chan_dung-ke_si

KÝ SỰ CAO LẠNG - NGUYỄN HUY TƯỞNG

30-09-2024

Lượt xem 1904

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Nguyễn Huy Tưởng

KÝ SỰ CAO LẠNG - NGUYỄN HUY TƯỞNG

Bìa cuốn Ký sự Cao Lạng và nhà văn Nguyễn Huy Tưởng

Chân Dung Kẻ Sĩ: Ký sự Cao Lạng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng được ghi nhận là một trong những tác phẩm dài hơi đầu tiên của nền văn học kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp, đại diện xuất sắc cho thể loại ký sự trong văn học sử Việt Nam thời hiện đại.

Tác phẩm như một thiên sử thi, ghi lại những diễn biến lần đầu tiên Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tiến công quân xâm lược Pháp, do đích thân Hồ Chủ Tịch ra trận chỉ đạo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đảm nhận trọng trách chỉ huy trưởng chiến dịch.

Ký Sự Cao Lạng cùng với một số tác phẩm khác của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh (giải thưởng diễn ra 5 năm một lần) trong lần đầu tiên giải thưởng này được tổ chức năm 1996.

 

I

Khi hạ lệnh mở chiến dịch Cao - Lạng, Hồ Chủ tịch nói:

- Trận này chỉ cho thắng không cho thua.

Và toàn thể quân dân Cao - Lạng, từ trên xuống dưới, quyết tâm làm theo lời Bác.

Lòng căm thù giặc của người dân Cao - Lạng, âm ỉ sáu năm nay đã đến lúc phải bùng nổ. Ý chí giải phóng quê hương Đông Bắc của binh đoàn Cao - Bắc - Lạng đã đến lúc phải thử thách trong lửa lớn. Nỗi giận của người lính miền xuôi trước cảnh làng mạc, cửa nhà bị phá trụi, bố mẹ, vợ con bị đầy đọa, chém giết tại các vùng giặc đóng đã đến lúc không thể kìm được nữa. Những biểu ngữ viết bằng than, bằng vôi, bằng đất đỏ, trong các nhà, các lán, dọc đường, đầu chợ, bên suối, trên thân cây, trên phiến đá nghiêng giữa ruộng, trên các tảng đá chi chít chân núi, trên tường thành các hang, các hốc; cả những biểu ngữ kháng chiến kẻ trước tháng 10-47, trên các tường thị xã Cao Bằng, mà giặc đã quét vôi lên, cũng hiện rõ dần dần trước mặt quân cướp nước đang gấp rút chuẩn bị. Tất cả đều chung một tư tưởng:

- Chỉ được thắng, không được thua.

* * *

Những người cán bộ huy động dân công, ngày đêm đi vào từng lán một, tun hút trong rừng rậm - có cái cách nhau hàng hai, ba chục cây số - để động viên nhân dân. Cao Bằng, giang sơn của phụ nữ, của những người mẹ vắng con, của những người vợ góa còn trẻ, chồng bị giặc giết, khăn vuông và thắt lưng trắng, của những người vợ lặng lẽ mong tin chồng đánh giặc ở xa. Cao Bằng đã ba năm kiệt quệ vì giặc phá hoại, ba năm gánh vác những chiến dịch mở liên miên. Cao Bằng bị giặc dồn vào các hang, các hốc. Cao Bằng đã phải ăn ngô, ăn sắn, ăn cháo, lại một lần nữa, Cao Bằng tự vắt mình để dốc hết người và của vào trận đánh mới.

Mấy chị Mán đỏ, khăn áo sặc sỡ, trán cạo nhẵn, nhễ nhại mồ hôi, đang còng lưng đeo sọt đi giữa đám đông. Những chị Nùng áo ngắn, tay rộng. Những chị Thổ tay chẽn, áo dài. Những anh Mán cao lớn để hồng mao. Số đông áo chàm. Khi tản, khi chụm. Khi lố nhố dưới thung lũng, khi thoăn thoắt lên đèo cao. Khi lẫn vào rừng cây chuyển động, khi xóa đi, hòa vào những hàng dài đá xám lởm chởm bên đường, thỉnh thoảng bật lên vài chấm trắng của người đàn bà Mán lài, áo pha màu đất, váy nhiều nếp xùm xòa, ngực hở để lộ các vành xương và đường dẹt của đôi vú. Các chị đi, hành quân dài và lủng củng, ngoằn ngoèo, nối rừng nọ với rừng kia, đèo này với đèo khác, ngày đêm không nghỉ. Không phải là vòng vây thép, dễ phá vỡ hơn, mà là vòng vây của muôn hạng người chung một ý chí giết giặc, của người Kinh từ miền xuôi lên, của người Mán từ những đỉnh chon von xuống, của người Ngái, người Thổ, người Nùng từ các bản, các lán, các hang, các hốc đổ ra. Cái trật tự im lìm của núi rừng bị phá vỡ. Người ta có cảm tưởng không phải họ theo núi rừng đi, mà núi rừng theo họ khép chặt lại những thị trấn Cao Bằng, Đông Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, mỗi ngày một cô độc, một hoảng loạn.

Một người nói:

- Thằng Tây thật là mù. Chúng mình chuẩn bị như thế này mà chúng nó chẳng biết gì cả.

Không, chúng nó biết. Chúng biết rằng chúng ta đang sửa soạn gấp. Nhưng cái nỗ lực cách mạng phi thường của chúng ta thì chúng không sao cản được. Một đêm đã gần sáng, một chiếc GMC chạy trên con đường Quảng Uyên - Trùng Khánh, cách Cao Bằng vài chục cây số. Ôi! Những đêm chuẩn bị của Đông Bắc! Trong cố gắng, nó có một cái gì lớn lao và cũng một cái gì gian khổ. Có tiếng gọi ú ớ như tiếng bóng đè. Xe rít mạnh, chồm chồm rồi đứng lại. Hai bên đường, ẩn hiện những phiến gỗ dài đã xẻ, bản dầy bằng hai gang tay, mặt loáng nước. Một ánh đuốc xa xa, chập chờn, khói như tóc xõa trong sương, chiếu vài bóng đen dưới ruộng, nhấp nhô chạy lại. Bốn người nhảy lên đường. Đấy là bốn đồng chí Thổ cởi trần, thân hình gầy gò, gối ngập bùn. Họ bắt đầu chuyển những phiến gỗ lớn và nặng quá sức họ lên ôtô, hò nhau bằng tiếng bản địa, thỉnh thoảng kêu đau ai ái xuýt xoa, rồi cãi nhau, rồi cười hiền lành rồi lại khiêng, rồi lại đẩy gỗ. Trong bóng tối, họ đánh vật với hơn năm chục phiến gỗ, tiếng thở kiệt sức mỗi lúc một to, một hổn hển. Gỗ sát vào nhau xè xè, lục cục. Đã có lúc hai người đứng ở sau xe, không còn đủ sức đẩy nữa, đầu gục vào đầu phiến gỗ, lịm đi một lúc lâu.

Một anh ở trên xe giục, hơi nói, gần tàn:

- Cố lên.

Anh ở dưới nói:

- Mệt lắm rồi!

- Đã hai hôm cầu phải nghỉ rồi đấy. Mình chỉ hơn thằng Tây có cái cố thôi.

Anh vừa nói, vừa chùi tay lên mặt một phiến gỗ và lẩm bẩm:

- Gỗ nó nghiến nát cả tay, ngày mai thì làm thế nào đây.

Người dưới lại đẩy, người trên lại xếp gỗ. Tiếng gà gáy bắt đầu vang. Sương căng đặc. Xa xa một đoàn đuốc rồi lại một đoàn đuốc của anh chị em dân công, cái nền rực rỡ làm cho bốn đồng chí Thổ đột nhiên lớn vô cùng. Xa xa Cao Bằng trong bóng tối. Chắc chắn rằng trong đêm bốn anh dân công chuyển gỗ làm cầu để tiếp tế vận chuyển và bộ đội hành quân, đem cánh tay nhỏ yếu của mình bênh hàng tấn gỗ, thì chúng nó đang ngủ kỹ. Chúng có thể biết chút ít ngày của chúng ta. Nhưng chúng không thể nào biết đêm của chúng ta.

* * *

- Khó thì khó thật, nhưng đã đánh là phải thắng.

Đó là lời ông Chỉ huy trưởng chiến dịch, hồi ông đi quan sát mặt trận.

Ông lại nói:

- Chuẩn bị thực sự đầy đủ là đã thắng được một nửa.

Ông nhấn mạnh vào hai tiếng thực sự. Sự chỉ đạo tối cao nhiều khi phải đi sâu vào những chi tiết chi li, đến chai dầu cho đại bác, cái xẻng cho bộ binh. Càng ngày càng rõ ràng rằng chiến tranh là một sự cần lao, một thứ cần lao định sẵn, có trật tự và được nghiên cứu tỉ mỉ, một thứ cần lao mà cái tầm rộng lớn và sự mãnh liệt vượt lên trên những mức từ trước tới nay (1). Vị trí quan sát cách xa thị xã Cao Bằng không đầy cây số. Một quan sát viên lom khom sau một thân cây mà sương mù phân đôi cành lá, báo cáo:

- Mình không trông rõ nó, nó không trông rõ mình.

Một cán bộ quân báo chỉ trỏ, nói:

- Trước mặt mình là thị xã, bên trái thẳng phía đồng chí quan sát viên, sau quả đồi mờ mờ, là đồn ngụy binh cách mình tám trăm thước.

Nhưng phía tay anh trỏ toàn là mù bạc cuồn cuộn dâng từ thung lũng lên trời. Ông chỉ huy trưởng ngồi trên miệng hầm nhìn xuống thị xã ẩn trong hơi đặc. Lắng nghe đồn ngụy binh có tiếng hát. Một cơn gió mát thổi. Mọi người đứng cả lên. Bể mù xô nhau, phía Cao Bằng, những đỉnh đồi nổi lên thành những đường cong bạc. Một người miệng nói tay chỉ:

- Kia con sông Bằng.

Trong mù lả tả, một vệt mờ dài, quanh co, hiện lên. Rồi lại một cơn gió mạnh. Đỉnh đồi núi sau thị xã hiện màu biếc. Ánh nước sông Bằng đã rõ trong sương mù.

- Đồn to kia kìa...

Bốn bề lại trắng xóa. Rồi gió lại thổi. Sương mù xô nhau, rách ra, bíu lấy nhau, bay lên, lộn xuống, cuối cùng tan đi để lộ toàn bộ thị xã dưới chân. Sân bay với chiếc đa-cô-ta, chiếc cầu đen qua sông Bằng, con sông Hiến, đồn to, khu phố, nhà trắng, cây xanh. Đồn ngụy binh đỏ kệch. Con đường số bốn uốn khúc chạy vào đồn to. Đứng dưới hầm, tì ngực vào đất, ông chỉ huy trưởng ngắm Cao Bằng qua chiếc ống nhòm, hỏi tỉ mỉ anh quân báo đứng bên về những khu vực thành phố, cho đến khi thị xã tối dần, đèn điện đã bật, và trời đổ mưa, mới trở về.

Chung quanh bếp lửa một nhà sàn, anh em vừa hơ quần áo, vừa rang ngô. Ông chỉ huy trưởng cởi trần, hơ xong chiếc may-ô, cho vào bọc, nói:

- Ngày hôm nay, trong buy-lơ-tanh của nó, chắc lại nói: Không có gì quan trọng đáng kể chung quanh khu Cao Bằng!

 

----------------------------------------------------

Của Phê-đô-rốp (Tỉnh ủy bí mật).
Những hội nghị mở liên tiếp, từ thấp lên cao, để định những kế hoạch chống máy bay, chống quân nhảy dù, đánh vận động, đánh liên tục; để chỉnh lý những tư tưởng sai lầm, để giải quyết những thắc mắc của đội viên và cán bộ: vấn đề đề bạt, vấn đề tạm cấp ruộng đất, vấn đề sức khỏe, cả những chuyện gia đình, chuyện tình duyên, tác phong quân phiệt của một số cán bộ, chuyện lấy chiến lợi phẩm trong các chiến dịch trước... Tác phong nói thẳng được đề cao. Đi xa, người ta để lại ở nhà những thứ cồng kềnh không cần thiết, thì sắp ra trận người ta cũng trút hết những chướng ngại vật tinh thần... Hội nghị cấp dưỡng. Hội nghị thông tin. Hội nghị giám mã. Hội nghị văn phòng. Hội nghị định những người thay thế cho những cán bộ bị thương vong. Hội nghị tân binh. Người ta theo dõi tân binh, săn sóc tân binh. Người ta nêu ra trước những khó khăn, đặt ra những giả thuyết về những khó khăn để cho đội viên giải quyết. Người ta học nhau trong các cuộc hội nghị, trong các cuộc họp, trong các cuộc hội ý hội báo. Người ta tìm hiểu nhau trong những lúc tâm sự riêng lẻ. Người ta điều chỉnh cán bộ trước sự phát triển nhanh chóng của đơn vị. Hội đồng binh sĩ bầu lại chủ tịch. Và giữa lúc dồn dập ấy, nhiều đơn vị mới đẻ ra, nhiều binh chủng mới thành lập.

Pháo binh đang thảo luận sôi nổi về bốn điều yêu cầu của bộ chỉ huy chiến dịch. Trong đơn vị, đang có phong trào vận động lập chiến công. Những tiếng tiểu công, trung công, đại công, đặc công; anh hùng Cao-Lạng, líu tíu chỗ nào cũng nghe thấy nói. Một đội viên đang húi đầu cho một đồng ngũ nửa đầu trắng hếu. Anh nói:

- Đây là điểm thi đua của tôi. Tôi húi trọc cho anh em, để khi anh em bị thương khỏi vướng víu.

Một đội viên khác nói có vẻ tự hào, với một anh ở công trường đến chữa súng:

- Anh đến lần này thì khác hẳn hồi anh đi Tây Bắc. Không phải chỉ một khẩu thôi, mà nhiều lắm anh ạ. Mà không phải chỉ có chúng tôi thôi. Bây giờ nhà pháo đông lắm. Voi có, cỏ có, tha hồ cho Tây xơi kẹo.

Một anh chỉnh ngay:

- Sắp chủ quan đấy nhớ.

Anh khác khoe:

- Ấy là chưa kể bộ binh pháo đấy. SKZ bắn khỏe như voi. Lại thêm moóc-chi-ê, ba-dô-ca rót vào đồn địch. Bắn lại xuya nữa chứ...

Anh chính trị viên ngắt lời:

- Này các đồng chí. Khéo mà lại rơi vào tư tưởng ỷ lại kỹ thuật, ỷ lại võ khí đấy. Võ khí thì cố nhiên là phải có, phải có nhiều, thì mới đánh được giặc, nhưng đối với chúng ta, là quân nhân cách mạng, thì cái gì quan trọng nhất?

Mọi người cúi đầu nghĩ ngợi. Trong hang, Hàm ngồi trên một càng súng, đang ngắm qua máy ngắm, lẩm bẩm nói, như nói một mình cái giọng lè nhè mà anh em thường hay chế giễu:

- Tinh thần chứ gì mà không nhớ.

Hàm vào pháo binh từ ngày toàn quốc kháng chiến, vừa gan dạ, vừa nhiều thành tích: anh khiêng voi trong hầu hết cuộc hành quân và dự gần hết những trận của pháo binh. Nhưng vì văn hóa kém, người chậm chạp, ăn nói lè nhè, nên anh vẫn chỉ là đội viên. Vừa rồi, anh mới được đề cử tiểu đội phó. Tiểu đội súng đang xúm xít chung quanh một khẩu súng đặt trong hang, dầu máy loang mặt đá. Thành hang, một hàng dài ba thồ. Trong ngách hang sâu hơn, lại một khẩu sơn pháo phủ dưới bạt, nòng chĩa ra cửa hang, có bao da chắn bụi. Ngoài hang, đàn lừa, tám con, con hung, con đỏ, con đen nhánh, con màu hồng nhạt, những vết thương, ở lưng, ở cổ đã lên lông trắng. Chúng vừa ăn ngô, vừa cắn nhau, thở hít ầm ầm. Mấy anh giữ lừa, khoanh tay ngồi xổm trên thành hang, ngắm đàn lừa do các anh vỗ đã khá béo. Nho, một đội viên đã đánh trận Phủ Thông, Đèo Khách, Phố Lu, gắt:

- Cái con "trục" là hỗn lắm cơ đấy. Nhóc con chỉ khỏe cắn bậy, ốm đòn bây giờ.

Nói thế, nhưng chẳng anh nào đánh nó. Nho kể khi người chủ cũ giao đàn lừa này cho đơn vị, người ấy khóc và nói:

- Nó là chiến sĩ không biết nói. Các anh nên coi nó như người, nuôi nấng nó, đừng đánh đập nó. Nó sẽ giúp các anh nhiều...

Anh vẫn nhớ đinh ninh những lời tha thiết ấy. Anh lo ăn cho nó, lo tắm cho nó. Sau mỗi cuộc hành quân nó sút đi nhiều, anh cố vỗ cho nó chóng lại sức. Anh theo dõi hàng giờ những vết thương trên lưng con vật. Trước vết thương sâu hoắm, miệng to như cái phễu, sau nhỏ dần, nhỏ dần, lên da non, và sau cùng - niềm vui sướng của anh - vết thương lành hẳn những tơ trắng mọc lên, loang lổ người nó, nhưng cũng bóng và cũng rung rung luôn trên thân lừa.

Lúc mới đầu, anh cũng ngại. Trước kia, khiêng đại bác, dọc đường có khó nhọc hơn thật, nhưng tới địa điểm, xếp các bộ phận đại bác xong là anh được lăn ra ngủ. Có lừa lại phải tìm chuồng cho nó, đặt máng, cho ăn, lịch kịch lắm. Dần dần, anh thấy có lừa vẫn nhẹ thân hơn nhiều, lợi thì giờ, lợi sức khỏe. Từ đó đàn lừa đã đem lại niềm vui cho anh pháo thủ, đã đặt thành một bộ phận khăng khít trong cuộc đời chiến đấu của anh. Có những đêm, Nho phải cho lừa ăn trong bóng tối - vì đèn phải giấu đi, sợ lừa quen ánh sáng không chịu đi đêm - anh ngồi nhìn nó. Khi nó cắn nhau, khi nó bắt rận cho nhau. Nghe nó ăn sột soạt, đều đều lắm khi anh ngủ gà ngủ vị rồi lại choàng thức vì nó tranh nhau ăn lục đục. Không có đồng hồ, và cũng vì mải vui, nhiều đêm, Nho thức suốt sáng, quên không đánh thức bạn dậy  thay phiên. Anh yêu nhất con “ống xiết” vì nó đã già, lại chột một mắt. Sức nó kém, nhưng nó chịu khó, do đấy Nho càng thương nó, chăm nom nó...

Có một cái gì vui vầy trong cảnh nhộn nhịp của hang này. Tiếng lừa tranh nhau ăn. Tiếng nhai rào rào như mưa. Tiếng guốc lừa gõ xuống đá rin rít. Trong khi ấy, mấy đội viên trong tiểu đội súng đang lặng lẽ nghiên cứu sử dụng máy ngắm. Chiếc máy ngắm đen nhánh, kính sáng loáng, với những phân độ tinh vi, tương phản với những bàn tay thô kệch vôn chỉ quen với cái cày, cái cuốc.

Hàm nói:

- Lấy ni-vô đi.

- Vặn nòng lên một tí, xuống một tí. Anh trung đội trưởng truyền.

Nước đỏ trong ống ni-vô chao đưa, lặng lẽ, giữa tiếng lục cục của chiếc ma-ni-ven, rồi đọng ở giữa ống thành một hình bầu dục đứng im. Họ xoay máy ngắm, chọn tầm, chọn hướng. Hai chiếc máy bay khu trục lượn xa xa. Một người chửi nó xong, quay vào công việc:

- Lôi thôi lắm. Tôi tính cứ cái lối ngắm qua nòng của ta là ăn tiền. Đánh xong trận này đã rồi sau học.

Hàm lè nhè:

- Nói như anh thì suốt đời chịu dốt.

- Xin lỗi anh nhé.

Anh trung đội trưởng vừa vặn cái vòng máy ngắm kêu đánh tách một cái, vừa chỉnh cái tư tưởng sai của người đội viên sốt ruột.

- Máy ngắm vẫn chính xác hơn chứ. Lại có lúc cậu khóc vì thiếu nó cho biết thân.

Anh đội viên kia cười thẹn thò, tì tay lên đuôi nòng súng, ngắm nghía cái ni-vô đồng sáng ánh dầu.

Anh trung đội trưởng đi rồi, anh đội viên nói:

- Cái máy ngắm này nói thực tình thì cũng cũ rồi.

Hàm lè nhè nói như muốn khóc:

- Cũ người mới ta. Thôi thì hẵng được thế này.Vừa nói vừa đặt cái máy vào hộp của nó.

- Hàm độ này tiến bộ gớm. Ý kiến rất dồi dào. Voi đến lúc phát có khác. Nhưng hôm nọ, cậu là phó chủ tịch hội đồng binh sĩ mà báo cáo như đánh vần cho riêng cậu thì vẫn chưa thật tiến bộ. Ai lại để cho hội nghị phải hò anh thư ký ra đọc thay. Mất cả tư thế.

Một người khác nói:

- Lần này quân tướng đổ rầm rầm, cậu có cơ lên tiểu đội phó, cũng phải bỏ cái giọng lè nhè đi thì nói anh em người ta mới nghe.

Hàm trả lời:

- Lúc nào cũng nói quân tướng đổ rầm rầm! Đánh thì đánh chứ làm gì phải nói thế.

Anh vẫn lè nhè, nói như nói với mình. Lời nói lờ mờ, không góc cạnh, không sinh khí, như nét mặt xám xịt và đôi mắt lờ mờ không động của anh.

Tết rất to là rằm tháng bảy của đồng bào miền núi đã qua. Lúa đã có đòng đòng, nhiều nơi bông lúa đã trĩu nặng. Vẫn chưa có lệnh hành quân.

