký dài gấp đôi quyển Con dế mèn - tất nhiên, tiền cũng được trả gấp đôi.

    Tôi cũng không nhớ kỹ được tại sao tôi lại viết truyện Con dế mèn. Có lẽ gợi ý khởi đầu là vì thuở nhỏ tôi giỏi chơi đúc dế ở bờ sông Tô Lịch.

    Thấy sách của tôi bán được, ông Tân Dân hợp đồng miệng với tôi là khi nào tôi trao bản thảo, ông trả tiền ngay.

    Mỗi quyển mỗi loại truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, bản thảo bán theo giá định sàn. Như vậy mỗi tháng tôi viết một truyện vừa cho trẻ em chừng năm mươi trang viết tay (nếu viết quá phải san làm hai quyển. Những "Dế mèn" của tôi hồi ấy chia làm ba quyển vì giá quy định như vậy, chứ không phải vì yêu cầu của cảm hứng. Ngoài ra, một tháng tôi đưa hai truyện ngắn và cứ ba tháng viết một truyện dài. Chao ôi, sao mà tôi viết khoẻ thế. Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước 1945 mà viết như chạy thi, được năm truyện dài, truyện vừa, ba tập truyện ngắn(9) còn truyện thiếu nhi như "Dế mèn" thì có đến cả chục truyện, cái in cái chưa in, vương vãi lung tung - bản thảo đã bán, rồi đảo chính Nhật, Pháp, rồi cách mạng, thành thử thất lạc cả, tôi cũng không nhớ hết.

    Cũng chẳng lạ, viết để kiếm miếng sống lúc ấy tất phải cuốc khoẻ thế vậy.

    Ông Tân Dân làm ăn nền nếp, giàu có, khác nhà ông Tân Việt, Tân Dân là nhà xuất bản lớn, có nhà in riêng, có biệt thự ở làng Thuỵ Khuê bên Hồ Tây, có ruộng ở quê nhà trong Mục Xá, Vân Đình huyện ứng Hoà.

    Ông có thói quen không tiếp và cùng một lúc trò chuyện công việc với hai người viết văn. Ông không bảo ai như thế, nhưng phàm người viết đã giao thiệp với ông đều biết rỉ tai nhau như thế.

    Giá bản thảo có lẽ ông mua của mỗi người mỗi khác mà chỉ hai người biết với nhau. Có những tác giả hạng nhất của nhà ông, như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương sách đương bán rất chạy. Có những người viết và làm ăn lương tháng như Trúc Khê, Ngọc Giao, có những người đưa bản thảo không lấy nhuận bút, được ông in đã là sướng. Có người đưa bản thảo kèm thêm tiền để ông in cho. Không ai biết ông đối dãi với mỗi ai thế nào. Cứ như truyện Trạng Quỳnh lừa người vào xem cái lạ trong buồng quây cót giữa ao, chỉ thấy một câu chửi đứa nào ra mà bảo đứa nào.

    Câu chuyện giữa ông và tôi đại khái như sau:

    - Chào ông.

    - Xin chào ông. Ông đem quyển gì mới cho tôi?

    - Thưa ông, tôi có cái truyện Truyền Bá năm mươi trang khổ to thế này.

    - Giấy nhường bản quyền đây, mời ông ký cho. Giá là năm mươi đồng.

    - Năm mươi đồng ạ?

    - Thưa vâng. Chúng tôi đương tính nếu tình hình có khó khăn nữa, sẽ tăng nhuận bút. Chiến tranh gay thật.

    Tờ giấy "Nhượng bản quyền tác giả" đã in sẵn, được đặt trước mặt tôi. Trong giấy có khoản: in lần thứ hai thì bản quyền trở lại tác giả (nhưng in lần thứ nhất bao nhiêu, lần thứ hai bao giờ, chẳng điều nào ghi cho tác giả biết hoặc nói rõ phải có chứng kiến của tác giả. Mà giấy nhường bản quyền cũng chỉ có mỗi một tờ ông chủ xuất bản giữ).

    Với tôi thì ông có in lại đến mấy lần cũng được hay chẳng có tờ nhượng bản quyền kia cũng không sao. Vì ông đã trả tiền tôi. Tôi viết cả chữ và con số 50 vào tờ giấy nhường bản quyền rồi ký tên. Trong khi ấy, ông nhón ngón tay đếm lại mười tờ “con công”. Rồi hai tay ông nâng tập giấy bạc tãi xoè ra, ông nói:

    - Cám ơn ông.

    Xong hẳn những việc đó, ông xoa tay, hoan hỉ hỏi:

    - Hồi này ông có định đi du lịch đâu xa không?

    - Thưa ông, tôi sắp vào Huế.

    Ông trợn mắt, nói nhỏ:

    - Ấy đi Huế thì ông phải cẩn thận ông còn ít tuổi, tôi xin nói thật. Ở Huế nhiều bệnh hoa liễu lắm. Ông nào rủ ông chơi sông Hương mà có gọi gái đến ngủ đêm, ông cứ cho nó ăn cháo gà. Đứa nào mà không dám ăn cháo gà thì ông biết ngay là nó tim la, nhẹ cũng là bệnh lậu. Cái giống thịt gà cá chép là kỵ các bệnh phong tình. Ông còn ít tuổi, tôi xin nói thật.

    Tuy câu chuyện làm quà, nhưng tôi ngẫm nghĩ ông đã nói thật và tôi lấy làm cảm kích. Bởi vì chưa chắc tôi đã bằng tuổi cô Nga con gái đầu của ông. Mà mặt mũi tôi thì nhờ nhệch? Lãng mạn nhất, thì cũng như câu chuyện tôi đã viết lại trong Xóm Giếng ngày xưa, nửa đêm kia tôi đã đi với Đinh Hùng và Huyền Kiêu vào nghĩa địa Thanh Xuân trên đường Hà Đông. Cho ông gác một hào, rồi vào bãi tha ma. Tôi đốt bản thảo tập thơ Dưới bóng trăng thanh của tôi trước ngôi mộ cô Khuyên mới chôn được ba ngày. Khuyên bỏ làng quê Nghĩa Đô ra Kẻ Chợ ở với mẹ rồi lấy chồng ngoài ấy. Đinh Hùng đặt một bài thơ trên mộ Đinh Thị Tuyết Hồng, chị Đinh Hùng năm trước trẫm mình tự tử ở hồ Trúc Bạch - hay hồ Gươm, tôi không nhớ. Có người đã viết thành sách Tuyết Hồng lệ sử.

    Rồi chúng tôi về Ngã Tư Sở uống bia. Tôi không có tiền nhiều hơn và cũng chưa dám vào nhà hát.

    Bởi vậy, câu chuyện ông Tân Dân dạy cách ăn chơi cho tôi ông nghĩ thật và chắc không phải chuyện ông nói như thế như, khi tiếp ông Lưu Thần, ông Lê Văn Trương, ông Lan Khai hay ông Nguyễn Công Hoan, những nhà văn đã lịch lãm.

    Đến dây, chuyện đã dài, tôi hiểu vậy. Tôi bắt tay ông.

    - Chào ông.

    Ông đáp lại:

    - Xin chào ông.

    Tôi đi ra. Ông đứng dậy, tiễn tôi đến chỗ cái bình phong.

    Ở ngoài đường, Nam Cao cộp cộp giày tây bước vào, phớt lạnh khi qua mặt tôi, như không quen.

    Cách ông Tân Dân hợp đồng tợn tạo, mạnh mẽ với tôi, cũng có ý riêng của ông. Ông cốt tích trữ. Nhà xuất bản này thường mua và tích trữ nhiều tác phẩm của những người có tiếng. Tôi là người viết còn trẻ, nhưng sách viết cho thiếu nhi của tôi bán chạy. Ông muốn độc quyền giữ người viết.

    Sau đó, dù tôi có không viết cho ông nữa, ông vẫn khối sách của tôi để có thể tung ra mấy quyển một lúc, bán rẻ, đánh quỵ nhà nào in sách tôi. Việc con nhà buôn bán cạnh tranh tác phẩm này không xảy ra cho tôi. Nhưng nhiều đàn anh, như Nguyễn Công Hoan, đã bị miếng đòn hiểm ấy. Nhà Đời Mới in truyện Cái thủ lợn và tiểu thuyết Thanh đạm của ông cùng lúc ông Tân Dân cho ra thị trường mấy quyển khác cũng của Nguyễn Công Hoan, mà giá sách Phổ thông bán nguyệt san là giấy in báo, chỉ rẻ bằng nửa tiền sách nhà Đời Mới.

    Nhà xuất bản Tân Dân không phải là một nhóm, một văn đoàn như kiểu văn đoàn Tự Lực hay nhà Hàn Thuyên.

    Cái nhà xuất bản này là cửa hàng tạp hoá to vốn, nhiều quầy, nhiều mặt hàng, ai mua gì cũng có. Truyện kiếm hiệp, sách giáo khoa, tạp chí tranh luận duy tâm duy vật, truyện trinh thám, truyện tình ái vẩn vơ, truyện xã hội tả thực. Mỗi thứ đựng một ô trong ngăn kéo. Không tác giả nào biết tác giả nào. Tôi chưa hề ngồi chơi với ai ở nhà xuất bản trừ mỗi lần đến gặp ông Tân Dân, nộp bản thảo, lấy tiền. Một mình ông Tân Dân có bốn tờ báo ra hàng tháng, hàng tuần (Tiểu thuyết thứ bảy, Tao Đàn, Phổ thông bán nguyệt san, Truyền Bá. Không kể, có thời kỳ còn tờ tuần báo Ích Hữu). Một nhà xuất bản đủ thứ sách, cho người lớn, cho trẻ em, cho nhà lý luận, cho cô hàng xén. Thế mà ông chỉ phải nuôi có hai ông viết văn ăn lương tháng và những năm về sau, một ông thầu văn, ông Vũ Bằng.

    Tình hình Nhật Pháp và Đông Dương càng găng, nhà xuất bản Tân Dân cũng kinh doanh tạp nham theo thời thế, không cứ nghề in và nghề xuất bản. Tôi nghe ông Vũ Bằng nói ông Tân Dân còn buôn nhà và buôn đồ cổ. Công việc biên tập và in sách báo dồn vào tay ông Vũ Bằng. Vũ Bằng thầu cả ba tờ báo tháng, báo tuần của ông. Ông Vũ Bằng còn thầu thêm tờ tuần báo nữa của nhà in Trung Bắc, tờ Trung Bắc chủ nhật.

    Hà Nội lúc ấy chỉ có trên dưới chục tờ báo hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng. Phần nhiều đều là báo có người thầu hoặc làm khoán. Tờ Đàn Bà của bà Thuỵ An có thế lực với Tây, xin được cấp giấy Đáp Cầu, số giấy chính để bán chợ đen. Trúc Đường làm nhà in Lê Cường nơi in báo Đàn Bà được khoán cho việc biên tập. Chủ báo chỉ thu tiền phần quảng cáo và giữ mục nhắn tin mua bán hộ. Hàng hoá khan hiếm, nhà báo đứng ra nhận mua giúp - tất nhiên có lãi, các thứ khó mua như son, phấn, sáp, nước hoa và nhiều thứ khác của các bà, có bạn đọc lắm tiền nhờ xoay chợ đen hộ.

    Tôi vẫn viết thẳng cho ông Tân Dân và lĩnh tiền ở ông ấy. Tôi mách mối, ông Tân Dân mời Nam Cao viết truyện thiếu nhi.

    Đến khi Nam Cao muốn viết thêm truyện ngắn, ông bảo hỏi ông Vũ Bằng. Mỗi số báo Vũ Bằng lĩnh của chủ một món tiền biên tập rồi phát lại cho ai bao nhiêu thì tuỳ. Nhiều người ở xa viết với ông Vũ lúc ấy, như Lý Văn Sâm ở Biên Hoà, Bửu Kế, Phan Du ở Huế, Nguyễn Văn Xuân ở Quảng Nam, không biết có được ông ấy gửi trả nhuận bút không.

    Hồi này nhiều tay giáo học được Tây gọi về làm phòng kiểm duyệt. Họ viết văn lấy tiếng, còn toàn cho bài không.

    Báo nào cũng phải in khẩu hiệu và danh ngôn "Thống chế Pêtanh đã nói" cũng phải đăng bài của các ông ở phòng kiểm duyệt kiêm nhà văn. Sách của các ông này, loại như truyện Đời cạo giấy của Giao Chi và tập truyện ngắn Rượu cần chẳng uống mà say của Nguyễn Khắc Mẫn nhà xuất bản Đời Mới in bày nhan nhản các hiệu.

    Trong cảnh làm ăn bon chen thế, tôi sống một cách trái ngược, vừa thiếu thốn lại vừa chơi bời - dù là chơi bời cò con và cò rả. Trong sinh hoạt nghề mới, gì tôi cũng muốn biết, muốn học, học lỏm. Lúc đầu cũng có cái thích, nhưng lâu rồi lại buồn bã nhìn ra những dớ dẩn và chua chát của nó.

    Bàn giấy nhà văn Lê Văn Trương, người có nhiều sách in nhất lúc ấy. Tôi đến nhà anh ở Láng, thấy giữa bàn viết, anh đặt cái sọ đầu lâu người đã lên nước bóng vàng khè. (Cái mốt nhiều người viết văn bấy giờ hay chơi đầu lâu, để trên mặt bàn). Con dao găm xiên ngang giữa hai hàm răng. Cái đầu lâu và con dao găm chặn lên tấm bìa xanh của một bản thảo đương viết, trên bìa có hàng chữ to: "Quyển tiểu thuyết hay nhất đời nhà văn của tôi”. Và cái chậu nước mưa đặt ở thềm hè. Để lúc viết hăng quá, bị nóng đầu, - anh ấy bảo thế, nhà văn ra dìm mặt vào nước mát cho bộ óc dịu đi.

    Trò ảo thuật dao găm, đầu lâu, chậu nước và câu thần chú nọ không phải để nhà văn tâm niệm và làm theo, cũng không để tôi xem, nó để bẫy các ông xuất bản đến chơi. Vì các bạn, ai cũng biết thời kỳ này anh đã viết ẩu. Nhiều quyển, Lê Văn Trương cho đàn em, đám Đặng Đình Hồng, Tân Hiến viết rồi anh ký tên. Đọc văn biết khác ngay.

    Tôi đã hết ngạc nhiên thấy trong nghề viết văn cũng có chợ đen và làm xiếc. Có khi tôi cũng theo các đàn anh Vũ Bằng, Ngọc Giao lai vãng vài ba tiệm thuốc phiện ở Hàng Chiếu, ở Bờ Sông ngoài Hà Nội hay có những lần cùng Nguyễn Bính, Việt Châu tác giả tập thơ Lông ngỗng reo tình đến tiệm hút ở Chợ Cũ, ở đường Cây Mai, vào Chợ Lớn. Nhiều ông viết văn làm báo nằm trong làn khói thuốc phiện như "bóng ma" và bàn tán tất cả mọi chuyện trên đời.

    Cuộc sống của tôi lảng vảng bên hố truỵ lạc, khi sợ, khi thích thú, khi buồn chán, không tự phân biệt được.

