chan_dung-ke_si

MỘT BUỔI CHỢ - Truyện ngắn Phan Tứ

19-10-2023

Lượt xem 1264

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Phan Tứ

MỘT BUỔI CHỢ - Truyện ngắn Phan Tứ

Vợ chồng nhà văn Phan Tứ

Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà văn Phan Tứ, nổi tiếng với tác phẩm Mẫn và Tôi, là cháu ngoại của chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh. Năm 2000, ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II.

Một buổi chợ là truyện ngắn từ tập truyện Về Làng xuất bản năm 1964 của ông.

 

Đi tới cách cổng chợ chừng trăm thước, chị Hai Phước bưng mủng cá rẽ sang con đường hẻm, định lọt vào chợ chỗ hàng rào gãy mé sau. Nhưng vừa bước qua mấy cây tre rào đổ ngang, chị gặp ngay thằng Phùng thu thuế chợ lù lù đứng chực sẵn, tay ôm cái kẹp vé thuế, tay chống ba toong:

– Ê, chị kia, trốn đâu? Dám đạp rào chợ nữa chớ!

– Dạ không… Tôi ghé thăm bà con, tiện đường tắt mới vô đây bán mớ cá vụn. Dạ anh cho đi.

Chị vội đi ào qua tránh hắn, nhưng bị túm nón lôi lại. Hắn thọc cây ba toong xuống cát, càu nhàu:

– Có vài đồng bạc thuế mà cứ ráng trốn quanh cho mất công. Mà sao chị mặc rách xác xơ vầy, ai cho vô chợ hử?

– Dạ tội quá anh, bộ quần áo lành tối qua giặt chưa kịp khô… Đây anh coi giùm, không giấu gì anh, mới tát được nắm cá vụn đem bán mua gạo cho con. Giỏi lắm được mười đồng chớ mấy.

Thằng Phùng liếm đầu ngón tay gỡ xấp vé thuế.
– Chị cầm tôi như con nít sao chớ? Chợ ít cá, chị bán không được bốn chục chớ kể tôi là người. Ba đồng thuế!

– Chết, anh nghĩ lại cho…

– Nghĩ rồi đó, thôi cho chị bớt một đồng còn hai. Hai đồng thuế, dụng tâm trốn thuế phạt gấp ba thành sáu đồng, thêm cái sự mặc rách rưới đi chợ làm xấu quốc gia phạt chị vi cảnh nhẹ mười lăm đồng, vị chi hăm mốt đồng, tính lại thử đúng chưa?

Nhanh như làm trò ảo thuật, hắn vừa nói vừa xé toạt một khúc giấy đỏ trong tập vé thuế và một mảnh giấy biên lai phạt vi cảnh, trong khi chị Hai há miệng kinh hoảng chưa kịp kêu.

– Xỉa tiền ra đây, hăm mốt đồng!

– Ôi chao, anh nghĩ thương giùm, không có lấy một xu…

– Biên lai xé rồi, bộ tôi bỏ tiền nộp thay cho chị sao. Chánh phủ buộc vậy chớ tôi muốn phạt làm gì mang oán. Xuân đâu, xách cái nón đem bỏ trạm thuế đi em.

Mặc chị Hai kêu thét, giằng co, đứa em trai thằng Phùng giật cái nón mới quai thao chạy thẳng. Thằng Phùng gạt chị ra, nạt:

– Muốn vô đồn công an nữa hả? Cầm biên lai, chút nữa tới chuộc nón… Ê ông già gánh chiếu, lại đây! Cha chả, nhảy rào rúc bụi dữ hè!

Chị Hai van xin một hồi, rồi đành bỏ đi vào chợ, chửi lầm bầm: “Mẹ tổ cha cái bọn chặn đàng cướp chợ, ăn dơ ăn dáy”. Nó cướp không của chị một buổi chiều đi tát vũng, sáng nay mất đèo thêm một buổi chợ. Trưa về con chị lại rướn cổ nuốt khoai chấm muối… Chị đặt mủng cá xuống góc lều chợ, mặt hầm hầm. Trong cơn tức của chị còn pha lẫn xấu hổ, tủi nhục, chị muốn hắt mủng cá vào mặt thằng Phùng mà không dám, sợ bị tù không ai nuôi hai đứa con dại. Bây giờ ai chọc chị một câu là chị đánh xé ngay giữa chợ cho biết mặt.