Rồi có tin Đại tướng Tổng tư lệnh lên thăm mặt trận, có xuống một vài đơn vị nói chuyện. Rồi khắp nơi xôn xao, thì thào: Hồ Chủ tịch cũng lên thăm mặt trận. Câu chuyện trao đi, đổi lại: Bác đi từ dưới ấy lên có tám ngày cả thảy. Bác đi bộ... Bác đi đất, lúc nào gặp chỗ có đá nhọn mới xỏ dép, đến chỗ dễ đi lại cho dép vào ba lô... Bác đem cả chiếu... Bác cũng đeo gạo như bọn mình thôi...

Anh chính trị viên lè lưỡi:

- Con cháu chịu hết.

- Anh là tay cần kiệm liêm chính mà còn nói thế nữa là bọn mình, lời anh đại đội trưởng.

- Chết thật, Bác lò dò lên tận đây! Sợ quá, sợ quá!

- Đánh càng chắc tay. Hì hì. Đánh chết thôi! Đại đội trưởng xoa tay vui vẻ, ngồi xuống bàn, lấy trong một cái hộp ra những cái ngòi nổ chậm, nổ nhanh của đạn đại bác. Anh chúc một cái ngòi xuống bàn, huýt một tiếng sáo gọn:

- Hấp! Nó trúng đồn thế này. Anh đập tay xuống bàn, lại huýt một tiếng sáo gọn:

- Lần này bắn phải xuya! Hì hì. Cả văn phòng cười rộ vì cử chỉ của anh.

Rồi ngày giờ lại qua. Bộ đội vẫn chuẩn bị. Bộ đội đã bắt đầu sốt ruột. Những bao gạo xếp đống, chật ních hang đã vơi dần, rồi lại xếp đống.

- Hoan nghênh Cục Cung cấp. Lần này thật lắm cái ưu điểm.

- Trang bị thế này, cung cấp thế này, chả lẽ lại không đánh.

- Cụ lên là thế nào cũng đánh.

Giặc tăng cường Cao Bằng. Giặc tăng cường Thất Khê. Ta-bo lên nhiều lắm. Rồi tin giặc đánh lên Phú Thọ cũng đến tai mọi người. Một đội viên “ra cái điều” quân sự nói:

- Đánh thắng trận này thì rồi lõ cũng đến rút nhiều nơi.

Một anh khác:

- Chiếm đất không thành vấn đề.

- Mình gửi áo rét ở nhà mẹ nuôi Am Thượng, rét năm nay không có áo thì đến chết co!

- Lúc này mà đánh thì thật hợp thời cơ.

- Nhất mạn cơ mà...

- Hàm không sốt ruột à? giá vợ con không chết bom thì bây giờ cũng rầy rà đấy nhỉ.

- Thì cũng đến lo chứ làm gì...

- Đánh bây giờ thì nó rút ngay.

Hàm lè nhè nói một mình, và tiếp tục lắc cái bánh xe hơi dão của đại bác mà người thợ công trường vừa chữa xong.

- Bộ chỉ huy chiến dịch dễ không biết lo như mình đấy.

- Rồi các cậu cứ nghiệm xem. Lại đợi đến mưa liên miên rồi mới hành quân cho mà xem. Lính Việt Nam chúa thần là xuất quân ngày mưa.

Rồi trung đoàn... tập phối hợp bộ pháo. Trung đoàn... đến, trang bị đầy đủ. Rồi đã loáng thoáng người lính của d3, Trùng Khánh, Quảng Uyên rầm rập người và lừa ngựa. Ô tô nối đuôi nhau chạy đêm này sang đêm khác, có đoàn táo bạo, tinh mơ còn đuổi nhau trong sương. Những vụ oanh tạc của giặc ráo riết. Bỗng một buổi chiều, đại đội trưởng hấp tấp đi trước, chỉ mang theo chiếc địa bàn quân sự, lưng cuốn màn chăn như chiếc khố bao. Anh đã xuống hết cầu thang, lại trèo lên, mắt sâu thẳm sau kính trắng, thẹn thò nói:

- Tối hôm nay, tôi không được họp chi bộ. Vậy tôi đề nghị các đồng chí ở nhà thẳng tay phê bình tôi để cho tôi biết những khuyết điểm của tôi mà sửa chữa.

Thư của Bác Hồ gửi tới.

Hỡi các chiến sĩ yêu quý

Vệ quốc đoàn,

Bộ đội địa phương,

Dân quân du kích,

Chúng ta quyết đánh thắng trận này

Để thắng trận này, các chiến sĩ ở mặt trận phải kiên quyết dũng cảm một trăm phần trăm.

Ai có công to Chính phủ sẽ thưởng.

Hỡi các chiến sĩ yêu quý,

Bộ đội này thi đua với bộ đội khác, địa phương này thi đua với địa phương khác.

Cuộc thi đua giết giặc lập công và chiến dịch nhất định sẽ thắng lợi.

Toàn thể các chiến sĩ tiến lên!

Thắng lợi đang chờ các chú

Tôi đang chờ để khen thưởng các chú.

                            Chào thân ái và quyết thắng

                                     Hồ Chí Minh

 

Anh chính trị viên tập hợp bộ đội trước hang:

- Thế nào các đồng chí đã đọc thư Bác chưa?

- Đọc rồi.

- Có thích không?

- Thích.

- Có yêu Bác không?

- Chúng tôi yêu cầu hát bài Hồ Chí Minh muôn năm.

- Đuốc gươm thiêng, hai ba...

- Thế thì bây giờ làm gì?

- Bây giờ thì đánh..

- Đánh thì phải làm gì?

- Phải hăng.

- Và phải nhớ lời Bác. Bác đang chờ để khen thưởng chúng ta. Vậy chúng ta phải kiên quyết dũng cảm một trăm phần trăm để cố lĩnh thưởng của Bác phải không?

- Hoan hô! Đánh xong có được gặp Bác không?

- Đồng chí nhất định lĩnh thưởng phải không?

- Không, nhưng để nghe xem Bác gọi bộ đội là chú thế nào.

- Đánh xong giặc hẵng hay, bây giờ thì ta hẵng biết là đi đánh giặc. Đấy là việc trước mắt phải không? Các đồng chí đợi mãi ngày lên đường giết giặc. Ngày ấy đã đến. Các đồng chí có vui không?

- Vui lắm. Đánh đâu ạ?

- Ấy, đồng chí nào hỏi thế? Sai nguyên tắc bí mật rồi. Mình cứ biết là đi. Đánh đâu mình cũng đánh. Có phải không nào? Bây giờ tôi hỏi nhớ. Các đồng chí có vui không?

- Vui lắm.

- Các đồng chí có sợ tàu bay, quân nhảy dù, quân tiếp viện không?

- Không.

- Các đồng chí có còn thắc mắc điều gì không?

- Không.

- Các đồng chí có quyết tâm giết giặc không?

- Quyết tâm.

- Các đồng chí có hứa quyết thực hiện bốn điều yêu cầu của chiến dịch không?

- Xin hứa.

- Vậy tôi chúc các đồng chí thành công. Chúng ta nên nhớ luôn luôn rằng chiến dịch này Bác Hồ đi sát chúng ta đấy. Chúng ta quyết đánh một trận căn bản. Giải phóng quân có chiến dịch Hoài - Hải, chúng ta nhất định có chiến thắng Cao - Lạng.

Bộ đội viết những lời quyết tâm giết giặc.

Bộ đội bắt đầu vào cuộc hành trình lớn.

Trưa, Trùng Khánh bị ném bom nặng. Chiều, bộ đội lên đường. Một người đàn bà, quần áo lấm như vùi một tay ẵm đứa con, nói với bộ đội:

- Các anh giết chết chúng nó đi cho tôi!

Bộ đội lặng lẽ đi, trong bóng chiều, loang lổ một vài ánh hoàng hôn. Khói và bụi bám vào những cành bị đốt và những lá bị thiêu co quắp, rũ rượi. Cảnh vật càng mờ mờ. Trên mấy nhà sàn buồn tênh, ba bốn bà ké nhìn ra, nhớ những ngày vui các đồng chí đóng tại nhà mình. Các em bé giơ ngón tay nhỏ xíu chỉ trỏ. Giữa tiếng sắt của vó lừa ngựa, tiếng súng lách cách, bộ đội tiến quân, không nói nửa lời. Trời tối hẳn. Hai bên đường, hết lớp này đến lớp nọ đoàn dân công đi phục vụ, dừng lại, nép sau những gậy cao tua tủa, sừng sững như những cột dây thép trông xa xít lại.

Hôm sau, pháo binh hồi hộp chờ dân công. Không biết có phụ nữ không? Các chị đến đây có nhiều chị đẹp như nhiều chị đi với các đơn vị gặp dọc đường không? Các anh dân công có khỏe không? Người nói có các chị thì tươi thêm người nói họ nhà voi chỉ cần người khỏe:

- Pháo binh căn bản là ăn no vác nặng.

Bỗng họ reo lên. Dân công đã đến. Toàn là anh em Thổ, tuổi trên dưới bốn mươi. Dăm chị phụ nữ thẹn thò. Một anh nói:

- Các chị, các anh đi với pháo binh thì vất vả lắm đấy lố.

Các anh không nói gì. Các chị mỉm cười. Một chị cười rũ.

- Các chị cười gì chúng tôi thế?

- Không biết tiếng Kinh đâu. Chị úp mặt vào lưng bạn mà cười.

Bộ đội và dân công vui vẻ lên đường. Dần dần hai bên hiểu nhau. Chị Thiếp đã hoãn ngày cưới để đi dân công. Chồng chưa cưới của chị cũng đi dân công, không biết ở đơn vị nào. Đồng chí Thào, người cao lớn nhất trong đám dân công, trạc ngoài năm mươi tuổi, có một người con cũng đi bộ đội, cũng không biết ở đơn vị nào. Anh Hàm ăn nói lè nhè. Anh Ngưu hay gắt. Anh Ngô hay pha trò...

- Chị Thiếp ơi.

- Không phải tên đâu, chị vừa nói vừa cười rũ hóm hỉnh.

- Anh ấy đâu?

- Không biết tiếng Kinh đâu.

- Không biết tiếng Kinh là không yêu nước.

- Không biết tiếng Thổ là không yêu nước.

Con đường ra tiền tuyến nắng gắt. Dân công tấp nập sửa đường. Lại các chị Thổ, chị Nùng, chị Mán, chị Mèo. Họ đập đá. Đá bốc lên mùi thum thủm. Một vài em gánh đá. Mấy người đàn ông có tuổi, cuốc đất xuống đường. Dăm ba phụ nữ nằm ngủ vệ đường, khăn tay đắp mặt. Một tốp phụ nữ. Nón nhọn, ở tiền tuyến về thảnh thơi với chiếc đòn không. Bộ đội qua một cầu tre đồ sộ do công binh mới bắc ngang sông. Lừa, ngựa đều đi qua được.

Sáng 14-9: Cuộc hành quân khổng lồ tới vị trí bàn đạp. Con đường độc đạo ứ người. Bộ binh, công binh, pháo binh, cấp dưỡng, thông tin, quân báo, cần vụ, liên lạc chính trị, cán bộ, phái viên, tuôn vào cuộc đi lớn. Bộ đội, dân công đi, rừng núi cũng đi.

Pháo binh nhường bước cho bộ binh tiến. Bộ binh đọng sau, tiến lên vun vút, hùng hục.

- Đi nhanh lên, anh hùng Cao - Lạng.

- Lắm lừa quá. Sao có con lừa cao thế. Đẹp thật?

- Khốn khổ, con này chột một mắt phải không anh? Thế thì sắp về vườn rồi còn gì.

Nho đáp:

- Nó còn khỏe chán. Còn theo được các anh. Nho vừa nói, vừa nhìn con "ống xiết". Lời nói của anh bộ binh vừa qua làm cho anh càng thương nó. Nó bứt lá cây nhai sột soạt.

Bộ binh chạy. Người vắt trên vai bao gạo kẹp trong hai nẹp tre như bó lợn, cái ca bên hông kêu coong coong. Người vác hai súng chập một, dây thừng quàng vai đeo một hồ lô, nước óc ách, thắt lưng mang một chùm lựu đạn. Người gánh sáu ba lô da, một tay ve vẩy chiếc đồng hồ báo thức. Dân công áo chàm mới, nón vành to sau lưng. Anh dắt con chó đen ức trắng. Anh gánh hai bồ lớn cắm cành cây như chậu cảnh. Những chị dân công lớn nhỏ, cúi đầu bên chân núi, yểu điệu trong cành lá ngụy trang. Đám người đi cuồn cuộn. Thỉnh thoảng ánh lên chiếc túi thêu xanh đỏ của chị phụ nữ Thổ. Líu ríu tiếng những người Mán để hồng mao, áo rách như khăn tua. Có lúc đi giữa hai bó tre đồ sộ của dân công, giữa treo cái nón sơn vàng nhạt, to vành, uyển nhiên như đi giữa cửa khải hoàn. Một tiếng huýt sáo bài Tiến về Hà Nội. Nồi cấp dưỡng thỉnh thoảng điểm như tiếng chuông chùa. Qua "cửa khải hoàn", một dãy lán lợp lá chuối lụp sụp, trước mặt là một dãy bếp nguội tanh, rải rác vỏ bí đỏ, đu đủ. Mấy chị dân công trong lán nhìn ra, cổ tay đeo vòng trắng.

- Gia đình quân dân thật!

- Quân dân tiền tuyến.

- Đi đi vát vát

Một biểu ngữ vắt qua đường, chữ trắng nền xanh: Quyết giật giải của Hồ Chủ tịch và huy hiệu anh hùng Cao - Lạng. Một người vừa chạy vừa ngước mắt lên đọc. Một người chạy sau.

- Hoan hô!

- Truyền xuống chạy nhanh lên.

- Câm không truyền à?

- Truyền xuống chạy chóng lên.

Gậy lọc cọc. Xẻng xè xè. Lá rào rào.

- Bắt đầu hỏa lực mở máy nào.

- Gớm, thuốc lá con cú không chê được.

- Anh dũng ngoan cường, chạy đi.

Một người cố đọc:

- Quyết giật giải của Hồ Chủ tịch. Rồi lại chạy, chân bùn nhem nhép, những quả lựu đạn giắt trong những giỏ con đan bằng tre xinh xinh sau đít.

- Bắt đầu choảng rồi đấy. Rất là một sự xa.

- Quyết giật giải của Hồ Chủ tịch...

- Anh hùng Cao - Lạng.

- Có phụ nữ dâng hoa không, các cậu?

- Dân chủ không nhiễu sự!

- Dưới nhá, dưới nhá. Dồn lên, dồn lên.

Cách xa lắm rồi.

Một người đi qua biểu ngữ, rẩu mồm định đọc, nghe tiếng truyền lại chạy. Tiếng núi truyền vang lên, âm và nghiêm. Tiếng huýt sáo ương ca. Một đội viên lủng củng gánh một hòm đạn, một đế móc-chi-ê. Cuốc xẻng, súng trên vai. Lưng lủng củng hơn: hộp máy ảnh, lựu đạn, xà cột, lưới ngụy trang thây lẩy chuôi dao, ống tre nước chạm vào lựu đạn lách cách:

- Lần này vớ anh hùng Cao - Lạng thì bỏ mẹ.

- Anh hùng Cao - Lạng, hú ù?

- Yêng hùng Cao - Lạng à?

- Huy hiệu dài quá. Căng ngay vào chỗ lên dốc mờ cả mắt.

- Phê bình ngay!

Rồi lại những người lệch vai vác hòm đạn. Rồi lại các chị Thổ khiêng hòm đạn nặng. Rồi lại các anh Mán, cổ đeo vòng bạc, mồ hôi như bôi dầu. Người vừa đi vừa hát. Người vừa gánh vừa ho. Những quả bí đỏ đầu treo lủng lẳng đòn gánh. Một cán bộ dáng mệt mỏi, đi thất thểu, chăn và bao gạo đeo chéo vai. Anh se sẽ đan bàn tay: bàn tay còng queo còn một ngón. Anh đã dự những trận nào?

Một tốp phụ nữ đi ngược lại. Một cán bộ dân công đi trước. Anh nói:

- Xin giới thiệu với các anh, trong số các chị đây, có chị Dậu. Chị Dậu đã dự trận Đông Khê lần trước. Chị đã xung phong vào chỗ đánh nhau, cõng các anh thương binh về.

- Hoan hô chị Dậu, chị Dậu đâu?

Lần này chị vẫn đeo cái thắt lưng chị đã dùng để buộc anh thương binh mà chị cõng về.

- Ưu điểm. ưu điểm. Hoan hô, hoan hô đi. Cảm động quá, chị Dậu đâu?

- Chị mặc quần áo mới nhất ấy?

Các chị chúi cả vào bụi rệ đường, cười ngặt nghẽo.

- Hoan hô! Vỗ tay đi!

- Em không biết đâu. Một chị vụt chạy, má đỏ ửng.

- Ưu điểm, ưu điểm. Hoan hô nữ chiến sĩ dân công. Vỗ tay đi.

Tiếng vỗ tay râm ran, lộp bộp, lẹt đẹt, lẻ tẻ ở mãi sau lưng.

- Thằng Tây thì phải chết chứ sống thế nào được?

- Thế này thì như ném đá xuống ao còn gì là lõ?

- Đánh xong trận này thì là về Hà Nội.

- Chả cần. Con cua ta cứ vặt hết chân càng đi thì hết chạy!

- Lại chủ quan rồi!

- Truyền xuống, nhanh lên.

- Truyền xuống, nhanh lên.

Khẩu hiệu: Giữ vững kỷ luật chiến trường, treo trên mái một lều lợp chuối. Chữ đỏ kẻ trên giấy bản. Một đội viên đi một mình vấp vào đá kêu úi dùi dụi se sẽ rồi lại nhăn mặt đi lẩm bẩm:

- Giữ vững kỷ luật chiến trường.

Một tốp chạy sau, thở hồng hộc, vác súng Mỹ, túi sơ mi sặc sỡ những bông xanh đỏ của áo bút máy, con chó đen nhởn nhơ chạy theo, cổ quàng một dây vải trắng. Chạy bở hơi tai.

- Kìa sao không liên tục đi? Lệnh của đại đội trưởng.

- Trung đội bốn có quyết tâm giữ vững kỷ luật chiến trường không?

- Trung đội bốn quyết giữ!

Chiều tà, pháo binh tới bản Viện, cách địch sáu cây số. Người chạy qua suối, với gậy gạc, nhảy như cào cào, trước một cái khung đại bác nghễu nghện. Một phụ nữ bứt lá về. Chị Thiếp đã khuân một cành cây lớn. Việc làm lán bắt đầu. Bếp đã dựng trên bãi, khói tỏa như chiều ba mươi. Đồng chí Thào cao lênh khênh, cái đầu hói bóng, đi lĩnh gạo về cho dân công. Ngựa hí vang lừng. Mùi thịt thơm bay lên. Con lừa “ông xiết” đứng bên bờ suối, quay lại như nói chuyện với Nho.

Giời đã tối. Trong hang, suối lượn trước mặt, một đơn vị đến trước đóng. Hai đội viên ốm ngồi nấu cháo. Trên những phiến đá to, dân công ngồi quanh bếp lửa. Giữa hang, bên những giá để hòm đạn, trên một phiến đá phẳng, mấy phụ nữ nằm ngủ như Hằng nga trong rừng. Một ngôi sao sáng qua khe lá lọt vào miệng hang. Mọi người trầm ngâm chờ đợi. Trong một ngách hang, hai người Mán có tuổi, râu lưa thưa, nằm song song giữa chiếc bàn đèn thuốc phiện sơ sài đặt trên đám lá. Mấy đội viên đi qua:

- Các đồng chí vất vả quá nhỉ.

- Nghiện thuốc phiện khổ lắm lố. Có tội với Chính phủ lắm lố. Cái Chính phủ nó bảo không được hút mà.

- Không chừa được ư?

- Chừa mãi không được lố. Tại đế quốc cả đấy.

- Nghiện thế mà các đồng chí đi được thì thật là giỏi.

- Không đi thì con cháu nó không đi.

- Sao thế?

- Nó sợ xuống núi thì thối chân, cái cóc, cái nhái nó kêu không ngủ được. Phải ủng hộ cái Chính phủ thì mới đánh Tây được lố.

- Đồng chí ở có cao không?

- Cao lắm. Ngày xưa không có ai xuống đi phu cho thằng Tây mà. Nhưng bây giờ thì phải đi. Ở nhà không tốt.

- Đánh xong cái thằng Tây thì lại về mà.

- Phải rồi đồng chí ạ.

Nói xong, người ấy ngồi dậy nạo thuốc. Người bạn nghiện nằm lim dim ngủ.

Anh chính trị viên đại đội pháo binh khai hội với các cán bộ. Những cái đầu túm tụm. Anh nói:

- Lần đầu tiên trong lịch sử kháng chiến Việt Nam chúng ta đánh ban ngày. Đấy là một vinh dự lớn. Chúng ta phải xứng đáng. 6 giờ 10 phút ngày 16, chúng ta khai hỏa đánh Đông Khê. Thời gian chúng ta còn trước mặt để chuẩn bị cho thật đầy đủ là ba mươi sáu tiếng. Các đồng chí, giờ này, có thể phổ biến cho anh em là đánh Đông Khê. Nhưng đừng nói vung. Các đồng chí nhớ chúng ta ở sát vị trí địch có sáu cây số. Chú ý ngày mai. Không được để một dấu vết gì có thể để máy bay biết chúng ta ở đây. Triệt để ngụy trang. Ra trận, mỗi người chỉ đem một bộ quần áo, một chăn. Nguyên tắc là thật nhẹ. Đối với những dân công ra vị trí, phải gượng nhẹ, nâng đỡ. Việc nặng mình phải làm lấy. Người ta chưa quen, vả lại dân công có phải là trâu kéo cày cho mình đâu? Lừa ngựa và cấp dưỡng ở đây, cho đến khi thắng trận sẽ có lệnh mới.