    Một lần, Nguyễn Bính rủ tôi đi “giang hồ”. Nghĩa là đi chơi không cần tiền. Có tiền mới đi chơi, thì là xoàng rồi, ai cũng làm được. Lên tàu hoả ra ga Đầu Cầu thì lên không. Ở đấy đã có Trần Nhân Cư ông trưởng ga xép này sính làm thơ và là người của trường thơ Nguyễn Bính. Đến ga Bắc Ninh, thi sĩ Vũ Hoàng Chương, do Mạnh Phú Tư giới thiệu, tôi biết anh Chương đỗ tú tài toán, làm thơ, lại mê đọc truyện trinh thám. Nhà ở Bến Thóc, thành phố Nam Định. Một nhà thế gia, đương tàn. Nhưng mà vẫn to lắm. Nam Cao và tôi ở ăn cơm cả tháng, cũng không ai giáp mặt chúng tôi. Mỗi tầng gác có nhiều buồng, buồng treo rèm vải điều. Bên trong, một bà già nằm hút thuốc phiện. Vũ Hoàng Chương làm ga, có tiền. Anh mua giấy, in lấy tập Thơ say ở nhà in Cộng Lực rồi lại nhờ nhà xuất bản Cộng Lực đứng tên phát hành.

    Chúng tôi đỗ lại Bắc Ninh. Vũ Hoàng Chương gài chúng tôi xuống nhà ả đào, nhà cô Tuyết Lành dưới phố Niềm. Tối hát, ngày ăn bún ốc - lại ăn bún ốc, trừ cơm. Chán cảnh phố Niềm, chúng tôi lên phủ Lạng Thương, kéo theo xếp ga Chương. Xếp ga Chương bỏ cả ga, đi chơi. Ba người ngồi toa đen, như những kiện hàng.

    Chúng tôi vào nhà Bàng Bá Lân. Thấy có ông tờ-rốt-kít Dương Tá Ban chít khăn, mặc áo trắng dài đã ngồi uống rượu ở đấy. Ông Dương tự nhận là tờ-rốt-kít lại thạo xem tướng tay, hay đi phân kim cắm huyệt tìm đất để mả như nghề cụ Tả Ao.

    Ở sông Thương, ngày ngày, Chương và Bính tha thẩn vào xóm Thùng Đấu ngoại ô thị xã Bắc Giang. Hai bạn thơ vừa đi vừa nghêu ngao đọc thơ. Ông Chương thì "Tố của Hoàng ơi", ông Bính thì "Ngày xưa vua nước Bướm"...

    Ở đây, ngày trước thi sĩ Bính có yêu một người. Bây giờ, trở về, khóc mối tình cũ. Tình cũ chẳng thấy đâu, chỉ thấy trẻ con ra xem xúm đông xúm đỏ, chạy trước chạy sau. Thế mà hai người vừa đi vừa đọc thơ, tôi đi giữa chịu khó khoác tay hai bạn. Ngất nghểu ba thằng rồ.

    Được mấy hôm, nếu Bàng quân không đưa tiền tàu và nói thẳng rằng thế là tiền tiễn, chưa biết bao giờ chúng tôi mới nhổ rễ.

    Còn đến cả tuần sau mới về đến Hà Nội. Qua Niềm, lại xuống Tuyết Lành. Rồi lại hát cô đầu Phủ Từ. Không có tiền, Bính và tôi phải "nằm va-li" ở cô đầu Từ Sơn, Chương về Hà Nội chạy tiền "chữa cháy".

    Tối hôm chia tay chuyến đi tiêu tiền toàn của người khác ở hàng thịt chó Hàng Đồng, Vũ Hoàng Chương và Nguyễn Bính tức cảnh đọc bốn câu thơ:

    Tô Hoài, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương

    Còi thét vào ga Phủ Lạng Thương,

    Sở tại bàng quan chầu xuống xóm

    Thi nhân bá ngọ chuyến lên đường

    Chả là rủ Bàng quân đi hát, ông phản đối, nên "bá ngọ" chuyến đi? Chơi thế, phải mặt dầy đi chạy vạy chằng bửa. Nhưng lại thổi màu phiêu đãng bất cần đời lên mà làm thơ. Những "say đi em”, “nghiêng nghiêng trần thế", "nàng tiên nâu" chỉ là "làm thơ" vậy thôi. Thời thế những năm ấy đã khác. Cái lãng quên và quay lưng chỉ còn là sự gục đầu xuống. Đời thật lúc đó thảm hại lắm, như những chuyến hành khất "giang hồ" trên. Những bế tắc, bệnh hoạn đã thành tên là thơ say, thơ trăng, thơ tiên, thơ sầu mộng, thơ điên, thơ em gái. Thật tên là thơ xin ăn, vì thèm, vì đói, đủ kiểu. Có người hỏi tiền thẳng thừng như thơ Nguyễn Tử Kính, nhà xuất bản Á Châu in:

    Gió rét chưa chi về sớm quá

    Áo chưa đan được lạnh bên lòng

    Còn đâu hi vọng mà mong

    Người đan áo rét tặng trong dịp này

    Nguyễn Bính trong Tiểu thuyết thứ năm:

    Chùa Hương xa lắm em ơi

    Đò giang cách trở, chịu thôi cô mình

    Câu này anh nói thật tình

    Muốn đi thì phải cho anh mượn tiền

    Và mơ màng Quỳnh Dao:

    Bạch lạp bừng sôi trên mỏ hạc

    Hồng đơm thơ ngự khắp chân tường

    Đơm tình gái mộng chờ thi sĩ...

    Những câu thơ đã đăng báo in sách giá trị tương tự hai câu rao thuốc chữa bệnh phong tình thời ấy: Chỉ đâu mà buộc ngang trời. Thuốc Hồng Khê chữa những người lẳng lơ. Tuy vậy, có lúc tôi gọi những rạc rày như thế là thơ và đời thơ.

    Bọn chúng tôi rồi có người ngã rục, có người đau ngoảnh mặt đi, có người tỉnh ngộ.

    Tôi tham gia Văn hoá Cứu quốc ít lâu sau khi làm nghề văn, giữa đám bè bạn lố nhố lao sao vậy. Mới đầu không phân biệt được rồi có lẽ vì thói quen vốn là người làm ăn bình thường chân chỉ, tôi thấy ra rằng trong nghề văn và sự nghiệp cách mạng cũng đòi người hoạt động không khác lúc tôi ở Ái hữu thợ dệt, ở Thanh niên dân chủ.

    Tôi nghĩ thuyết phục bạn.

    Một hôm, tôi đưa Nguyễn Bính một tờ Cứu Quốc. Lần sau Bính đến, hỏi tôi có báo Việt Minh, cho xem nữa. Nhưng xem xong Nguyễn Bính cũng lặng lẽ đi, không nói.

    Một hôm, tôi đưa Vũ Trọng Can xem báo Cứu Quốc, Vũ Trọng Can người làng Thọ vùng tôi. Truyện Màu hoàng yến và kịch dài Cái vạ đầu tiên của anh in trên các báo Ngày nay và Tiểu thuyết thứ năm rất hay, đã thúc giục tôi càng ham mê viết. Vũ Trọng Can đọc xong tờ báo Cứu Quốc bí mật hỏi: “Còn nữa không?". Đôi mắt “chó giấy” của anh ngước nhìn, chẳng ra ngờ nghệch, chẳng ra khinh đời.

    Ít lâu, tôi gặp Vũ Trọng Can ngoài phố. Quần áo "tuýtso" lụa, giầy "dôn", cà vạt hoàng yến, thật điển. Nam Cao và tôi đến nhà Can chơi. Những năm trước, đã thành lệ, Can có quần áo tốt mặc hết mùa lại đem gửi nhà cầm đồ Vạn Bảo ở phố Mới lấy tiền tiêu. "Cho người ta giữ hộ. Bao giờ cần lại lấy về cơ mà". Can nói cợt thế. Bây giờ, Can thuê gác ở, có tủ, bàn, giường tây (cũng đều thuê). Trên cái giường lò xo, tôi trông thấy một bên là cô bạn diễn viên kịch. Cô bạn gái Mỹ Ảnh nằm bên kia và Can nằm giữa hai cô. Họ đương xem tướng tay cho nhau.

    Can ngồi lên, hét vào mặt Nam Cao và tôi:

    - Chúng mày ngốc hơn những thằng ngốc... đeo đuổi viết lách mãi... mở mắt trông ông đây, ông còn nhiều thứ nữa...

    Chúng tôi phải mở mắt trông ông ấy là như thế này. Độ trước Vũ Trọng Can đã đem bộ Đông chu liệt quốc đến nhà tôi ngồi liền cả tháng soạn riêng ra từng vai, viết lại thành quyển Người chiến quốc dầy sụ. Rồi xin phép xuất bản. Sở thông tin báo chí của Pháp cấp phép cho mua giấy. Nhưng không in sách, Can đem bán giấy lấy tiền. Vì thế mà phát tài.

    Rồi Can nói khéo thế nào, có người làng đưa tiền cho anh đi với Nguyễn Trọng Trạc - trước quản lý báo Ngày Nay lên Lạng Sơn buôn dó làm giấy. Nướng vào sòng bạc trên ấy hết sạch tiền, lại thêm mắc nghiện. Lần khân không về, không dám về, cứ ở Đồng Đăng Kỳ Lừa rồi ốm ngã nước. Khi khiêng về đến nhà thì đã hấp hối. Bấy giờ người nhà mới biết anh đã nghiện. Nhưng đổ thuốc phiện vào không kịp nữa.

    Đó là lớp người trôi như bèo trên mặt sóng.

    Trần Huyền Trân có gian buồng nhỏ trống trơ sau Cống Trắng, trông ra một đầm sen - ngõ Sơn Nam, tên ông chủ cho thuê các nhà trong ngõ. Mẹ anh sinh sống ở cái lều kéo vó trong đầm. Đấy cũng là nơi trú ngụ, chúng tôi thỉnh thoảng đến nằm khàn ở cái buồng rỗng ấy. (Khi thuyết phục Trần Huyền Trân tham gia Văn hoá Cứu quốc, Lê Quang Đạo đã có lần đến ở đây). Hoặc lên túm năm tụm ba trên cái gác phố Hàng Đồng nhà Chu Ngọc, coi như thế là "xê dịch", là "giang hồ vặt". Phiêu lưu kiểu kiến bò cho qua cơn trống trải.

    Cuộc sống trong ao mà những con chẫu chàng thỉnh thoảng ngoi lên mặt nước, đờ đẫn nhìn theo mấy cái bọt mình vừa thở.

    Đôi khi, Nam Cao và tôi lang thang đến rạc cẳng trên hè phố rồi ra cửa ga Hàng Cỏ, thuê buồng ngủ. Để đêm đêm nghe tiếng còi tàu. Nam Cao thích truyện ngắn Dik và Linh đăng ở Hà Nội báo, tôi không nhớ một trong hai anh viết, của Nguyễn Hồng Tranh hay Vũ Năng An. (Tôi mới được biết Dik và Linh của Vũ Năng An). Truyện tả đời phiêu bạt của những người làm tàu biển. Chúng tôi ao ước thế.

    Cuộc sống chữ nghĩa còm cõi thật phức tạp và thương tâm. Nhưng ở lớp người ấy, có người biết mơ ước, cả trong u tối Khi hiểu được nguyên do những thảm hại nhiều người trong chúng tôi đã vứt đi được cái hào hoa, ngông nghênh dở, thấy ra mình đương ở đâu và phải làm gì cho đáng là con người. Tôi hiểu các bạn thơ trường phái "áo cừu gốc liễu" lối Thâm Tâm và Trần Huyền Trân ở trường hợp ấy.

    Thơ Thâm Tâm viết:

    "Đưa người ta không đưa qua sông

    Sao có tiếng sóng ở trong lòng

    Nắng chiều không thắm không vàng vọt

    Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong

    Đưa người ta chỉ đưa người ấy

    Một giã gia đình, một dửng dưng

    Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ

    Chí lớn chưa thành, bàn tay không

    Thì đừng bao giờ nói trở lại

    Ba năm mẹ già cũng đừng mong..."(10)

    Bài thơ này Thâm Tâm viết tặng một bạn đi thoát ly, lại vừa là than thân, thương thân. Tình cảm anh bày tỏ trước người ra đi vì đại nghĩa. Vẻ tráng sĩ bên sông Dịch, đi không bao giờ về, có cách riêng của nó. Cái cảm khái của người bất đắc chí. Tôi lại nhớ những đêm đi hát uống rượu ở Ổn Rợp với các bạn Võng Xuyên, Đồ Điếc, Nguyệt Hồ ở Nam Định. Say rồi đập bát, khía tay lấy máu viết lên tường. Nhưng dù sao, đã thấy được tù túng, cùng quẫn. Tiếng sóng Tiếng sóng trong lòng ta! Cái khát vọng của tâm sự người làm thơ.

    Những số báo Cứu Quốc đầu tiên ra công khai hàng ngày trong tháng tám 1945 ở Hà Nội, nền lá cờ đỏ to suốt trang nhất của báo, Thâm Tâm vẽ lá cờ ấy.

    Kháng chiến chống Pháp, Thâm Tâm vào bộ đội rồi mất bệnh ở châu Quảng Uyên trên Cao Bằng, trong chiến dịch biên giới thu đông năm 1950.

    Thơ Trần Huyền Trân:

    Ơ kìa thiên hạ đương say

    Có nghìn tay vẫy nghìn tay đương cười

    Nhớ ngươi nhạt thếch môi cười

    Ta vo chỏm tóc ta ngồi ta ca

    Tình tang lỗi nhịp mình ta

    Thương về đầu bạc nhớ ra má hồng

    Đầu xanh ai vợ ai chồng

    Võng đưa ai mẹ bế bồng không con

    Nằm đây thép rỉ son mòn.

    Cái đi mất mát cái còn lần khân

    Cúi đầu bóng rét vương chân

    Ngẩng lên đã đụng trời xuân trên cành

    Không vui sâu cỏ không đành

    Mà cười e chửa ngon lành trái mơ...(11)

    Đó là một tự sự theo lối của trường thơ Trần Huyền Trần, Thâm Tâm. Giữa một ngày xuân nghìn tay đương vẫy nghìn tay (phong trào cách mạng đương lên), tôi nhớ anh (cán bộ cách mạng), tôi hát. Tôi hát rằng tình hình bây giờ thật đau xót, vì đâu mà xã hội tan đàn xẻ nghé, ngoài đường ảm đạm đầy tiếng khóc. Tôi còn lần khân ở đây, người tôi mòn rỉ đi. Chợt thấy cái rét chưa qua hẳn mà mùa xuân đến rồi. Không vui cái vui cỏn con không đành nhưng vui là vui gượng, vì cách mạng chưa thành công. Nhớ người đi chiến khu, như người độc hành lên biên ải, trùng quan dâng áo ngự hàn là đây, tôi gửi anh tấm áo ấm và dâng anh lời thơ một tấm lòng.

    Không ngẫu nhiên, Trần Huyền Trân đã viết nhiều ca dao hô hào đánh Pháp đuổi Nhật, ký tên Đỗ Quyên, đã in trên báo Cờ Giải phóng, báo Cứu Quốc, thời bí mật.

    Truyện Con dế mèn và Dế mèn phiêu lưu ký là những sáng tác đầu tay của tôi cùng những truyện ngắn Nước lên, Con gà ri, Bụi ô tô... Những sáng tác non dại ấy cũng có thể dùng để đo được trình độ tư tưởng và hiểu biết của tôi đương như thế nào.

