chan_dung-ke_si

LÀM NŨNG - Truyện ngắn Mộng Sơn

29-08-2023

Lượt xem 1077

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

LÀM NŨNG - Truyện ngắn Mộng Sơn

Làm Nũng là truyện ngắn đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy (Tập mới) của nữ nhà văn tiền chiến Mộng Sơn (1916-1992). Nhà văn Nguyễn Vỹ kể: Mộng Sơn, bước chân vào làng văn một lượt với Anh Thơ, nhưng lớn hơn tác giả "Bức tranh quê" vài ba tuổi. Lúc đầu, nàng lấy bút hiệu là Sơn Tiên, Vũ Thị Mai, rồi đổi lại là Mộng Sơn sau khi đã đăng vài ba bài thơ khả ái trên báo Đông Phương của Lan Khai... Nàng là con gái thứ hai của một ông quản lý đồn điền ở Chũ (Phủ Lạng Thương), và có một căn bản học thức tạm đầy đủ. Nàng có vẻ đẹp rắn rỏi...Tuy là một gái trẻ trung nhưng thích ở miền rừng núi hoang dã hơn là ở thành thị, thích văn thơ, đọc sách và tư tưởng triết lý hơn là trang điểm và các thú vui vật chất nơi phồn hoa. Mộng Sơn rất thông minh, nhưng không phóng túng, mà cũng không giản dị ngây thơ như Anh Thơ. Nàng không đùa cợt với ái tình và không để tình cảm làm chủ lý trí. Lý tưởng của nàng là đem nữ tính đa cảm của mình ra phụng sự cho nhân loại...Mộng Sơn khác hẳn các thiếu nữ "lãng mạn" của thế hệ tiền chiến là ở chỗ đó.

 

Mùa xuân của Nhân loại đã tới. Không tha thiết yêu đời, không hăm hở làm việc đời thì biết đâu bánh xe lịch sử chẳng nghiến nát mình...

Vừa nói chuyện với vợ, Phong vừa tiếp tục công việc múc nước vào chậu thau đồng. Phong múc cẩn thận như đong từng gáo. Gáo nào hơi vơi một chút, Phong lại vục xuống, múc thêm cho đầy giàn giụa và cả thau nước cũng đầy giàn giụa rồi Phong mới ngồi, trịnh trọng thả từng cái chén nội phủ có in tranh sơn thủy xuống lòng thau. Thả hết chén, Phong thả nốt cả cái ấm Càn Long gan gà xinh xinh. Phong kỳ cọ từng cái. Từ miệng đến đáy chén đều được Phong lấy đầu ngón tay cái miết miết từng tí. Khi rửa xong tất cả Phong lại mất một lúc ngấm nghía cho bốn cái chén đều bằng bặn vào giữa đĩa, không lệch lạc chút nào. Lúc ấy Phong xoa hai tay một cách đắc ý và bộ chén mới được Phong bưng lên đặt trên giường.

Mỗi buổi sáng, đã mười năm qua, từ ngày về nhà chồng, vợ Phong vẫn thấy Phong làm việc ấy. Cả mấy xuân ở phương ngoài, Phong cũng vẫn như cái máy làm công việc rửa chén ẩm. Để làm gì?

Chỉ để sáng nào Phong cũng dậy thực sớm uống chén trà nóng, trông làn khói bốc lên và cầm chén trong tay thực lâu ngồi suy nghĩ. Phải, Phong suy nghĩ đã nhiều. Trong khi miên man theo giòng cảm xúc, Phong còn tỏ ra chàng hết sức đau lòng về thời cuộc.

Phong thường thao thức, ngồi nhẫn tàn canh. Má hóp dần, người gầy nhom trông cao như con sếu vườn.

Có người bảo Phong gàn. Cũng có người cho rằng Phong chớm mắc bệnh thần kinh. Phong càng ngày càng nói nhiều, đi nhiều, thức nhiều. Có khi tự nhiên anh nắm tay đập mạnh xuống bàn. Có khi anh chỏ vào khoảng không rồi làm bầm...... Phong nghĩ ngợi những gì, nào ai biết! Con người ấy thực bí hiểm. Đọc hàng ngàn cuốn sách để rồi không viết ra một câu gì! Giang hồ bao nhiêu năm để rồi ngồi một chỗ. Uống nước trà và suy nghĩ!

Với ai ai, Phong cũng tỏ ra Phong là một người có chí lớn. Chàng rất ghét những cái tầm thường. Người ta chờ đợi cái chí lớn và công việc không tầm thường của chàng, nhưng bao nhiêu năm rồi, chàng vẫn không làm gì.

Năm 1936. Phong trào Mặt trận bình dân Pháp chỗi dậy. Bãi khóa đình công ở các thuộc địa cuốn lên như sóng. Những người quen Phong đều ngạc nhiên vì thái độ thản nhiên của Phong. Phong chờ thời. Vậy thời cơ đã đến. Sao Phong lại để dịp ấy qua đi?