Chợ đông dần. Biển hôm nay được cá, từng chục gánh kĩu kịt chạy qua cổng. Các chị buôn rỗi cãi qua lại với thằng Phùng mấy câu rồi móc túi đưa tiền mau kẻo nó giữ lại lâu cá ươn, để nó quệt tí hồ vào nón hay đòn gánh, dán lên đó một khúc giấy đỏ dài hay ngắn tùy từng gánh nặng nhẹ. Người mua không có mấy. Dạo này loa thúc thuế cử tri kêu om ngày đêm, mấy nhà đã còn tiền đi chợ, không phải bán đổ tháo heo giống gà ấp đi là coi như may phước rồi. Đôi bà mặc sang đi qua, buông một tiếng thờ ơ: “Bảy đồng hử…. Thách ba chục thì ai dám trả!”. Chị Hai xốn xang trong bụng, không lẽ chị mất cái nón chị mượn đi chợ sao, ít ra cũng phải đủ hăm mốt đồng nộp cho nó chứ.

Phía cổng chợ bỗng nổi lên tiếng xôn xao. Bà con tránh dạt ra rất nhanh. Chị Hai vơ mủng cá kéo vào lòng, rồi ngấp nghé dòm. Hôm nay ráp chợ soát giấy, hay biệt động quân ra ghẹo gái kiếm ăn? Không phải. Một thằng công an quận đội mũ lưỡi trai trắng đi trước, cầm một cái loa. Hai thằng dân vệ theo sau, xốc nách một người mặc áo trắng quần đen đi chệnh choạng như say rượu. Thằng công an đưa loa lên, nói ồm ồm từng loạt ngắn:

– Nè, đồng bào chú ý. Nghe đây. Tập trung lại đây hết. Nghe cộng sản chánh hiệu hô đả đảo Hồ Chí Minh. Thôi lại đây, mua bán gì bỏ đó đã, mau!

Bọn dân vệ xách súng đi lùa từng người một. Thằng Phùng cũng khua cây ba toong, chạy lăng xăng: “Bác kia, điếc sao? Bà con học tố cộng miết, thấm nhuần rồi chớ! Con nít cũng tới nghe, tới hết!”. Mọi người càu nhàu xếp gánh, dồn lại thành một vòng vây rộng chung quanh tên công an. Chị Hai tránh né một lúc rồi cũng bị đẩy vào chỗ đông, một tay ghì chặt mủng cá, một tay nắm biên lai phạt và vé thuế. Thấy cái thế không trốn được, chị chen vào nhìn cho bõ công đứng may nhờ chị cao nên trông thấy rõ.

Cộng sản đây là một cô gái thấp nhỏ trạc độ hai mươi đến hăm hai, mặt xanh nhợt, môi dưới sưng trễ xuống, mặc cái áo trắng dính mấy vệt máu đã khô đen. Hai thằng dân vệ xốc cô ta đứng lên một thềm nhà gạch, ấn cái loa vào tay. Thằng công an nói nhẹ nhàng: “Thôi em, ráng hô ít tiếng rồi anh thả. Tội nghiệp”. Chị Hai thấy rõ cô gái rùng mình một cái mạnh. Đôi mắt cô đã to, trên khuôn mặt xanh gầy trông càng to quá, nhìn trừng trừng qua đầu mọi người như đang tìm một cái gì, nương theo một tia sáng gì ở đâu xa lắm. Cô dựa lưng vào tường, từ từ đưa loa lên miệng, rồi hạ xuống. Thằng công an đằng hắng, sờ tay vào bao súng ngắn. Cô lắc đầu, gạt mớ tóc xõa hất qua vai, giơ loa nói nhanh, giọng khản đặc và hổn hển:

– Tôi là đảng viên Cộng sản. Tên là Út, Trần Thị Út ở gần chợ Đồng Trầu. Tôi bị bắt về học tố cộng ở quận bốn tháng nay…

Thằng công an nói át đi:
– Đồng bào hô theo cho to, nghe không? Được đó, làm đi em.