    Tôi lớn lên giữa những buồn vui, những gian truân, trong mọi tập tục, thói quen của lớp tuổi tôi ở làng. Lúc đó, đương thời kỳ Mặt trận Bình dân. Lý tưởng như giấc mơ đẹp đến với những người thanh niên cùng lứa, cùng cảnh như tôi. Cái ao ước "thế giới đại đồng” của Dế Mèn, của Dế Trũi, của Châu Chấu Voi, của Xiến Tóc là cái hiểu chủ nghĩa cộng sản của tôi với vẻ đẹp và cả những trống rỗng trong suy nghĩ tôi.

    Từ khi biết nghĩ điều hay cho những ao ước của mình, tôi chỉ một mạch nghĩ theo cách mạng. Nhưng ở cái chợ văn thời ấy eo xèo kẻ mua người bán, kẻ ra người vào. Ngót nửa thế kỷ văn học quốc ngữ, được dăm tác phẩm có giá trị. Còn thì người ta cầm bút không vì cái gì cả hoặc chỉ để gãi cái thích của số người đọc ít ỏi lúc ấy. Những nhân vật chàng và nàng phù phiếm... Và nhảm nhí tệ hại, lướt qua bìa sách cũng đã thấy nặng mùi. Ngoại tình... Thả cỏ... Một đêm với Dương Quí Phi.(12).

    Sáng tác của tôi còn nhiều thiếu sót dường như tự nhiên chủ nghĩa, nhưng gốc tôi giữ được cho tâm hồn cái dáng dấp lý tưởng mình theo đuổi từ khi chưa làm nghề văn.

    Tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi - mọi cái của mình, quanh mình. Quê người, Giăng thề, Nhà nghèo, Xóm Giếng ngày xưa trong đó có những mảnh đời, mảnh tình cỏn con của mình, của những người cùng túng. Cái nhìn còn bế tắc hoặc có phần nhẹ nhàng, hay xót xa, hay đá chút khinh bạc, ấy là phần nào con người và tư tưởng chán chường của tôi.

    Từng chi tiết và từng nhân vật trong sáng tác của tôi, các bạn lứa tuổi tôi trong làng là người và chuyện tiểu thuyết Quê người. Truyện ngắn Nước lên hao hao giống ai, là ai. Cái nhà giáo trong truyện Giăng thề, đời sống các ông hương sư vùng quê. Cả những truyện loài vật tưởng như xa lạ kia cũng không ngoài cái rộn ràng hay thầm lặng của mảnh vườn trước cửa, trong lũy tre cuối xóm hay trên bãi Cơm Thi bên kia cửa đình làng Nghè bờ sông Tô Lịch.

    Tôi ngồi giữa làng tôi mà viết, hối hả viết. Mấy năm nay, Nam Cao thất nghiệp vì trường học phải đóng cửa đã về ở nhà tôi. Chúng tôi ở trong một gian bên kia buồng, cái gian nhà ngày trước có những thầy giáo bên đạo đã ở, chỉ trổ một lỗ vuông cửa sổ tí tẹo, thành gạch sâu và im vắng đến nỗi bất chợt thò tay có thể nắm đuôi được chú chim sẻ đương than vãn ngoài hốc tường.

    Cái bàn viết bằng gỗ tạp, hai chân rời như bàn đánh bóng. Hai đứa tôi ngồi hai đầu, cũng như hai tay đánh bóng, châu mặt vào nhau. Mùa hè, Nam Cao căng màn nằm ngủ đêm trên bàn ấy.

    Mỗi tháng, chúng tôi túi bụi bận viết vào mấy ngày cuối tháng. Đã vào nghề viết, nhưng nghề ra sao, chỉ biết lúc nào cũng ngại viết, viết lúc nào cũng là một dằn vặt. Cứ sắp đến ngày hẹn đem truyện xuống nhà xuất bản, tôi mới ráo riết, cắm cúi thâu đêm. Có khi, chúng tôi phải viết đổi tay cho nhau mới làm kịp.

    Nam Cao thạo tả nhân vật, tôi nhờ anh viết cho tôi những đoạn như thế. Lúc Nam Cao buồn ngủ hay chán viết anh bảo tôi: “Cậu làm hộ mình thế này nhé. Sắp mưa, bờ ao có bụi tre. Buổi chiều. Mấy trang cũng được”. Tôi vốn thích tả cảnh. Tôi lia hộ bạn vài trang như anh đã phác.

    Chúng tôi túng đề tài - thực tế bề bộn quanh mình, nhưng có thể chưa đủ năng lực biết phân tích khai thác. Có một truyện ngắn Nam Cao viết về một anh đi xem bói, thầy bói đoán toàn cái tốt sắp gặp. Nhưng xem bói xong, anh ta ra đến cửa, bị ô tô chẹt chết. Lần ấy bí cái viết, chúng tôi về Nam Định xem thầy bói Kế. Lão thầy bói Kế đương được tiếng, Nam Cao viết từ đầu chí cuối hệt quang cảnh đi xem bói Kế. Nhà thầy bói, cái mặt và dáng lão bói Kế ngồi, những câu lão phán, nhất nhất thật. Chỉ thêm đoạn cuối tả cái ô tô đâm chết người vừa xem bói ra.

    Ý thức viết của tôi rõ rệt hơn từ khi tham gia hoạt động Văn hoá Cứu quốc. Lý trí tôi khẳng định được vấn đề miêu tả xã hội đau khổ là đúng. Tuy nhiên, hiểu biết số phận nhân vật trong một xã hội với quy luật của nó thì nhiều năm sau này, mới dần dần vỡ ra. Vậy mà cả tới bây giờ mỗi khi cầm bút vẫn cảm thấy chập chững, ngắc ngứ, có thể thiếu sót, có thể sai lầm, thật khó khăn.

    

- o O o -

 

    Đến nhà Vũ Quốc Uy họp, chúng tôi thường kiểm điểm việc phát triển tổ.

    Tôi rất lo việc này. Tôi chưa tự tin khả năng thuyết phục của tôi. Thực thì, một số bạn mà tôi dúi cho tài liệu bí mật đọc đều thờ ơ, như Đinh Hùng, Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can.

    Tôi chưa biết cách nào đưa được bạn biết nhìn lên trước cái nhìn hàng ngày. Chút danh hão, sự cam chịu bó mình trong mòn mỏi mà không tự biết, cái sợ nỗi nguy hiểm có thể đến.

    Tôi không giúp gỡ nổi cho các bạn cất mình cao hơn những ràng buộc và lo lắng ấy.

    Vũ Quốc Uy rất hoạt động. Cả Như Phong nữa. Như Phong kể lại đã phát triển tổ thế nào. Có hôm Như Phong và Nguyên Hồng đi đấu khẩu với bọn tờ-rốt-kít. Có lần Như Phong đến nhà tôi, hoạ sĩ Văn Giáo cùng đi. Tôi đoán Như Phong đã tuyên truyền sang cả giới hội hoạ.

    Tình hình người viết văn những năm trong chiến tranh thế giới lần thứ hai biến đổi hàng ngày. Chợ văn ở Hà Nội oi ả, chợ chiều, hiu hiu.

    Có bạn bây giờ tưởng văn chương hồi ấy chỉ có Tự Lực văn đoàn. Không phải. Bạn đọc Tự Lực nhiều, nhưng không phải là tất cả. Bạn đọc Tự Lực phần lớn là thầy giáo, công chức, thanh niên sinh viên học sinh. Nhóm Tự Lực gồm một số nhà văn muốn truyền bá một quan niệm, một lối sống, từ xã hội đến gia đình, đến cá nhân và tình yêu.

    Thời phát đạt của văn đoàn Tự Lực bắt đầu những năm Mặt trận Dân chủ đến chiến tranh thế giới lần thứ hai. Họ muốn làm cho văn chương kiểu đó được độc tôn. Không công nhận các dòng văn khác hoặc chỉ đề cao ai do mình tung lên.

    Thậm chí, dìm chết người viết khác lối văn của mình, như đối với Kim Hà và Phan Huấn Chương(13).

    Nhưng từ bắt đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai, trong giông bão chống tai họa phát xít, bản thân văn đoàn này và người đọc cũng phân hoá. Những người chủ chốt trong nhóm Tự Lực: Hoàng Đạo, Nhất Linh, Khái Hưng... đi vào con đường chính trị thân Nhật. Còn ai ở lại với văn chương thì văn chương đã tàn. Bấy giờ văn đoàn Tự Lực có in vài sáng tác rộng ra ngoài cánh mình. Cũng không vớt được thanh thế nữa. Đến sau tập truyện ngắn Hoa vông vang của Đỗ Tốn và truyện ngắn của Cung Khanh thì lịm hẳn.

    Lúc này, tạp chí Thanh Nghị mang màu sắc trí thức lớp trên muốn đứng ra cầm cờ. Nhưng không có thực lực và uy tín văn học. Vả lại, năm 1943 không phải năm 1938, không ai chỉ còn biết chú ý đến cờ quạt văn chương và tư tưởng thuần trên sách báo. Quanh mình đã nóng như lửa và thực sự lửa đang cháy. Mỗi người, người nào cũng đương tự quyết định.

    Chết hay là đứng lên.

    Khuynh hướng tờ-rốt-kít không có sức hút về văn học. Nhưng họ hoạt động nhiều vì Pháp để yên và họ đã quẫy mạnh trong đám trẻ cầm bút. Tờ Tranh đấu của nhóm tờ-rốt-kít ở Hà Nội cũng ra bí mật. Những khẩu hiệu khoa trương khá hấp dẫn đã được nêu trong các cuộc đấu tranh đòi đời sống, lập Ái hữu tiến tới nghiệp đoàn. Nhưng chỉ có khẩu hiệu, không có việc. Rồi cũng tan rã.

    Nhà xuất bản Hàn Thuyên ra đời với mấy tay quân sư tờ-rốt-kít mồm. Một số nhà xuất bản khác mới nhoi ra, có dây mơ rễ má với đám thanh niên tờ-rốt-kít, Mới, Ngày Mới, Đại Học... Nhưng tình hình lúc ấy dồn dập đến nỗi cả tờ-rốt-kít lý thuyết cũng không thể cứ đứng hò hét. Mấy người lao vào hoạt động phản động. Một số viết sách báo tưng bừng trong bàn tay quỷ thuật của nhà cầm quyền Pháp. Một số khác đi với cách mạng Đám người có khuynh hướng phục cổ lúc này cũng lắm vẻ, nhưng vẻ nào cũng là cơ hội, "Cần lao, Gia đình, Tố quốc" hay "Đại Đông Á” gia giảm, phục cổ cũng chỉ khoanh trong lứa tuổi và tầng lớp nào đấy thôi.

    Văn hoá Cứu quốc ở Hà Nội bắt rễ vào một số tiểu tư sản trí thức. Người tiểu tư sản vốn không có sức riêng. Xã hội tan rã đương lay động nó dữ dội. Người tiểu tư sản được hút vào cách mạng, thành tiếng nói sức mạnh cách mạng. Cái đèn pin và cái lắc lê của tôi, thật ngây ngô, nhưng đã nói đầy đủ được tinh thần hành động của tôi. Trên báo Cứu Quốc, khi Tống khởi nghĩa, Xuân Diệu viết bài hô: "Thời vứt sách". Lời hô ấy, lúc ấy không hẳn phù hợp. Nhưng tinh thần "Thời vứt sách" trong cả quá trình người cầm bút tham gia chuẩn bị Tổng khởi nghĩa là một sự thật. Chữ không đủ. Phải võ trang.

    Trong những người nửa lãng mạn, nửa thời thế, có Nam Cao với tôi. Tôi quen Nam Cao vì tôi đến học chữ Pháp ở trường tư của một bà dì họ tôi, trường Công Thanh ở Thuỵ. Đi làm nhà Bata, tôi học thêm tiếng Tây. Nam Cao dạy ở đấy và đầu tiên tôi gọi anh là ông giáo Tri, ông Trần Hữu Tri. Tôi ít tuổi hơn anh, văn hoá kém anh, nhưng anh thấy tôi đã viết được truyện ngắn đăng báo. Việc đó có thể rất kích thích anh.

    Nam Cao đã đỗ bằng "đíp lôm” đã làm phóng viên báo Kịch Bóng từ hồi ở Sài Gòn, thế mà đến nay viết vẫn lận đận. Anh đã thử cả các cửa, thơ trào phúng, thơ mơ mộng, lúc truyện ngắn, truyện vui ký tên Nhiêu Khê, Thuý Rư, Nguyệt, Xuân Du, Nam Cao... nhưng chưa biết đứng lại đâu.

    Lính Nhật chiếm cái trường tư Công Thanh với cả quãng phố làng Thuỵ làm chỗ nhốt ngựa. Nam Cao thất nghiệp, lên ở với tôi. Anh mới viết xong một truyện vừa. Truyện Cái lò gạch cũ. Nhân vật Chí Phèo trong truyện là tên một người thật ở làng anh. Chuyện từ đời trước, anh viết theo vợ anh kể.

    Chi tiết để tô điểm chuyện Chí Phèo thời bấy giờ, tất nhiên là những tai nghe mắt thấy trong bọn chức việc họ hàng anh ở làng mà anh biết.

    Truyện viết xong, nhưng cũng như bao lần, anh không tin có ai. Anh muốn đưa nhà xuất bản Đời Mới. Nhà xuất bản này là một hiệu thuốc chữa bệnh lậu ở phố Hàng Cót, mở thêm xuất bản. Lạ một điều là ở Hà Nội hồi ấy, có nhiều nhà lang thuốc kiêm nghề xuất bản sách báo. Có lẽ vì các nhà thuốc Hồng Khê, Bình Hưng, Lê Huy Phách, Từ Ngọc Liên, Hương Sơn đã sẵn nhà in in nhãn thuốc, bây giờ làm báo, làm sách không tốn kém mấy chỉ thêm danh giá. Nam Cao tính: "Cái thằng xuất bản hạng bét này có thể quí bản thảo". Tuy vậy, cũng chỉ dám đến nhà xuất bản Đời Mới vào lúc nhá nhem tối, bản thảo Cái lò gạch cũ đã quấn sẵn, tròn như cái ống.

    Ít lâu, ông Trác Vỹ, chủ nhà xuất bản viết thư mời Nam Cao đến.

    Ông Trác Vỹ nói:

    - Tôi sẽ in truyện của ông. Nhưng đầu đề Cái lò gạch cũ không ăn khách. Tôi đổi cho ông là truyện Đôi lứa xứng đôi. Tôi nhờ ông Lê Văn Trương văn sĩ trứ danh thay tên và đề lời giới thiệu. Sách đã in sắp xong. Tôi báo để ông mừng.

    Chẳng nhớ rồi Trác Vỹ "thí" cho Nam Cao được mấy đồng. Nhưng dù sao thế là đã có sách in, từ nay anh dễ đi chào hàng những quyển khác. Và Chu Ngọc, Thâm Tâm, nhiều bạn rất khen Đôi lứa xứng đôi. Nam Cao không ngờ.

    Nam Cao được mời viết truyện thiếu nhi cho loại sách Truyền Bá của Nhà xuất bản Tân Dân. Ông Tân Dân thuê anh làm truyện thiếu nhi rồi lại viết truyện ngắn.

    Không bao giờ chúng tôi đủ ăn. Ở nhà quê, nhà nheo nhóc một vợ ba con, Nam Cao liên miên viết truyện dài, truyện ngắn, truyện thiếu nhi thế mà mỗi ngày vẫn phải đi dạy kèm các cháu một người bạn chúng tôi để được đỡ thêm ít tiền.