Suốt đêm lục đục. Gần sáng, có lệnh cử người đi Bố Bạch ngay. Không ai biết đường. Bộ đội mệt, ai cũng ngần ngại.

- Các đồng chí vẫn nói phải có tinh thần anh dũng ngoan cường. Đây là lúc tỏ tinh thần ấy. Đây cũng là một điểm thi đua, một dịp lập công.

Đồng chí Thào không ngủ được, ngồi nhổm dậy.

- Tôi biết đường đi Bố Bạch. Tôi dẫn đường.

- Thế thì ông Thào cùng đi với đồng chí Hàm.

Trong bóng đêm, hai người đi vội vã. Bộ phận công sự cũng đi nhận vị trí. Mắt húp lên, người cán bộ bắt tay từng người, nói se sẽ:

- Chúc các đồng chí cố gắng. Nhớ rằng trận này phải thắng đấy nhé.

- Vâng. Phải thắng.

III

Ôi! cái đêm ra tiền tuyến! Không đèn, không đuốc, không trăng, không sao. Đường mòn không trông rõ, hoặc không có. Hành quân chậm, ngắc luôn. Nghỉ để chờ cho bộ đội bạn đi đằng trước vượt được qua chỗ khó. Nghỉ để tìm đường. Nghỉ vì gẫy đòn khiêng. Nghỉ để đợi một bộ phận ì ạch đằng sau. Nghỉ để đợi liên lạc. Đi từ bốn giờ chiều, mà mười hai giờ đêm rồi còn cách xa vị trí hơn hai cây số. Cán bộ sốt ruột:

- Kinh nghiệm lần sau phải để cho pháo binh đi trước bộ binh! Mười hai giờ, theo lệnh của ban chỉ huy trận địa, mọi nơi phải bố trí xong xuôi rồi, mà mình còn ở đây!

Cán bộ giục đội viên tiến nhanh. Bộ đội vẫn cách nhau xa. Lâu lâu, có tiếng thở hồng hộc to dần tiến lại.

- Các đồng chí có biết ngày mai là ngày gì không?

- Có.

Tiếng ừng ực uống nước rất lâu, tưởng như không bao giờ uống xong. Tiếng vặn mình răng rắc. Hai du kích ở vị trí về. Hỏi. Đáp se sẽ: chiều hôm nay nó bắn moóc-chi-ê. Bộ đội đến đông đủ cả rồi.

- Ra đấy còn xa không?

- Còn xa.

- Có khó đi không?

- Nhiều dốc lắm.

Rừng lại tuôn ra những bóng lom khom, bì bõm trong ruộng bùn, quờ quờ quạng quạng với tiếng thở hồng hộc, tiếng kêu ai ái se sẽ, tiếng gọi trở vai, rồi thốt nhiên im lặng. Chiếc nòng chao đưa, một bóng rơi xuống, loạng choạng, xuýt xoa, dừng lại. Vai đè nặng quá. Chân không sao rút khỏi bùn, im lặng. Một tiếng nấc của bùn. Chiếc nòng lảo đảo. Người khiêng lảo đảo.

- Cố lên, gần sáng rồi. Tiếng Hàm dìu dịu nói với đồng chí Thào.

- Nát cả hai vai rồi.

- Mai y tá băng cho. Một tí nữa thôi.

Anh liên lạc đi trước từ xẩm tối để ra nhận vị trí, trở về đón đơn vị. Khi anh đi, trời đã tối mịt. Đường lối quanh co: đèo đá, lối mòn trong rừng, đường ruộng lầy dọc ngang, khi vượt suối, khi theo dòng suối đồi này rồi lại đồi khác, không phân biệt cái nào vào cái nào. Vị trí là một chấm nhỏ, li ti trong cái cảnh hỗn mang lừa dối ấy.

- Địch có biết rõ không?

- Có lẽ không. Chiều hôm nay nghe nói có vài tiếng moóc-chi-ê nổ vu vơ.

- Thôi được. Đồng chí nhớ đường chứ?

- Nhớ ạ.

Tiếng thở hồng hộc và tiếng lọc cọc, lạch cạch lại theo anh đi. Trời càng tối, rừng càng rậm. Anh liên lạc đi trước, lom khom, sờ soạng, mò mẫm, chỏm mũ đính một miếng gỗ mục lờ mờ sáng xanh. Trong tối đen, vệt lờ mờ sáng ấy len lỏi, khi xuống, khi lên, khi thành hình gập ngắn, dài, khi thành hình tròn, khi ngoặt đi không thấy nữa, khi hiện lên, khi hốt nhiên lẫn vào muôn vạn vật lờ mờ sáng của một khu rừng, lấp lánh, mơ hồ như đêm trăng. Những bóng đen ngẩn ngơ. Tiếng nói thì thầm.

- Đây kia mà. Vệt sáng nhấp nhô...

- Chỗ này rậm lắm. Cẩn thận, chỗ này nhiều cây đổ khó đi lắm. Xuống dốc này thì lên một cái dốc cỏ gianh, dựng ngược, trơn lắm.

- Còn nhiều dốc không?

- Còn hai cái nữa. Nhưng chỉ có cái này là vất vả.

Một dây leo quật anh xuống dốc. Vệt sáng quay tròn, biến mất. Xuýt xoa. Sờ lần. Vệt sáng đứng dậy, quay lại.

- Dễ không phải...

- Thôi chết. Ba giờ rồi!

Anh loay hoay, quờ vào hết cây này đến cây khác, cúi xuống nắm bụi cỏ này đến bụi cỏ khác, giữa tiếng thở dốc ra, không phải của người nữa mà của cả rừng núi ban đêm. Tiếng nói xa xa:

- Đằng này cơ.

Tiếng thở lại lộc cộc theo tiếng nói mà đi.

- Sắp đến rồi. Trước mặt mình bây giờ là nó. Mình bây giờ đứng cao hơn nó. Tay anh trỏ một mỏm núi lẫn trong sương.

- Trung đội súng đến đủ chưa?

- Thưa ban chỉ huy, bây giờ cứ lần đường điện mà đi. Dễ rồi...

Bên lối đi, nằm trên cỏ gianh, thoai thoải dốc, dăm ba người ngủ, cuộn tròn trong chăn đơn trắng ngáy đều đều. Thào lảo đảo, thở như hắt ra, rồi ngã xuống. Hàm chạy lại đỡ.

- Sao thế?

Hàm lè nhè nói như muốn khóc.

- Ông Thào. Người ta có quen như mình đâu...

Rồi lại một tốp người ngủ, trắng xóa trong sương. Một bóng nằm bên mấy hòm đạn, nhổm dậy, lù lù lại, thì thầm. Đây là vị trí.

- Đơn vị ta đến trước giờ khai hỏa hai giờ. Các nơi hình như đã bố trí xong rồi. Dân công khổ lắm phải không?

Trời đã sáng. Dưới chân đồi, một cánh đồng cỏ chạy thẳng tới đồn Đông Khê, xa xa trắng đỏ. Sườn đồi, pháo binh đang túi bụi đặt súng, ngụy trang biệt súng, gọi nhau ơi ới. Mặt người nào cũng bóng loáng. Đây là trận địa pháo binh cũ của một đơn vị đánh Đông Khê hồi tháng năm.

Tin tức cuối cùng: phía nam mới có hai khẩu đội này lên. Hai khẩu khác chưa tới. Phía bắc chưa đặt được khẩu nào. Nhiều khẩu vẫn còn trên đường đi.

Ban chỉ huy trận địa nhận được những đề nghị tới tấp gửi lên xin cho tạm rút, chờ bố trí đầy đủ sẽ tổng công kích. Đối thoại với trung đoàn đánh phía bắc:

- Tiểu đoàn xung kích phía bắc đã tới đâu?

- Đã tiến sát đồn Phìa Khóa.

- Rút có lộ không?

- Lộ .

- Tình hình pháo binh phía bắc thế nào?

- Mới có một khẩu bố trí ở Phìa Khinh.

Sáng đã rõ. Sáu giờ hai mươi nhăm. Phía đông, một bánh xe đại bác của đơn vị đi sau, lò dò lên dốc, rồi đến cái nòng. Mấy anh dân công phụ trách tiếp đạn, lom khom chạy về phía sau đồi theo anh cán bộ tiểu đội. Điện thoại réo:

- Lệnh của ban chỉ huy trận địa, đúng sáu rưỡi, pháo binh khai hỏa.

Người chạy, người xuống hầm, người đứng vào vị trí mình. Dưới hầm, sau biệt súng, một cán bộ tiểu đội đứng bên ba cái hòm đã mở sẵn, bày các ngòi đạn như hàng xén. Đại đội trưởng chạy lại một khẩu đội mũ rách, chân đất, mắt sâu thẳm sau kính cận thị. Hàm chia vội điếu thuốc lá cuối cùng cho Thào, lạch bạch đến đứng nghiêm sau súng. Trung đội trưởng, mặt nổi gân, nhảy lên một cây tre xùm xòa, đánh đu vít nó xuống để ngụy trang thêm biệt súng. Tiếng hô:

- Khẩu đội một, chuẩn bị bắn!

Tiếng mở quy lát, tiếng đóng quy lát, Hàm cầm dây cò lom khom...

- Khẩu đội một, bắn!

- Bắn! Trung đội trưởng hô, tiếng nói cuối cùng của cuộc chuẩn bị kéo dài, và tiếng nói đầu tiên của trận đánh chính thức. Tiếng giật cò. Lửa toé. Cỗ súng chồm chồm, rầm rầm như đồng sắt rơi. Hàm nghển nhìn. Khói bốc ngoài ruộng. Mặt Hàm không động. Đông Khê im lìm, như có vẻ thản nhiên. Người ta bắt đầu đào thêm hầm chung quanh vị trí...

Bên kia Phia Khinh một khẩu đã được đặt lên sườn đồi. Các pháo thủ phần đông là anh em miền  núi, lực lưỡng. Đội trưởng giục mọi người:

- Mau lên, mau lên, các đồng chí.

- Chặt cây mau làm công sự.

- Chặt thì lộ mục tiêu. Nó trông thấy.

- Sang bên sau núi chặt rồi đem về đây. Trung đội công sự đi cùng hai mươi dân công. Mau!

Mấy cây cổ thụ đổ xuống. Anh em khiêng lên đỉnh, rồi lại choãi chân khiêng xuống sườn đồi. Tiếng nổ của đại bác phía đông long trọng.

- Đánh rồi!

Tay anh trung đội trưởng run run xoay máy ngắm. Sáu giờ bốn nhăm, đại bác Phìa Khinh rót sang đồn Phìa Khóa. Xung kích nằm trước đồn to, động đậy. La Văn Cầu, một đội viên miền núi, nhổm đít. Tiếng thét xung phong dồn dập giữa tiếng liên thanh vun vút bay lên đồn. Liên thanh trên quạt xuống. Một tiếng nổ long trời. Đồn Phìa Khóa bốc khói. La Văn Cầu ôm lựu đạn chồm lên, mang máng tiếng reo hò...

Phía đông, tiếng soạt soạt trên đầu. Một pháo thủ kêu:

- Nó bắn đấy!

Tiếng nổ đằng sau vị trí, ầm ầm.

- 105 rồi!

Cuộc đối pháo bắt đầu, 105 và moóc-chi-ê giặc bắn sang dồn dập.

- Báo cáo anh Nạp, tôi bị thương.

Đấy là lời nói cuối cùng của người đội viên hy sinh đầu tiên trong trận đánh, một tân binh người Thanh Hóa. 105 giặc bắn bậc thang. Hầm gần biệt súng, một cành cây răng rắc, một viên đạn nổ bên miệng hầm. Đất sỏi vùi những người nằm rúi rụi.

- Phong bị thương, tiếng anh chính trị viên.

Băng trắng đã loang lổ máu trong hầm. Người cứu thương lóp ngóp bò. Trên con đường dốc xuống suối, mỗi hòn đá đều loang một giọt máu nhờ nhờ. Một dân công đầu trọc, ngã gục bên một gốc cây, tay ôm đầu. Cạnh đó, một xác tân binh, mặt đầy máu, hai chân gập lại. Nhiều hố cá nhân mới đã được đào, đất đỏ hỏn, cái nông, cái sâu. Pháo binh ta ngừng bắn.

- Chú ý phòng bị máy bay sắp lên.

Dọc con đường dốc hoen máu, chiến sĩ và dân công vẫn tiếp tục lên xuống. Một vài anh cấp dưỡng gánh cơm hỏi thăm đơn vị mình. Trong hốc đá ẩm ướt ri rỉ nước, một em liên lạc ngồi trên một chiếc chõng tre rải bạt, chờ những người tải thương đến.

Rồi bà già lên, lượn chung quanh vị trí pháo binh. Rồi bốn khu trục ầm ầm, trút bom xuống trận địa pháo.

Trợ chiến bắn lên. Núi rập lên rập xuống. Mấy cổ ngỗng ngóc đầu lên hung hăng.

Đường dây chi chít, chỗ một dây, chỗ hai dây chập lại lủng lẳng bên đường, sền sệt ngang đường, bắc qua suối giắt lên những dốc cao, thăm thẳm. Mấy anh điện thoại đi lần đường dây đứt. Một liên lạc viên mặt đỏ gay mũ nan gài khẩu hiệu giấy xanh: Quyết tiêu diệt Đông Khê! chạy hộc tốc đi tìm trung đoàn, biến lút vào rừng sâu.

Máy bay rạch trời bay, lượn, bắn phá...

Hai bên suối Đông Khê dưới bóng cây um tùm, xung kích, phụ trách phía nam, chờ giờ xuất phát. Suối vui hẳn vì những màu phức tạp của chăn, bạt, áo quần. Bộ đội ngụy trang nằm la liệt, hoặc một, hoặc hai, hoặc túm tụm. Người nằm lên đám sỏi mấp mé nước. Người nằm trong hố mới đào hai chân gác lên miệng, hố. Những lứa ôm nhau, co ro đầu gối. Lựu đạn, súng, bi-đông, khăn mặt, xà cột treo trên cây Suối chảy róc rách, róc rách. Những người còn thức, hoặc ngồi trong hố viết sổ tay, hoặc hút thuốc lá hoặc trảy ổi bên bờ suối... Trần Cừ về. Anh em choàng dậy. Một người hỏi:

- Thưa anh, có tin gì mới không?

Trần Cừ nhìn đại đội mình, cười chúm chím:

- Các cậu vừa rồi có ngủ được không?

- Ngủ được ạ.

- Thoải mái cả chứ.

- Rất là một sự thoải mái. Chắc anh mệt, vì không được ngủ.

- Nhưng tôi đã không phải khiêng vác nặng như các cậu Thôi nhé. Bây giờ cho các cậu biết tin này. Trung đoàn.... đã giải quyết xong đồn Phìa Khóa sau ba lần xung phong. Hoan hô đơn vị bạn đi.

- Hoan hô!

- Các cậu hoan hô ỉu lắm. Tổ thanh niên thế thì bét. Thế là đơn vị bạn đã giải quyết được một đồn ngoại vi ở phía bắc. Còn chúng ta chưa giải quyết được một đồn ngoại vi nào. Các cậu thấy thế nào?

- Phải đánh mạnh.

- Phải rồi. Chiều hôm nay, chúng ta phải đánh gấp đôi đơn vị bạn, chúng ta vừa phải giải quyết ngoại vi, vừa phải đánh tung thâm. Nhiệm vụ có nặng không?

- Nặng.

- Nhưng chúng ta có sợ nặng không?

- Không.

- Vì sao?

- Vì đại đội ta đây nhận làm nhiệm vụ chính.

- Nhiệm vụ chính thì phải nặng, cố nhiên rồi. Nhưng đại đội ta không bao giờ sợ nặng, bao giờ cũng xung phong nhận lấy những nhiệm vụ nặng nhất. Lần này cũng vậy. Tôi xin hứa với các đồng chí là quyết tâm chỉ huy các đồng chí làm tròn nhiệm vụ.

- Xin hứa với anh, chúng tôi quyết tâm làm tròn nhiệm vụ.

- Giặc đã thả dù tiếp tế xuống Đông Khê. Chiều nay tình hình rất có thể gay go nhiều. Rất có thể nó đánh ra. Rất có thể nó nhảy dù. Tôi báo cái tin này để các đồng chí chuẩn bị, đối phó với mọi sự biến chuyển bất ngờ. Chứ nó đánh ra chúng ta chẳng sợ, nó nhảy dù chúng ta cũng cóc cần.

- Hoan hô!

- Thưa anh, nghe nói một bộ phận pháo binh được lệnh rút, một bộ phận lạc đường chưa tới.

- À, phải rồi, pháo binh đi chậm thì ban chỉ huy trung đoàn vừa bắt được liên lạc. Thế nào cũng đến kịp. Nhưng nếu đến phút cuối cùng, pháo binh chưa tới, mà có lệnh tổng công kích thì các đồng chí nghĩ sao?

- Cứ đánh. Giải quyết bằng xung lực.

- Phải rồi. Đối với bộ đội cách mạng như chúng ta xung lực là chính. Chúng ta là gì?

- Là xung lực.

- Vậy thì sao?

- Không có pháo binh cũng cứ đánh như thường.

Một đoàn nữ dân công đi qua bên suối. Xung kích đứng lên vỗ tay:

- Hoan hô các chị xung phong tải thương.

- Chị Dậu đâu?

- Kia kìa, đang nép mình sau chị Hồng kia kìa.

- Chưa ra trận, các bà đã đến rồi, khá thật!

Dậu thỏ thẻ:

- Chúng em xung phong đi sát các anh đấy.

- Hoan hô các chị. Chị Dậu, chị xem trong bọn chúng tôi, chị sẽ phải cõng anh nào?

- Không biết đâu.

- Sao lại không biết?

- Em chẳng phải cõng anh nào đâu.

- À, chị Dậu có duyên tệ!

Đêm 16, bắt đầu từ năm rưỡi chiều, bộ đội hai mặt đánh vào Đông Khê. Phía bắc, ta chiếm Yên ngựa, Cạm Phầy, đánh xuống đồn to. Phía nam, ta đánh vào trường học tiến lên nhà thông tin, bãi ô tô, phố cũ. Giặc chỉ còn ở Phủ Thiện. Các đơn vị hoan hô nhau trong máy nói. Các đơn vị báo cáo có lẽ giặc sắp xin hàng, thực ra, đồn to chưa chiếm được. Gần sáng, bộ đội mặt bắc đã rút lui. Mặt nam bị đồn to bắn xuống, Phủ Thiện bắn lên, các hầm chung quanh giặc ẩn trong ấy, bắn vào. Tờ mờ sáng cũng được lệnh rút ra để đỡ thương vong.

Nhiều cán bộ hoang mang. Họ đề nghị cho rút về để chấn chỉnh đội ngũ, đợi một dịp khác có điều kiện sẽ đánh. Ban chỉ huy trận địa ra lệnh:

- Ở đâu giữ đấy, tử thủ Cạm Phầy, Pò Hẩu (1). Chuẩn bị công kích lần thứ hai, chiều 17, giải quyết Đông Khê cho bằng được.

Lệnh chuẩn bị đối phó với phi cơ, đánh quân nhảy dù, quân tiếp viện.

Xung kích đã trở về vị trí xuất phát hôm trước. Nét mặt đều mệt mỏi. Anh em bàn tán sôi nổi, bực tức.

- Lúc thằng Kiên chạy lên, sao tiểu liên lại không bắn? Có yểm hộ thì thằng Kiên không chết.

- Xung phong rời rạc quá.

- Xung phong không liên tục.

- Hỏa lực phân tán chứ không tập trung tí nào.

- Nếu có ý thức tiêu diệt sinh lực địch, thì đã biết phá từng cái hầm ngầm của nó trước khi tiến. Đằng này cứ chạy lướt qua, để nó vòng lại bao vây mình.

- Nhưng bực nhất vẫn là sự phối hợp kém. Nếu biết rõ là anh em trên ấy chưa chiếm được đồn to, thì không đời nào mình bị thương vong nhiều thế này.

- Tức lắm, chỉ mong chóng tối mà vào. Hôm qua như đánh chơi đánh bời, chứ không phải đánh giặc.

Họ nóng ruột chờ tối.

Máy bay bắn phá suốt ngày.

Trần Cừ nói với người đội viên của anh nằm trên cáng:

- Về chóng khỏi nhớ. Vài hôm nữa tôi đem quà về cho.

Người đội viên mỉm cười, gật đầu lễ phép, mắt lại nhắm nghiền. Cáng đi rồi, anh quay lại bộ đội. Bộ đội đã ngoảng mất nhiều người. Bộ đội biết anh muốn nói với anh em. Lâu lâu anh nói:

- Chúng ta có thể tự hào rằng đêm hôm qua chúng ta đã làm tròn nhiệm vụ. Những đồng chí của chúng ta không còn nữa chứng tỏ điều ấy. Những đồng chí bị thương, nhất là những đồng chí không muốn làm bận chúng ta, tình nguyện ở lại Đông-Khê, chứng tỏ điều ấy. Những đồng chí xung phong lên đồn Pò-Hẩu cao như hình tháp bút, vật nhau với địch mà chiếm đồn, và hiện nay tử thủ ở đấy chịu đựng mấy trận ném bom vừa rồi của địch, cũng chứng tỏ điều ấy Các đồng chí thấy đơn vị chúng ta có hăng không? Có cừ không?

- Cừ lắm.

- Vậy chiều hôm nay, chúng ta cừ gấp trăm hôm qua để hoàn thành nhiệm vụ. Phải không, các đồng chí?

- Vâng. Chúng tôi sốt ruột lắm rồi.

- Chúng ta rút kinh nghiệm trận hôm qua. Chúng ta thề trận hôm nay phải thắng.

Một đội viên nói:

- Tôi có ý kiến, là hôm nay không chơi cái điệu hớ hênh hôm qua nữa. Đánh chắc, bám chắc, mới ăn.

- Phải đấy. Trần Cừ vừa nói vừa quay đi, giữa tiếng hoan hô của anh em.

