chan_dung-ke_si

KHÚC DÂN CA MIỀN BIỂN - Truyện ngắn Chu Văn Mười

09-07-2023

Lượt xem 541

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

KHÚC DÂN CA MIỀN BIỂN - Truyện ngắn Chu Văn Mười

 

   Anh thường kể những chuyện gắn bó với một dòng sông.

   - Sương biết không, chính trên cánh đồng ven đê, khi đào mương, bọn anh đã vớ được những cây gỗ lim vót nhọn đầu, những nhà khảo cổ xác nhận đó chính là chiếc cọc xưa Trần Hưng Ðạo đã dùng đâm bể những chiếc thuyền của quân Nguyên...

   - Trời! Phải chi em được ra quê anh một lần!

   - Chắc có ngày ấy thôi. Chỉ e... em không có lòng.

   Câu nói rụt rè và như thể bâng quơ ấy cứ rung mãi trong tâm hồn cô. Anh không sôi nổi, có duyên như anh Phương quê Hà Nội, anh cũng không tốt giọng để hát những làn điệu chèo uyển chuyển và tình tứ như anh Nhữ tóc xoăn quê Thái Bình... Anh chỉ có những câu chuyện. Vậy mà dư âm của nó cứ làm Sương bâng khuâng.

   Ra ở đâu cũng vậy thôi - cũng sông nước, cũng ruộng đồng, cũng cấy cày, gặt hái, cũng những xóm thôn... Ðất nước hiện lên trước hết từ một xã Tăng Hòa chôn rau cắt rốn của cô tới một miền xa lắc, nơi có tiếng kẻng gọi người mỗi sớm mai ra đồng, nơi ngày mùa lúa chất đống ở những sân kho, và có những ngày hội cổ truyền... Ôi, phải chi, phải chi...

   Năm ấy Sương mười sáu tuổi.

   Sương được các anh đưa lên khu học văn hóa, rồi theo học lớp y tá ngắn ngày. Xong cô được điều về ở huyện đội.

   Các anh ấy đến cơ quan  huyện đội từ lúc nào lặng lẽ và khiêm nhường. Ngày ấy cực lắm. Miền Tây Nam Bộ là vựa gạo, nhưng hạt gạo từ vùng dân ra "cứ" nhiều phen thấm máu. Ðêm đêm, các anh đi. Ði đâu, làm gì, chỉ ban chỉ huy và các anh hay. Vất vả thế, sáng về, khi có vài chén cơm, khi một phong lương khô, cũng có khi chỉ cháo loãng. Chú huyện đội trưởng bảo Sương:

   - Cháu phải chăm sóc những chàng Yết Kiêu này thật chu đáo, nghe!

   - Yết Kiêu là chi chú? - Sương ngây thơ hỏi.

   - à Yết Kiêu là... là những người bơi lặn giỏi, làm nổi những công việc lớn - Chú cười, tiếng cười thật vui, hồ hởi và tin cậy.

   Sương không biết nói gì thêm. Cô cố gắng chăm sóc các anh chu đáo như lời dặn dò của người chỉ huy. Cô kiểm tra mùng khi các anh đã ngủ, ép các anh uống hết liều thuốc phòng sốt rét, la những ai vô ý có thể làm các anh thức giấc... và Sương lặn lội tìm hái quả mắm mang về luộc, bắt cáy nấu canh với lá rừng, cải thiện bữa ăn.

   Chiều ấy khi nước đã lùi xa về biển,   Sương vừa lội xuống bãi, bỗng nghe tiếng gọi phía sau. Cô giật mình ngoái lại:

   - Trời, anh Hải! Anh làm em... Sao anh không chịu ngủ?

   - Bụng lép kẹp, ngủ nghê sao được!

   Anh ngoẹo cổ, mắt nheo nheo như thể khôi hài, nhưng Sương chợt nghe buốt nhói trong ngực. Cô nhận ra gương mặt hốc hác và tái sạm của người chiến sĩ với bao thiếu thốn anh đã phải chịu đựng.

   - Bữa nay Sương cho tôi cộng tác với.