    Tôi đưa báo Cứu Quốc bí mật, Nam Cao đọc chăm chú.

    Nếu lúc ấy đương viết, anh thu giấy lại, giắt bút cẩn thận vào cái kẹp bìa, ra đóng cửa cài then cẩn thận rồi nằm xuống cầm báo đọc đi đọc lại một lúc lâu. Có khi Nam Cao nói:

    - Đêm không ngủ được.

    Nam Cao là người hay nghĩ, cả lo. Mỗi lần họp với Như Phong và Uy về, tôi đều kể lại Nam Cao nghe nhận định của đoàn thể về tình hình thế giới trong nước. Tôi bảo Nam Cao viết bài cho báo bí mật. Nam Cao cặm cụi viết những bài báo hai trăm chữ. Anh cũng thấy khó viết, như tôi.

    Thêm hai người bạn hoạt động truyền bá quốc ngữ, anh Khôi, anh Oanh, chúng tôi đã thành một tổ Văn hoá Cứu quốc riêng. Chỉ hai ba người một tổ, bảo đảm bí mật, ngộ xảy ra việc gì không vỡ loang được. Tôi vẫn sinh hoạt tổ gốc nhưng chỉ biết Uy và Như Phong. Thỉnh thoảng mới gặp Bé hay Hương (Trần Quốc Hương) ở trên về liên lạc.

    Cùng ở trọ nhà tôi có Nguyễn Xuân Huy. Hồi mới viết, tôi yêu những truyện ngắn đẹp như thơ của Nguyễn Xuân Huy. Vì sao Nguyễn Xuân Huy đến ở với chúng tôi, không nhớ. Có lẽ chỉ vì anh ấy chạy bom Mỹ, nhà anh thuê ở đầu phố Quán Thánh, máy bay Mỹ có thể đến ném bom cái tháp nước Hàng Đậu. Cũng có thể Huy đến ở chẳng vì lẽ gì, hoặc vì anh thích ra ngoại ô rộng rãi.

    Nguyễn Xuân Huy dạy học ở trường tư thục Nguyễn Vạn Tòng. Ngày hai buổi tàu điện đi về, cần cù, làm việc, đọc sách, tiêu pha và sống điều độ. Thỉnh thoảng, Nam Cao và tôi bốc lên đi dông dài mấy ngày liền. Huy không thế. Nếu không đi dạy, anh ở nhà viết, viết và chữa. Anh viết mực tím, chữ thật đủ nét, rồi chữa mực đỏ. Nếu không viết, anh Huy đọc sách và ngồi im hàng giờ.

    Bỗng nhiên, Huy vác về bộ tự truyện "Đời tôi” của Tờrốtky. Sách có dấu thư viện Hà Nội. Ba quyển dày bằng cái gối xếp. Sách hồi ký mà nhiều lý sự và đọc cũng khó, tôi không thích. Thỉnh thoảng, Nam Cao lấy xem rồi buồn ngủ, hạ xuống làm gối. Huy tỏ ý không bằng lòng.

    Nam Cao nói nhỏ bảo tôi:

    - Thằng này có mùi đệ tứ.

    Quả thật Huy đương viết một quyển tiểu luận văn học sặc hơi tờ-rốt-kít. Văn Huy vốn đẹp, sáng dịu mà tôi rất yêu, bây giờ lý luận giọng đao to búa lớn xô bồ. Thỉnh thoảng, Nam Cao và Huy hay tranh luận về thuyết cách mạng thường trực của Tờ-rốt-kít. Mỗi lần cãi cọ, mặt Huy đương trắng bệch bỗng đỏ găng, đỏ cả hai tròng mắt cá ngão, như sắp đả nhau. Nhưng họ không quá tay bao giờ, không như Điều và tôi đánh nhau năm trước.

    Các loại đệ tứ linh tinh ở đất Hà Nội này lúc ấy chẳng thiếu. Tờ-rốt-kít nói cộng sản thì Tây không để mắt. Mẹo Tây rẻ tiền quá, ai cũng biết. Việt Minh hoạt động bí mật, hở một cái, Tây bắt. Chúng tôi bàn cách hoạt động bán công khai.

    Cần chui vào bất kỳ báo nào, ngay tờ Thông Tin của Hoàng Cừ thân Nhật. Nếu có được một trang đăng bài ta, cũng tốt.

    Nhưng thật khó. Mọi hoạt động và tổ chức mật thám Pháp rình triệt từng tí. Nguyễn Hữu Đang mới xui được Đỗ Xuân Dũng ra xuất bản lấy tên là nhà xuất bản Người bốn phương.

    Nhà xuất bản chỉ mới in tờ quảng cáo ba chữ Người bốn phương và tên những bạn cộng tác sắp vào trong lòng hình ngôi sao năm cánh, thế mà Sở Mật thám đã tịch thu và gọi một số người chúng tôi lên. Rồi cộng tác với nhà Kiên thiết của quân sư Lan Khai cũng bị đe nẹt.

    Không kể những nhà xuất bản to lúc ấy như Tư Lực, Hàn Thuyên, Tân Dân, nhiều người cũng đua đòi bỏ tiền mở xuất bản. Nhà xuất bản mới mọc như cua bò.

    Người ta làm xuất bản, làm báo không phải vì xuất bản, vì báo. Bấy giờ sách báo đều in bằng giấy bã mía Đáp Cầu và giấy dó thủ công. Một quyển sách có được phòng kiểm duyệt phủ Thống Sứ cho in mới được sở Thông Tin cấp phép cho mua giấy. Nhà xuất bản được giấy cũng không cần in. Được giấy, đem bán cho hàng vàng mã, cho các nhà phất quạt, độn mũ, độn khăn. Hoặc muốn được gọn tiền, bán lại ngay cho các nhà làm giấy. Các nhà sản xuất giấy này đã đứng đón mua lại giấy của mình ngoài cửa kho. Họ chỉ việc bỏ đi tờ đầu có đóng dấu rồi lại đem vào bán cho nhà nước thu mua chỗ trạm giấy ở vạc làng Hồ.

    Tìm ra cái vòng tròn ấy lại là Vũ Trọng Can. Anh vốn người làng Thọ chuyên nghề làm giấy.

    Tôi cũng đã có phen đi làm thày dùi - mà thời ấy tiếng lóng gọi là thầy xuất, cho nhà xuất bản Bách Việt. Đặt hy vọng có thể hoạt động “bán công khai” ở nhà xuất bản này.

    Ông bạn con nhà giàu ở phố Hàng Đồng đứng lên, lo in. Tôi chạy kiểm duyệt.

    Từ khi có chiến tranh. Pháp lập cơ quan thông tin tuyên truyền, báo chỉ, có phòng kiểm duyệt. Báo chí sách vở sống chết chập chờn như ma trơi. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ, trên toàn quốc có ngót hai trăm báo các loại. Năm 1937, Đại hội các nhà báo ở Hà Nội, cả những người Pháp chi nhánh đảng xã hội Pháp làm báo ở Đông Dương cũng dự. Những chuyện ấy đã ra chuyện ngày xưa. Bây giờ làm báo, viết văn, in sách, to tát nhất cũng là chuyện cò con, chạy chọt đút lót các người ta ăn tiền với mọi mánh khoé tồi tệ - như mọi hoạt động chợ đen thời bấy giờ.

    Đầu tiên, tôi đưa kiểm duyệt quyển tiểu thuyết Xóm Giếng của tôi và tiểu thuyết Một đời người của Nam Cao.

    Nguyễn Văn Chỉnh, giáo học ở Nam Định, được về Hà Nội làm kiểm duyệt. Chỉnh khét tiếng ăn đút. Mặt Chỉnh dài như mặt ngựa, môi thâm xì búng ra sái thuốc phiện. Quyển sách nào đến tay lão, được ra hay không chưa biết, hãy đặt hai mươi đồng lót vào bản thảo, lão mới đọc cho. Không thì cứ nằm chồng đống đấy đã.

    Sách đưa đã lâu, tôi phải giục bằng cách đến nhà Chỉnh biện thêm hẳn một trăm đồng. Chỉnh bỏ kính xuống chồng bản thảo đương đọc, bắt tay tôi, rồi nói:

    - Ông cho tôi nhiều thế. Tôi xin ông. Cám ơn ông.

    Rồi lại nói:

    - Hai quyển sách ông đưa thì thế này. Cái truyện dài Xóm Giếng của ông đành phải bỏ. Nó phạm luật. Ông viết cả cái xóm cháy trụi, tan nát, thì hỏng to. Bây giờ khẩu hiệu thống chế Pêtanh là "gia đình" mà ông cho cháy hết cả nhà cả cửa con nhà người ta thế thì còn đâu gia đình. Nhưng tôi để lại cho ông cái quãng "Xóm Giếng ngày xưa" đề tựa ở đầu, cũng còn vớt vát in được. Chắc ông đã lấy tiền bản quyển của ông Bách Việt rồi, thôi thế ông cũng chẳng mất gì. Còn quyển Một đời người của ông Nam Cao không thể được. Tôi mà hạ bút xuống ký liều thì tôi ngồi tù. Ông Nam Cao ông ấy chửi Tây thâm thật. Có con đàn bà chẳng bận gì đến Tây ông cũng bịa ra, đặt tên là Suyzan rồi cho nó đi làm đĩ. Thế có bỏ mẹ Tây không? Phạm huý tuốt? Phạm vào khẩu hiệu "Tổ quốc" của thống chế Pêtanh đấy. Ông về bảo ông Nam Cao thế. Các ông văn sĩ viết văn kiếm cơm mà viết thế thì bỏ mẹ cả nút. Các ông chẳng nhớ gì cả? "Cần lao, gia đình, tổ quốc" ba khẩu hiệu hôm nào cũng in to bằng cái mẹt trên đủ các báo mà cứ nhắm mắt viết liều...

    Tôi không hiểu ba khẩu hiệu "cần lao, gia đình, tổ quốc" của thống chế Pêtanh nước Pháp bại trận còn nghĩa gì thâm thuý khác không, nhưng bài học mà tôi nhận được của người kiểm duyệt sách dạy cho, ý tứ nó là thế. Tất nhiên, ông Hợp chủ nhà xuất bản Bách Việt, sau việc ấy, đối với tôi, có ý nghi ngại. Tôi biết thế và không đến nữa. Tan hi vọng có thể “bán công khai”.

    Thủ đoạn đàn áp và dao kéo kiểm duyệt của dịch, đối với sách báo xuất bản công khai hồi ấy là một đòn không cách nào đối phó lại được. Những tác phẩm mong muốn không thể viết ra. Suốt thời kỳ này, phần tích cực chống địch và tuyên truyền lý tưởng của mình trong các sáng tác được in chỉ có thể là nói bóng, nói xa, nói hai mặt. Cứ kể ngay hồi "bình dân" cũng chưa bao giờ người viết có tự do, nhưng bây giờ còn gay gắt hơn. Văn học Việt Nam thời thuộc Pháp chỉ là cái khập khiễng. Bởi vậy, nói bóng lúc nào cũng là võ khí dễ dùng.

    Với Nguyên Hồng là Lửa, Nhân Loại, Ngày Mai. Đặc biệt tập truyện ký Cuộc sống anh viết ở căng Bắc Mê, nơi Nguyên Hồng bị bắt đi an trí, nhan nhản những Ngày mới, Tương Lai...

    Nam Cao viết truyện ngắn Cơn giông, tả một ngày bức sốt trước cơn giông. Người đọc có đầu óc thời thế hiểu cơn giông là sự mong muốn thay đổi.

    Những ý nghĩ của Thứ trong Sống Mòn(14) về tương lai, cái triết lý của Thứ về sự đổi thay. Chúng ta hiểu như thế là tác giả nói về cách mạng và bàn với bạn đọc nên khắc phục nhược điểm của bản thân mình mà tiến tới một đổi thay như thế nào.

    "Trên những bãi sông kia, trong những làng mạc, những khóm xanh xanh kia, có biết bao nhiêu người sống y như không bao giờ dám cưỡng lại đời mình. Đời họ là một đời tù đầy Nhưng cũng như một con trâu, họ vẫn cắm cúi kéo cày, ăn cỏ, chịu roi. Ở bên kia những cánh đồng bùn lầy là rừng xanh, cuộc sống tự do, cỏ ngập rừng. Con trâu cũng biết vậy, nhưng chẳng bao giờ nó dám đi, chẳng bao giờ nó dám dứt đứt sợi dây thừng. Cái gì giữ con trâu lại đồng bằng và ngăn ngừa người ta đến một cuộc đời rộng rãi hơn, đẹp đẽ hơn? Ấy là thói quen, lòng sợ hãi sự đổi thay, sợ hãi những cái gì chưa tới ấy thế mà trên đời này lại chẳng có gì tới hai lần. Sống tức là thay đổi”.

    Một đoạn cuối truyện ngắn tả cái chết của một nông dân, Nam Cao đã nói những mong ước:

    "Bây giờ thì sự im lặng bất tuyệt đã bịt chặt đôi tai anh, chán nghe những lời mai mỉa của đời rồi. Bóng tối đời đã phủ kín đôi mắt anh, mở thao láo nhiều đêm để nhìn trong bóng tối những cảnh nó làm anh nhục nhã. Anh đã có thể dửng dưng đối với những chuyện loài người... Vậy thì anh Phúc ơi? Anh hãy nghỉ cho yên! Những chuyện đời bây giờ là của chúng tôi. Chúng tôi, những kẻ đã đau khổ, đã uất ức, đã ao ước, đã khát thèm, đã thất vọng và vẫn còn hy vọng và phải hy vọng mãi. Sự đời không phải cứ mù mịt mãi thế này đâu Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi.

    Một mặt trời mới sẽ mọc lên bên trên nấm mồ anh và bên trên đầu hai đứa con côi anh để lại. Một bàn tay bè bạn sẽ nắm lấy bàn tay chúng và dắt chúng đi tới một cuộc đời đẹp hơn”(15).

    Nguyễn Đình Thi ca tụng sức sống dân tộc trong ca dao và khi anh viết lược sử một số quan điểm triết học duy tâm, anh cũng khéo đưa vào đôi ba ý tiến bộ chủ quan của mình.

    "Văn học khái luận" của Đặng Thai Mai phân tích ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng trong đề cương văn hoá Việt Nam theo cách riêng anh. Những tác phẩm dịch Lỗ Tấn và Tào Ngu của Đặng Thai Mai, trên báo Thanh Nghị chúng tôi xem như những áng văn tiến bộ mẫu mực trên thế giới mà Đặng Thai Mai đã ý tứ và lặng lẽ trình bày, giới thiệu.

    Tôi viết truyện Dế mèn phiêu lưu ký cũng có mục đích nói những hoài bão lý tưởng của mình. Truyện Đám cưới chuột và truyện Chuột thành phố, viết lối hai mặt diễn đạt chương trình Việt Minh "Toàn dân đoàn kết tập trung đánh kẻ thù chính".

    Nhiều câu trong phần đầu tiểu thuyết Xóm Giếng (Xóm Giếng ngày xưa) đều mang nghĩa bóng mà người viết có ý gửi gắm:

    "Người ta ước ao làm một trận mưa rào. Mưa rào xuống cho lòng hả hê và cho trời quang đãng. Những cái gì bực tức được gột bỏ. Trong khoảng mênh mông xanh nhởn kia sẽ phủ một không khí tốt lành và tự do. Trái đất chín nẫu này quẫy cựa dưới một cái mặt trời thui người, đương chờ một trận mưa sung sướng.