Một anh trong ban chính trị trung đoàn vừa xuống, tươi cười vỗ mạnh vào vai Trần Cừ, và nói đùa:

- Hôm qua cậu xông xáo ghê quá. Cậu sống kể đã dai, vào sinh ra tử mấy phen rồi mà vẫn chưa suy suyển mấy tí gì. Chiều hôm nay xem ra gay lắm. không khéo thì ngoẻo đấy.

Trần Cừ nói:

- Ngoẻo thì tớ không sợ. Chỉ sợ không làm tròn nhiệm vụ thôi. Làm xong nhiệm vụ, chết tớ cũng vui lòng. Chết cũng sướng vì đã được chỉ huy một đơn vị quyết thắng.

Họ ngước mắt nhìn hai cái cổ ngỗng bay thấp trên đầu...

* * *

Giờ tổng công kích đợt thứ hai sắp tới. Trong hang đá, nơi chỉ huy sở trung đoàn phụ trách đánh phía nam, trung đoàn phó hạ lệnh tấn công bằng máy nói.

Năm giờ chiều, hai máy bay khu trục còn vòng lượn Đông Khê thì đại bác nổ.

Đại bác, SKZ, moóc-chi-ê, liên thanh các cỡ nổ. Đám cháy bốc. Xung kích tiến. Giặc rút cả lên đồn to.

Mười giờ đêm. Giặc chống cự kịch liệt, cố kéo dài đến sáng. Đợt xung phong thứ nhất không giải quyết được đồn to. Một vài báo cáo nao núng:

- Tinh thần bộ đội chúng tôi vẫn cao. Nhưng số thương vong quá nhiều. Một đại đội đã bị hy sinh quá nửa. Những người còn chiến đấu được thì mỏi. Khó lòng mà giải quyết được đồn to...

Lệnh của ban chỉ huy trận địa truyền xuống.

- Lúc này, báo cáo thương vong không cần bằng những báo cáo cụ thể về tác chiến. Bộ đội đã làm xong nhiệm vụ chưa? Bộ đội cần gì để tiếp tục chiến đấu. Nếu bộ đội xung kích yếu thì lập tức cho bộ đội dự bị vào thay. Giải quyết trận đánh cho bằng được.

Phía đông, đại đội của La-Văn-Cầu được lệnh đánh lên phía đồn to. Đường lên đồn dốc. Liên thanh quạt xuống. Đại bác rót xuống đồn. Một quả bom vừa nổ, dây thép gai gãy tung. Cầu đi trước tiểu đội. Anh nhảy lên. Cả tiểu đội gội đạn tiến vào trước một lô cốt. Quả bom Cầu thu trong tay rơi xuống. Cánh tay lủng lẳng.

Tiểu đội trưởng hỏi:

- Cầu bị thương à?

Cầu không nói, cúi đầu nhặt bom, nhảy lên.

Tiếng thét xung phong vang lừng. Bóng một người chạy về, đến gần tiểu đội trưởng.

- Cầu đấy à? Lên đi chứ, sao quay lại?

Cầu chìa cánh tay lủng lẳng:

- Báo cáo anh, anh chặt cho tôi, nó lủng lẳng không tì được vào bom giật kíp.

Tiểu đội trưởng cúi xuống, giơ kiếm chặt. Cầu đã chạy lên. Dẵm lên cái khúc tay mình vừa chặt, người cán bộ dừng lại. Một tiếng bom nổ sáng rực. Tiếng gạch đá nổ ầm ầm. Xung kích hò reo. Trong ánh chớp, tiểu đội trưởng thoáng thấy Cầu thất thểu chạy ra, đầu và vai lệch hẳn một bên:

- Báo cáo anh, lô cốt vỡ rồi. Tôi bị thương.

Tiểu đội trưởng giằng lấy bắt tay Cầu. Anh nắm vào cái tay cụt đẫm máu.

- Thôi đồng chí xuống.

Giặc chết rụi trong lô cốt. Một tên còn sống sót, mở mắt ra, không thấy tường đâu cả, mà chỉ thấy bàng bạc sương và bóng xung kích nhảy vào. Nó quỳ xuống lạy...

Phía tây, tiểu đoàn của Trần Cừ, hồi chín giờ, đã đánh trường học; một đại đội lên bãi ô tô, vào Phủ- Thiện. Một đại đội chiếm Nha cũ và gặp một tiểu đội của trung đoàn phụ trách đánh phía Bắc. Trần Cừ đang xông xáo, thì được lệnh trung đoàn anh, đánh lên đồn to. Tiếng nổ ở phía đông dữ dội. Trần Cừ nói với đội phó Xuân Minh:

- Thi đua với đơn vị bạn vào trước đồn to.

Anh thét:

- Nhằm lô cốt một mà tiến!

Đại đội theo hai anh tiến lên sườn đồi.

- Các đồng chí nhớ đêm nay quyết giải quyết xong Đông Khê nhé.

Trần Cừ băng băng lên trước. Một chú liên lạc đang cố rúm người lên để ném lựu đạn vào một lỗ châu mai là là mặt đất. Cừ nói:

- Chú đưa anh một quả. Phải triệt lỗ châu mai này mới tiến được.

Anh mở nút lựu đạn xông lên. Những tràng đạn liên thanh, những chai thuốc nổ từ trong ném ra. Trần Cừ lảo đảo. Anh hô to:

- Giải phóng Đông Khê! Hồ Chủ tịch muôn năm! Đảng cộng sản Đông-Dương muôn năm!

Trần Cừ cố nhoai lên rồi gục xuống, xác bịt lỗ châu mai. Các bạn anh xông lên. Một đội viên nhếch nhác:

- Anh Cừ chết rồi! Và cũng gục xuống. Xung phong! Đội phó Xuân Minh vừa thét vừa dẫn đầu bộ đội xông ào ào trên những đống gạch đổ vụn và thây người. Anh ôm bụng ngã xuống. Xung kích chạy lại. Minh cười nói:

- Không sao cả. Tiến lên đi!

Minh lảo đảo đi, nhưng kiệt sức, ngồi phịch xuống. Giữa lúc ấy, lô cốt thứ nhất đổ ầm. Minh cố gượng đứng dậy:

- Vào lô cốt thứ hai đi!

Súng của giặc, từ những lô cốt ngầm, dội trên đầu, quạt xuống hầm rào rào tứ phía. Xung kích cướp lựu đạn của giặc để ném giặc. Một chiến sĩ nằm bên xác hai người bạn trong tổ súng máy, vẫn bắn. Đạn hết, anh ôm súng chạy ra, báo cáo với trung đội trưởng:

- Tổ tôi hai đồng chí bị hy sinh. Tôi bắn hết đạn rồi. Báo cáo hết.

Trợ chiến xông lên. Lô cốt thứ hai đổ. Mấy tên giặc giơ tay. Một tên chưa kịp chạy đã gục xuống. Một đội viên bị thương ở đầu, ở lại trong đồn từ đêm trước, quên hẳn vết thương, ôm đầu chạy một mạch lên đồn, hét to:

- Anh em ơi! Sướng quá, cho tôi đánh vào lô cốt mấy.

A-li-úc (Allioux), trong hầm nhìn ra ngoài thấy sương mù mịt. Hắn lắc đầu thất vọng. Gần sáng, đồn to đen nghịt xung kích. Viên quan ba chửi Thất-Khê đã bỏ mặc Đông-Khê. Hắn rún vai, đứng dậy. Bọn tàn quân nhao nhao hỏi:

- Bây giờ thì làm thế nào?

Hắn dịu dàng:

- Chúc các anh may mắn. (Bonne chance à tous).

Và hắn theo đường hầm lần đi trốn.

------------------------------------------------------

(10) Đồn ngoại vi về phía nam Đông Khê chiếm được sáng 17.

Năm chiếc xe của giặc còn nguyên vẹn, bắt đầu chuyển bánh, đem theo khẩu 105 và võ khí chiếm được về con đường Phục-Hòa mà công binh và dân công sửa suốt đêm ấy. Đèn pha chiếu sáng rực. Còi bóp vang vang. Xe nghiêng ngả. Mọi người hỏi:

- Đông Khê thế nào các anh?

- Đông Khê đây này! Reo lên. Đông Khê đây này.

Xe chạy, tiếng reo hò, tiếng xe vẳng lại.

- Đông Khê đây này! Hoan hô dân công. Đông Khê đây này !

Trên đống gạch ngói của Đông Khê, xác giặc ngổn ngang. Bóng dân lẫn bóng lính. Súng lẫn với đòn khiêng. Tiếng súng vẫn còn lác đác trên đồn. Một tiếng gọi:

- Chị Dậu ơi! Tôi bị thương rồi.

Dậu đến bên anh . Anh nói:

- Nhưng tôi bị nhẹ thôi. Các chị ra khiêng anh Minh hộ.

- Anh đi được chứ?

- Được.

Dậu cởi sẵn thắt lưng, đi thoăn thoắt lại chỗ anh kia giơ tay chỉ.

Bên suối, một đội viên hí hoáy rửa một đôi giầy đinh máu loang mặt nước. Đêm trước, khi đánh lên đồn to, anh thấy một đôi giầy đinh quẳng đấy. Anh nói với trung đội trưởng:

- Báo cáo anh cho phép tôi đi tạm đôi giầy này để xung phong. Giây thép gai đau chân khó xung phong lắm. Xung phong xong, tôi lại xin rửa sạch sẽ đem lại trình anh.

IV

Lừa lại trở về với đơn vị pháo binh.. Mặt mọi người bừng vui. Mới có mấy hôm mà tưởng như xa cách chúng nó đã lâu lắm. Hai con đã mất chủ: con “khung” và con "ống xiết". Chủ con “khung” chết trong trận đối pháo ở Đông-Khê. Chủ con “ống xiết” là Nho, đã hy sinh vì nó. Nho dẫn nó đi lấy gạo. Gặp máy bay oanh tạc, Nho chỉ vừa kịp dắt nó vào một cái hốc đá con trú ẩn, thì quả bom rơi xuống. Hốc chỉ đủ chỗ cho lừa. Nho đành nằm gí người ngoài hốc. Một mảnh bom cắt hẳn hai chân Nho.

Con “ống xiết” chưa quen với chủ mới. Nó giở chứng, rất hay phá phách.

Đàn lừa không được béo, lông không được óng ánh như hồi mới lên đường. Phần đông những vết thương cũ lại lở loét. Băng trắng quàng ngang bụng. Nhưng ba thồ lênh khênh vẫn lặc lè trên lưng chúng.

Pháo binh lại hành quân. Chị Thiếp đau chân. Một hôm trời tối, chị vào rừng lấy củi cho bộ đôi, bị nứa nhọn đâm gần suốt bàn chân Nhưng chị không chịu nghỉ, vẫn tập tễnh đi theo bộ đội. Đồng chí Thào hơi buồn. Hôm bốn người dân công trong toán hy sinh ở Đông Khê, đồng chí Thào đã rửa ráy họ sạch sẽ, và khóc rưng rức khi đem táng họ ở gần vị trí pháo binh. Đồng chí Thào chỉ vui khi gặp Hàm. Mỗi khi anh em dân công ốm đau, Hàm hay đến hỏi thăm. Đồng chí Thào thích Hàm ở chỗ không bao giờ Hàm đùn việc nặng cho dân công như một hai đội viên khác, không nặng tiếng với dân công bao giờ. Hôm đơn vị được chia chiến lợi phẩm. Hàm biếu đồng chí Thào miếng phó mát, phần của anh. Nể quá, đồng chí Thào phải ăn, nhưng rồi nôn tháo cả ra. Hai người cùng ngượng. Hàm lại cố đi tìm cho đồng chí Thào một cái vỏ đồ hộp. Đồng chí Thào cảm động lắm.

Dân công nhiều hơn ngày chưa đánh Đông-Khê. Bộ đội cũng nhiều hơn. Tinh mơ, các chị đã rầm rập trên đường. Đêm khuya vẫn có những hàng dài đuốc đi về. Một cảnh tượng lạ mắt. Thỉnh thoảng lại gặp một hai tù binh. Chúng nó vẫn còn sang. Thằng nào cũng đeo đồng hồ tay. Chúng lấm lét, nhìn những gánh chiến lợi phẩm gánh về. Có thằng chìa tay xin đồ hộp, hoặc xin thuốc lá. Một hôm bọn Hàm đang rửa mặt ở suối, thì có một tốp tù binh đến. Anh địch vận nói:

- Cái thằng lùn, già già là viên quan ba A-li-úc, chỉ huy Đông Khê đấy.

Hàm quay lại. A-li-úc xin anh cho uống nước. Anh múc cho nó một ca nước suối. Nó nói: Méc-xì, rồi nốc hết, rồi lại xin. Nó uống xong, ra hiệu bảo Hàm đưa nước cho những thằng khác. Hàm giận lắm, nhưng anh không biết nói gì cho nó đúng. Anh đi, chúng nó lội xuống suối, vục nước bằng hai bàn tay uống ừng ực...

* * *

Chưa có lệnh đánh Thất-khê. Chỉ những hành quân là hành quân. Bố-Bạch rồi bản Xiền, rồi bản Tồn, rồi Pò-Mã, rồi bản Nùng, rồi lại bản Nùng - Pò- Mã rồi lại Pò- Mã - bản Xiền... bộ đội bàn tán:

- Thế này đã là vận động chiến chưa?

- Chưa, đây vẫn là hành quân.

Đồng lúa đã bắt đầu chín. Xuống dốc. Con đường chữ chi lầy lội. Con lừa "ống xiết" không chịu chủ mới, phá phách. Trông nó hung dữ, đồng thời cũng tội nghiệp. Răng nó nhe trắng nhởn, lưỡi đỏ nghẹn ngập với hàm thiếc, mũi thở phì phì, lông đen ướt như tắm, vài giọt máu chảy trên bụng, hai chân sau nhợt nhạt bùn, đá vung hừ hự. Ba thồ kêu rắc rắc, tiếng kim khí lanh canh. Anh chủ mới của nó, tay rít chặt dây cương, cái mũ nan rơi xuống bùn, cành lá ngụy trang rào rào như gió thổi. Con lừa lôi anh đi sành sạch. Lúa đổ nát một khoảng rộng. Bỗng con vật ngã xuống chân đạp điên cuồng.

- Hỏng hết lúa của dân rồi!

Quãng đường này - cũng như nhiều quãng đường khác - lúa hai bên đã giạt cả, thành đường đi khá nhẵn, lúa lẫn với bùn, với đất. Con lừa đã tự nó đứng lên, thở hồng hộc, mắt dại đờ, mồm nhai mấy nhánh lúa. Một chị phụ nữ rất xinh, cầm liềm nhỏ cắt một vài lượm lúa, bỏ vào một cái sọt nhỏ. Cái hình ảnh đáng lẽ rất tự nhiên trong mùa gặt hái, trái lại ở đây, là một cảnh bất thường.

- Kéo nó vào không hỏng hết lúa của người ta.

Tiếng anh chính trị viên.

Tiếng chị phụ nữ:

- Lừa đấy. Có phải các anh đâu.

- Chị tốt quá.

- Chẳng tốt đâu.

- Chị không đi dân công à?

- Em mới đi về đấy, các anh ạ..

Bộ đội cười quên mệt. Đàn lừa lại cúi đầu đi. Chỗ chị phụ nữ, chỉ còn một chấm nhỏ chàm. Một chút êm mát của cuộc đời bình thường hòa bình, làm nhẹ đầu óc căng thẳng của những người không nhà, không cửa, liên miên chiến đấu. Anh chính trị viên, tới chỗ nghỉ, nói:

- Dân mình tốt quá. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không có lỗi đối với dân đâu. Hại bao nhiêu lúa của đồng bào!

- Thưa anh có phải chỉ riêng mình đâu.

- Mình cứ biết việc mình, nhiệm vụ mình. Một hột gạo của dân, mình cũng phải trọng. Hôm nọ, Bác đi thăm mặt trận. Qua một thửa ruộng bị dẫm nát, Bác đã phê bình bộ đội vô ý thức, không biết tôn trọng của dân. Trận Đông Khê, Bác phê bình bộ đội phí phạm. Đấy, các đồng chí đã thấy chưa?

- Thấy rồi ạ.

- Thì ra Bác để ý từng ly từng tí một.

- Thật là cha bảo con từng sợi tơ kẽ tóc. Bọn mình ẩu thật.

- Thưa anh, hình như Bác đi nhiều nơi lắm.

- Tôi không biết rõ, nhưng được tin rằng Bác có đến Đông-Khê; mấy hôm trước thì Bác đi thăm anh em thương binh...

- Chắc là Phong nhà mình được gặp Bác.

- Có lẽ lúc Bác đến thì anh em còn ngủ, Bác vén màn từng giường, rồi ra ngồi một chỗ chờ anh em dậy. Anh em biết tin chạy cả ra. Nghe nói trông thấy anh em, Bác nghẹn ngào mãi mới nói được.

- Anh có gặp Bác bao giờ không?

- Không.

- Phong nhà mình thế là bở. Chắc là vết thương chóng lành lắm.

Ngày giờ trôi qua. Bộ đội và dân công liên miên hành quân. Bộ chỉ huy chiến dịch vẫn chưa có lệnh đánh. Anh đại đội trưởng đi công tác về, gặp anh chính trị viên ở dọc đường nói:

- Nản quá. Tây-Bắc nó làm hăng hơn bọn mình. Pa-Kha, theo mình, mạnh chẳng kém gì Đông Khê.

- Thế mà nó lại hơn bọn mình Hoàng-xu-phì. Xi- Ma-Cai, vừa mới có tin giải phóng xong. Mình vừa vui mà lại vừa ức. Bọn mình cứ rì rì ra thế này. Từ sau Đông Khê, hơn tuần lễ rồi mà chưa được đánh. Có khi mình thành chiến trường phụ không biết chừng. Hì hì.

Một đại đội trưởng bộ binh dẫn bộ đội mình cũng vừa tới đấy, mắt láu lỉnh,miệng chế giễu. Người lùn tè đeo một chiếc kiếm dài. Anh bắt tay hai người bạn:

- Rét quá, chúng mày ạ. Đợi đến bao giờ?

Anh chính trị viên:

- Giải quyết xong V2, đánh luôn V3 là đúng hơn cả. Bây giờ nó tăng cường Thất-khê, mà lại rút được kinh nghiệm Đông Khê. Khó chơi lắm nhé. Gay lắm, chứ đừng tưởng. Mồm anh dài ra và trán răn lại. Tăng cường thì đánh cũng cứ được, miễn là cho đánh ngay. Tớ cho đánh công kiên vẫn gọn, đỡ mệt. Cứ rập rà rập rình thế này, tốn cơm gạo Chính phủ lắm. Nhưng bộ chỉ huy lại chủ trương là đợi cơ. Mười lần đợi nó ra, chín lần không gặp, mà một lần gặp cũng cứ đợi. Thế mới lôi thôi chứ. Một điểm hoài nghi trong giọng nói của anh chính trị viên.

Anh đại đội pháo binh góp:

- Đánh Thất-Khê gay chứ không dễ đâu. Bây giờ nó quét sâu vào nội địa mình, hàng sáu, bảy cây, cái lán nhỏ nó cũng sục. Những chỗ mình dự định đặt pháo bây giờ là nó đóng hết. Hôm mới rồi, tớ đi trinh sát chiến đấu suýt tí nữa thì nó tôm được. Hì hì.

- Nóng ruột lắm. Sinh ra cái trò vận động mệt lính Cụ Hồ lắm. Anh đại đội bộ binh vừa nói vừa cười. Một anh bạn phái viên tham mưu đi qua. Anh hỏi:

- Có tin gì mới không cậu? Ở chỗ ông T... về đấy phải không?

- Vẫn thế thôi. Anh phái viên vừa ngồi xuống một phiến đá, lấy khăn mặt lau mồ hôi:

- À cho các cậu biết cái tin này, trong một tuần lễ, khu Ba hạ bẩy đồn ở Hưng-Yên và Thái-Bình, phá nhà máy sợi Nam-Định.

- Gì nữa?

- Có cái tin này thú hơn. Ở Sầm-Sơn, mình đánh đắm một thông báo hạm, tên là Gioăng-vin, mang sáu đại bác 105 ly. Hai trăm rưởi thủy thủ chết hết, trong ấy có cả một thằng quan năm.

- Bọn mình trên này tép quá. Mới được một quan ba.

Anh đại đội bộ binh vỗ tay vào kiếm nhảy nhót.

- Còn một chi tiết này đáng chú ý: Chiếc thông báo hạm này, Pháp định đem giúp Mỹ ở Triều-Tiên.

- Tuyệt quá. Đánh một cú, nhẹ cả cho mình, nhẹ cả cho nước bạn. Thế thì chúng ta bây giờ làm gì?

Anh chính trị viên mắt xa thẳm:

- Triều-Tiên được tin này, chắc là phấn khởi lắm. Nghĩ đến Triều-tiên, lắm lúc mình đau quá. Mỹ nó tàn sát ghê lắm, như thằng Pháp ở đây. Triều-Tiên cũng nhiều Bình-Trị-Thiên lắm. Đánh đắm được chiếc tàu kia, mình hả lắm...

Anh đại đội bộ binh:

- Cho nên trùng trình mãi thế này, mình sốt ruột lắm.

Anh đại đội trưởng bộ binh trật mũ, hai tay cào tóc mặt nhăn nhó, rồi lại bỏ mũ lên đầu:

- Hành quân vậy.

* * *

Rồi tin giặc định chiếm lại Đông Khê. Bộ đội chờ giặc ở Đông Khê mãi không thấy nó tới. Rồi tin giặc sẽ nhảy dù. Bộ đội chờ mãi không thấy nó nhảy dù. Rồi tin giặc đem chín mươi xe lên Bản-Ne. Pháo binh được lệnh xuống Pò-Mã. Bộ binh ở Pò-Mã về. Một anh thở dài:

- Quân báo thế thì chết!