Kìa! Từng tốp một, ba, năm, mười, hai mười người lũ lượt kéo nhau đi. Đi đâu? Người ta đi hội họp, đi thảo luận, đi làm chánh trị. Mỗi người một sở thích. Người thích danh, người thích lợi. Có người chỉ nghĩ đến quần chúng. Phong chẳng ở vào lớp nào cả!

Phong ngồi nhà đọc sách, ngâm thơ, nói đồng và... chờ đợi một việc gì ở “xứng đáng” mới thèm làm. Vài bạn thân ghé tại hỏi thầm về thời cuộc và ý chí của Phong. Phong ra vẻ quan trọng nói lớn: “Phải chờ đợi! Trước hết phải đặt ra những câu hỏi này: Mình là gì? Mình theo ai? Mình làm việc cho ai ? Ai ủng hộ mình ? Ai sẽ biết đến mình ? Mình làm việc với tư cách gì ? Mình... Mình...

Phong đã cẩn thận quá, đã tính toán nhiều quá... rồi không làm gì cả, ngoài cái việc sáng sáng rửa chén, lại cầm chén, để suy nghĩ!

1937-1940 lần lượt qua. Phong  trào xuống dần và lòng người cũng nguôi dần.

Rồi xuân, hạ, thu, đông, Tết ấy đến Tết khác, bao nhiêu năm giời qua đi... rất mau !

Xuân 1945. Phong trào Đại Đông Á sôi nổi khắp Á Châu. Xã hội Việt Nam lại một lần lay động ở những tầng trên...

Phong sớm sớm vẫn ngồi nhấm nháp chén trà và suy nghĩ trong khi người ta hò hét, vận động đủ cách đề làm chính khách, làm bộ trưởng, làm tỉnh trưởng, làm giám đốc Sở nọ Sở kia... bất cứ một chức gì. Hoặc người ta gây một phong trào phản lại tất cả những lớp người đó. Phong vẫn chẳng ở vào lớp nào nhưng Phong cũng vẫn không thích làm một người tầm thường, Phong hết băn khoăn, đau đớn cho sự chia rẽ của đồng loại lại thắc mắc về những sự khủng hoảng lớn nhất của thế kỷ. Họ nhầm cả! Thế thì một mình Phong không nhầm! Nhưng Phong phải làm gì mới được chứ?

Ngày ấy Phong đã có vợ được năm năm. Vợ Phong đã thấy sốt ruột lắm, về cái tính lần mần của Phong nhưng không muốn phạm đến quyền tự do của chồng, nàng chỉ phàn nàn thầm trong bụng :« Sao mèo nhỏ lại không chịu bắt chuột con? Tài thì nhỏ quá, mà chỉ lại lớn quá, làm sao mộng của Phong có thể thành được? Nghĩ? Ai không nghĩ! Nhưng nghĩ mà không làm chỉ đâm ra nghĩ quẩn ! »

Hôm nghe tin trái bom nguyên tử thứ nhất của Mỹ ném tan đảo Hiroshima (Quảng đảo) làm cho Nhật phải đầu hàng Đồng Minh, Phong nói rất sáng suốt: «Nhật đầu hàng Đồng Minh đâu phải vì tính năng nguyên tử, chính vì phong trào quần chúng thế giới đương sôi, báo hiệu một thời kỳ tiền cách mạng ». Nói thế thôi, chớ Phong vẫn không hề động tĩnh.

Vợ Phong hỏi nhỏ chồng : Trái cây đã chín mùi rồi! Anh còn đợi gì nữa ! Không tính làm gì ư ? Tí nữa trái cây sẽ rụng, mà không rụng vào tay ta!...

Phong chỉ khẽ nhún vai. Ngày ngày vẫn uống trà và đêm đêm vẫn đọc sách. Chỉ có thế và mãi mãi chỉ có thế!

Một sớm thu, tiếng quân hô dậy đất, và bóng cờ khởi nghĩa bay rợp đường. Phong chẳng những không tham gia, mà còn trốn tránh. Lần này thì không phải vợ Phong chỉ sốt ruột mà nàng còn thấy khó chịu quá về thái độ chồng. Nhưng, vốn nhẫn nại như những người đàn bà nhẫn nại ở phương Đông, vợ Phong không bao giờ phản đối chồng, nàng chỉ biết cái bổn phận của nàng là phải ngược xuôi đầu sông ngọn nguồn lần tảo, để chồng được tự do theo đuổi lý tưởng.

Đành rằng Phong không hèn, Phong không xu thời. Nhưng sao Phong không có thái độ? Mọi người kêu Phong cầu kỳ và câu nê quá. Cả một dân tộc chỗi dậy. Các đảng phái, tôn giáo, giai cấp, dân tộc gọi nhau « Đoàn ket »! « Đại đoàn kết » ! Thế mà Phong vẫn cô lẻ!.. Lúc nào Phong cũng khăng khăng một mục rằng không có việc gì « xứng đáng cho Phong làm cả! Trong khi bao nhiêu kẻ đem thân ra chiến địa, bao nhiêu người bỏ mình dưới bom đạn, Phong vẫn có thể cứ ung dung sắp từng lá thuốc cuộn vào thái thật nhỏ, tìm cách ướp thế nào cho ngon với cái việc thường ngày rửa chén lại...cầm chén mà suy nghĩ! Qua bốn năm tản cư, Phong giắt vợ con về Thủ đô. Về làm gì? Để lại vẫn ngày ngày mỗi buổi sáng, Phong đem bộ chén nội phủ có in tranh sơn thủy ra cọ rửa, mài miết...