    "Tôi cho rằng lúc này mà cứ ca ngợi xê dịch, tán tụng vẩn vơ cái thú đi lông bông là thất sách lắm. Ai không thích nhởn nhơ đi đây đi đó. Xưa nay, bài hát đáng hát nhất là bài hát giục lên đường. Nhưng lên đường đi đâu? Tuổi trẻ chúng ta bây giờ đi đâu? Đi đâu? Cất bước trong một buổi mai, nhắm cái phía chân trời mới đỏ thắm màu hy vọng, những người thanh niên bốn phương của đất nước. Chớ không phải giang hồ mà mắm miệng lôi cái va li cà khổ lếch thếch...

    "Tôi hướng về những đốm nhà tránh nắng trong núi, nghĩ đến một phương trời nào rộng rãi tự do. Tự do như núi cao, tự do như sông dài. Cuộc sống có giá đối ngang trước mắt. Người ta và tự nhiên trở về với nhau, khởi một cuộc đấu tranh mãi mãi"(16).

    "Tôi tin tưởng. Tôi có quyền tin tưởng lắm chứ. Này đây một đoá hoa trong cánh rừng Xuân mới rỡ ràng của những Ngày Lớn chúng ta đương nằm trên lòng bàn tay tôi, ơi người đồng chí thân mến”(17).

    Người viết sách báo thời kỳ này, tương tự thời kỳ văn chương yêu nước 1930 trở về trước, nhưng khác về nội dung.

    1930 các nhà văn có tâm huyết đồng thời là những người hoạt động đánh Pháp. Được ảnh hưởng của Đảng, người viết văn thời kỳ chuẩn bị tổng khởi nghĩa 1945, con người và đời sống, ngòi bút với sức mạnh quần chúng, với hoạt động cách mạng, gắn bó là một. Chúng tôi nghĩ giải phóng được đất nước và con người đồng thời lấy lại được tự do cho tư tưởng và văn nghệ. Nhiều nhà văn đã tham gia các tổ chức cứu quốc.

    Hiện tượng văn học đó là hoạt động cách mạng thành được phong trào như thế, trong giới văn học không có ở những năm trước khi có cao trào tiến tới Tổng khởi nghĩa.

    Các nhà xuất bản lập loè như đom đóm. Thôi thì "Lượm lúa vàng", "Hàn Mặc", nào "Mới", nào "Sáng", nào "Ngày mới", nào "Người mới", "Bách Việt", nào "Duy Tân", "Kiến Thiết", "Nguyễn Du", "Đại Học”, “Đại Đồng thi xã", "Xây dựng"... Chưa kể những người có tiền bỏ ra in lấy những tập thơ, tự tiện đem tên cô nào mà mình muốn mồi chài ghép vào tên sách, như Thơ Kim. Thơ Ngọc Bích, Thơ Ngà. Khác nào phở Tàu Bay, phở Khuyển, phở "ngầu pín" và phở Bắc đường Lagờrăngdie ở Sài Gòn. Phan Như, Nguyễn Tố, Nguyễn Tuất, Nguyễn Văn Phúc ít nhất cũng có ba bốn năm các ông viết sách, ra thơ tranh nhau nhận là cháu Tản Đà, (lúc ấy, Tản Đà đã mất), bài nào cũng đề hai chữ “Tản diệt” lên trên tên mình.

    Trong cái nhố nhăng có bạn thanh niên bị ám tư tưởng tờ-rốt-kít chui vào khối nhà xuất bản của những công tử nhà giàu cốt bỏ tiền để có tên, có tiếng. Nhà nhỏ thì ra các sách tạp, không khuynh hướng rõ rệt, cốt giữ chỗ. Chủ xuất bản Tân Việt, lúc đầu, bài lời nhà xuất bản nào trên đầu sách cũng thêm bốn chữ "phá sạch sành sanh" chú thích chữ Pháp: table rase - đấy là chữ mà Tạ Thu Thâu hay dùng. Xuất bản Tân Việt làm ra vẻ ta đây tờ-rốt-kít. Nhưng chính lão lại đang sưu tầm các mánh khóe làm giàu. Nhà xuất bản Hàn Thuyên tỏ mình có quan điểm tương lai của nhân loại, dường như độc quyền dùng những chữ chạm huý thực dân (ai viết những chữ ấy các ông kiểm duyệt cứ việc xoá, không kể câu thế nào nhưng sách báo của nhà xuất bản này thì thả cửa sài các chữ: xã hội, giai tầng, thượng tầng, hạ tầng, đế quốc thực dân, nhân loại đại đồng, cộng sản, đấu tranh giai cấp, cách mạng, duy vật biện chứng...

    Chưa đủ, Nguyễn Tế Mỹ thường thắt cà vạt đỏ cho nó thật hiệu là cách mạng.

    Như Phong bảo tôi:

    - Ta phải tấn công vào bọn này. Đằng ấy với Nam Cao giác ngộ Nguyễn Xuân Huy. Thằng này vốn lãng mạn mới bị ớm đệ tứ thôi. Để tớ tranh luận với thằng Tế.

    Cũng đôi khi tôi đã cãi cọ với Tế Mỹ. Bao giờ Tế cũng hoa tay nói một loạt "biện chứng pháp, duy vật lịch sử" con gà đẻ quả trứng, quả trứng nở ra con gà và cây đậu sinh hạt đậu, hạt đậu lại mọc ra cây đậu, rồi những tít mù mâu thuẫn thống nhất gì nữa, tôi không biết, và tôi cũng không đáp lại được.

    Tế đã viết bài trên báo hàng ngày Bình Minh thân Nhật khen truyện dài Quê người của tôi nhà Mới vừa xuất bản. Từ đấy, tôi quen Tế. Mới gặp, Tế đã hỏi tôi biết đâu có thuốc gia truyền chữa bệnh liệt dương thì mách.

    Tế cũng thuộc bọn lang thang trong thành phố. Nhưng không chơi với cánh viết văn. Tế sống rúc ráy như chuột cống.

    Tế bảo phải ở "hạ tầng cơ sở". Tôi đánh giá cái “hạ tầng cơ sở” của Tế cũng như hồi tôi đi lang thang vào nhà mõ các làng với Song Hồ. Nhưng tôi im lặng đi với Tế. Tế hay rủ tôi ăn cơm đậu rán, uống rượu ở hàng cơm đầu ghế chỗ đầu cầu trên phố Bờ Sông. Vùng ấy, Tế thuộc cả các ngóc ngách hàng cơm, tiệm hút, nhà chứa. Có đêm Tế rủ tôi đi thuê "xăm” ngủ. Cái “xăm” kỳ quái cho người chơi lậu chốc lát hay cả đêm, rất bất ngờ đối với “đội con gái” lùng nhà thổ. Các nhà trên Bờ Sông hay ngăn buồng ra làm từng khoảng, chắn vách gỗ, liếp nứa. Chúng tôi nằm trong một gian hẹp như cái chuồng xí. Hai bên, một vách gỗ, một phên nứa, chong đèn cả đêm. Tế rất thạo tìm ra trong khe vách có một chỗ đút nút giấy để nhòm trộm sang buồng bên cạnh.

    Từ khi ấy, mỗi lần gặp Tế trịnh trọng đeo cà vạt đỏ, tôi buồn cười, như ở trên Kép gặp tờ-rốt-kít Dương Tá Ban đi làm thầy địa Tả Ao để mả.

    Tế đi giầy tây có cổ, chỉnh tề. Nhìn kỹ, mép cà vạt đỏ đã bóng nhẫy mồ hôi tay. Tế và tôi ngồi trong nhà Nguyễn Xuân Huy. Như Phong từ phía vườn hoa Hàng Đậu đi tới. Như Phong to lớn, bước đĩnh đạc, vẫn như mọi khi, nách kẹp quyển sách, đầu trần và miệng ngậm cái píp to.

    Tôi không nhớ Tế và Như Phong tranh luận những gì. Lời qua tiếng lại ào ào như ong bay, đến tận lúc thành phố lên đèn. Tế nói hơi lắp, mép nhấp nháy lỏng chỏng mấy sợi ria râu ngô. Tế đặt tay cạnh bàn. Tay Tế trắng xanh, nổi gân cục, cứ run từng lúc. Có vẻ Tế sợ Như Phong.

    Hôm gặp lại, Tế hỏi:

    - Thằng Như Phong có nói gì về tao không?

    Như Phong đã nói: "Thằng Tế ngu như bò mà kiêu không chịu được!”, nhưng tôi không dám nói lại với Tế như thế. Tế nhận xét Như Phong:

    - "Luý" chỉ lúng túng trong phạm vi quốc gia, phải quốc tế chứ. Tương lai nước ta trong tương lai cuộc đấu tranh giai cấp toàn thế giới. Các cậu không thấy ra chỗ này.

    Tế nói thêm:

    - Liên hiệp là thỏa hiệp, liên hiệp không phải là chủ trương của giai cấp công nhân. Thời kỳ bình dân các cậu thoả hiệp, bây giờ các cậu đầu hàng.

    Tế dùng chữ "các cậu" ám chỉ chúng tôi. Nhưng Tế không nói thẳng là Việt Minh, không phải Tế nể mà cả đến trong trò chuyện với nhau người ta cũng không dám nói hai chữ Việt Minh. Nhưng quái, hôm trước không nghe Tế nói thế. Thằng này sợ Như Phong, chỉ mạnh bạo nói phét trước mặt tôi.

    Tôi nói:

    - Đừng nói nữa. Chúng mày lý thuyết xuông, tao biết rồi.

    Tế tái mặt, mắt lồi ra như mắt cua:

    - Cách mạng không dừng lại, cách mạng bùng nổ liên tiếp đến khi cách mạng thành công trên cả trái đất. Mác đã nói thế.

    Ít lâu, Tế đi đâu. Có người bảo Tế đã về quê ở Hải Dương. Sau này, nghe có người nói Tế bị Việt Minh ở Thanh Hà thủ tiêu.

    Chúng tôi tìm cách giác ngộ Nguyễn Xuân Huy. Tôi bàn với Nam Cao. Chúng tôi ngần ngại. Nhưng rồi tôi cứ thử đưa một tờ Cứu Quốc cho Huy. Huy giữ tờ báo mấy hôm. Rồi lặng lẽ trả lại.

    Nam Cao nói:

    - Mình muốn bàn việc này.

    Huy trả lời ngay:

    - Cho mình nghĩ ít lâu nữa.

    Chúng tôi hiểu ít lâu là không bao giờ.

    Một trường hợp khác, Nguyễn Đức Chính có biệt hiệu là Phiêu Linh. Một anh thanh niên tập tễnh viết văn, cũng như tôi Chính ở Bắc Giang về Hà Nội. Đầu tiên, Chính làm đàn em điếu đóm cho cánh Đinh Hùng, Huyền Kiêu. Từ khi nhà xuất bản Tân Việt ra quyển ký Những đêm sầu của linh hồn và nhà Hàn Mặc in truyện thiếu nhi Con bò giời đày cũng của Chính, Chính thấy mình đã biết thế nào là làng văn. Vả chăng, bấy lâu hầu hạ lão Tân Việt, cũng học được mấy tẩy của nghề xuất bản. Chính bắt đầu đi dụ dỗ được nhiều người làm xuất bản. Chúng tôi gọi Chính là "thầy xuất".

    Chính nói:

    - Quấy cho cái nghề xuất bản nhộn nhịp lên thì anh em mình có phận nhờ.

    Có một hồi Nguyễn Đức Chính cũng mở nhà xuất bản, nhà xuất bản Nguyễn Đức Chính. Người ta kể Nguyễn Đức Chính về Bắc Giang nói khôn nói dại thế nào mà bố anh - một mục sư Tin Lành địa phận trên ấy, ông mục sư đã bán nhà cho anh cầm tiền về Hà Nội làm xuất bản.

    Nhà xuất bản Nguyễn Đức Chính in quyển tiểu thuyết tự truyện tên là Nhà ai của Nguyễn Đức Chính. Quyển sách dày tới năm trăm trang, bày lù lù ở các hàng sách. Thế rồi cả năm đi qua, vẫn thấy quyển sách trên quầy đã mờ cả bìa. Không ra thêm được quyển nào, sách ế, không thu được vốn Nhà ai về.

    Nguyễn Đức Chính lại long tong đi làm thầy xuất. Về việc Nguyễn Đức Chính sạt nghiệp, Vũ Hoàng Chương, có ra một vế câu đối, mà không ai đối được: Nhà mình bỗng chốc hoá "nhà ai ".

    Chính vốn nhẹ tính, chỉ cười hề hề. Tôi đưa báo Cứu Quốc cho Chính đọc. Chính cao to, đen xám, nói ồ ồ, khê như ngái ngủ. Ngày tôi mới gặp, Chính mặc áo dài thâm, đi guốc.

    Chỉ ít lâu, Chính đã nhiễm bộ tịch vừa ngang ngang vừa chán chường, cái điệu của anh làm văn thấy đời khinh mình nên phải khinh lại đời. Có lúc tay cũng cầm cái quạt thước, như nhà văn Nguyễn Tuân.

    Chính cười, trả tôi tờ báo:

    - Tớ chẳng Việt Minh, chẳng Đại Đông Á gì đâu, nhưng tớ muốn làm Việt Minh, làm Tây, làm chú Lùn lúc nào cũng được. Tính tớ thế.

    Cho đến bây giờ, tôi vẫn nghĩ có khi Nguyễn Đức Chính đã chết vì cái câu "tính tớ thế". Ít lâu sau, ở Hà Nội không thấy Chính đâu. Có người nói Chính về Bắc Giang, đi các làng mua thầu dầu, mua trầu cho nhà thầu. Một lần, Lê Quang Đạo cho chúng tôi biết trên chiến khu Bắc Giang hỏi về Nguyễn Đức Chính ở Hà Nội. Đạo biết Nguyễn Đức Chính.

    Chúng tôi cũng biết Chính. Nhưng biết thế nào về cái người "tính tớ thế", làm Tây, làm Việt Minh, làm Nhật, được cả.

    Biết cũng như không.

    Tôi không gặp lại Nguyễn Đức Chính lần nào nữa.

    Một buổi trưa, Nguyễn Xuân Huy từ trên phố về, bảo tôi:

    - Uy bị bắt.

    Tôi không hiểu sao Huy biết tin ấy, xưa nay tôi ngỡ Huy không biết Uy và tôi có quan hệ với nhau. Lúc ấy dương có báo động máy bay Đồng minh Anh Mỹ. Huy không ăn cơm, vào gói mấy cái quần áo, mấy quyển sách xong ngồi đấy đợi báo yên, rồi đi lên phố.

    Hà Nội hồi này ngày nào cũng có báo động. Tiếng còi trầm bổng rít lên, ngoại ô còn nghe rõ mồn một. Tàu điện bỗng dừng lại. Người chạy táo tác. Súng phòng không đã bắn ầm ầm. Người ta phân biệt đạn cao xạ Nhật thì sủi khói trắng. Súng Pháp từ pháo đài Cáo, pháo đài Láng bắn lên lỗ chỗ từng vệt khói đen vằn vèo.

    Máy bay Mỹ từ phía đông nam tới. Những chiếc phóng pháo B.26 lúc đen trũi, lúc sáng trắng theo bóng mặt trời, lừ lừ trôi trên đầu, rắc bom xuống thành phố.

    Như Phong tới. Vẻ bình tĩnh của Như Phong làm tôi yên tâm hơn.