Rồi giặc đánh vào Pò-Mã, giết một số dân công, bắt một số bộ đội, cướp một số đạn đại bác, phá nhiều gạo của vận tải gánh về. Một đơn vị ra đánh, chúng chết mươi tên, rút. Lại những cuộc bàn tán trong cán bộ:

- Mình đang chủ động, thế mà lúng túng, bây giờ lại hóa bị động rồi.

- Mình có sợ đi đâu, nhưng cứ xách đi mà không thấy giặc, mình mới ngại.

- Cũng mất hứng nhiều.

- Bã cả người ra.

- Điệu này thì kéo đến bao giờ? Bộ đội ốm hết.

- Rồi còn dân công. Trông thấy lúa chín mình còn xót ruột nữa là bà con...

Chợt có lệnh bộ đội đi lấy gạo!

- Thế giặc đến thì làm thế nào?

- Lệnh đi là đi, không thắc mắc.

Người đội viên lại lặng lẽ đi lấy gạo. Số ở nhà bắt đầu làm lán. Rừng vang lên những tiếng nô đùa. Những gạc, những cành, những lá ráy chất đống bên vệ núi. Họ đang lúi húi chôn cột thì trời đổ mưa to. Anh chị em dân công chạy lộn xộn lấy nón, lấy lá che cho nồi cơm đang sôi. Nhưng chỉ trong nháy mắt bếp tắt rụi. Nước mưa đổ đầy nồi cơm. Họ ướt luốt tuốt, rét co ro, đứng nép dưới cây, hoặc ngồi xổm che nón, tần ngần nhìn nồi cơm hỏng. Bộ đội ướt đến tận thịt. Một người hét to:

- Cứ làm lán, không tối nay ngủ vào đâu?

- Giời ác quá đi mất thôi!

Chú liên lạc của đại đội chạy hộc tốc, ngã lăn chiêng xuống dốc trơn. Một người nói:

- Thôi, lại hành quân rồi!

- Vừa mới bắc máng cho lừa xong!

- Biết ngay cái lệ nhà Vệ là thế mà!

Nửa giờ sau, dưới trời mưa mù mịt, những bóng người nho nhỏ, và những bóng lừa lêu đêu, với những bóng gậy, bóng súng, bóng nón, bóng lá lòa xòa, lại đùn đùn ra khỏi rừng, Nhấp nhô, gập ghềnh, cái đi cái chạy.

- Mình đã hết vía cái đèo Bố-Bạch này rồi.

Hàm lè nhè nói:

- Thôi, cứ nhớ điều yêu cầu thứ hai của chiến dịch là hết.

Gió quật mưa tới tấp vào mặt mũi anh. Trên đèo nước chảy ầm ầm xuống như đổ. Hàm tháo ba thồ, để cho lừa nghỉ dưới chân đèo vì chúng không vượt được đèo đá còn anh và các bạn bắt đầu chuyển những bộ phận đại bác sang bên kia chân đèo: dài ba cây số. Dốc trơn cao ngất. Dốc đá tai mèo, đá sắc như dao lổm chổm như chông. Những hòn đá chắn lối đi, dựng đứng, cao hơn người xếp thành ba bốn bực phải vượt qua. Mắt các anh không mở được vì mưa. Hàm phải  làm gấp ba công việc: mang được một bộ phận sang chân kia đèo, rồi lại trở lại chỗ cũ để khiêng nốt những bộ phận còn sót. Cuối cùng, anh lộn lại một lần nữa để đánh lừa sang. Nhiều anh em ỳ ạch khiêng, léo nhéo gọi Hàm đỡ cho một quãng.

Tối, mới tới bản Nhẫn. Gạo chưa về. Ba lô ướt sũng, các chiến sĩ đành mặc bộ áo ướt ban nãy. Mưa đã ngớt.

Bóng đồng chí Thào gầy và cao đi lại. Thào đến ngồi bên Hàm, thở hơi khói ngang ngang của cái tẩu cục mịch làm lấy. Lâu lâu Thào không nói. Mọi người thì thào:

- Thôi, "biến" rồi, chắc là đến xin về rồi.

Mấy hôm nay, đã có vài dân công sốt ruột vì mùa màng, xin nghỉ. Hàm sờ áo đồng chí Thào nói:

- Áo đồng chí ướt hết rồi.

- Đồng chí Hàm cũng ướt đấy.

- Nhưng đồng chí run, mà tôi không run.

Đồng chí Thào im lặng, hít cái tẩu không ra khói. Một lúc, nói:

- Các đồng chí hết gạo phải không? Hôm nọ, chúng tôi hết gạo, đồng chí Hàm cho vay. Bây giờ các đồng chí hết gạo. Chúng tôi còn ít gạo bữa nay để thổi cơm. Nhưng toàn thể chúng tôi không thổi cơm, mà nấu cháo để các đồng chí cùng ăn.

Bộ đội chạy cả lại hoan hô đồng chí Thào. Đồng chí cao lênh khênh ngậm tẩu, cười bằng những nét răn trên mặt, mắt buồn nhìn mọi người, rồi lại nhìn Hàm.

Một lúc sau, chị Thiếp tập tễnh khiêng với một chị khác, một nồi cháo lớn đến. Chị Thiếp cười:

- Cháo đây các anh ạ.

Bộ đội và dân công cùng ăn. Các chị phụ nữ không chịu ăn chung. Các chị đốt đuốc soi cho anh em. Đôi mắt nhỏ của Thiếp nhắm lại. Một đội viên yêu cầu chị nói chuyện, Thiếp ngoẹo đầu, nói:

- Em không biết đâu...

Đêm lại có lệnh đi Cốc-Bố.

Hai hôm sau, pháo binh đã lại trở về Bố-Bạch...

A ha khoái quá anh em.

Mong chờ nó mãi nó lên đây rồi.

Mày lên mày chết Tây ơi.

Phen này dù chạy lên trời đố yên ! (1)

Giặc ở Thất-Khê ra.

Lệnh của bộ chỉ huy chiến dịch:

- Không cho địch chạy về Thất-Khê. Đánh bật địch khỏi Khâu-Luông. Tiêu diệt địch ngay trên đường số bốn.

Lơ pa-giơ (Le Page) tiến lên Đông-Khê. Nó huy động một lực lượng lớn: tiểu đoàn Ta-bo 11, tiểu đoàn nhảy dù, tiểu đoàn lính Ma-rốc, tiểu đoàn dõng và phu. Bép (2) chưa hề thua trận nào. Mặt trận nào nguy nan nhất thì Bép xuống. Lại có Ta-bo thiện chiến: Mỗi khi xung phong, qua rừng lên núi, chúng ngậm dao găm, giắt dao găm, dùng súng ngắn, víu đá tai mèo, vượt lên băng băng như đàn vượn. Chúng đã đánh ở Phi; chúng đã đánh ở Ý; chúng đã vượt sông Ranh (Rhin); một tiểu đoàn chúng đã tiêu diệt một trung đoàn của Hít-le. Trên chiến trường Đông-dương, chưa hề có một Ta-bo bị bắt và một khẩu súng của Ta-bo bị mất.

Hai giờ chiều mồng một tháng Mười, giặc chiếm các mỏm Khâu-Luông và Nà-Pá. Trung đoàn... vẫn đợi giặc ở đấy. Vừa có lệnh rút đi thì giặc tới. Khâu- Luông gồm bốn mỏm mà mỏm bốn là cao nhất. Dưới chân là rừng rậm, nhưng cách mỏm chừng hai trăm thước thì toàn cỏ gianh, dốc cao sáu mươi độ.

Suốt đêm, trên một nhà sàn ven núi Bố-Bạch, nơi ban chỉ huy tiểu đoàn... (thuộc trung đoàn trên) đóng, liên lạc đi về tới tấp. Tiểu đoàn trưởng ra mặt trận. Anh chính trị viên, một thư sinh nho nhã, ngồi trước bàn bên một ngọn đèn, hoặc vắng mặt trong giây lát. Chuông điện thoại réo luôn. Mấy chú điện thoại ngập tai và mồm vào ống.máy. Các hang Bố- Bạch lấp lánh ánh đèn. Bố-Bạch, đêm nay tấp nập. Thung lũng sương mù cuồn cuộn đuốc.

Trên bàn, bên cái đồng hồ tay năm kim, đĩa ngô, phần của ban chỉ huy, đến sáng vẫn còn nguyên vẹn. Cả ngày hôm qua, tiểu đoàn nhịn. Sáng hôm nay ăn cháo, và chiều nay mỗi người được chia một dúm ngô.

- Gạo đã về chưa? Chốc chốc anh chính trị viên lại hỏi.

- A-lô, đã bắt được liên lạc với đại đội trợ chiến chưa?

- A lô trung đoàn. Gạo của chúng tôi vẫn chưa về.

- A-lô, anh có nghe rõ tôi không? Không có tiếng gì đâu. Giặc ở Khâu-Luông cho đến lúc này vẫn chưa biết gì cả. à, có lẽ là tiếng gà gáy dưới sàn nó âm vào máy đấy! Vâng, ta đã bố trí ở Keo-Ái, không cho nó rút về Thất-Khê...

Trong một hang nhỏ, trung đội trưởng Xá hỏi tiểu đội phó Trần Quang Vinh:

- Tiểu đội anh có mấy người?

- Tám.

- Tình hình anh em thế nào?

- Tin tưởng, vì anh em quen đường lắm. Anh em chỉ ân hận tại sao đang đóng ở đấy lại rút đi, lỡ nó đến chiếm, rồi bây giờ lại phải lấy lại.

- Ấy mình có rút thì nó mới đến. Rử (nhử) mà lại. Có ai kêu đói không?

- Ai cũng ghi quyết tâm, không có ai kêu. Ngày mai thì còn đánh được. Sợ nhịn thì yếu sức, chứ nhịn thì không thành vấn đề.

Xá vỗ vai Vinh:

- Cố nhé, trung đoàn ta chưa đánh núi bao giờ. Mà xung phong lên cái dốc ngược ấy thì khó đấy.

- Được. Có quái gì

Nói thế, nhưng Vinh cũng thấy việc anh sắp làm là khó. Một cái mỏm cao, dốc gần dựng đứng, lên đấy khó, lại không có lấy một thân cây, một mô đất để ẩn nấp. Đứng ở trên mỏm, nó trông thấy rõ mồn một. Lại còn máy bay bắn chặn xung phong nữa chứ. Vinh về đến chỗ tiểu đội mình đóng. Một tổ sinh tử bất ly, bốn người, trong tiểu đội anh, cũng sắp họp xong. Lực, tổ trưởng, cũng tức là anh cả, đọc lại lời quyết tâm chiến đấu của người cuối cùng trong tổ, anh ghi trong sổ anh:

- Xung phong nhanh nhẹn tiêu diệt được hai Tây và cướp súng địch.

Anh nói tiếp:

- Bây giờ đến lúc tôi và ba chú thực hiện lời quyết tâm của chúng ta. Một lần nữa, tôi nhắc lại: bốn anh em chúng ta ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, thân nhau hơn ruột thịt. Lúc sống thế nào, lúc chết chúng ta cũng thế.

Sáng, em út, mặt bụ bẫm, nói:

- Em xin hứa tuyệt đối vâng lời anh cả, quyết không rời các anh nửa bước.

Vinh trước là anh cả tổ này, từ ngày lên tiểu đội phó, anh nhường cho Lực. Nhưng anh vẫn chú ý theo dõi tổ.

Tờ mờ sáng. Tiểu đoàn lên đường ra Khâu-Luông. Sát chân giặc, trong khu rừng Khuôi-Xâm quân ta len lỏi tiến lên chiếm lĩnh trận địa. Trên ngọn đồi số bốn giặc đi đi lại lại, thỉnh thoảng dồn lại một chỗ. Sáu giờ rưỡi chiều. Đại bác khai hỏa. Moóc-chi-ê, M.G. 12,7 lẫn lộn ríu rít, tằng tặc. Dưới luồng đạn rú trên đầu, đại đội xung kích vượt rừng, leo dần lên ngọn đồi. Sườn dốc, phải đu mình bằng những sợi dây leo quấn chằng chịt. Súng liên thanh của địch quạt xuống. Cành cây gẫy răng rắc, đạn xé lá rừng. Bộ đội đào công sự. Tiếng cuốc xẻng chạm nhau. Lệnh của trung đoàn trưởng:

- Bám chặt trận địa. Đúng sáu giờ sáng ngày mai xung phong.

Trời còn mù sương, Lực vỗ vào người Sáng vừa mới ngủ thiếp đi:

- Dậy, chú Tư, sắp rồi.

Sáng ngồi nhỏm dậy co ro. Anh Hai đang hí hoáy với lựu đạn, móc túi đưa cho Sáng mẩu thuốc lá hút dở.

- Phần chú. Chúng tôi hút rồi.

Anh Ba đã nai nịt gọn, rẽ cành lá bước xuống, đưa cho Lực một gói con:

- Còn ít cơm, anh ăn.

- Đưa chú Hai.

- Thôi, cho chú Sáng.

Đại bác nổ. Tiếng thét xung phong nổi lên. Ba tiểu đội lao lên sườn đồi. Đỉnh đồi khói mù, thấp thoáng mấy thằng giặc. Cỏ gianh trơn tuột. Súng địch nổ tới tấp. Đại liên của giặc ở mỏm bên bắn sang. Tổ của Lực lóp ngóp. Lực thủ thỉ: Đừng chú nào lùi nhé. Trung đội trưởng Xá, một tay nắm đốc kiếm, một tay vung kiếm sáng loáng, thét:

- Tiến!

Vinh bò bên Lực nói:

- Tổ ta tiến lên thôi. Và Vinh đã lên trước Lực.

Trên đồi, trước mặt Lực, hai thằng Ta-bo râu xồm. Lực nhằm:

- Tôi và chú Tư bắn cái thằng đang chỉ chỉ trỏ trỏ kia, còn chú Hai, chú Ba thì xơi cái thằng trật khăn nhớ. Trông rõ chứ. Đéo mẹ nó, nào ta làm. Một, hai...

Hai thằng giặc ngã xuống. Cả tổ reo. Lực nhích lên.

- Cứ thế nhớ. Làm vài chuyến thế là tổ ta lập công to.

Một tiểu đội trưởng xông lên đỉnh đồi. Vừa giơ súng bắn một tên giặc, thì một tên ở sau lưng anh bắn.

- Nó bắn đấy.

Đông, một đội viên loắt choắt, vừa kêu lên thì anh tiểu đội trưởng đã gục xuống. Đông nhảy lên, ôm chầm lấy thằng Ta-bo vừa bắn. Một thằng Bép, áo dù loang lổ ở hố bên giơ súng. Anh đội viên thứ hai nhảy lên. Vì mệt và đói, không còn sức nữa, anh lao cả người vào nó, ôm lấy cổ nó, bóp bằng hai bàn tay không sao xiết chặt. Mấy bóng đội viên chạy lên lảo đảo gục ngã xuống đồi. Tiểu đội của Vinh, tổ của Lực vẫn băng băng tiến. Lựu đạn lăng lên. Lực quay lại.

- Giặc nó rú ằng ặc trong hầm. Lên nào, các chú.

Lực chúi xuống, một luồng đạn đồi bên vèo vèo qua đầu. Lực quay lại. Sáng thở hồng hộc. Lực chìa tay kéo Sáng lên. Sáng rung tiếng:

- Anh Hai chết rồi!

Cả tiểu đội đã bị tiêu diệt, trừ tổ của Lực.

Vinh thét:

- Tiến !

Trung đội trưởng Xá vung kiếm:

- Các đồng chí tiến. Còn một người cũng lên!

Lực nhảy lên miệng hầm. Trung đội trưởng Xá vừa lúc ấy ngã gục, lăn xuống sườn đồi. Lực đứng ghếch chân hẳn lên miệng hầm, tay ghì cò súng. Mắt hăm hở nhìn về phía đồi bên. Ba thằng Bép nhô lên. Súng nổ. Ba thằng rụng xuống. Sau đồi, tiếng giầy đinh lẫn tiếng: cục cục, chít chít, cục cục, chít chít. Ba thằng Ta- bô hùng hục chạy sang, tiếng kêu man rợ. Sáng nhổm lên, ném liền hai quả lựu đạn. Một thằng Ta-bo đổ. Chúng ào ào sang. Trông trước trông sau, chỉ còn hai anh em. Lực bắn một loạt súng, quay xuống, cùng Sáng mang khẩu trung liên cướp được trên đồi, nặng quá đối với họ. Súng giặc ríu rít quanh người.

Trong rừng, bên một cái hố mới đào, trung đội trưởng Xá nằm, các cán bộ tiểu đội tập hợp trước mặt. Anh bị thương ở mông. Đạn còn mắc ở đấy. Ban chỉ huy đại đội hạ lệnh anh phải về hậu phần. Xá trao lại cho anh em kế hoạch lập công của đơn vị và nhắc lại nhiệm vụ:

- Tiếc rằng tôi bị thương sớm quá, thành thử kế hoạch lập công của chúng ta chưa thực hiện đến đâu. Mong các đồng chí tiếp tục đánh bật giặc ra khỏi Khâu-Luông để giữ lấy lời hứa danh dự của đơn vị ta. Yêu cầu các đồng chí hứa với tôi như thế.

Các cán bộ nói:

- Chúng tôi nhất quyết thay đồng chí, quyết đánh bật địch ra khỏi Khâu-Luông, quyết trả thù cho vết thương của đồng chí.

Tiếp viện tới. Lệnh xung phong đợt hai. Xá dùng dằng. Vinh nói:

- Đồng chí cứ yên tâm. Đã có chúng tôi thay đồng chí.

Đại bác, súng cối, đại liên lại nổ. Vinh chỉ huy trung đội xung phong.

- Các đồng chí quyết giữ vững lời hứa với anh Xá nhớ.

Xung kích xông lên trong khói. Lực và Sáng dẫn đầu.

- Trung đội ta... !

Vinh chưa nói hết câu, thì một quả moóc-chi-ê nổ cạnh anh. Một tiểu đội phó chạy lại. Vinh thở dài. Đôi mắt xếch của anh nhìn lên đồi rồi lại nhìn người bạn.

- Tôi bị nặng, không tiếp tục được nữa. Đồng chí giúp tôi chỉ huy trung đội, giữ lời hứa với anh Xá...

Vinh lê xuống suối. Đạn xén mất hẳn một mảng lưng.

- Tức quá đi mất!

Anh thỉnh thoảng lại nói vậy. Băng bó xong, anh hậm hực quay lên. Anh chính trị viên đại đội nói:

- Đồng chỉ hãy về nghỉ.

- Báo cáo ban chỉ huy, tôi nóng ruột lắm. Về cũng chẳng làm gì. Tôi đã hứa với đồng chí Xá chỉ huy trung đội. Tôi chưa lên được đồi.

- Thế là được. Đồng chí phải về.

Anh em bị thương nằm la liệt bờ suối. Vinh nói:

- Tôi có ý kiến. Chúng ta không chiến đấu được nữa, chúng ta không nên làm bận anh em. Tôi đề nghị là anh em nào có thể đi được thì chúng ta về lấy.

- Đúng đấy!

Vinh dẫn hơn hai chục thương binh đi bộ, vượt đèo đá về Bố-Bạch. Trước một trăm thước nghỉ, sau vài ba bước, anh đã phải nghỉ. Xâm xẩm tối, mới lê về tới trạm giải phẫu. Một tiểu đoàn đi lấy gạo vừa về quăng vội gạo trước hang, vác võ khí lên vai, và như tổ ong vỡ, chạy ra mặt trận...

------------------------------------------------------

(1) Ca dao của trung đoàn Khâu Luông.

(2) Tiểu đoàn nhảy dù.

Chung quanh mỏm đồi số bốn, xác xung kích, chỗ một, chỗ vài ba người, máu chảy trên những đám cỏ gianh. Nắng trưa gay gắt. Trên mỏm, xung kích vật nhau với Ta-bo, với Bép. Những báng súng đập nhau chan chát. Lực giằng một khẩu súng trong tay một thằng Đức cao lớn, trên miệng hầm. Cả hai ngã lộn xuống hầm, ôm nhau, đấm nhau, cắn nhau. Lực gỡ ra được, ngồi trên ngực nó nghiến răng bóp cò, thằng giặc nhầy nhụa mồ hôi. Sáng hết đạn, súng không lưỡi lê lao cả nòng súng vào bụng một thằng Ta-bo. Nó giằng được súng. Sáng nhặt một khẩu súng giặc vứt đó giáng mạnh vào thằng giặc. Nó kêu rống lên, chạy xuống. Sáng ôm lấy nó. Một thằng Ta-bo khác phang vào người Sáng một báng súng. Sáng ngã trên công sự. Nó dận giầy đinh lên mặt Sáng. Giặc đã nhảy khỏi mỏm đồi. Xung kích loang loáng đuổi. Sáng lóp ngóp bò dậy, toàn thân bê bết đất và máu, mặt thâm tím không nhận ra được. Lực đi qua. Nước mắt Sáng giàn giụa:

- Sao trận này, ta không chuẩn bị mác xung kích? Có thì em còn giết được nhiều, anh Cả ạ.

- Chú xuống băng bó đi.

- Chả cần.

Hai anh em ngồi trên miệng hầm. Dưới chân con đường số bốn chạy, không một bóng người. Bốn cổ ngỗng nhô ra khỏi mây, bắn xả vào các chiến sĩ trú ét xăng và bom lửa. Cỏ gianh chung quanh đồi cháy ngùn ngụt. Lực và Sáng bùi ngùi; xác hai người bạn trong tổ cháy xèo xèo. Mấy phút sau giặc phản kích, đánh bật ta ra khỏi mỏm đồi bốn. Chiều, tiếp viện tới công kích cả bốn mỏm đồi. Mười hai giờ đêm, ta hoàn toàn chiếm Khâu-Luông. Cỏ đồi nhơm nhớp máu, đất mới lùng nhùng. Giặc chôn vội xác chúng nó trong hầm. Mùi đồ hộp, mùi máu, mùi thịt người, mùi thuốc đạn hòa lẫn lộn, tanh tanh. Trăng cuối tháng chênh chếch mờ chiếu một vệt cỏ nát chạy dài xuống chân đồi. Những vỏ hộp, những mảnh giấy thiếc, lóng lánh: lối rút lui của Ta-bo và Bép.