Ai động đến Phong thì Phong hùng hổ nói: « Tôi bốn mươi rồi, còn ngây thơ gì nữa mà bị mê hoặc!

Rồi hoàn cảnh mới sản ra một lớp người mới! Phong vẫn chờ đợi... chờ đợi một thời cơ thuận tiện và không làm gì ngoài việc uống trà suy nghĩ và đọc sách!

Xuân 1950. Hôm nay là ngày đầu năm, Phong uống trà lại lâu hơn mọi ngày. Trinh, người bạn gái rất thân của vợ Phong đến chúc Tết, khẽ hỏi: Anh ấy năm nay ra hoạt động chứ?

Vợ Phong, giọng lạnh lùng: Em biết sao được! Mỗi người có một đời sống tinh thần, lý tưởng riêng, không bao giờ em chạm đến quyền tự do của Phong.

Anh ấy không chịu làm việc, chứ làm gì mà không được! À! Nhưng mà nhà em còn làm nũng! Trinh phì cười vỗ vai bạn :

– Thật anh chị sung sướng quá. Trên bốn mươi cả rồi mà lúc nào cũng như còn son trẻ.

Vợ Phong phá lên cười, cười to hơn Trinh, cười chảy nước mắt và cười rung cả mấy cành mai :

- - - Không ! Có làm nũng em đâu! Nhà em làm nũng phong trào đấy chứ!

 

Mộng Sơn

 

Bài liên quan
  • CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: CHUYỆN Ở BẢN PIÁT là một trong chùm ba truyện ngắn của nhà văn Tuyên Quang “viết văn phải có văn” Vũ Xuân Tửu, thắng Giải Nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2005-2006.
  • MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Một bữa no là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 480, ngày 25 tháng Chín năm 1943. Tác phẩm, là một tiếng kêu cứu về nhân cách của người dân Nước Nam đang bị sự bần cùng, cái đói, cái rét, do thực dân Pháp tạo ra, hủy diệt.
  • NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nắng trong vườn là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Thạch Lam, Đời Nay xuất bản năm 1938.
  • HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai hào là truyện ngắn trong tập truyện đầu tay Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích của nhà văn Lê Văn Trương, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934.
  • TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trẻ con không được ăn thịt chó là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao, in lần đầu trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 444, 19 Tháng Mười Hai 1942.
  • CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chim khách kêu là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Kiên, được trao giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 và giải thưởng Văn học Đông Nam Á (Thái Lan) năm 2002.
  • ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Đôi mắt là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao in lần đầu trên Văn Nghệ số 2 năm 1948. Đây là một trong những tác phẩm giá trị nhất của nhà văn Nam Cao. Năm 1996, ông đã được nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I cho truyện ngắn nói trên cùng với các tác phẩm Nhật ký Ở rừng, Chí Phèo và Sống mòn.
  • TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trước cảnh hoang tàn đế thiên đế thích là truyện ngắn in trong tập truyện ngắn đầu tay cùng tên của nhà văn Lê Văn Trương, gồm 11 tác phẩm, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934. Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964) được xem là nhà văn có số lượng tác phẩm lớn nhất Việt Nam với 200 tác phẩm đã in và 40 tác phẩm chưa in bao gồm truyện ngắn và tiểu thuyết. Lê Văn Trương là thành thành viên quan trọng hàng đầu của nhà xuất bản Tân Dân, cùng với các nhà văn nổi tiếng như Tản Đà, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Lan Khai, Thanh Châu, Ngọc Giao, Tchya Đái Đức Tuấn, Trần Huyền Trân, Nam Cao, Bùi Hiển…
  • NƯỚC ĐỜI LẮM NỖI – Truyện ngắn Phạm Duy Tốn

    NƯỚC ĐỜI LẮM NỖI – Truyện ngắn Phạm Duy Tốn

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nước đời lắm nỗi là truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Tốn, một trong những thành viên sáng lập của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, đăng trên Nam Phong số 23, Tháng 5 – 1919.
  • CÂU CHUYỆN MỘT TỐI CỦA NGƯỜI TÂN HÔN – Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

    CÂU CHUYỆN MỘT TỐI CỦA NGƯỜI TÂN HÔN – Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Câu chuyện một tối của người tân hôn là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Bá Học đăng trên Nam Phong số 46 – năm 1921. Đây có thể nói là truyện ngắn tiên phong của văn học hiện đại Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ viết về đời sống công nhân cơ cực dưới thời thực dân Pháp cai trị nước ta.