Chị Hai quay mặt đi, “hừ” một tiếng khinh bỉ thật nhỏ trong mũi. Lần trước chính mắt chị thấy một anh đảng viên cũ ra trước mít tinh xưng tên họ rồi xé cờ búa liềm. Lần này cũng cái trò ấy. Chị không phải đảng viên, nhưng chị nghĩ thân con người đã theo bên nào thì chí quyết theo trọn một bề mới phải, đồ úy tử tham sanh vô Đảng làm gì cho xấu cả mặt mình mặt người. Tiếng hét trong loa làm chị giật mình, chưa kịp hiểu.

– Đả đảo Mỹ – Diệm!

– Ủa…

– Đảng Lao động Việt Nam muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!

Thằng công an chồm lên thềm nhà:
– Thôi! Câm họng! Ai hô theo đó?

Đám đông thét dậy lên một loạt tiếng “muôn năm” lộn xộn, rồi vỡ chạy tán loạn. Chị Hai chỉ kịp hô vớt theo một tiếng, nép vội vào góc nhà bên cạnh. Bốn năm tiếng súng nổ cắt ngang tiếng loa. Chị Hai kêu rít trong miệng: “Chao ôôôi!” Mủng cá và hai mảnh giấy buột rơi khỏi tay chị lúc nào không biết. Mắt chị hoa lên, chỉ thấy chập chờn những lưng người nhốn nháo. Một lúc sau, chị nhìn kỹ lại chỗ nền nhà trống trơn. Một vũng máu trên nền gạch, một vũng nữa loang tím trên bãi cát trước thềm, và một chuỗi giọt tím nối dài lấm tấm chạy ra phía cổng. Chợ tan nhanh, kẻ mua người bán táo tác ra về. Các bà các chị lén đưa tay áo quệt mắt, có người kêu thành tiếng: “Trời ơi là trời!”. Không một dấu chân nào giẫm trên các vết máu.

Chị Hai từ từ đi như người mất hồn, bước tới chỗ cát thấm máu, cúi xuống bốc một nắm cát ướt dẻo, cầm khư khư trong tay đi ra cổng. Chị không hiểu mình đang làm gì và có ai nhìn theo mình không. Trong óc chị nhảy nhót chờn vờn những câu hò liên hoan nhận ruộng, ánh đèn chai đêm học bình dân, tiếng hò reo của trẻ em chơi trăng Trung thu, những thứ chị tưởng đã quên từ lâu nay vụt hiện về quay cuồng như một vòng lửa nung đốt chị sau khi nghe những câu khẩu hiệu quen quá.

Hồi đó, hồi còn chánh phủ Cụ Hồ, chị hô khẩu hiệu hồn nhiên như đứa trẻ chỉ biết kêu mẹ mỗi khi vui buồn chứ không kêu ai khác. Đã đảng Lao động với Hồ Chủ tịch thì tất nhiên là muôn năm ba lần không thể nào khác được. Chị không thể ngờ rằng sau khi ngừng tiếng súng chồng chị lại bị đánh hộc máu chết vì một chữ ký đòi hiệp thương, và phần chị lại bị bắt quỳ sám hối một tháng tới hai chục đêm, hô những câu quái gở trước cái mặt heo luộc của một thằng ai cũng biết là bán nước cho Mỹ. Sau mấy năm bầm giập, chị đuối sức dần. Chị bắt mình phải quên hình ảnh cô Hai Phước, nữ du kích hay hát hay cười, lén lấy mìn của chồng đi ăn lẻ kiếm súng giật chết một thằng Tây đi chợ ngay gần chỗ thằng Phùng chặn phạt chị hôm nay. Chị muốn cắt cả đoạn đời ấy đem đào sâu chôn chặt đi cho dễ sống. Chị nén từng cơn giận, bịt lấp từng tia hi vọng mơ ước, cố tập cho mình chai đi, trơ đi, thành câm điếc đi, không còn biết yêu ghét gì nữa, để có thể yên phận làm ăn nuôi hai đứa con mất cha. Nhưng khổ cho chị, chị vẫn đau đớn, căm hờn, hi vọng. Dù muốn hay không, dòng máu trong thân chị vẫn là máu đỏ. Những hòn than chị nuốt trong lòng vẫn cháy ngún, gặp cơn gió hôm nay thổi vào lại bốc lửa. “Chao ôi, các đồng chí ở đâu, các anh chị ở đâu hết đi, sao mãi không về”. Chị kêu thầm những tiếng dài nức nở. Đứa con của Cách mạng vẫn y nguyên một lời gọi Mẹ.