Năm thằng giặc giơ tay hàng.

Lực đứng trên đồi, tóc bơ phờ, áo rách, gió lạnh thổi phần phật, nói với Sáng:

- Núi Nhẫm, mỏ Thổ bây giờ thì tép, chú Tư nhỉ? Chú có đói không? Sáng nói:

- Giá còn anh Hai, anh Ba thì vui...

Sáng được lệnh giải hàng binh về chỉ huy sở trung đoàn. Lực chỉ ước được nằm một cái. Nhưng xung kích lại được lệnh truy kích giặc cấp tốc. Họ vừa đi vừa ngủ, chân như không dẵm tới đất, xuống đồi. Sáng sớm tới Nà-Pá. Trên công sự, ngổn ngang những dù và hai khẩu đại bác lỏng chỏng. Xung kích reo mừng, sục đi các ngả, vui vẻ dẫn về những con lừa cao lớn. Một anh tìm được xác một con trâu giặc đâm chết nhưng chưa kịp làm thịt.

Lực nói:

- Thế này thì nó chết đói rồi. Thế này thì nó chết. Anh em bố trí ở Nà-Pá, đợi lệnh!

Bỗng một tin đột ngột do bộ chỉ huy chiến dịch loan báo cho toàn quân: Mười giờ ngày mồng Ba, Sác- tông (Charton) rút khỏi Cao-Bằng chưa rõ đi đường nào, nhưng rất có thể về phía Thất-Khê.

Đại tướng Tổng tư lệnh điện cho các chiến sĩ:

Suốt mấy hôm nay, các chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng.

Binh đoàn Lơ Pa-giơ hiện đã kiệt sức, thiếu đạn, thiếu lương, nhiều bộ phận gặp quân ta chạy tán loạn. Chúng chỉ còn một hy vọng là ra sức liên lạc được với binh đoàn Sác-tông từ Cao-Bằng xuống để cứu vãn nguy cơ của chúng.

Hỡi các chiến sĩ !

Thời gian lúc này rất quý giá. Hành động sớm được một phút nào là tiết kiệm được xương máu, lập được chiến công, giành được thắng lợi.

Hành động kịp thời, giải quyết chiến đấu cho nhanh chóng, mãnh liệt, dồn dập vì địch đã yếu, tiêu diệt binh đoàn Lơ Pa-giơ để kịp thời chuyển lực lượng tiêu diệt binh đoàn Sác-tông, làm cho cuộc giải phóng Cao-Bằng ghi sâu vào sử sách những chiến công lớn của binh đoàn, của Quân đội quốc gia Việt-Nam.

Quyết tiêu diệt binh đoàn Lơ Pa-giơ!

Tin giải phóng Cao-Bằng, lời của Đại tướng. Chiến sĩ nhảy nhót.

- Bắt sống thằng quan năm Lơ Pa-giơ. Và nếu nó chết, phải đem xác nó về!

- Bắt sống bọn Ta-bo để nó gánh gạo cho bộ đội.

Khẩu hiệu của bộ chỉ huy chiến dịch tung ra. Các chiến sĩ hào hứng bắt tay nhau.

- Hay, hay! Chả nhẽ bộ đội gánh gạo mãi!

- Cho Ta-bo gánh hàng tạ. Các cậu chả to nhớn mà!

- Bắt cả thằng trùm Ta-bo gánh gạo cho vui!

Rồi lệnh của bộ chỉ huy:

- Tất cả nhân viên các cơ quan đi gánh gạo, tải lương để các chiến sĩ truy kích.

Rồi tin giặc đang lên Thái-Nguyên, tuyên bố hống hách: đã chiếm được thủ đô quân sự của Việt-Minh! Tin Thái-Nguyên đã chuẩn bị sẵn sàng chờ giặc. Tin giặc tiến lên Giang-Tiên. Cán bộ, bộ đội lại càng sốt ruột:

- Đồng bào Thái lại hỏi bộ đội đi đâu thôi!

- Đánh mạnh trên này thì nó rút Thái.

Họ băng mình vào một cuộc đuổi giặc liên miên. Nhưng núi cao, rừng rậm, tìm Tây như thể tìm chim. Vệ quốc quân sốt ruột. Báo cáo gửi về hỗn độn, mâu thuẫn. Luôn luôn bám sát địch. Vẫn bám sát địch. Quân báo gửi mật điện về. Đại tá... sốt, ăn vội một nắm cơm, tiêm vội một ống thuốc, lật đật rời Khuôi- Xâm. Máy bay giặc rạch nát trời, bay loạn. Nắng thu gay gắt. Những cành ngụy trang lào rào. Từ ngã ba Nà-Ngần, đội thông tin liên lạc chạy về, lòng thòng dây điện thoại. Tiểu đoàn... vừa đánh Khâu-Luông hấp tấp điều chỉnh đội ngũ, bầu lại tổ dân vận, tổ văn nghệ, sáp nhập đại đội này vào đại đội khác. Đại tá ôn tồn: Đừng sáp nhập lung tung các đại đội. Gây nó lại. Giữ truyền thống cho nó. Những anh cấp dưỡng, gồng gánh lủng củng, lơ thơ vài người đeo lựu đạn, chạy như cờ lông công, tốp gánh cơm đi, tốp gánh cơm về, vừa thở vừa nói:

- Bộ đội truy kích giặc, bọn mình truy kích bộ đội, mệt gấp đôi, các cậu ạ.

Lừa của giặc đánh về. Phấp phới vài gánh dù. Vài thằng tù binh, mũ, áo, quần vải dù, cồm cộm máu...

* * *

Cái cảnh Bố-Bạch trong những ngày đêm cuộc vận động chiến mới lạ lùng thay! Lúa đã đỏ ối. Dân công đã vãn. Vài cáng thương binh. Trong những hang đá quây chầu vào cái thung lũng trước đây âm u, cái ngay chân núi, cái lưng chừng núi, cái gần đỉnh núi, bộ phận hậu cần và các đơn vị tham chiến tấp nập làm việc. Đây là nơi tản cư cuối cùng của dân chúng lánh giặc khủng bố.

Nơi ban chính trị trung đoàn... đóng là một cái hang cao. Tua tủa những sào cùng cọc, trông như xóm thuyền chài. Những phản kê để làm cầu. Những phản kê để làm sân phơi thóc. Tầng trên, tầng dưới, những sàn xếp vuông vuông, quây cót như rạp tuồng, nóc là những phiến đá to vươn ra khỏi núi. Trong cùng hang, tối om, màn chàm quây tùm hụp: nơi ở của nhà chủ. Họ nhường những chỗ thoải mái nhất cho cơ quan. Bếp đen ngòm, ngay chỗ ở. Đêm ông ké, bà ké đi gặt, tinh mơ về. Họ gánh nước, phơi thóc, thổi cơm. Tiếng trẻ khóc. Ông ké vào đưa võng cho cháu, hát buồn buồn. Máy bay rầm rầm rung hang một chiếc, bốn chiếc. Con chó chạy hết hang này sang hang khác. Gà nhảy loạn xị. Tiếng gà con chiêm chiếp trong một kẽ đá. Bà ké đứng nhìn một con lợn nằm trong khe sâu. Tiếng đàn réo rắt. Người sửa soạn ra đi tiền phần. Người ở tiền phần về đem tin tức. Anh trưởng ban cán bộ ngồi đọc danh sách những đồng chí bị thương vong. Dưới núi, người ta lễ mễ gánh lên khi súng, khi bộ đồ mổ, khi máy ra-đi-ô. Anh phó ban chính trị, ngồi xếp bằng tròn trên giường, ẵm đứa cháu ông chủ, hỏi một thằng quan hai Bép, râu Lý Thiết Quài. Ông ké nhìn cháu, rồi nhìn thằng giặc dữ. Trên sàn cao, một cán bộ thò chân xuống xem, tay cầm một quyển sách Mác-xít đang đọc. Bà ké đun nước mời cán bộ. Suốt đêm, tổ ly tô làm việc bên ngọn đèn dầu le lói. Lô lăn lạch cạch, lục cục. Tiếng đọc bài cho nhau viết. Tiếng nói chuyện rầm rì: Cốc-Xá, 477, Lao-K ay... Tiếng cười giòn giã, rồi lại tiếng ly-tô, trong khi gió thu ở ngoài hang thổi ào ào, lá bay lách tách, sương tỏa trắng xóa, bụi lất phất lùa vào. Tờ mờ sáng, mặt các chú ly- tô bóng nhẫy. Các chú đứng mỗi người một mỏm đá, soát lại những chữ viết hỏng, ẩn hiện trong đám khói mù của cấp dưỡng đưa lên. Đấy cũng là lúc ông ké, bà ké gánh cái gánh lúa nhỏ trở về.

Trong hang phẫu thuật của trung đoàn, các chị dân công tình nguyện ở lại để săn sóc thương binh. Đêm đêm, các chị thức đến một, hai giờ. Mờ sáng các chị đã có nước sôi đưa anh em uống suốt lượt, nước nóng tự tay các chị rửa mặt cho anh em. Nghỉ tay đun nước, các chị lại hấp lại bông băng. Những ống tre của anh em đi đái, các chị luôn luôn xách đi đổ. Quần áo chăn màn đẫm máu mủ của anh em mới đến, các chị giặt giũ ngay. Sau bữa cơm của anh em, các chị lúi húi ăn ở một xó hang. Những buổi trưa thường thấy các chị cặm cụi vá quần áo rách cho các chiến sĩ.

Thỉnh thoảng những tiếng anh ạ trìu mến cất lên se sẽ bên đầu giường.

- Anh uống nước anh ạ.

- Anh ăn cơm anh ạ.

- Anh thay quần áo anh ạ.

- Khăn mặt đây anh ạ.

Ngoài hang, chốc chốc lại những tốp tù binh dẫn về. Anh bộ đội áp tải lút đầu trong lúa...

Ngoài tiền phần, bộ đội truy kích giặc. Lệnh của bộ chỉ huy:

- Giặc đã tan rã. Ta phải tự động truy kích. Có bao nhiêu truy kích bấy nhiêu. Không đợi mệnh lệnh. Ra đường cái mà đuổi. Phải chạy thật nhanh mà đuổi. Ta mệt nhưng địch mệt hơn.

Lơ Pa-giơ chạy qua Nà-Pá sang bên kia đường số bốn, về phía Tây-Nam Đông-Khê. Một bộ phận nhỏ chiếm giữ hai quả đồi cao nhất trong vùng: 760 và 765. Đại bộ phận kéo vào dãy núi đá Cốc-Xá cách đó hai cây.

Thư Hồ Chủ Tịch gửi xuống.

Hiện nay, tình hình rất có lợi cho ta. Vậy các chiến sĩ phải quyết tâm tiêu diệt địch cho kỳ hết để tranh lấy toàn thắng. Bác theo dõi cuộc chiến đấu anh dũng của các chú từng giờ. Bác sẽ có phần thưởng đặc biệt cho những bộ đội và chiến sĩ nào lập công nhiều nhất. Nào, chiến sĩ nào hứa với Bác quyết giật cho được giải thưởng anh hùng Cao - Lạng và đơn vị kiểu mẫu? Bác chờ các chú trả lời ngay.

Các chiến sĩ chạy qua đường số bốn:

- Nhớ là Bác theo dõi từng giờ đấy.

- Chạy nhanh lên. Cố mà lấy thưởng của Bác.

- Mình sưng chân quá!

- Lấy tạm dép của mình vậy.

- Chạy thế này thì làm thế nào mà cấp dưỡng bắt được liên lạc?

- Chúng mình đã quyết tâm nhịn đói ba ngày cũng chịu được cơ mà.

- Bắt được Ta-bo thì giải quyết mọi vấn đề.

Quân Lơ Pa-giơ chưa kịp làm công sự. Ngày Bốn, ta chiếm 760. Giặc ném bom lửa cháy khoảng giữa hai đồi. Ngày Năm, ta chiếm 765. Côc-Xá là một dãy núi đá có rất nhiều hang nhỏ. Sườn phía đường số bốn, có con suối chảy thẳng vào, dốc lên thoai thoải. Sườn bên kia là một con chạch, chạy xuống một khoảng ruộng nhỏ, rồi chạy sang một dãy đồi thấp. Ngày Sáu, Lơ Pa-giơ đánh điện yêu cầu máy bay bắn phá chặn đường tiến của ta. Binh đoàn Sác-tông về tới đỉnh Quý-Chân (tức 477). Đờ la Bôm (De la Beaume) ở Thất-Khê tiến lên chiếm các đồi 515, 608 để đón Sác-tông, Lơ Pa-giơ.

Lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch:

- Nội nhật hôm nay, phải tiêu diệt Lơ Pa-giơ. Để cho nó liên lạc được với Sác-tông thì cuộc chiến đấu sẽ gay go nhiều. Bộ chỉ huy của giặc cũng ra lệnh cho hai binh đoàn phải liên lạc với nhau, ở Quý-Chân, nội nhật hôm nay...

Năm giờ chiều, hai tiểu đoàn xung phong đánh vào Tây và Tây-Nam Cốc-Xá. Trong hang, núp sau các tảng đá giặc bắn liên thanh, ném lựu đạn, chống cự. Chiến sĩ trên đồi trước mặt hang, lao xuống:

- Cứ vào bừa đi.

- Chúng nó không có tinh thần chống cự đâu.

- Đánh mạnh là ăn!

- Không cho nó gặp Sác-tông.

Trời tối. Các chiến sĩ sục vào các hang đá:

- Các anh ơi! Cho chúng em về với Tổ quốc!

Mấy người phu trong bóng tối chạy ra. Họ đem theo hai máy ra-đi-ô-phô-ni.

- Thưa các anh, đây là của thằng quan năm. Nó vừa gọi quan năm Cao-Bằng không được, gắt om lên. Chúng em thừa cơ lấy đem ra.

- Tốt lắm. Tốt lắm. Nó đâu?

- Nó còn ở trong hang kia.

Bộ đội ào ào xông vào. Một xung kích đang tiến, bỗng đụng phải một thằng Bép. Nó rên rỉ:

- Sếp ti ti nhước! Sếp, ti ti nhước!

Anh cúi xuống, chìa bi đông cho nó uống. Lại một thằng thứ hai bị thương xin nước. Anh lại cho. Trung đội trưởng chạy lại, không nỡ mắng. Chỉ giục:

- Mau lên đồng chí. Nó chạy hết rồi. Đuổi mà bắt sống chúng nó chứ.

Anh leo lên hang, ném lựu đạn xuống. Giặc ồ ra khỏi hang. Các hang khác cũng ồ ra. Đêm bỗng đổ mưa. Giặc rút cả lên núi. Các chiến sĩ tiến lên theo. Đêm tối như mực. Bộ đội dò từng hòn đá tai mèo trơn tuột lần từng cái rễ cây. Tiếng trượt chân. Tiếng lá soạt. Tiếng ới. Tiếng rơi huỵch xuống khe. Anh em mở to mắt đã đói ngủ mấy hôm để nhận bóng giặc mà bắn. Bấm nhau truyền mệnh lệnh. Tiếng chân lạo xạo trên đá. Một quả lựu đạn nổ, lửa xanh nhằng. Bộ đội nhìn thấy địch nhảy sang vật nó xuống. Một tiếng Ta-bo. Lưỡi lê đâm theo. Lưỡi lê đâm vào chỗ trống. Tiếng súng rú lên. Địch hú lên. Vòng vây Tây và Tây-Nam xiết chặt. Địch dàn hàng ngang đối phó. Sau lưng chúng, phía Bắc là một vách núi đá dựng đứng. Mệnh lệnh hỏa tốc:

- Đánh thốc sau lưng Lơ Pa-giơ.

Trời đã gần sáng. Tình hình cấp bách. Bắc ống nhòm, đã thấy quân Sác-tông đen ngòm đỉnh Quý- Chân. Hai tiểu đội xung phong đánh sau lưng địch. Muốn lên phải leo dây rừng chằng dọc theo vách đá. Dưới chân là vực thẳm. Họ tuột xuống, lại leo lên. Tay họ run run, máu chảy ròng ròng. Bàn chân không giày đau nhức móc vào các khe, các hốc. Báng súng va vào vách, chực đẩy họ xuống vực. Một anh yếu quá rơi xuống vực sâu, không một tiếng kêu. Một giờ sau, họ trèo lên được mỏm núi. Địch ở ngay trước mặt. Họ đặt súng máy. Một hiệu tay, lựu đạn nổ, trung liên nhả đạn vào lưng địch.

- Việt minh!

Giặc kêu lên những tiếng thất thanh. Hàng ngũ rối loạn. Một thác người lăn xuống chân núi. Ta-bo, Bép chen nhau, xô nhau. Hết lớp này đến lớp khác, ào ào đổ xuống. Chưa bao giờ bộ đội thấy giặc tan rã như vậy. Nhiều anh không kịp né sang bên, bị xô ngã, máu me đẫm mình mẩy, lựu đạn ta nổ ầm ầm. Súng máy bắn không ngớt. Giặc vẫn lao xuống. Hơn một tiếng đồng hồ, chúng lao xuống. Có thằng chết cắm đầu xuống đất. Có những đống ba bốn chục xác chết: một bọn đã lấy vải bạt, quần áo buộc vào làm dây leo xuống. Dây đứt. Chúng rơi xuống vực sâu. Hơn ba trăm xác giặc ngổn ngang trên núi, dưới núi. 

Hàng trăm tay giơ hàng.

Ba giờ sáng, trong tác chiến thất của ông chỉ huy trưởng chiến dịch, lệnh: Tiêu diệt nốt toán quân Lơ Pa-giơ, chuyển sang tiêu diệt quân Sắc-tông đã đọc đến đoạn cuối cùng: Đêm nay trời mưa, các đồng chí ướt mệt, nhưng lửa của người chiến sĩ vệ quốc, của người chiến sĩ cách mạng hun nấu tinh thần xung phong của các đồng chí. Quân địch đói rét hơn ta, bị thương và chết rất nhiều. Chúng lại chỉ có tinh thần một lũ bại binh xâm lược. Cho nên ta lại phải cố lên nữa; tiêu diệt cho thật nhiều địch. Mưa mù lại càng có lợi cho ta. Các đồng chí tiến lên!

* * *

Được lệnh của trung đoàn... suốt đêm mồng Sáu, tiểu đoàn... xuất phát từ bản Ca, theo dọc suối đi Quý-Chân. Tiểu đoàn để lại một đại đội ở bản Ca. Anh chính trị viên đại đội hỏi An, một đội viên trong tổ súng máy, không nhấc nổi cái nòng súng:

- Cậu có đói không?

Anh binh nhì không trả lời. Cán bộ cười và nói:

- Chịu khó một tí, đói, chúng ta cùng đói.

Anh đội viên cười, loạng choạng đứng lên, cái nòng trên vai.

Đại đội phó Long một thanh niên chừng hai mươi tuổi vỗ vai một trung đội trưởng.

- Này, trung đoàn cho biết là Lơ Pa-giơ hôm lên Khâu-Luông có đánh điện cho Sác-tông: Anh cứ về, anh sẽ không nghe thấy tiếng súng. Ghê không?

- Đề nghị với ban chỉ huy gửi cho nó một quyển Sửa đổi lối làm việc để nó đọc cái mục “bệnh chủ quan”.

Một đội viên, nghe lỏm được câu chuyện, lẩm bẩm:

- Rồi mày khóc với súng của ông!

Đại đội lên đường. Họ đã mệt và đói lả. Họ vừa chạy vừa nhai vội mấy quả ổi xanh, hay nhằn những hạt thóc bứt ở dọc đường. Qua những nương bí, nương sắn, họ thèm quá. Nhưng họ vẫn lộc xộc chạy, lên dốc, xuống dốc, len lỏi, chui luồn qua bao nhiêu bụi rậm, chân đã nhừ nát, vì đá tai mèo đâm ngược lên gan bàn chân. Hai phần ba vừa đi vừa chống gậy. Mặt mày họ bị xây xát vì ngã, vì cỏ, vì đá, vì dây rợ. Được nghỉ là họ ngồi rũ xuống. Họ đã thức hai đêm liền. Bữa ăn cuối cùng của họ, cách đây một hôm, là bữa sắn nướng vội. Thấy bộ đội kiệt sức quá, anh chính trị viên đã bằng lòng để anh em đào mỗi người ba củ sắn của một cái nương dân chúng. ăn xong, họ chỉ còn biết gài trên hàng rào mẩu giấy viết vội cho chủ nương:

- Chúng tôi thuộc đại đội... tiểu đoàn..., trung đoàn đã lấy của ông bà mấy chục gốc sắn xin ông bà cứ theo địa chỉ trên mà tìm chúng tôi, để chúng tôi trả tiền.

- Giấy bay mất thì làm thế nào?

- Thì càng phải đánh thắng!

Trời tối đen. Họ sờ lưng nhau, lội hết khoảng suối này đến khoảng suối khác. Trời tang tảng sáng, họ đến chân một quả đồi. Hai chị Thổ mang em nhỏ, báo tin giặc đã về đêm qua. Cuốc xẻng lọc cọc suốt đêm. Họ xoa tay vui sướng.

Đây là dãy Quý-Chân. Chiều mồng Sáu binh đoàn Sác-tông gồm lê dương, ngụy binh, ngót hai nghìn quân, tới đây. Quý-Chân là một dãy núi dài bảy cây số, cao từ ba đến năm trăm thước, cỏ gianh rậm rạp. Có tất cả chín ngọn. Sác-tông ra lệnh cho bộ đội hắn sống chết phải giữ lấy cao điểm này làm căn cứ đánh tỏa ra, tiến về Thất-Khê.