    Như Phong nói:

    - Bé đã đi thoát được rồi. Có tin đã đến chiến khu.

    Vũ Quốc Uy bị bắt đột ngột. Bắt Uy rồi, mật thám giăng bẫy ở nhà Uy. Chúng thay tua đến rình và ngủ ngay đấy, tảng như người nhà.

    Một hôm, Bé đến nhà Uy. Mấy mật thám đã ngồi sẵn, đứa đánh cờ, đứa xem báo. Nhà Uy vốn chạ người đi lại. Có khi Bé ở đấy, lại ăn cơm hàng ở nhà đầu phố, gần nhà máy điện Yên Phụ. Như học trò ăn cơm tháng và cả Nguyễn Đức Chính cũng ăn cơm trọ đấy. Người ta chỉ biết mặt nhau ở lúc ăn, không biết gì hơn.

    Bé vào nhà chào mọi người rồi cất mũ lên mắc. Thấy người đánh cờ ngước lên, lé mắt nhìn trộm, anh chột dạ. Bọn mật thám cũng không ngờ cái người cần rình bắt lại đương đứng trước mặt. Anh Bé mặc cái áo dài vải magatoc đen. Sở Liêm phóng Bắc kỳ đương lùng bắt bí thư cộng sản, "Ông đốc lý đỏ” theo cách gọi của mật thám. Không ngờ cái cậu bé loắt choắt áo dài như học trò nhà quê ra lại là ông đốc lý cộng sản đương ở trước mặt chúng.

    Bé vờ ra sau nhà đi giải. Trông thấy vợ Tường - một anh công chức bạn Uy nhà ở trong, đứng cửa bếp, mắt đỏ hoe. Biết có biến, Bé chạy lên cái sân thượng sau bếp mọi khi chúng tôi vẫn họp.

    Bọn trong nhà cũng bắt đầu nghi, ra nhìn. Thấy bóng người vụt qua sân sau, cả bọn ùa ra.

    Bé đã tụt xuống chân tường sau chạy vào Ngũ Xã, rồi biến mất về phía chùa Châu Long.

    Thế là Bé thoát. Bọn ấy không dám báo về sở để Tây cho vây lùng. Tây mà biết mấy thằng để xổng ông đốc lý đỏ thì chúng nó mọt gông.

    Câu chuyện Như Phong kể Bé vượt vòng vây mạo hiểm và hồi hộp, không làm tôi sợ, mà tôi lại mơ màng đến những hoạt động ẩn hiện tài giỏi của người cán bộ.

    Như Phong nói:

    - Chúng ta tin ở tinh thần Uy, nhưng cũng phải cẩn thận. Cần tránh đi ít ngày.

    Nam Cao về Nam Định. Tôi cũng theo anh xuống quê Nam Cao ở Đại Hoàng.

    Hơn một tháng, tôi trở lại Hà Nội.

    Như Phong đến bảo:

    - Uy bị bắt vì lộ một công tác khác, không phải việc chúng mình. Và Như Phong lại hẹn đi họp. Chúng tôi không đề phòng hoặc tránh đi nữa.

    Còi báo động rên rỉ lại nổi dồn từng hồi. Máy bay Mỹ đến trên bầu trời ánh sáng một ngày tàn đã vàng mờ thành phố tiều tuỵ lặng im, chờ đợi.

    Bên kia hồ Tây, dần dần nổi lên tiếng gầm gừ. Rồi tiếng ran ra khắp trời. Cả đoàn tàu bay Mỹ đã đến, những cái máy reo rắc cái chết đương trôi trên trời.

    Người chạy nhốn nháo. Những tiếng nổ sét đánh xuống.

    Hồi ấy, tôi làm giáo viên truyền bá quốc ngữ miền Tây Hà (Bưởi) dạy đêm ở trường làng và trên Yên Thái, lại làm phòng thủ thụ động khi có báo động, đeo băng đỏ lên đứng đầu chợ dẹp người. Khói bom mù mịt bốn phía.

    Các đám cháy khét lẹt. Bơm rơi xuống Quần Ngựa, vào làng Hồ, cống Đõ, cả dọc sông Tô Lịch. Ở vạc làng Hồ, có một đám cưới đương ăn cỗ chết cháy hết. Những người đi chợ về ngồi gục trong gốc cây. Người hái rau muống dưới cống Đõ nằm lòi ruột trên cái thuyền thúng.

    Chúng tôi khiêng các xác chết đặt ra ngoài cạnh đường cái.

    Đầu làng Thuỵ, lính Nhật đứng trong lô cốt gác trại. Giữa làng Thuỵ, tiệm nhảy "Thuyền buồm" bờ hồ Tây đã đóng cửa. Một cơ lính Pháp đến đóng đấy đã mấy hôm. Người lính lê dương gác, đứng im. Tây, Nhật dửng dưng nhìn người chết bom xung quanh.

    Cả vùng bờ hồ Tây cháy mãi, tận đêm trời còn nổi từng tảng khói và lửa đỏ xuộm. Đâu còn đường sống bây giờ? Hôm sau, sáng sớm, còi báo động đã nổi. Báo động, báo động. Thúc bách lắm rồi. Tiếng đồn Nhật sắp hất cẳng Tây càng rộ lên cùng với những câu chuyện tàn ác về phát xít Nhật. Những chuyện người kể cũng giống những chuyện đăng trong báo Cứu Quốc bí mật. Đâu đâu cũng khủng khiếp. Bên Gia Lâm có người đàn bà chửa đi cắt cỏ ngựa bán cho Nhật, bị Nhật ngờ là người đi dò tin tức. Nhật mổ bụng con ngựa, nhét sống cả người đàn bà có mang vào bụng ngựa, đem khâu lại.

    Máy bay phóng pháo Mỹ lại bay từng hàng vào rải bom xuống thành phố. Nhà Đấu Xảo, xung quanh ga Hàng Cỏ, ngõ Hàng Đũa, chợ Hàng Da, vùng Giáp Bát, bãi nhãn Nhật buộc ngựa ở Thủ Lệ. Mấy hôm nay lại đánh phá nhà máy xe lửa Gia Lâm.

    Người chết nhiều quá. Tôi xốc những cái xác chết bên bè rau muống bờ sông lên, khuân ra để ngoài rệ đường, như khuân củi. Không thấy ghê tay buồn nôn nữa. Còi báo động và tiếng máy bay xé trời. Người chạy từng đám, nằm chồng đống trong các chân tường, các gốc nhãn. Tiếng Nam mô a di đà phật váng lên như khóc.

    Còi báo yên. Tôi về đến đầu làng. Tôi trông thấy Nguyên Hồng đã đi trước vào nhà tôi. Nguyên Hồng đưa vợ con chạy máy bay sang Thuận Thành hôm trước đã đem gửi tôi cái hòm và cái bàn. Thỉnh thoảng, anh lại lên chơi.

    Đột nhiên, tôi quay lại. Từ gốc đa cổng làng đi vào một đám lố nhố quần áo tây vàng, trắng.

    Bọn họ đã đến sau lưng tôi. Tiếng gọi: Ê! ê? ê! Rồi, mật thám Luýt, một Tây lai, nhảy lên trước mặt tôi, giơ cái còng sắt:

    - Đưa tay đây!

    Mật thám vào nhà tôi, gác cổng, gác sân. Bà ngoại tôi, mẹ tôi đâu phải ngồi nguyên đấy. Nguyên Hồng đương đứng trên đầu thềm. Anh hấp tấp ra đón tôi. Mật thám Luýt dang thẳng cánh, tát Nguyên Hồng một cái lạng cá, nó quát: "Đứng im!” Tôi thương quá. Vốn Nguyên Hồng tính bộp chộp thế. Năm trước, ăn cưới Thâm Tâm ở nhà phố Nhà Diêm rồi cả lũ, Nguyễn Dân Giám, Trúc Khê, Trần Huyền Trân, cả chú rể Thâm Tâm, kéo nhau ra hát cô đầu ở “24 gian” trên đường xuống Bạch Mai. Nửa đêm, Nguyên Hồng lay tôi dậy sang giường anh. Một người cô đầu ngồi đấy. Nghe hát xong, mọi người đã ngủ. Nguyên Hồng vẫn rì rầm trò chuyện với người cô đầu. Nguyên Hồng nói: "Anh giới thiệu em, anh Tô Hoài, nhà văn xã hội". Có lẽ cả đêm anh đã thuyết phục, giác ngộ cô ả đào.

    Chúng khám nhà rồi bắt tôi và Nguyên Hồng đi, khuân theo của tôi một hòm sách và bản thảo, giấy má. Trong có một tờ Cứu Quốc bí mật, một quyển "ABC mác xít", quyển phóng sự chữ Pháp Mười ngày rung chuyển thế giới của Giôn Rít, sách Như Phong mượn của thư viện Hà Nội.

    Cái xe ô tô mật thám bịt bạt vải xám, có hai hàng ghế, đỗ trên ngã ba đầu chợ. Tôi bị ẩy lên đầu ghế trong. Tình cờ, ngồi ngay sau lưng mật thám Luýt, cách cái vách bạt, có lỗ vuông cửa kính mi-ca, nhìn qua được. Tôi thấy thằng Luýt cầm mảnh giấy nhỏ, trong giấy viết những tên người; Tô Hoài, Như Phong, Nguyễn Đình Thi, Học Phi, Nguyễn Hữu Đang.

    Ô tô đến trước chợ Đồng Xuân, đỗ lại. Mật thám Luýt nhảy xuống. Thế này thì tổ tôi bị bắt cả rồi. Một lát, mấy người dẫn Như Phong ra. Hai tay Như Phong bị khoá còng sắt như tôi. Nhưng khuôn mặt phương phi của anh vẫn thản nhiên như mọi khi khiến tôi chợt nhớ việc xảy ra. Đã trông thấy có thể có ngày hôm nay từ đêm họp đầu tiên trên sân thượng sau nhà Uy. Nghĩ thế, tôi bình tĩnh hơn.

    Chúng tôi bị giải về Sở Mật thám Hà Nội. Một lúc, tôi thấy những người có tên trên mảnh giấy tôi trông trộm ở tay mật thám Luýt cầm đều lần lượt bị bắt tới. Người sau cùng bị giải đến là Nguyễn Đình Thi. Chỉ thiếu Học Phi. Nguyễn Đình Thi, một sinh viên, tôi chưa biết mặt nhưng lại biết Thi vì một chuyện khác. Năm trước, Lại Phú Khoát cùng làng tôi học trường Bưởi với Thi. Thi đã tổ chức lạc quyên ủng hộ Khởi nghĩa Bắc Sơn trong học sinh. Khoát được Thi và các bạn tuyên truyền Khoát đã về kể lại với tôi. Khoát ủng hộ Bắc Sơn cái đèn pin và chiếc áo ba-đờ-suy dạ “mông-ta-nhắc” đương mặc.

    Tôi xin ra đi đái. Từ sáng, bây giờ mới được đái. Vừa đứng chỗ đái, người mật thám dẫn tôi canh đằng sau, đã cất mồm chửi:

    - Tiên sư mày, đái nhanh lên?

    Câu chửi nghe thấm cái đau hơn cả lúc bị bắt. Lúc còn trẻ con chơi chửi nhau, chẳng nói làm gì. Từ khi lớn, chỉ bị thằng đốc tờ ở Hà Đông chửi một lần, còn chưa nghe ai chửi mình bao giờ. Đời sang giai đoạn khác từ đây.

    Tôi phải giam chung xà lim với một người bồi bị chủ Tây nghi là ăn trộm. Anh khóc lo mai bị tra điện. Cái xà lim dài hơn sải chân. Muỗi quá, nằm ngửa, chân tay bị cùm, không xua được. Tiếng muỗi, tiếng người khóc ti tỉ, đàn rệp ngửi hơi người bò ra. Lạ thật, chỉ bệ xi măng và cùm sắt mà rệp cũng ở được.

    Đến khuya, người bị tình nghi ăn trộm hỏi tôi:

    - Ông làm sao mà bị bắt?

    Tôi không bằng lòng anh ấy khóc ư ử từ nãy, tôi trả lời:

    - Tôi bị bắt về tội đọc sách làm chính trị.

    Tôi thấy người ấy im đến sáng.

    Tờ mờ sáng, mật thám Luýt xuống quát tôi ra, hỏi ngay trước cửa xà lim:

    - Thằng Hồng đến họp ở nhà mày à? Chúng mày sắp họp à?

    Tôi nói:

    - Không, người ta đến chơi. Chẳng có việc gì cả.

    Ngay hôm ấy, Nguyên Hồng được thả, chúng tôi bị giải đi Nam Định, vẫn không hiểu vì tội gì.

    Mới bị bắt ít lâu mà Uy gầy yếu, da tái xám. Đầu anh trọc trông càng rộc hẳn. xuống nhà lao Nam Định, mới rõ dần chuyện chúng tôi bị bắt thật rắc rối. Không phải Uy bị bắt vì Văn hoá Cứu quốc. Uy làm công chức phủ Toàn quyền trên Hà Nội, nhưng bố anh dạy học và nhà ở Nam Định, Uy về Nam Định, đem sách báo bí mật tuyên truyền Việt Minh cho nhiều người dưới ấy. Anh đã lập được mấy tổ công chức Cứu Quốc ở thành phố Nam Định.

    Những người những anh em ấy được giác ngộ rồi đã hăng hái, xốc nổi và ngây thơ. Có người viết thư nặc danh chửi công sứ Giăng Giăng. Mật thám tìm ra chữ người viết thư, tra hỏi. Thế là lộ tất cả những ai đã được Uy tổ chức vào Việt Minh, Uy bị mật thám Nam Định lên Hà Nội bắt.

    Uy bị bắt, bị tra tấn, xét hỏi về tổ công chức Cứu Quốc ở Nam Định. Hồ sơ đã xong và đã bị đưa lên Hà Nội giam Hoả Lò sắp ra toà. Nhưng mật thám Nam Định vẫn còn nghi Uy có hoạt động khác nữa. Bèn nhờ sở Mật thám Hà Nội bắt Tường ở nhà trong. Tường bị tra điện, bị đánh. Thế là chúng biết còn có bọn chúng tôi hay đến nhà Uy.

    Buổi sáng, trước cửa nhà giam, Văn Tiến Dũng từ trong xà lim được dẫn ra hành lang cho đi giải. Đột nhiên, anh đứng lại, quay mặt ra sân, nhìn vào chúng tôi đương ngồi rải rác đấy, anh nói to: “Thưa đồng bào, tôi từ hải ngoại về nước. Cách mạng Việt Nam hiện nay đương trôi nổi, từ hải ngoại...”

    Văn Tiến Dũng bị mật thám bắt ở Sen Hồ bên Bắc Ninh. Anh đương hoạt động ở Trung du.

    (Sau này, tôi được biết anh nói “tôi từ hải ngoại về” vì anh đoán trong bọn ở ngoài sân, có anh em mình, cũng có thể có "chó", nó sẽ tưởng anh ở nước ngoài về. Vì thế mà địch lạc hướng hỏi cung). Những trận đòn ác liệt mà Văn Tiến Dũng đã ra gan chịu ròng rã hàng tháng. Tất cả trại giam nín lặng, kính phục. Có Cầm Văn Dung, tri châu người Thái, bị bắt vì tội âm mưu với nhân tình là Lò Thị Cam, đầu độc chết công sứ Sơn La Sanh Pulốp. Ông tri châu, mặc quần áo ngủ, ở ngoài hiên, không phải nhốt xà lim. Sau mỗi trận mật thám tra điện anh Văn Tiến Dũng, ông ta lại lẩm bẩm tiếng Tây: một người anh hùng. Rồi ông ấy bí mật đưa sữa vào cho anh.