   Anh vừa nói vừa cúi xuống vuốt nhanh hai ống quần.

   - Con trai miền Bắc hổng quen việc mò cua bắt ốc đâu anh ơi!

   Sương vội ngăn, nhưng anh đã hăm hở sục chân xuống bùn. Ðôi mắt dài thường tít lại mỗi khi vui cười, lập tức trở nên tinh nhanh trước những vật chấm li ti trên mặt bãi. Phút sau anh cúi xuống túm gọn một lúc hai con cua bên gốc cây trang.

   - Ðây rồi!

   Anh cười hồn nhiên quá. Sương càng ngạc nhiên. Ðôi bàn chân to khỏe của anh bước trên bãi hà táo bạo và nhanh nhẹn như người ta đi trên đường phẳng. Giữa vô vàn những miệng lỗ dày đặc, anh gọi ra đâu là lỗ còng lỗ cáy, đâu là hang ổ của nhệnh, của hớp.

   - Sương biết không, bãi sông quê tôi cũng nhiều cá lắm. Mùa này tôi thường đi bẫy nác. Những chiếc bẫy làm bằng tre giương trên miệng lỗ. Những chú cá nác nhắm tít mắt, vừa ngoi lên vừa lắc lắc cái đầu rũ bùn. Pựt! Thế là cu cậu bị chặn cổ. Chà, cá nác nấu với dọc mùng! Sương biết dọc mùng không?

   Vừa nhẹn tay xắn đất chặn bắt những chú cá thòi loi, anh vừa say sưa kể chuyện. Chưa bao giờ Sương thấy anh vui thế, cởi mở thế. Cô mải nghe, cứ xách giỏ theo anh lúc nào không hay. Những kỷ niệm về anh sao đằm thắm thế. Sao anh có thể nói về quê hương mình hay đến vậy, dù khi anh chỉ nhắc tới một buổi đi kiếm mật ong giữa rừng nước mặn, một buổi tối bạn bè rủ nhau đi chao cá tối ven sông, hay một mùi thơm của quả lậu chín vào hồi tháng bảy...

*
*   *

   Giờ đây, trước mặt Sương, con sông Bạch Ðằng cồn lên những đợt sóng bạc đầu. Con sông quê anh. Con sông trong những chuyện anh kể... Khu rừng lậu ven đê mới bắt đầu đâm chồi sau những ngày rét mướt, những hương hoa sú đã ngọt lịm trong gió đông. Và lúc này, con sông mênh mang hơn nhiều, sôi động hơn nhiều trong trí tưởng tượng của cô, những con tàu lừng lững. Những đoàn sà lan nối dài và buồm nâu rờm rợp. Dòng sông huyên náo trong tiếng còi xin luồng, tiếng động cơ, tiếng những ngọn sóng chồm lên bị chẻ xé, bị khuấy sôi. Không xa nơi Sương đứng là xưởng sửa chữa tàu thủy đang ầm ầm những âm thanh hỗn độn, chói gắt ánh lửa hàn. Xa hơn, một dải khói xanh đục bí ẩn tuôn lên từ trong khe núi.

   - Ðấy là nhà máy đất đèn, một cơ sở hóa chất mới xây dựng. Nghe nói đất đèn của ta được khách nước ngoài chuộng lắm, nhưng không có mà xuất khẩu vì dùng trong nước còn chưa đủ. Hiện nay chúng ta đang tiếp tục xây thêm những lò có công suất cao hơn.

   Bé, cô bí thư xã đoàn Ngũ Xã có vóc người chẳng hợp với tên cô chút nào, trân trọng giới thiệu cùng đoàn khách từ miền Tây Nam Bộ xa xôi tới đây tham quan. Nhiều cặp mắt mở to trước cô, không chỉ thông thạo công việc đồng áng, mà còn tỏ ra am hiểu tình hình trong vùng.