Bị chặn đánh ở đồi 590, hắn đã mất viên quan tư Ti-nô và hàng trăm quân sĩ. Hắn đánh điện cho Lơ Pa-giơ và Lơ Pa-giơ im lặng. Tiếng súng suốt đêm ở Cốc-Xá làm cho hắn lo ngại. Núi âm vang. Bốn bề là tiếng súng. Rồi lẻ tẻ những tên Ta-bo sống sót ở Cốc- Xá chạy sang ngơ ngác mất hồn xin ăn. Quân hắn hoang mang. Phu và dõng đào ngũ lung tung.

Tờ mờ sáng, đại đội xung phong đánh lên đồi. Giặc bị đánh bất ngờ, chạy cả sang đồi cháy trước mặt. Ta thừa thế đánh sang đồi cháy. Chúng chạy dài về Quý-Chân. Sác-tông quát bọn trở về:

- Chiếm lại bằng được hai quả đồi!

Đồi cháy, giặc đã đào được hơn ba trăm hố cá nhân. Súng bỏ lại trên đồi nhiều. Các chiến sĩ chọn những khấu tốt để dùng ngay. Giặc để lại một số đồ hộp. Anh chính trị viên xoa tay:

- Đánh được giặc là giải quyết vấn đề ăn, các cậu đã thấy chưa?

Một đội viên nói:

- Nhưng vẫn nhớ cơm. Giá có cơm ăn với thịt bò hộp thì có cái điều nó vẫn hay hơn.

An loạng choạng vác nòng súng để bố trí bắn sang Quý-Chân, mồ hôi toát ra. Anh chính trị viên hỏi đùa:

- Mới có ba bữa mà đã đói thế à?

- Mới có ba bữa thôi ư? Mặt An ngơ ngác. Anh chính trị viên ái ngại, đưa cho An miếng bít-qui, phần của anh mà anh chưa ăn. An chần chừ mãi mới nhận:

- Thế mà tôi ghi quyết tâm nhịn đói bốn ngày!

Long bỏ chiếc ống nhòm xuống, nói:

- Đại đội chuẩn bị. Có lẽ địch phản kích!

Giặc đen ngòm dưới chân đồi. Moóc-chi-ê và trung liên giặc bắn dồn dập lên đồi. Một anh mang đạn vừa lên, mệt quá, anh ngồi rũ xuống. Tiếng thét:

- Moóc-chi-ê đấy! Anh không buồn tránh. Tiếng nổ. Nửa người anh băng ra. Máu chảy xuống hầm. Bộ đội nằm giạt cả xuống, chúi đầu trong hầm mà bắn ra. Giặc đã tiến sát. Lựu đạn ném lên. Đồi mịt mù đất và khói. Tiểu đội phó Hiển cắp trung liên nhảy ra, đạn vèo vèo chung quanh anh. Đứng sau một gốc cây Hiển thúc mũi súng xuống đồi bắn. Một thằng giặc văng súng lộn mấy vòng xuống chân đồi, Hiển vừa cười vừa nói:

- Luồng đạn địch còn cao. Các đồng chí cứ bình tĩnh mà lên. Mẹ cha nó, bắn thế kia như đổ đạn lên giời thì đi đến đâu.

Hiển lại bắn. Tiếng anh oang oang:

- Đứng lên bắn thế này dễ, chúng mày ạ.

Tiếng reo hò:

- Phải đấy, đứng cả lên! Họ ngóc đầu lên. Một vài người, rồi tất cả mọi người nhảy cả ra. Năm trung liên bắn thành một lưới lửa bao vây sườn đồi. Long đứng bên một đội viên, vỗ yêu vào lưng anh, tay chỉ trỏ.

- Nhắm mấy thằng kia mà bắn. Thế nào cũng ăn. Và quay lại, cầm tay một anh mang đạn đang nằm dán xuống đất lôi lên:

- Đưa tôi đỡ, mau lên. Lên mà xem. Chúng nó đang chạy như vịt kia kìa.

Từ bảy giờ đến mười một giờ sáng, đại đội chịu năm lần phản kích của giặc. Đại đội chỉ còn một trung đội. Mặt mọi người phờ phạc, không ai nói chuyện với ai. Cấp dưỡng gánh cơm lên, mọi người nhổm dậy. Họ vứt mũ, vứt khăn, bứt cỏ gianh ném vào các anh cấp dưỡng. Họ tung lên trời những vỏ đồ hộp. Họ quăng thuốc lá vào các anh tới tấp. Một cấp dưỡng thấy bạn đồng ngũ chết nhiều, mắt đỏ hoe.

- Mãi mới được gặp, thì các anh ấy lại không được ăn! Và anh khóc nhếch nhác. Ba chị dân công cũng nhô lên. Các chiến sĩ để nắm cơm xuống đất, vỗ tay hoan hô:

- Lâu lắm mới được gặp các chị.

- Chào các anh ạ.

Các chị ngồi bên các chiến sĩ. Một chị nói:

- Chúng em đã vận động địa phương mua gà nấu cháo chờ các anh đấy.

Moóc-chi-ê của giặc bắn sang, nổ sau đồi. Các chiến sĩ vơ lấy súng. Một anh nói:

- Các chị xuống đi. Nó lại sang...

Đợt phản kích hết sức dữ dội. Suốt nửa giờ, các  chiến sĩ chống đỡ. Dần dần, khẩu đội 60 và 82 hết đạn. Chỉ còn một khẩu trung liên của An. An còn có một mình. An vừa lao băng. An vừa mang đạn. An vừa lắp đạn. An vừa bắn. Giặc xông lên ào ạt. An vừa di chuyển súng, vừa làm mọi công việc. Tay anh không một phút nghỉ ngơi. Anh trung đội phó chạy lại. An nói không ra hơi. Tổ tôi chết hết rồi. Chỉ còn một mình tôi. Báo cáo trung đội phó, mang hộ tôi cái nòng dự bị. Tôi không sao mang nổi. Nói rồi, An chạy đi mang đạn. An chạy lên hốt hoảng, mếu máo, mắt dại đờ. Đạn hết! An chạy lại khẩu súng, đạn giặc rít bên tai. Quân tiếp viện mà đại đội đề nghị với tiểu đoàn chưa tới. Địch tập trung hỏa lực rất mạnh bắn lên. Chúng chia ba mặt kẹp lấy đồi.

Long nói trong điện thoại:

- Đề nghị với ban chỉ huy tiểu đoàn cho rút!

- Không rút đi đâu cả. Còn một người cũng chiến đấu. Không còn súng máy thì giết giặc bằng lựu đạn, súng trường.

Lệnh cấp tốc cho đi thu hết lựu đạn súng của liên lạc văn phòng, cấp dưỡng. Long nhắc lại lời nói của ban chỉ huy tiểu đoàn. Lựu đạn và các súng đạn tập trung được cũng vừa tới. Mắt nghịch ngợm. Long vỗ hai tay vào đùi đánh nhịp bát:

Lựu đạn súng trường giết Tây

Nào anh em ơi!

Anh em ơi!

Gậy tầy lựu đạn...

Bỗng tiếng hát đồng thanh tiếp nhanh:

Gậy tầy lựu đạn.

Lựu đạn súng trường

Gậy tầy lựu đạn súng trường giết Tây.

Này anh em ơi... (1)

Họ chia nhau lựu đạn, và hát vang lừng. Vừa bắn súng, vừa ném lựu đạn, họ vừa hát. Vừa lúc ấy, một trung đội của tiểu đoàn bạn được điều sang để cùng chiếm giữ đồi..

- Các anh em đánh đi. Có chúng tôi sang phối hợp đây!

- Hoan hô!

- Còn nhiều lựu đạn đây.

- Anh cho tôi mượn khẩu súng, mau, để tôi bắn thằng lê dương kia, nó nhâng nhâng nháo nháo cái gì.

Hai đơn vị trao cho nhau lựu đạn, súng trường. Thi nhau ném, thi nhau bắn. Trung liên của trung đội bạn nổ rền. Tiếng hát vang lừng, hòa với tiếng reo mừng Tây ngã. Họ vỗ tay, họ vỗ súng đánh nhịp loạn...

Sác tông bỏ vội Quý-Chân, rút vội vàng về bản Ca, bằng con đường suối độc đạo phía Đông dãy đồi. Hàng ngũ rối loạn. Không đơn vị nào vào đơn vị nào. Chúng lao đầu chạy. Ngụy binh, phu quăng cả đồ đạc chạy trốn. Chúng chạy như trong một cơn mê loạn, không còn liên lạc gì với nhau nữa. Có bộ phận chỉ mang toàn đạn. Có đơn vị chỉ mang toàn súng không. Chúng quăng đạn đi. Chúng vứt súng đi. Ta-bo nằm lăn ra đường, không chạy. Tới bản Ca, đại đội phục kịch ở đó nổ súng. Hoảng hốt trên nét mặt binh đoàn tên quan năm Cao-Bằng. Một anh phu xéo cả lên người lê dương chạy. Một viên quan một giữ anh lại, mặt sượng sùng:

- Tôi biết anh muốn quay về với Tổ quốc anh. Thôi được. Tôi cũng chẳng giữ anh làm gì.

Những tiếng hô: Các bạn ra hàng đi, các bạn sẽ được đối đãi theo danh dự nhà binh, ở trong rừng, trên núi đưa ra. Hàng ngũ của Sác-tông tan dần. Trước một vài tên ra hàng. Sau từng đại đội. Rồi từng tiểu đoàn. Hai giờ chiều, bộ đội bắt được Sác- tông. Hắn chỉ còn lại có bộ tham mưu của hắn và hai bàn tay ngượng ngập giơ lên. Tên phản quốc hai Tu tỉnh trưởng Cao-Bằng, giơ tay sau lưng đám anh em phu. Nhưng anh em xua đẩy hắn ra chỗ bọn sĩ quan tham mưu. Sác-tông lắc đầu nói nhỏ với một bọn sĩ quan của hắn.

- Không hiểu làm sao chỗ nào cũng có chúng nó? Phụ nữ cũng ra trận$$$Và hắn xoay ra chửi Lơ Pa-giơ, chửi Pi-nhông (Pignon), chửi Pa-ri (Paris), chửi Công-tăng (Constant), chửi Các-păng-chi-ê (Carpentier), chửi phu lười biếng đã không vận tải vũ khí cho hắn, lại làm mất cái cần vô tuyến điện, khiến cho hắn mất phương tiện liên lạc và chỉ huy.

-----------------------------------------------------

Bài hát Hò dân cày của Văn Chung.
Bản Ca hoang vắng với những nhà sàn bỏ không, đêm hôm nay, rực rỡ đuốc và rầm rập người.

Bắt đầu từ đấy rừng léo nhéo những tiếng réo cười:

- Đây rồi. Bắt được rồi!

Bép, Ta-bo, và lê dương vác súng ra hàng. Đứa nào cũng há miệng, giơ tay ra hiệu xin ăn. Câu đầu tiên của chúng khi đến với ta là:

- Xin các ông cho chúng tôi ăn. Chúng tôi đã đói từ bốn hôm nay rồi!

Nắm cơm trên tay, bộ đội giơ cao đi lùng giặc. Họ làm loa giấy gọi.

- Các bạn Pháp ơi! Các bạn lại đây mà ăn cơm.

Lơ Pa-giơ, trốn trong rừng Pác-Bó, cho một viên quan hai ra đón ông đại đội trưởng Việt-minh. Và khi ông ấy tay không vào trại giặc, tên trùm Ta-bo đứng dậy, nộp ông khẩu súng, khóc và hôn ông:

- Bây giờ tôi và quân đội tôi đây xin thuộc quyền ông sử dụng. Đây là một cái tai họa, cái tai họa đầu tiên trong đời tôi, và tôi lấy làm cực lắm!

* * *

Buổi chiều mồng Tám, hai anh thương binh của hai đơn vị, gặp nhau giữa đường, rủ rỉ về Bố-Bạch. Cảnh vật yên tĩnh. Họ xuống suối tắm. Anh bị băng đầu kỳ (cọ) cho anh bị băng tay. Chợt anh hỏi:

- Cậu đã biết tin Bác khao chưa?

- Chưa.

Tắm xong, anh giở tờ thông tin của trung đoàn anh. Hai người ngồi trên phiến đá. Lá rụng quanh mình. Anh đọc:

Các chiến sĩ yêu mến!

Từ ngày kháng chiến đến nay, trận này là trận đầu tiên bộ đội ta đánh vận động liên tiếp trong mấy ngày. Đó là mấy cuộc thử thách lớn.

Các chú không quản mệt nhọc, đói rét, chỉ ra sức thi đua giết địch, các chú đã đánh tan đoàn quân tinh nhuệ của địch. Các chú đã hoàn thành cuộc thử thách bảy phần mười một cách dũng cảm.

Bác và tổng tư lệnh khao các chú một bữa thịt bò nhé.

Bác hôn tất cả các chú.

- Bác cũng nhé với bọn mình nhỉ. Y như bọn mình viết thư cho nhau.

- Cụ xưng là Bác, nhưng không biết bọn mình gọi là Bác có tiện không?

- Thiếu nhi gọi là Bác Hồ còn được nữa là bọn mình.

- Thấy nói Bác đi bộ lên, cũng ăn hang, ở hốc như bọn mình; hôm nghe tin bọn mình đói, Bác bắt đem hết ngựa đi tải gạo cho bọn mình.

- Bác biết cho mình thế là đủ.

- Bây giờ ăn bò của Bác mới rồi ngon đây.

Hai anh lại rủ rỉ đi. Đến chân đèo, trông xuống cánh đồng Bố-Bạch. Nắng chói lóa. Họ dừng lại. Một anh cười chỉ đồng lúa:

- Lúa đã đỏ hoe rồi.

* * *

Lệnh truy kích Đờ la Bôm. Hắn chạy về Na-Sầm, để B. C. C. P. tiểu đoàn cứng nhất trong các tiểu đoàn nhảy dù, mới xuống ứng cứu cho Thất-Khê, chặn hậu. Cầu bản Trại đã bị công binh phá để ngăn địch rút lui.

- Tiểu đoàn... chạy gấp để chặn đường giặc. (1)

- Nhanh lên. Chở mảng nhanh lên!

- Các đồng chí nào biết bơi thì bơi ngay sang. Chỉ súng đạn và ba lô lên mảng sang thôi.

- Nhanh lên. Đờ la Bôm rời khỏi Thất-Khê rồi.

Từng đoàn người vội vã qua sông. Không có chèo, họ lấy gậy. Không có gậy, họ lấy tay. Ba cái mảng con vùn vụt ngang dọc trên làn nước trắng xanh. Bộ đội, trần trùng trục, lao mình xuống dòng nước.

- Tành, tành, tành, tành. Uỳnh!

- Mau lên, con khỉ!

- Nhảy xuống đi, còn trù trừ gì?

- Thưa ông, trung đội một chưa đi.

- Trung đội hai đi trước cũng được. Anh trung đội trưởng, bên mình ống nhòm, đôi dép cao su đen, quần nâu bạc xắn quá đầu gối, cũng vừa sang sông.

- Tiểu đội tám mốt sang hết chưa?

- Thưa ông chưa hết.

- Chưa hết cũng đi. Một khẩu cũng được. Theo tôi mau.

Bộ đội băng mình theo anh trên con đường dốc trơn. Mấy dân công khiêng súng, hòm đạn nặng chình chịch.

- Oạch.

- Úi chà trơn.

- Nhanh lên moóc tám mốt.

Lên tới đỉnh đồi, đã nhìn thấy con đường số bốn, chỗ trắng chỗ đỏ, uốn theo con sông Kỳ-Cùng đục ngầu. Đằng xa mấy tên địch còn sống sót, vừa chạy vừa la.

- Chà, lại sông. Vừa mới qua sông, giờ lại sông.

Toán sau của địch đã gần chạy tới bờ sông.

- Thế này thì nó chạy mất hết.

- Nhanh lên, xuống mảng nhanh lên.

- Tôi xuống trước.

- Không để tôi xuống trước.

Hai chiếc mảng con tròng trành. Vừa được vài chuyến, hai chiếc khu trục tới.

- Tặc, tặc, tặc. Từng tràng đui xiết xả xuống. Đại liên bắn lên.

- Dàn ra.

- Tiếp tục qua sông nhanh lên. Lên đồi bố trí ngay.

Họ cứ qua sông. Cố gắng lắm mới sang được hai trung đội. Họ tiến trong mưa đạn của máy bay. Họ chiếm được mấy quả đồi trên đường rút của địch. Khu trục thay nhau quần. Anh bắn đại liên gục. Anh khác tiếp tục bắn.

- A, đa-cô-ta bốn chiếc. Họ nằm ép xuống sườn đồi.

- Uỳnh, oàng, oàng.

- Không sợ, cứ bình tĩnh.

Súng cối, đại liên, trung liên của ta vẫn nổ dồn về phía địch. Trời sẩm tối.

- Chà thế là mày chết.

Trời tối đen như mực. Mưa bắt đầu trút xuống. Nước sông lên to. Họ tiếp tục qua sông. Trên sườn dốc, giữa khu rừng rậm, cơ quan chỉ huy đóng.

- A-lô, a-lô. Địch chết nhiều lắm. Đã sang hết chưa? Bên này đã ra lệnh cho 16 tích cực bắn sát, cản địch rồi. A-lô! Nhớ động viên bộ đội là kỳ này chúng ta được giữ điểm của chiến dịch đấy nhé. Quyết tâm diệt hết toán địch này đấy. Đói mỏi chịu khó nhé.

Trời vẫn cứ mưa. ướt. Đói. Mỏi. Buồn ngủ. Ngứa ngáy. Sườn đồi dốc, ngồi trơn tuột xuống.

- Vào đây Cương. Ngồi sát vào đây cho đỡ lạnh.

- Ngồi sát hẳn vào.

- Có điếu thuốc lào xin điếu, cậu. Lạnh quá. Hút cho ấm ngực một tí.

Thỉnh thoảng tiếng súng nổ từng tràng, diệt mấy tên địch định lợi dụng đêm tối chuồn.

Gần sáng. Vòm trời trắng, mấy thằng lê dương ướt như chuột lột; hốc hác, chạy ra hàng. Rồi hơn một tiểu đội lê dương co ro dưới cành cây, giơ tay thẳng, theo mấy anh cấp dưỡng. Bên kia suối, những lá cờ trắng cố nâng cao.

- Đề các mê vu. (Hạ khí giới.)

Lê dương. Nhảy dù. Nguy binh. Quan. Lính. Chiến trường nhộn nhịp. Chỗ này mấy tù binh. Chỗ kia đống súng đạn. Những cái xác béo nịch nằm ngang, nằm dọc trên sườn đồi. Dọc đường nhựa. Khe suối. Hai chiếc khu trục bay tới, lượn mấy vòng, rồi bay đi.

- A-lô. Chuẩn bị mảng để cho tù binh qua sông nhé .

- A-lô. Cho dân công sang gánh chiến lợi phẩm.

- A-lô. Nhớ nhặt mấy vỏ hộp to để đựng thức ăn nhé, tiếng anh cấp dưỡng.

Đường về bản trơn như mỡ. Trời tối. Mưa ào ào. Tù binh ngã. Tên quan ba Mo-rô, ngừng lại ven đường, tay chống chiếc gậy tre, run run:

- Tôi đói, và rét, và mỏi lắm rồi!

Vài đội viên lấy bạt của mình đưa cho mấy tên tù binh ốm yếu. Tới bản. Gian nhà lối om. Bà ké đang ngồi thu mình, giơ đôi bàn tay cóng lên bếp lửa. Bà mới ở đồng về.

- Đây là tù binh Pháp chúng con vừa bắt được.

Họ chưa kịp rửa chân. Các bà già, trẻ em, phụ nữ đã xúm quanh, dòm ngó. Họ kể cho bà con nghe trận vượt sông Kỳ-Cùng, trong lúc máy bay địch bắn dữ dội. Bà con phồng mồm, trợn mắt, theo điệu nói của người kể chuyện. Mấy chị dân công cũng ghé vào xem, líu lo tiếng Thổ, cười khanh khách, chỉ cái mũi chúng dài, dài. Các chú Tây im thin thít, buồn rầu, đầu gục xuống nghĩ ngợi, thỉnh thoảng lấy tay nắn đôi chân, hoặc xin bát nước chè. Chợt một tiếng kêu lên:

- Có phải thằng hai Nạng đây kia không?

Mọi người nhìn về phía một tên ngụy binh ngồi khoanh tay trong một xó, đầu gục xuống. Bà con chạy lại lôi nó ra. Nó lùi lại.

- Đích nó rồi.

- Đánh bỏ mẹ thằng Việt gian đi.

Họ ngửa mặt nó lên. Một ông ké lấy trong bếp ra một thanh củi, xông lại, mắt căm hờn.

- Mày chết với ông. Mày dẫn Tây vào để nó chặt đầu con ông. Cả những thằng giặc kia nữa, để chúng nó làm gì?

Ông ké vung thanh củi, tàn bay lấp loáng. Bọn tù binh giạt cả ra một bên. Một đội viên giữ cụ lại. Ông ké xô anh, quát:

- Để tôi phang cho nó một cái. À, anh là anh Triều phải không? Anh là cháu nó, anh định bênh nó phải không. Các bà ké, các phụ nữ, cả bà ké chủ nhà cũng loay hoay đi tìm một cái que, một cái gậy. Một bà ké tay cầm con dao quắm, khóc nhếch nhác:

- Mày đốt nhà tao, mày bắt cháu tao. Cháu tao đâu?

Mọi người:

Các anh để cho chúng tôi giết nó. Ừ những thằng giặc Pháp kia, chúng nó không máu mủ gì với mình, chúng nó ác đã đành, còn mày, sao mày chó má thế được. Băm vằm nó ra. Chính phủ hỏi tội. Chúng tôi xin chịu.

Một trung đội trưởng đứng ra giữa mọi người. Anh nói:

- Xin bà con để cho tôi nói. Tôi cũng là em họ nó. Trong số anh em chúng tôi, có nhiều người có họ với nó. Không phải là chúng tôi bênh nó đâu. Chúng tôi cũng muốn giết nó. Nhưng tội trạng của nó, phải để Chính phủ xử.