    Tôi lại thấy những mật thám ác như tên Đỉnh ở Nam Định, suốt ngày đêm quay điện, đánh người không ghê tay. Thế mà Đỉnh lại sợ vợ, bị vợ vác củi đánh. Vợ Đỉnh đồng bóng cũng khét tiếng thành Nam, như Đỉnh khét tiếng ác.

    Chúng tôi được giải xuống Nam Định. Tôi hồi hộp bồn chồn thấy những đêm mật thám đi càn bắt về hàng trăm người các huyện Yên Khánh, Yên Mô ở Ninh Bình. Chúng tra tấn ròng rã cả tuần cũng không cạy răng ai được một câu.

    Thế mà, ngay giữa cơn đòn tra, chập tối đến, trong các xà lim lại vang ra những lời tụng kinh Tam thiên tự Việt Minh. Tiếng đọc đều như học trò học bài.

    Tôi lại thấy cảnh mật thám trùm chiếc chăn dạ xám lên đầu những đứa phản bội đã khai báo rồi dắt chúng đứng nấp trong ngách cửa cho nhìn ra nhận diện người mới bị bắt.

    Xà lim tôi bị nhốt ở Nam Định đông ngốt đến ba chục người. Thế mà cũng có vài con "chó" giả làm người bị bắt, "chó" vờ nằm lẫn với người để đánh hơi tìm đầu mối.

    Có người bảo chúng tôi còn may, vì Nam Định lên nhờ mật thám Hà Nội bắt hộ, điều đó bẽ mặt mật thám Hà Nội, nên chúng nó làm tắc trách. Bởi thế, thoáng buổi sáng, ở sân nhà giam, trước khi bị giải xuống Nam Định, Uy đã rỉ tai được với bọn tôi những việc cần khai cho khớp khẩu cung với nhau. Chúng tôi sẽ nhận có đến nhà Uy. Mỗi người quen Uy vì một lẽ khác nhau. Chúng tôi có nói chuyện về văn hoá tiến bộ, nhưng không phải là hội họp, không đóng tiền nguyệt liễm. Phần riêng của tôi tôi chỉ biết Uy và Như Phong. Nó hỏi về anh Bé, tôi bảo tôi không biết. Tôi sẽ không khai Nam Cao.

    Trong chúng tôi, Thi và Như Phong đã bị bắt, bị tra tấn lần trước, khi mật thám khủng bố Mặt trận Dân chủ. Thi cao lớn ngăm ngăm, thoạt trông thì dữ, nhưng có đôi mắt hiền và người ra vẻ trí thức. Những đêm xà lim lạnh buồn đầu thu, khi đã xong cung, đợi phải đưa sang toà án, chúng tôi được giam chung, tôi nghe Thi hát giọng trầm mà buồn. Thi kể chuyện bị bắt ở Hà Nội năm trước, mật thám Phơtô bảo: “Chúng nó khen mày hát hay lắm, bây giờ mày hát tao nghe". Vừa nói, nó quay điện tra luôn.

    Như Phong dặn tôi một mẹo: "Lúc bị quay điện, mày cứ há mồm ra kêu tướng lên như thế đỡ đau”. Tôi gầy kheo khư nhất đám. Ai cũng ngại tôi không chịu nổi đòn.

    Uy bị giam ở đây đã lâu nên thông thạo, biết làm cách liên lạc. Chốc lại xin cai ngục cho đi đái. Có lần, đi qua, đứng lại trước lỗ ánh sáng cửa xà lim tôi lâu đến lúc cai ngục trông thấy, đuổi mới đi. Uy nói rõ vào: "Cứ như thế nhé. Khi nào đau quá thì nghĩ đến cờ đỏ... mình lăn ra đấy thì không biết đau nữa... Nghĩ đến cờ đỏ búa liềm...”.

    Có lần Như Phong gọi vào lỗ cửa:

    - Này, này, nhớ đấy. Trông mặt tao đây, đừng run.

    Tôi trông ra lỗ đưa cơm trên cánh cửa xà lim có lưới mắt cáo chỉ thấy một cái mặt lởm chởm râu. Nghe tiếng thì biết chứ mật chẳng giống Như Phong mọi khi.

    Thật tôi cũng không nghĩ ngợi gì. Đôi khi, tôi chỉ phảng phất nhớ nhà. Bố của Uy, bố Như Phong, mẹ vợ Thi đã xuống thăm con. Tội nghiệp chắc bà tôi, u tôi ở cái làng Nghĩa Đô quê kệch kia không biết tại sao tôi bị bắt và cũng chẳng biết tôi bị bắt đi đâu.

    Một hôm, tôi phải điệu lên phòng giấy mật thám Tây Lơ Cóc hay Lơ Giơn gì, không nhớ. Tôi thấy Học Phi đã đứng đó.

    Lâu không gặp, nhưng anh vẫn thế. Anh nhe răng cười, hai hàm răng trắng toát, lúc nào anh cũng đánh răng bằng miếng cau khô.

    Tôi nhớ đã bàn tôi chỉ biết Uy và Như Phong. Tây mật thám trỏ Học Phi, hỏi tôi:

    - Biết ai đây không?

    Tôi lắc đầu. Tôi đã nghĩ sẵn: này nó đánh, này nó đánh. Nhưng nó chỉ nện tôi một bạt tai, rồi lại sai dẫn tôi về xà lim.

    Không ai nhận, Học Phi được thả ngay. Hôm sau, tôi bị tra điện. Nó hỏi việc họp tổ ở nhà Uy. Tôi chưa nói gì, đã ngất sùi bọt mép.

    Cũng chỉ có một lần ăn đòn như thế. Rồi chúng tôi được trả lại Hà Nội, sau câu nói cuối cùng của chánh án Nguyễn Hữu Trí: "Các anh không nên liều lĩnh". Tôi đã biết mặt lão tây lai Nguyễn Hữu Trí quan phủ Hoài Đức, khi tôi cùng Điều và Hoà đi xin phép lập hội Ái hữu thợ dệt Hà Đông và khi tôi bị bắt đi lính không nghề suýt phải sang Tây. Bây giờ lại thấy lão ở toà án Nam Định. Tôi không hiểu thế nào về câu nói vuốt đuôi ấy của ông quan. Bởi tất cả những gì phải làm và lấy của đút của người nhà phạm nhân thằng Tây đã làm, đã ăn, thằng quan chánh án An Nam này có chấm mút gì hay không.

    Chúng tôi bị đưa về Hà Nội. Uy ở lại. Cái án Văn hoá Cứu quốc chỉ có đến thế ở Nam Định. Uy trở sang nhà lao rồi lên Hoả Lò với án ba năm tù ngồi tù án trước.

    Uy đứng cuối sân nhà giam cạnh bãi cỏ, nhìn ra tiễn chúng tôi. Tay anh cầm lọ mật ong vàng sánh có ngâm rau thai của bố anh gửi vào cho. Anh ngước cặp mắt kính. Hai gò má nhô lên, trông càng hốc hác. Những ngày gian khổ vừa qua, những việc anh giúp chúng tôi, tôi hiểu lòng anh, thật tình anh không phản bội.

    Trên tàu hoả đêm ấy, trăng cuối thu lạnh biếc loang loáng ngoài cánh đồng chiêm vào cửa sổ. Thi và Như Phong ngủ ngon trên cái ghế dài như hai đứa trẻ, tay vẫn bị cùm.

    Mật thám Đỉnh giải chúng tôi lên. Cả đêm, Đỉnh nói chuyện huyên thuyên như người ngồi đồng. Ô hay nhỉ, cái lúc thằng mật thám không đánh người thì nó cũng người như người ta. Nó kể chuyện tại sao nó đi làm nghề mật thám.

    Tương tự chuyện nhiều mật thám cũng thường nói thế. Hệt thằng Kiêm trong Vạn Phúc năm trước kể với tôi.

    Năm ấy, Mặt trận dân tộc phản đế ra đời và hoạt động ở Vạn Phúc được ít lâu thì các cơ sở vùng La, Mỗ, Ngọc Trục, Vạn Phúc bị vỡ. Kiêm bị bắt với Tý, là em. Được tha về, gặp tôi, Kiêm bảo:

    - Hai anh em thì chỉ có thể một người đi làm cách mạng, còn một người phải ở nhà nuôi bố mẹ. Tớ ở nhà.

    Kiêm ở nhà và làm "chó", lấy con gái nuôi nhà Hai Cua chủ sòng bạc. Chuẩn bị Tổng khởi nghĩa Kiêm bị thủ tiêu ở Vạn Phúc.

    Đỉnh cũng kể nó và anh nó cùng hoạt động. Đỉnh cũng từng là cách mạng. "Nhưng không thể hai anh em cùng hy sinh". Anh nó bây giờ đi hoạt động xa. Ở nhà, cả nhà vợ anh, nó cũng chu đáo không sót, làm mật thám, nhưng nó hay giúp người cách mạng, Đỉnh bảo thế. Câu chuyện bịa cứ thao thao ráo hoảnh.

    Về đến xà lim sở Mật thám Hà Nội, mật thám Luýt lại gọi từng người chúng tôi lên.

    Luýt ngắm nghía tôi một thoáng, rồi bảo:

    - Cái thằng "Bé con" dạo nọ vẫn họp với mày ở nhà thằng Uy là ông đốc lý cộng sản đấy, mày biết không? Được, cứ xuống xà lim cho "tỉnh người" rồi ông sẽ cho mày biết thêm.

    Ở mật thám Hà Nội bấy giờ Tây đương giam nhiều đảng viên đảng Đại Việt. Pháp và Nhật đã đến độ căng nhất.

    Những người thân Nhật chạy vào trại lính Nhật, Nhật đưa đi Chiêu Nam (Sanhgapo) như Dương Bá Trạc, Trần Trọng Kim, Vũ Đình Di... Bọn ở lại, cậy thế Nhật, đã sắm súng ống, nhưng Pháp cũng lùng bắt ráo riết.

    Khu vi ô lông ngoài sân, chỗ nào cũng có Đại Việt. Có lão già râu ria lôi thôi ngồi bần thần bắt rận. Như ông lang phố huyện. Cánh Đại Việt cãi nhau hàng ngày với Việt Minh.

    Nguyễn Chấn "mắm tôm" bên ta đối phó hăng nhất. Anh cởi trần, bụng xệ, cặp lông mày sâu róm, nói choang choác. Anh bẻ gãy lý sự chúng nó.

    Chấn bảo chúng tôi:

    - Cũng bị bắt như các đằng ấy, chỉ một năm trước, thì ăn chắc năm năm tù.

    Một năm trước, tình hình khác.

    Bây giờ, mật thám Luýt ngày ngày đem báo Đông Pháp xuống ngồi đọc ngay cửa xà lim. Đến chỗ tin Hồng quân Nga giải phóng Bucarét, nó cười như mếu.

    Một lão Đại Việt tru tréo, vu vạ:

    - Đấy nhá, đấy, các ông một giuộc với giặc lõ rồi, mật thám ngồi đọc báo cho nghe, rõ ràng, rõ ràng đấy thôi.

    Thế là lại um lên. Đại Việt ngồi trong hiên. Việt Minh đứng ngoài gốc sấu.

    Tôi được biết Hà Nội sắp xét lại vụ của chúng tôi.

    Luýt gọi tôi lên. Nó đương mải viết, không ngẩng đầu. Vẫn cắm cúi thế, bỗng nó quát thật to, chẳng buồn nhìn lên.

    - Cho cút. Bận sau còn tụ bạ thì chết với ông?

    Hôm mới vào, đi đái, bị mật thám chửi, câu chửi buổi đầu còn cay, đến câu quát này nghe thấy nhàm. Nhưng tự dưng Luýt ngẩng lên, nói thêm một câu, khác hẳn:

    - Mai kia cách mệnh thành công, mày đừng giết thằng Luýt nhé!

    Đương tưởng sắp lôi thôi, lại hoá ra được thả. Tôi không hiểu sao.

    Tôi ra chỗ lấy quần áo gửi. Vào xà lim, theo lệ, sợ người bị giam tự tử, sở Mật thám bắt cởi để lại cả dây giầy, thắt lưng, giải rút, ví tiền, đồng hồ... tất cả những dây dợ và cái gì có trong người.

    Tôi đứng cửa. Một người ngồi trong bàn giấy mở sổ gọi tên lần lượt. Đến tên tôi, người ấy nói trỏ ra:

    - Mày chẳng còn cái đếch gì cả?

    Tôi bước thất thểu. Bấy lâu, những cái mặt sàn xà lim xi măng ở Hà Nội, ở Nam Định đã cắn băng mất cả lưng cái áo may ô.

    Tôi cứ lưng trần đi về nhà.

    Bà ngoại tôi trông thấy, oà khóc. Ở làng trên, cũng có ông cai Long làm sở mật thám. Hôm trước, cai Long xuống doạ: cháu bà có sống về cũng thành tật. Chạy đưa một trăm thì mọi việc xong xuôi. Một đồng gãy nhà tôi cũng chẳng đào đâu ra nữa là những ấy tiền. Và đúng là cả nhà chẳng biết mấy tháng nay tôi bị bắt đi nơi nào. Bà ngoại, ngày rằm và mùng một lại mua miếng thịt lợn sống, ra lễ ngoài "rừng ông Cụ".

    Tối hôm ấy, Hoà đến hỏi thăm. Hoà ở xóm Trẽ. Chúng tôi đã cùng hoạt động hồi Ái hữu năm trước.

    Hoà nói:

    - Mai tớ lên nhà hộ sinh Yên Thái xin mấy cái rau bà đẻ. Cái rau đàn bà đẻ chóng lại người, bằng mấy thuốc. Bây giờ công tác nhiều lắm.

    Chỉ đi vắng ít lâu mà như tình thế đã khác nhiều rồi.

    Hoà đưa tôi một tờ Cứu Quốc mới. Và một mảnh giấy to bằng cái phong bì cứng bóng như giấy ảnh. Đấy là tờ giấy của tàu bay Mỹ ném xuống, trong vẽ hình người phi công Mỹ cao to màu xanh mờ, bên cạnh ghi hàng chữ quốc ngữ: "Ai thấy người phi công nước Hoa Kỳ như thế này nhảy dù ở đâu thì giúp đỡ cho ăn uống, chỉ đường, đừng đi báo quân Nhật Bản. Ai có công, giữ tờ giấy này, sau này Đồng minh sẽ thưởng nhiều tiền".

    Nhớ phong trào làng tôi năm trước, có Điều, có Hoà... Mới đầu, diễn kịch còn là việc rất mới. Hoà đóng vai thổ công trong một vở kịch. Bố Hoà tối nào cũng đi lùng chỗ tập kịch đuổi đánh con. Ông sợ phải tội vua bếp làm. Hôm kịch diễn, ông đứng xem, thấy thằng con ra đeo râu, đội cái mũ vua bếp phất giấy đen có trang kim lấp lánh, lại đi đôi hia giấy, mặc áo thụng và hai đầu gối thò ra, nhiều người cười vỗ tay, ông cũng cười. Rồi chúng tôi được đà diễn nhiều kịch. Mỗi tối, người xem đứng chật sân đình. Các vở Người biển lận và Cái tủ chè của Vũ Trọng Can, Tấm lòng vàng của Nguyễn Công Hoan, Gái không chồng của Đoàn Phú Tứ. Không một tiếng vang của Vũ Trọng Phụng. Và Toà án lương tâm của Vũ Đình Long. Chúng tôi lập hẳn một ban kịch, tên là Nghĩa Đô kịch đoàn. Nô nức lắm. Diễn kịch rồi đến việc đi kiện hương lý bán bãi nhãn của công rồi chống thuế, rồi lập Ái hữu thợ dệt, rồi dạy truyền bá quốc ngữ phong trào và ý thức lên dần. Hoà hăng hái tham gia tất cả.