Chị Hai đi thất thểu trên đường ruộng, đầu không nón, đôi vai gò xuống nặng nề, cái áo cộc rách cùi tay phủ thân hình cao gầy, lưng khom khom như đã quá quen đứng chờ đón trước mặt các ban khai thác xã, quận, tỉnh. Cổng nhà chị đây, hằn một chữ A đen đánh dấu gia đình tình nghi loại A. Chị đi thẳng lên nhà trên, đẩy phên liếp cho sáng. Tấm ảnh người chồng điểm một chấm trắng vuông nho nhỏ trên bàn thờ khuất tối. Chị cầm bát hương trút ra phản, bỏ nắm cát tím dẻo vào bát, bốc tro đổ lên trên. Chị đánh bật lửa châm mấy nén hương, rồi cầm hương đứng trước bàn thờ chắp tay định khấn. Chị vừa hé miệng thì tiếng khóc trào ra không cầm nổi, chị ngồi thụp xuống đất, tay úp mặt, khóc rung hai vai không thành tiếng.

7-1958

Phan Tứ

Bài liên quan
  • VỰC THẲM – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    VỰC THẲM – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vực thẳm là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Kiên. Ông là một trong số các văn nghệ sĩ được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I, cho các tập truyện ngắn: Trong làng, Vụ mùa chưa gặt, Trái cam trong lòng tay.
  • Ở XỨ VÔ LOÀI – Truyện ngắn Nguyễn Đình Tú

    Ở XỨ VÔ LOÀI – Truyện ngắn Nguyễn Đình Tú

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ở xứ vô loài là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Đình Tú in trong tuyển tập Hoa Cúc Vàng, gồm các truyện ngắn hay đăng trên Tạp Chí Nhà Văn, do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2007.
  • XÓM CHUỒNG NGỰA – Truyện ngắn Nguyễn Đức Sơn

    XÓM CHUỒNG NGỰA – Truyện ngắn Nguyễn Đức Sơn

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà văn Nguyễn Đức Sơn (bút danh Sao Trên Rừng - 1937-2020), một trong ba kỳ nhân của làng văn, tức ba người có cá tính kỳ dị bậc nhất làng văn, gồm Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện. Về tài năng, giới văn chương xếp Nguyễn Đức Sơn cùng với Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên là tứ trụ thi ca miền Nam. Đang học Đại học Văn khoa Sài Gòn, Nguyễn Đức Sơn nghỉ ngang và tuyên bố: "Nếu trường Đại học Văn khoa Sài Gòn sản sinh ra được một nhà văn nhà thơ nổi tiếng tôi xin chịu chặt đầu." Năm 1979, Nguyễn Đức Sơn đưa vợ con lên đồi Phương Bối, Bảo Lộc, Lâm Đồng lập nghiệp. Trên quả đồi do nhà sư Nhất Hạnh tặng, ông trải qua bốn mươi năm cùng vợ con sống như những sơn nhân. Năm 2020, ông ra đi và để lại cho Bảo Lộc một đồi thông Phương Bối tuyệt đẹp rộng 15ha do chính tay ông trồng, canh giữ, và thậm chí đổ máu để bảo vệ.
  • NGÔI ĐỀN VÀ ÔNG GIÀ CÂM - Truyện ngắn Trần Tâm

    NGÔI ĐỀN VÀ ÔNG GIÀ CÂM - Truyện ngắn Trần Tâm

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngôi đền và ông già câm là truyện ngắn trong tập truyện Khuyển Đế của nhà văn Trần Tâm xuất bản năm 2017.
  • SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư - Phần cuối

    SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư - Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Sống Nhờ là tác phẩm của nhà văn Mạnh Phú Tư in trên Phổ Thông Bán Nguyệt San năm 1942. Giữa những nhà văn hiện thực xuất sắc khác trước năm 1945, Mạnh Phú Tư tạo ra một thế giới riêng với các tác phẩm cất lên tiếng nói phê phán mạnh mẽ các lề thói cũ, ông dùng cây cọ văn chương, đưa những nét vẽ, rồi ở đấy, trong thế giới của ông, đã để lại những nhân vật, những cảnh đời đẫm máu và nước mắt.
  • SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư

    SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Sống Nhờ là tác phẩm của nhà văn Mạnh Phú Tư in trên Phổ Thông Bán Nguyệt San năm 1942. Giữa những nhà văn hiện thực xuất sắc khác trước năm 1945, Mạnh Phú Tư tạo ra một thế giới riêng với các tác phẩm cất lên tiếng nói phê phán mạnh mẽ các lề thói cũ, ông dùng cây cọ văn chương, đưa những nét vẽ, rồi ở đấy, trong thế giới của ông, đã để lại những nhân vật, những cảnh đời đẫm máu và nước mắt.
  • TÔI KÉO XE - Phóng sự Tam Lang

    TÔI KÉO XE - Phóng sự Tam Lang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Tôi kéo xe là thiên phóng sự mẫu mực của nhà báo Tam Lang, in lần đầu trên Hà Thành Ngọ Báo năm 1932. Dù đã gần một thế kỷ trôi qua, giá trị văn học của tác phẩm vẫn nóng hổi cho tới tận ngày nay, thời mà truyền thông, mạng xã hội bùng nổ chưa từng thấy. "Nghề viết văn viết báo ở xã hội VN là nghề bạc bẽo và bấp bênh nhất. Đâm đầu vào nghề mà không có được người vợ đảm đang tháo vát, tần tảo nuôi nổi gia đình trong thời gian mình thất nghiệp vì bất mãn, vì báo bị đình bản có giới hạn hoặc thu hồi giấy phép thì chuyện treo niêu gác bếp là chuyện rất thường" - Tam Lang.
  • MŨI TỔ - Truyện ngắn Lý Văn Sâm

    MŨI TỔ - Truyện ngắn Lý Văn Sâm

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trong suốt năm mươi năm cầm bút, nhà văn tài hoa của Miền Đông Lý Văn Sâm đã để lại một số lượng tác phẩm khá đồ sộ, bao gồm nhiều tác phẩm được độc giả yêu thích như Kòn Trô (1941), Nắng bên kia làng (1948), Sương gió biên thùy (1948), Sau dãy Trường Sơn,... Năm 2007, nhà văn Lý Văn Sâm được trao Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật cho các tác phẩm; Sau dãy Trường Sơn, tập truyện ngắn Sương gió biên thùy và Toàn tập Lý Văn Sâm.
  • CHUỒNG NUÔI NGỰA – Truyện ngắn Như Phong

    CHUỒNG NUÔI NGỰA – Truyện ngắn Như Phong

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chuồng nuôi ngựa là truyện ngắn của nhà văn Như Phong in trên Báo Mới số 2 (ngày 15-5-1939) và số 3 (ngày 1-6-1939). Nhà văn Như Phong được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt 2 Năm 2007.
  • NGƯỜI THÀY THUỐC - Truyện ngắn Thanh Châu

    NGƯỜI THÀY THUỐC - Truyện ngắn Thanh Châu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Người Thày Thuốc là truyện ngắn trong tập truyện cùng tên của nhà văn Thanh Châu, Tân Dân xuất bản năm 1938. Ông chính là tác giả của truyện ngắn Hoa Ti-gôn, vốn là khởi đầu cho một cuộc tranh luận bất tận cho tới tận ngày nay về bài thơ  “Hai sắc hoa Ti-gôn”, của nhà thơ “bí ẩn” T.T.Kh.