   Sương không chen hỏi về khu cảng than, về vùng đồi thông xanh hút tầm mắt phía bên kia sông. Cô lặng ngắm dải sóng trắng xóa chảy suốt sát chân đê ra quá giữa sông, một đàn hải âu đông ngộn đang nhộn nhạo, đang sắp vụt tóa lên khỏi mặt nước. Ban nãy Bé giới thiệu đấy là Ghềnh Cốc - một bãi đá ngầm. Nơi đây bảy thế kỷ trước, quan quân nhà Trần đã lợi dụng nó như một bãi cọc trong trận thủy chiến lừng lẫy tiêu diệt quân xâm lược. Giữa tiếng ồn ào của biển lớn ngoài kia đang lúc triều lên, tiếng nổ rền của những loạt mìn phá đá phía thượng nguồn, nỗi bồn chồn vẫn không lắng lại trong lòng Sương. Cô kín đáo nhìn nhanh gương mặt cô bí thư xã đoàn. Bé nghiêng nghiêng đầu đưa  tay cài gọn lại mái tóc. Chiếc áo cộc cổ màu gụ rất vừa vặn, hài hòa với nước da nâu mịn của cô gái miền duyên hải. Vẻ đẹp riêng biệt của cô gái ấy giữa đám đông khiến Sương liên tưởng với cô gái trong những câu chuyện anh Hải kể hồi nào. Và cô xúc động nghĩ rằng mình đã đoán không nhầm. Giữa lúc ấy Bé chợt nở nụ cười duyên dáng, chỉ tay xuống khoảng đất trước mặt mọi người:

   - Báo cáo các đồng chí, đây là trận địa súng máy cao xạ của dân quân xã chúng tôi trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại. Anh chị em đã diệt hai máy bay phản lực Mỹ, một chiếc đâm đầu ngay xuống cuối Ghềnh Cốc kia, một chiếc cố bươn ra được đến cửa Nam Triệu...

   Tất cả cùng "ồ" lên một tiếng thán phục, và ai nấy cùng nhìn vội xuống cái nơi bây giờ chỉ là một màu xanh nhu mì những vạt ngô.

   Từ bấy giờ cho hết buổi tham quan là những câu hỏi dồn dập về chiến thuật, về kiểu loại những chiếc máy bay giặc phải đền tội, về cấp bậc, quê quán thằng giặc lái bị bắt sống... Riêng những câu hỏi về người chỉ huy trung đội dân quân hồi ấy, Bé chỉ trả lời qua loa đó là một đồng chí gái, nhưng hai vành tai cô thì cứ đỏ tía lên. Mỗi lúc Sương một náo nức, cô phải cố ghìm câu hỏi riêng của mình trên   đường về làng, chờ lúc Bé hơi lùi về phía sau, Sương bước lại gần. Và như hụt hơi vì hồi hộp, Sương hỏi:

   - Cô... cô có biết nhà anh Hải?

   - Anh Hải? - Bé dừng bước, ngước cặp mắt trong suốt nhìn Sương, hàng lông mày cong cong rướn xếch lên vùng trán có nếp nhăn đột nhiên:

   - Chị quen anh Hải?

   - Phải chị quen - Sương cảm giác tiếng nói mình nhỏ quá.

   - Trời ơi! Anh trai em đấy.

   Bé reo to, bàn tay bá lên vài Sương, lắc mạnh.

    Sương thấy tức thở:

   - Anh Hải... Anh Hải bộ đội, cô à.

   - Ðúng rồi, anh Hải em đi bộ đội, vào Nam chiến đấu gần mười năm, vừa rồi mới ra nghỉ phép. Tiếc quá! Anh em vừa lên đường hôm qua.

   Bé càng sôi nổi và như những cô em gái khác, phát hiện điều bí mật ở anh trai, đôi mắt cô càng rực lên vẻ thích thú.

   - Không... Không... - Tiếng Sương đứt quãng - ở vùng trong chị trước đây có anh tên là Hải đến hoạt động một thời gian. ảnh bảo quê ảnh ở ven sông Bạch Ðằng này. Mà anh hy sinh rồi, Bé ơi!