    Suốt ngày, Hoà ngồi xếp bằng tròn giải thích điều lệ trên phản giữa trụ sở hội Ái hữu trên đầu chợ Bưởi trong cái hầm chứa vỏ dó nhà Oanh mà chúng tôi thuê lại. Đến ngày nay, phải bí mật, có thể tù tội, thế mà cách mạng đã nảy nở sâu trong làng. Tôi hiểu dù gian nguy, nhưng đương tới thay đổi.

    Tình hình thế giới, trong nước, trong làng tôi dồn lại phải đi tới thế nào. Chưa bao giờ cả vùng tiêu điều khốn khổ đến như thế. Nghề lĩnh lụa đã lụn bại hẳn. Khung cửi đem chẻ đun, bán làm củi. Người tha hương bơ vơ những đâu, vãn cả làng. Trông trước thấy cái đói, cái chết mà dường như đành.

    Hoà và tôi ngồi trong thềm hè. Ánh ngọn đèn hoa kỳ hắt lốm đốm xuống mảnh chiếu.

    Ở bờ rào rặng tầm xuân ngoài cổng tán nghe một tiếng soạt mạnh. Hoà cười, đứng lên. Cái bẫy chuột đã sập. Được con chuột! Làng tôi hay ăn thịt chuột. Thịt chuột rán với vỏ quýt. Nhưng ngày trước, chỉ đến tháng mười mới đi bắt chuột đồng. Chuột làng người ta chê bẩn. Bây giờ chén tuốt cả chuột cống.

    Đấy là mùa đông 1944.

    Nhà xuất bản Tân Dân thôi không mua bài của tôi như mọi khi nữa. Ông ấy ngại lôi thôi.

    Tôi đến, ông Tân Dân nói:

    - Tôi đã bảo ông dừng đua đả, đừng dại. Không phải tôi sợ cách mệnh đâu ông nhé. Có ông Trúc Khê ngồi làm việc trên gác, ông Trúc Khê ngày trước là Việt Nam quốc dân đảng chứ có tay vừa đâu. Về sau ông ấy mới thấy chỉ có đem văn học ra phụng sự quốc dân mới đúng là giúp nước.

    Ông Tân Dân còn nói nữa, nhưng chẳng có câu nào mời tôi viết. Tôi không thấy như mọi khi, ông mở ngăn kéo lấy ra cái giấy nhượng quyền tác giả và những tờ giấy bạc, trịnh trọng và cẩn thận đếm xong đưa cho tôi rồi ông xoa hai tay hoan hỉ, theo thói quen. Hôm nay, ông chỉ mời xơi nước. Tôi cũng không đưa ra cuộn bản thảo, có truyện ngắn, có truyện thiếu nhi Truyền Bá. Ông tiễn tôi ra tận thềm ngoài, sau cái bình phong như mọi khi, nhưng cũng không nói khác thêm. Rồi nhà Tân Dân chạy bom Mỹ về Mục Xá. Tôi cũng không đến nhà ông lần nào nữa.

    Nhà xuất bản Kiến Thiết ở phố Trường Thi mới mở, mời tôi viết. Tôi không quen ai ở đây, túng thì nhận lời. Tên tôi cùng một số tên nhà văn khác, nhà xuất bản quảng cáo lên báo.

    Hôm ấy, tôi có khách lạ chưa gặp bao giờ. Một người mặc sơ mi trắng, dáng nhanh nhẹn, tự giới thiệu:

    - Tôi ở Sở liêm phóng.

    Tôi không ngờ. Nhưng tôi không thấy người mật thám chìa cái cùm ra. Người mật thám chỉ nói:

    - Sở liêm phóng mời ông xuống.

    Một người mật thám Tây hỏi tôi có biết nhà xuất bản Kiến Thiết và những người cùng đứng tên trong quảng cáo với tôi. Tôi nói không biết - mà tôi không biết thật.

    Mật thám Tây ấy mặc cả liền:

    - Tôi cho anh viết nhà xuất bản này, anh phải báo cho tôi biết mọi việc họp việc làm của những người mà tôi cần biết. Anh bằng lòng không?

    Tôi không dám làm chỉ điểm công nhật cho mật thám như nó bảo thế. Tôi hiểu vậy là tôi bị triệt đường làm ăn. Thế nào bây giờ? Tôi lo đói - cũng như cả làng đương đói.

    Nguyễn Huy Tưởng đến bắt liên lạc ngay sau mấy hôm tôi được sở Mật thám thả về. Nguyễn Huy Tưởng cũng hoạt động trong hội Truyền bá quốc ngữ, anh có một truyện dài dã sử, Đêm hội Long Trì đương đăng trên tờ Tri Tân tuần báo nghiên cứu lịch sử.

    Bây giờ cái sở nhà Đoan - nơi Nguyễn Huy Tưởng làm chạy bom đi khỏi thành phố, và vợ con Tưởng cũng tránh về Dục Tú làng quê anh, chỉ có mình Nguyễn Huy Tưởng ở lại. Cả ngày, lông nhông ngoài đường.

    Chiếc xe đạp có cái ghi đông vểnh. Những bài báo bí mật tôi viết cho báo Cứu Quốc, báo Cờ Giải phóng, những bài một trăm, hai trăm chữ được cuốn tổ sâu, Tưởng đem đút vào ruột ghi đông rồi đậy lại cái tay nắm bằng nhựa đen.

    Nguyễn Huy Tưởng bảo tôi viết bài cho báo. Tôi lại viết, tôi viết lại chuyện đội nữ du kích hồ Ba Bể lần nữa.

    Những ngày đầu khởi nghĩa, đội Tuyên truyền giải phóng quân từ chiến khu Việt Bắc vào Hà Nội, tôi đã gặp chị Thanh, chị Loan. Các chị giải phóng quân kể chuyện sinh hoạt ở khu giải phóng, chuyện Kim Đồng hy sinh, chuyện trận Lũng Hoàng. Các chị nói có vài lần hành quân qua hồ Ba Bể, không có đội nữ du kích ở đấy.

    Nhưng đội nữ du kích hồ Ba Bể tưởng tượng của tôi đã thành kỷ niệm trong đời viết, từ khi tôi chưa đặt chân tới vùng rừng núi ấy. Biết đâu câu chuyện trời nước rừng xanh này lại không phải là ngọn nguồn tình cảm tôi sau này, khi lên Việt Bắc, tôi đến ở lâu núi Phia Biếc cạnh Ba Bể châu Chợ Rã - quê hương thứ hai cho sáng tác của tôi. Trong cội rễ tư tưởng, có nhiều nguyên nhân lắm khi không biết và cắt nghĩa hết được.

    Mỗi lần gặp, Nguyễn Huy Tưởng lại dốc ghi đông ra một đống bài đút nút bên trong. Có lần anh lấy đằng lưng áo sơ mi ra một tệp báo Cứu Quốc, báo Cờ Giải phóng. Tưởng sôi nổi, thú vị gần gũi không có vẻ bí mật lặng lẽ và trinh thám của Như Phong.

    Tình hình càng sôi nổi, mọi hoạt động của chúng tôi gần như công khai.

    Cái Tết lặng lẽ đến. Không ai biết Tết, bởi không có Tết.

    Cả làng im ắng như không. Nhà phong lưu trong làng tôi năm nay cũng gói bánh chưng nhân thịt chó. Không ai nghĩ ra được có khi phải ăn bánh chưng nhân thịt cái giống xúi quẩy ấy vào ngày tết nhất.

    Nguyễn Huy Tưởng bảo tôi:

    - Chúng ta sẽ có một cuộc họp hai ba hôm. Làm ở nhà cậu có tiện không?

    Tôi bảo:

    - Được Nhưng ăn uống thế nào, độ mấy người?

    Cậu không phải lo.

    Hỏi kỹ, Nguyễn Huy Tưởng cũng chẳng lo được gì. Thế là tôi vẫn phải chạy. Nguyễn Hữu Đang đưa cho năm đồng và tôi vận động các bạn cảm tình Việt Minh, Khôi và Khoát cho được mấy cái bánh chưng và cân cá mắm.

    Vẫn ở nhà tôi. Cái gian buồng âm thầm tối om om đầu nhà, tôi và Nam Cao đương ở, ngày trước các thầy giáo bên đạo đã ở và tôi đã được sinh ra ở đấy, và năm trước, mật thám Luýt đến bắt tôi ở đấy. Bây giờ cách mạng lại đến họp ở dây và họp to hơn tất cả mọi lần. Tình thế đã nóng lắm đến nơi rồi. Thay đổi gì không hay là chết đến nơi. Phiên chợ Bưởi cuối năm, bề bộn người các làng kéo ra ăn xin, ăn cướp, người đói đông gấp mấy lần người đi mua bán.

    Tôi cũng không biết trước những ai đến họp. Tưởng nói độ mươi người. Con số thế cũng là to, chưa lần nào nhiều thế.

    Đến hôm họp, thấy vẫn toàn bạn quen. Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Hữu Đang, Trần Huyền Trân, Nguyên Hồng. Các anh Hương và anh Độ(18), cán bộ trên về.

    Một ngày, Trần Độ nói về tình hình thế giới trong nước.

    Một ngày, giảng chương trình Việt Minh và kế hoạch sửa soạn khởi nghĩa.

    Độ người vạm vỡ, khác anh Bé. Anh say sưa nhất khi nói công tác khởi nghĩa đến mục quân sự.

    Độ nói: Đề cương về văn hoá của Đảng viết "Cách mạng văn hoá có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công" và "bây giờ chúng ta đương dồn sức chuẩn bị khởi nghĩa, làm cho cách mạng chính trị thành công". Đề cương đã nói cách mạng văn hoá đi sau cách mạng chính trị. Những phương pháp cải cách văn hoá đề ra bây giờ dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau. Chúng ta đương phấn đấu như thế”.

    Đề cương văn hoá Việt Nam của Đảng nói cả nhiệm vụ cần kíp của nhà văn hoá mác xít Việt Nam. Độ bảo anh không am tường vấn đề này lắm. "Các đồng chí cứ phát biểu. Khi cách mạng thắng lợi chúng ta sẽ lãnh đạo văn hoá chúng ta là những người xây dựng công tác văn hoá trong chương trình của Việt Minh".

    Công tác chuẩn bị khởi nghĩa, Độ nói tỉ mỉ. Nghe Độ nói, tôi như nhìn thấy khởi nghĩa là một chiến trường mà cả nước sắp bước vào. Thế nào là du kích chiến. Đánh du kích, đánh bằng trí óc và mẹo cùng với sự nhanh nhẹn. Một bà già, một em nhỏ cũng có thể đánh du kích. Kẻ địch đi đâu cũng gặp du kích, bị du kích tấn công, cả nước thành du kích. Kẻ địch muốn đứng không chỗ đứng muốn nằm không chỗ nằm cứ đánh thế, đánh mãi, luôn luôn vững tinh thần người này hy sinh người khác thay, cho đến lúc cách mạng thành công. Trần Độ hẹn lần sau sẽ cho tập bắn súng, tập lựu đạn.

    Năm trước, họp ba người với Lê Quang Đạo trên gác sân thượng sau nhà Uy. Bây giờ, những cuộc họp ấy đã xa xa như trong kỷ niệm thơ ấu. Bây giờ sự thật to lớn đương rầm rộ lên. Tôi cảm tưởng hồi hộp cả nước chuẩn bị.

    Tôi viết thư nhắn Nam Cao. Không hình dung được Nam Cao lên để làm gì và làm thế nào chúng tôi sống được, nhưng tôi cảm thấy Nam Cao phải lên ngay không thể ở Đại Hoàng.

    Lúc này phải làm gì. Mặc dầu tôi đương cảnh khó khăn, không biết trông vào đâu. Nhà có bà tôi, u tôi, ba người. Màu đói đã vàng cả trong mắt, vàng cả chân trời. Nhưng tôi cứ giục Nam Cao lên. Tình thế bồng bột, mãnh liệt vượt cả nỗi khó khăn chồng chất hàng ngày.

    Trên chợ Bưởi, người lang thang đâu đến càng nhiều. Buổi tối, lần vào ngủ trong các cầu chợ. Đêm nào cũng có người chết. Người chết khắp nơi, như gà chết dây. Những người thu thuế cho dọn xác đi từ gà gáy. Chợ lại họp như mọi ngày. Không sợ và cũng không sợ được nữa.

    Các chức việc trong làng, vì cái chợ đói mà khó nhọc. Người chết, chủ thầu thuế chợ không chịu chôn, làng lấy tiền đâu mua chiếu bó và mượn đào huyệt.

    Thế là phải canh. Bốn cầu chợ hai bên sông Tô Lịch, chập tối đã có tuần ngồi canh. Nhưng rồi cũng chỉ canh được một phía đèn sáng. Người đói lẻn vào đằng kia, chỗ bóng tối bờ sông lên. Người ta phải nghĩ cách kéo cành rong ra rấp xung quanh các cầu chợ.

    Nam Cao ở quê lên. Dưới làng, anh đương sốt ruột ngóng tin. Làng anh cũng chết vãn người, chết cả đến nhà hàng xóm rồi.

    Mấy hôm ấy, chúng tôi sửa soạn diễn kịch ủng hộ quỹ hội Truyền bá quốc ngữ miền Bưởi. Chúng tôi tập kịch, Nam Cao đóng vai giới thiệu kịch. Vai cỏn con ấy cũng đã quá quan trọng, nặng nề. Tính Nam Cao, cứ ngồi với anh em quen thì nói như trạng, nhưng gặp ai lạ lại im thin thít, đôi khi mặt đỏ lên tận tai.

    Hôm nào cũng đi từ chặp tối. Đêm về, lại thức viết. Nam cao viết một truyện dài về cái đói, cái đói giày vò ngay trong mấy bạn quen và cả chúng tôi. Nam Cao viết chuyện chúng tôi. Anh Lập làng tôi có võ, lực lưỡng khoẻ mạnh, thế mà mỗi lần đến, lấy gân bắp tay, tọp trông thấy. Tập kịch, chỉ nói một lúc miệng đã nhạt đớ. Buồn quá, Nam Cao lại cắm cúi viết những chuyện căm giận quanh mình. Viết chẳng ai in, nhưng vẫn viết.

    Quãng chín giờ tối, phía thành phố, bỗng có chớp giật. Rồi nổ súng râm ran. Ai cũng đoán ngay Pháp Nhật đả nhau. Chúng tôi chạy ra bờ tre cuối làng, trông về cánh đồng Cáo.

    Trong bóng tối, đại bác Pháp từ pháo đài bắn ra đỏ lừ. Nhật đương tấn công pháo đài Cáo.

    Nam Cao nắm chặt tay tôi:

    - Đằng nào súng cũng phải nổ mới ngã ngũ được.

    - Tôi cũng nghĩ thế.

Tô Hoài

 

Phần 2

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.