- Phải giết ngay nó đi. Nó đã đi dự hội nghị Sài-Gòn. Nó với thằng hai Tu, phải đem chôn sống chúng nó đi!

- Nó đã giết hại bao nhiêu đồng bào. Họ xô cả lại phía tên việt gian. Anh trung đội trưởng nói:

- Tội ác của nó còn nhiều nữa. Thế nào những thằng bán nước cũng phải đền tội.

- Nó phải đền tội ngay bây giờ! Anh để chúng tôi đánh chết nó đi.

- Chúng ta phải đợi lệnh Cụ Hồ chứ?

Họ lùi cả lại. Ông ké ngồi xuống, dúi thanh củi vào bếp. Các bà ké gục đầu khóc. Ông ké nói:

- Chỉ sợ Cụ Hồ tha thôi!

- Tùy người Cụ Hồ tha. Những đứa bán nước hại dân thì Cụ Hồ không tha. Chúng ta cứ đợi lệnh Cụ Hồ. Bà con cứ bình tĩnh.

------------------------------------------------------

Thuật theo báo Tiến mạnh của tiểu đoàn...
Giặc chạy Thất-Khê. Giặc bị chặn đánh. Giặc về Na-sầm. B.C.C. P. quỳ xuống hàng. Bộ đội vào Đồng-Đăng. Công-tăng bỏ Lạng-Sơn, chạy lấy người, bỏ hàng kho võ khí, hàng kho quân trang, bỏ cả xe cộ, bỏ cả giấy má, bỏ cả việt gian, bỏ cả âm mưu nặn xứ Nùng tự trị, bỏ cả chó béc-giê. Giặc rút về Cao-Lộc. Giặc bỏ Lộc-Bình. Giặc chạy về Đình-Lập. Giặc rút về Móng-Cái. Hải-Phòng xôn xao. Hà-Nội nhớn nhác. Dân chúng nội thành tích trữ gạo. Dân chúng chạy ra vùng tự do. Các-păng-chi-ê bị cách chức. Pơ-lê-ven (Pléven) báo cáo cuộc thất bại thảm thương trước Quốc hội Pháp. Pa-ri truy điệu đoàn quân viễn chinh tử trận. Ô-ri-ôn (Auriol) xin lỗi chúa Ma-rốc về nông nỗi đã để mất hai tiểu đoàn Ta-bo và hứa báo thù! Và giặc rút Thái-Nguyên!

Máy bay muối mặt cố làm mờ bầu trời quang đãng của quân dân Cao-Lạng. Cố ngăn cản những ngày hội chiến thắng của ta mở tại khắp nơi trong miền mới giải phóng. Cố tàn phá những thành phố, những đô thị đã được trở về Tổ quốc. Cố giết hại dân ta, ngay giữa lúc chúng ta trao trả tù binh cho chúng nó.

Những chị dân công, gầy gò, nhỏ bé, khiêng những tên Ta-bo, Bép, lê dương to xác, qua những đèo, những suối về Thất-Khê, ngước mắt hiền lành nhìn đoàn máy bay lượn trên đầu. Rồi những tiếng bom nổ, tiếng liên thanh bắn rất lâu. Các chị ngơ ngác. Các chị lại khiêng cáng đi. Bọn tù binh có tên nhắm mắt lại, có tên nhìn đâu đâu, có tên nhìn các chị muốn ngỏ ý xin lỗi. Tiếng oanh tạc lại gần hơn nữa. Bọn tù binh không chịu nổi sự tàn nhẫn của chính người nó, nhao nhao lên:

- Treo cổ những thằng phi công chó đểu ấy lên!

- Treo cổ chúng nó lên!

- Nó không những là kẻ thù của các anh, các chị, mà nó chính là kẻ thù của chúng tôi. Chính cái thằng A-li-úc nó ton hót với cấp chỉ huy của các anh, các chị, đề nghị để chúng tôi ở lại, còn cho nó được về với gia đình nó. Bẽ mặt cho nó, là cấp chỉ huy của các anh, các chị lại không nghe nó?

- Treo cổ thằng A-li-úc lên!

- Treo cổ tất cả những thằng A-li-úc lên!

- Về Hà Nội, chúng tôi sẽ đập ba-toong vào mặt chúng nó.

Một đêm tới Thất-Khê, chúng thấy dân chúng tới thăm, tặng kẹo, bánh, thuốc lá. Chúng dự buổi lửa trại liên hoan với dân chúng. Phụ lão, bộ đội, trẻ con, đàn bà, Hoa kiều, người Kinh, người miền núi, trà trộn với tù binh, tất cả các giống người. Giữa những âm thanh của ca nhạc, do một đoàn nhạc sĩ biểu diễn, tiếng hát của các em thiếu nhi, và các chị phụ nữ bật nổi lên, giọng trong vắt, hát không đúng điệu lắm. Đã ba năm nay, bà con đã phải hát thầm những bài ca cách mạng. Một lính Đức đứng lên hát một điệu Đức. Rồi Hung, rồi Áo, rồi Thụy-Sĩ, rồi Ba-Lan, rồi Ý, rồi Tây-Ban-Nha, rồi Ta-bo, rồi Pháp, nối nhau hát những bài ca không biên giới.

Tù binh về, thao thức suốt đêm. Sáng sớm, một chị cứu thương nói được tiếng Pháp đến băng bó một lần cuối cùng cho một tù binh. Chị hỏi:

- Anh có ngủ được không?

Hắn lắc đầu:

- Cảm động quá. Tôi không sao ngủ được.

Một tên cụt tay, ngồi bên, hỏi chị  :

- Sao các chị tốt thế? sao các chị lại khiêng chúng tôi?

Chị đang tươi cười, mặt chị nghiêm hẳn lại:

- Sự thật là chúng tôi thâm thù các anh. Nhưng các anh là bại binh rồi thì chúng tôi đối đãi thế.

Nói xong, chị lại cúi xuống băng bó cho tên tù binh kia.

Tên tù binh cụt tay cúi đầu. Một lúc lâu hắn nói:

- Chị nói đúng lắm. Chúng tôi cũng nghĩ nhiều. Tôi tiếc rằng tôi cụt, nếu không, tôi sẽ xin ở lại chiến đấu bên các chị. Tôi không ngờ. Tôi thật không ngờ. Tôi tiếc những việc tôi đã làm. Nhưng đã muộn rồi!

Chị đã biến vào đám đông. Ngoài sân bay, máy bay đã hạ cánh. Trong này, tù binh còn tíu tít hỏi chuyện các chị, các anh dân công. Chúng viết thư cho những người đã khiêng chúng mà lúc ấy vắng mặt. Chúng thuật trên giấy những tội ác của đoàn quân viễn chinh Pháp. Chúng chia nhau quà bánh, thuốc lá. Chúng chia tay nhận mỗi người một món tiền của Chính phủ ta gửi cho. Máy bay sắp cất cánh, một lính Pháp mải nói chuyện với một anh dân công, tất tả chạy đi nhận cái phần của hắn.

- Để tôi mua bàn chải và thuốc đánh răng. Đợi bọn chỉ huy ở Hà Nội phát các thứ này, thì đến bao giờ?

- Chào nhé. Chào nhé. Chào nhé. Qua mỗi người, hắn lại chào. Đến người cuối cùng thì tiếng hắn rung lên.

Máy bay đã rời khỏi đất. Những khăn mù soa vẫy tới tấp về phía dân chúng. Đã xa và cao rồi, mù soa còn vẫy. Một ông ké, vai đeo ba lô, vừa đi vừa nói:

- Ngày mai, thằng Tây Hà Nội lại lên ném bom... Đéo mẹ chúng nó!

- Thế tù binh ta đâu? Đấy là lời một anh dân công đang hí hoáy thu dọn cái cáng tre.

Dân chúng Thất-Khê gọi nhau đào hầm léo nhéo.

* * *

Chiến thắng lên như nước vỡ bờ...

Tin giải phóng các đất đai mới, các thị trấn mới truyền đi.

Các ủy ban chiếm lĩnh đô thị lên đường vội vã. Các ủy ban thu dọn chiến trường đi gấp. Trạm tiếp nhận tù binh không ngớt hỏi cung những tên mới đến. Các ủy ban kháng chiến hành chính địa phương, bấy lâu rúc rừng, rúc núi, lục tục kéo ra, lủng củng giấy tờ máy chữ, ba lô. Bộ đội vẫn mải mê truy kích giặc, tiếp sức cho những bộ đội du kích địa phương tỉa đánh. Những bộ phận được nghỉ ngơi nhóm những hội nghị kiểm thảo sơ kết trận đánh của mình, từng tổ, từng tiểu đội, từng trung đội, từng đại đội. Huấn luyện những anh em trong hàng ngũ Pháp, tình nguyện ở lại với bộ đội. Bộ đội tổ chức những buổi ca nhạc, những tối kịch cho dân chúng. Các chiến sĩ gánh những gánh lúa nặng trĩu, óng ánh vàng, rào rào như gió thu, về cho bà con. Một hôm bộ đội tíu tít như gà tìm chuồng.

- Làm cái gì mà ồn lên thế?

- Không ạ. Đấy, cậu thích cái bút máy của mình thì mình cho cậu, cậu nhường cho mình đi.

- Kiếu thôi. Bút máy thì rồi tớ cũng mua được.

- Tớ lạy cậu.

- Tôi cũng lạy anh.

- Đã bảo mà. Đánh thắng là thế nào cũng được gặp mà.

- Vừa mới ăn bò khao xong.

- Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ!

- Chiến thắng tuyệt thật!

- Cũng là nhờ nhịn đói khỏe!

- Tề chỉnh một chút nào, cậu!

- Bác không cần hình thức đâu.

- Thắng thì cũng phải thế nào chứ lị.

- Để cho tôi đi. Từ ngày tôi vào bộ đội, tôi chưa đề nghị xin xỏ cái gì bao giờ.

Đội viên, cán bộ sửa soạn như ngày Tết. Nhưng Bác giản dị như một ngày thường. Ô tô sình sịch.

- Đấy! Đấy!

Các chú nhìn ra đường. Không phải Bác. Bác đi bộ tới giữa lúc các chú không ngờ. Vòng người đang rộng bỗng, hẹp lại, hẹp lại. Tiếng hoan hô chạy vòng trên đầu. Mũ ca lô tung lên. Đầu súng nhấp nhô. Kiễng chân, xô cả vào người trước. Lại những tiếng hoan hô. Bác không đứng trên diễn đài. Bác đi thẳng xuống bãi cỏ. Bác không đội mũ. Mặt Bác sạm phong trần. Đầu hoa râm đã bạc nhiều. Bác mặc áo hở ngực. Quần Bác nhầu. Chân Bác đi dép cao su trắng, đứt quai sau.

- Ồ! Bác không đeo kính.

- Bác cũng quàng khăn mặt như ta thôi.

- Tưởng Cụ Chủ tịch thì ghệt phải cao ngập đầu gối!

Bác đi đi lại lại, Bác hỏi các chú có mệt không, có khỏe không. Bác bảo các chú ngồi xuống kẻo mỏi. Bác hỏi các chú có ỉa bậy không.

- Thưa Bác không.

Bác nhìn về phía có tiếng trả lời. Bác hỏi:

- Có thật là không không?

- Thưa Bác có đấy ạ.

Bác khuyên các chú không nên tiếp tục việc phản vệ sinh ấy. Dân người ta kêu. Mà việc ấy không xứng với bộ đội.

- Có đúng không ?

- Thưa Bác đúng ạ.

Bác nói chuyện vui. Bộ đội cười.

Khi Bác thay mặt Chính phủ khen ngợi các chú, các chú thốt nhiên im lặng. Bác nhắc ngay đến thương binh. Bác khuyên phải thu dọn chiến trường ngay, chôn cất tử thi, kẻo sinh bệnh tật. Bác chạm vào chân chú này. Bác đứng trước mặt chú kia. Các chú sinh bạo nhao nhao xin nói. Bác hỏi một chú ngồi đằng sau, trong bóng tối. Bác hỏi vì sao ta chiến thắng to. Chú nói vì cố gắng. Chú nói vì kỹ thuật tiến bộ.

- Thưa Bác, cháu có ý kiến, vì nhân dân ạ.

Bác quay lại xem chú nào. Bác khen nói đúng. Chú rú lên vì các bạn chung quanh cù nách. Bác nói về nhân dân. Lời Bác rung lên khi Bác nói đến những nỗi khổ của nhân dân, đến những hy sinh lớn lao, những đóng góp vô lượng của nhân dân, đưa lên cho Chính phủ từng hột cơm, hạt gạo để Chính phủ đánh giặc, Bác nói thêm rằng ta thắng lớn vì chỉ huy sáng suốt và kiên quyết. Bác khuyên các chú phải kính dân, yêu dân, tin dân. Bác khuyên các chú phải triệt để chấp hành mệnh lệnh. Bác phê bình kỷ luật chiến lợi phẩm không nghiêm của một vài cá nhân và đơn vị.

- Phải biết tiếc chiến lợi phẩm. Nó là xương máu của chiến sĩ. Đừng có như cái chú nào Bác gặp hôm qua làm gà mà đốt bốn ngọn nến. Thế là phí. Các chú nên nhớ rằng nước ta nghèo, dân ta khổ, chúng ta không được phí.

Các chú bấm nhau:

- Chết chưa. Chết chưa. Trúng tủ nhớ.

Bác nói về cán bộ:

- Cán bộ phải thương yêu đội viên. Nhất là Chính trị viên, phải là người chị, người anh, người bạn, người mẹ của đội viên, phải hàng ngày trông nom đội viên, từ cái ăn, cái ở, khi tập luyện, khi mệt mỏi, ốm đau. Mà phải gương mẫu. Đừng có như cái chú Chính trị viên nào mồm thì nói phải giúp dân, bắt đội viên quét tước, mà mình thì đi nằm.

Các chú nhảy lên, vỗ tay.

- Bác mà làm Chính trị viên đại đội mình nhỉ.

Bác quay về phía cán bộ:

- Có đúng không?

Cán bộ cười, nhìn nhau, bấm nhau. Mặt Bác hiền từ:

- Chú nào có cái tật ấy thì vứt nó đi. Cán bộ phải coi đội viên như tay chân. Đội viên phải coi cán bộ như ruột thịt. Có như thế thì đánh đâu thắng đấy.

Bác nói đã nhiều. Bác không uống nước. Bác hôm nay không ho. Bộ đội còn muốn nghe. Vòng người khép chặt lại. Bác đem vài mòn quà tặng cho cá nhân nào xuất sắc nhất. Bộ đội yêu cầu Bác cho xem trước. Bàn tay Bác gày gò chìa cho mọi người xem ngôi sao xinh xinh, đỏ thẫm, lóng lánh như ngọc, lóng lánh như mắt các chú trố to nhìn lên. Bác ngồi xuống cỏ, trước các chú. Các chú lần lượt ra trước mặt Bác hứa cố gắng giết giặc, nghe lời Bác dạy. Một đội viên biếu Bác cái hộp mề đay của giặc mà anh chiếm được khi xung phong đầu tiên vào nhà chỉ huy của A-li-úc.

Một chú đứng sau nói:

- Thưa Bác, Bác cho chúng cháu biết hộp gì đấy ạ?

- Các chú lại bắt Bác báo cáo nữa!

Bộ đội cười ầm ĩ, khoái trá, Bác giơ từng chiếc mề đay cho mọi người xem.

- Thưa Bác chúng cháu chưa trông rõ ạ.

Bác giơ cao hơn. Các chú cười sung sướng, ôm nhau nghiêng ngả.

- Thôi. Đừng bắt bác giơ mãi, Bác mỏi tay!

Thốt nhiên im lặng. Bác chạy ra hôn người chiến sĩ cụt tay đã làm cho giặc bạt hồn, một thanh niên gầy gò đang đứng trước Bác hứa quyết tâm chiến đấu. Đầu bạc của Bác sát đầu xanh của người chiến sĩ tay áo sơ mi lòng thòng quờ quạng bên sườn Bác. Người chiến sĩ trở về chỗ cũ. Tiếng vỗ tay của bộ đội núi sau vang vọng lại. Bác đứng lên từ tạ ra về, và nói:

- Bây giờ thì Bác bận, không thể ở lâu với các chú được. Vậy Bác chúc các chú khỏe và cố gắng. Cố gắng luôn luôn để khi Bác bảo đi là đi, Bác bảo đánh là đánh, đánh là được.

Bộ đội lại vận động đi...

Cao-Bằng ngập lụt. Dân công đang quét dọn. Nậm-Nàng, nơi Sác-tông đốt đoàn xe của nó, các anh tài xế đang hí hoáy chữa, lắp bộ phận máy nọ vào bộ phận máy kia, và đã cho chạy được sáu chiếc. Đông Khê tàn phá không một bóng cây. Một vài tù binh Đức Ý chạy đi chạy lại. Bông Lau, quãng đường hiểm trở, chật ních những xác xe đổ trong trận phục kích ác liệt năm xưa. Thất-Khê xinh đẹp giữa một thung lũng lúa chín vàng. Đồn Khâu-Trích, Chấp-Giao trên đỉnh núi, đàn quạ đông tụ tán. Miếu Quan-Đế đã được gỡ ra khỏi hàng rào dây thép gai trói chặt. Đêm đêm xe chạy, gọi nhau ấm ớ, người xuống người lên. Mấy anh sốp phơ hàng binh Âu líu tíu. Con đường số bốn thênh thênh, lỗ chỗ vết giầy đinh của bộ đội, những giấy gói đồ hộp, mẩu thuốc lá bết xuống đất. Hai bên đường, toàn bụi cỏ um tùm. Ruộng đã bỏ đấy ba năm. Dân chúng trở về. Em nhỏ chạy lon ton.

- Thích quá! Lại gặp mày. Tiếng kêu của anh đại đội trưởng bộ binh, người lùn tè, đeo chiếc kiếm dài, khi gặp anh đại đội trưởng pháo binh, đeo chiếc kính trắng.

Bộ đội nghỉ. Anh cán bộ bộ binh chỉ lên núi, chỉ lên đồi, chỉ xuống đường, chỉ lên trời, cười tít mắt:

- Rộng quá. Của chúng ta hết. Có thể từ đây đi thẳng Bắc-Kinh, Mạc-tư-khoa. Tao có cảm tưởng rằng gió này thổi tới tận Mạc-tư-khoa, và gió từ Mạc-tư-khoa thổi tới tận đây. Gió dân chủ sướng quá.

Họ nhìn lên trời, lên núi, lên đồi. Bộ đội cũng nhìn theo. Lừa lại bắt đầu đi, ba thồ lênh khênh, tiếng kim khí lanh canh, tiếng guốc sắt rít rít. Hàm vỗ mông lừa giục:

- Nhanh, nhanh.

Lời Hàm vẫn lè nhè, nhưng bước đi gọn.

... Bình Gia, cái phố nhỏ bên suối. Đoàn ngựa của nhà buôn đi thủng thẳng. Bắc-Sơn, thung lũng đỏ như son. Với tấm lòng son của những anh hùng khởi nghĩa mười năm xưa. Các em đi học chạy tung tăng. Vũ-Lễ, một khu rừng cháy, cây là những thỏi than vĩ đại Con suối chảy róc rách bên một phố vắng người. Đá to dưới suối cùng đàn trâu trên bờ một màu. Các nhà trong phố đã xếp dọn gọn ghẽ. Phố này, toàn là những người đàn bà Cao-Lộc, Lộc-Bình di cư tới, làm máng, làm nương, sống hiu hắt, sáu năm nay. Họ đi ăn tiệc, liên hoan với bà con địa phương để ngày mai về đất cũ. Một bà cụ tám mươi tuổi nói:

- Khi chạy giặc, dắt cả trâu lẫn trẻ. Trâu cũng chết nhiều mà trẻ cũng chết nhiều. Bây giờ cũng hãy còn có trâu, có trẻ, nhưng ít thôi.

Máy bay giặc khủng bố các thị trấn, các đường giao thông. Nhưng giặc vẫn rút Hòa-Bình. Hành lang Đông Tây bị chọc thủng. Tiếng máy bay như tiếng kêu tuyệt vọng của bầy giặc điên.

Cửa khải hoàn rồi lại cửa khải hoàn. Biểu ngữ rồi lại biểu ngữ:

- Hoan hô các chiến sĩ dân công.

- Dành gạo cho bộ đội.

- Pây vận tải se khả sắc. (Đi dân công để giết giặc).

Một cái biểu ngữ đồ sộ trên đỉnh đèo Trám. Trước người ta đề: Hoan nghênh Đông Khê giải phóng. Sau lại được tin giải phóng Cao-Bằng, họ viết thêm Cao-Bằng bên Đông Khê. Rồi nhiều nơi khác được thu hồi. Người kẻ đành dán lên hai tiếng hoan nghênh và giải phóng một tờ giấy khác viết chi chít: Thất-Khê, Na-Sầm, Đồng-Đăng, Lạng-Sơn, v.v... Mỗi thứ chữ một kiểu, một thứ mực, tùy theo hôm nhận được tin.

Nhiều biểu ngữ tương tự. Có cái đã ghi thêm Lào-Cai. Có cái đã ghi thêm Hòa-Bình. Có cái, tác giả dành hẳn một khoảng trắng dài ở dưới để điền thêm.

Giặc đang cố tăng viện. Súng và tàu bay của Tờ- ru-man (Tru man) tải sang thêm. Gian khổ còn nhiều.

- Bác bảo đi là đi, Bác bảo đánh là đánh, đánh là được.

Bộ đội đã nghe rõ Bác Hồ.

Trên khoảng trắng dài kia của biểu ngữ, tác giả sẽ còn điền thêm nhiều tên đồn, huyện, tỉnh, thành phố, đường xá, hải cảng sắp thu hồi. Và nhất định, tác giả còn phải dán lên nhiều lần giấy nữa, để một ngày nào đó không xa lắm, nhưng còn mang theo nhiều đau thương, tang tóc anh chỉ cần viết gọn hai tiếng Việt Nam.

12-9-50

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.