   Sương nói nhanh câu cuối và lại thấy nóng rực hai mi mắt. Cô vội ngoảnh nhìn ra cánh đồng. Cánh đồng như thể bồng bềnh trước mặt. Và lúa, lúa đang thì con gái ràn rạt xô cái màu xanh ngút ngát tới chân đê, với những tia nắng vàng rực cứ rung rinh, rung rinh.

   - Thế thì anh ấy không ở xã em. Xã em có bốn anh Hải đi bộ đội, đều đã  về cả. Chắc anh ấy ở xã khác. Chị xem, dọc hai bờ sông có bao nhiêu là làng mạc thế kia...

   Sương nín lặng. Con bói cá đậu trên đường dây cao thế đang thu mình bỗng giật mình bay đi, tiếng "các các" xa dần về phía rừng rậm.

   Buổi tối, đoàn khách tham quan được mời xem vở chèo do đội văn nghệ xã tự biên tự diễn. Vở chèo nói về công cuộc khai hoang lấn biển. Bây giờ, Bé trở thành cô dân công có nhiều sáng kiến trên công trường. Cô lưu luyến tiễn dặn người yêu lên đường chiến đấu sau bao ngày cùng nhau đắp đê, nhổ sú...

   "Rủ là - rủ nhau ới là xuống biển...

   Lời ca ấy cùng làn điệu dân ca ấy Sương mới nghe lần đầu. Và rõ ràng tích chèo chỉ nói về những người sản xuất, vậy mà Sương không cầm nổi nước mắt. Chao ơi, có lẽ nào, chính tâm hồn của anh, tâm tình của mình, giờ mới được gọi ra, được cất lên bằng một giai điệu tuyệt vời đến thế!

   "Rủ nhau xuống biển mò cua

   "Ðem về nấu quả mơ chua trên rừng

   "Anh ơi gian khổ đã từng

   "Non xanh nước biếc ta đừng quên nhau...

   Chiều ấy nắng cũng vàng như nắng chiều nay giữa đồng làng Ngũ Xã.

   "Ðêm nay xong việc, ngày mai ta lại đi lên bãi nghe Sương".

   Lần đầu tiên anh kín đáo nói với Sương bằng giọng Nam Bộ. Rồi chia tay. Ba người, mỗi người một ba-lô thuốc nổ, đi theo con đường mòn dẫn ra phía bờ sông. Ngày hôm sau anh không về đúng hẹn. Chỉ biết chiếc cầu trên tỉnh bị  đánh sập, giặc đang lồng lên, đang chặn bủa các ngả sông, các ngả đường. Hôm sau nữa các anh vẫn không về tin được phổ biến chính thức trong cơ quan: trên đường rút ra, các anh sa vào ổ phục kích của giặc. Và sự im lặng kéo dài sau đó báo với Sương rằng anh và đồng đội anh đã hy sinh.

   Sương đang sống những ngày cuối cùng ở miền bắc. Hà Nội mùa hè trời trong vắt, hồ trong vắt. Ði dưới những hàng sấu um tùm lá biếc, Sương bồi hồi nhớ những hàng me quê nhà. Chương trình rút ngắn, chỉ còn ít bữa nữa Sương đã phải về với làng quê phương nam, lại đi dưới những hàng cây quen thuộc ấy, lại thích thú để mặc những cánh hoa vàng nhỏ xíu trút xuống đậu trên mái tóc. Và những bãi triều đất bồi ra bao la ven sông mỗi khi nước xuống. Những bãi triều năm xưa hai người vẫn đi qua...

   - Chị để lại địa chỉ cho em. Có thể em sẽ hỏi bạn bè ở những xã bên, chắc em tìm được gia đình anh ấy...

   Lúc chia tay, Bé hẹn vậy.

   Nhưng sao mãi hôm nay Sương vẫn chưa thấy thư báo của Bé gửi tới. Giữa tiếng ve ran ran, Sương bỗng gặp mình đang hát. Và lạ lùng thay, tiếng hát lại có thể hay như vậy, luyến láy đúng như vậy, với một làn điệu dân ca mới được nghe lần đầu.

   "Rủ là rủ nhau ới là xuống biển...".

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.