chan_dung-ke_si

HỌC TRÒ GIÀ – Truyện ngắn Trần Kim Trắc

20-09-2024

Lượt xem 1640

Đánh giá 3 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Trần Kim Trắc

HỌC TRÒ GIÀ – Truyện ngắn Trần Kim Trắc

Nhà văn Trần Kim Trắc (1929-2018)

Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà văn quê gốc Chợ Gạo Trần Kim Trắc, còn được biết đến với tên gọi Ông Thiềm Thừ, theo tên một truyện ngắn xuất sắc của ông, là một trong những cây đại thụ của văn chương Nam Bộ. Truyện nào của ông, cũng như gieo những cơn mưa Nam Bộ, thấm đẫm từng trải và bạt ngàn vốn sống lên văn đàn.

Đi biền biệt ba mươi năm, được trở về Mỹ Tho, sau khi đoàn tụ với gia đinh, việc đầu tiên của tôi là tìm  thăm thầy, ông giáo Đức, đẹp trai nhất trường, ai cũng phải ngắm khi thầy thong dong trên chiếc xe alcyon màu đen, lốp confort màu trắng, tóc chải láng mượt, quần tussor sơ mi trắng, phong thái vừa văn minh vừa quý phái. Trẻ chúng tôi rất tự hào vì được là học trò của người thầy phong lưu nhất tỉnh.

Ngôi nhà của thầy ngày trước vẫn còn đó nhưng đã đổi chủ. Tôi lần dò sang các nhà lân cận và các khu phố, người quen biết thầy trước kia không còn bao nhiêu, chỉ biết rằng sau khi tỉnh ly thất thủ năm 1945, thầy đã chuyển đi xứ khác, nghe nói lên Sài Gòn. Làm sao tìm được thầy giữa rừng người đô hội.

Tôi học thầy ba năm. Một năm lớp moyen. Năm sau thầy được cất nhắc lên dạy lớp nhứt, tôi lên theo như duyên phận thầy trò sắp sẵn. Học năm đầu tiên, đi thi tuyển vào trường Collège (trung học), đọc danh sách tôi trúng tuyển môn viết; chỉ còn môn oral (hạch miệng) là đỗ nhưng buồn cảnh gia đình sau khi mẹ mất, tôi bỏ không thi hạch miệng. Tất nhiên là tôi bị cha dần cho một trận vì cái tính trái gió trở trời và bắt trở lại trường lớp cũ thêm một năm nữa. Cao lêu đêu hơn bạn bè mới cùng lớp một nửa cái đầu, xếp hàng đứng cuối, ngồi bàn cuối, xấu hổ, nhưng xếp hạng là người "major", tôi đáng mặt là đại ca của sư môn.

Mười bốn năm sau, tình cờ gặp chị bạn học cùng lớp. Trường primaire hồi ấy là của con trai, nhưng đặc biệt lớp tôi có hai trò gái. Một cô tên là Huệ, con ông đốc tờ, có lẽ ông đốc tờ mến mộ tài phát âm tiếng Pháp rất ư là Tây của thầy nên xin ưu tiên đặc biệt cho cô con gái rượu theo học. Còn cô bạn gặp tôi là Muội, cha Hoa, mẹ Việt, do cô Huệ vòi vĩnh phải có bạn gái với nhau mới dám đơn phương xông pha vào chốn nhất quỷ nhì ma, nên được "ăn theo".

Cô Muội chỉ tôi nơi ở của thầy. Mừng quá, tôi quơ hai chai mật ong làm quà, vội vàng lấy xe đến thăm thầy.

Nhà thầy ở một gian giữa dãy phố trệt. Hồi ấy mới có kinh tế mở nên chỉ có vài quán cà phê hoặc tiệm sửa xe. Từng căn phố ngăn cách bằng rào gỗ. Khoảng trống trước nhà có chiếc xe xích lô đang kê nghiêng để vá bánh. Anh xích lô hao hao giống nên đoán biết là con thầy. Sát vách kê một cái phản nhỏ, một bà lão đang ngồi. Cô không nhận ra tôi, nhưng sơn đình còn lưu dấu thời thiếu nữ đã từng lọt vào mắt xanh ông giáo trường tỉnh.

Tôi chào hỏi và trình bày ý định học trò thăm thầy. Anh con trai vào trong, trở ra mời vào.

Nhìn vào trong, tôi thấy thầy thay áo, bộ pijama của thầy đã ngả màu theo thời gian. Thầy đã già yếu, bước từ từ ra, vừa đi vừa cài nốt nút áo cuối cùng, dáng vẻ vẫn cao đạo, tự tin, có chút lạnh lùng. Tôi lễ phép cúi chào.

Thưa thầy! Con đến thăm thầy.

Thầy đưa tay cho tôi bắt, chưa hề bộc lộ thoáng buồn vui và không để cho tôi chờ đợi. Thầy bất ngờ giáng cho tôi một câu (Có lẽ vì trước đây có trò nào đó đã đến thăm thầy trước ' tôi và nói cách mạng sơ giản với thầy):

Tôi không thích nói chính trị à nghe ! . . .

Tôi bị cú bất ngờ choáng váng, chưa lường trước được thái độ của ông già ra sao đây ? Không thích nói chính trị phải chăng ám chỉ rằng thầy không mấy cảm tình với cách mạng, mà bản thân mình lại là kẻ theo kháng chiến trở về.

Thời may ba mươi lăm thủ pháp ứng xử có thủ pháp "đánh gió", nghĩa là có đến bao nhiêu đòn cũng không trúng quân mình. Chính quyển sách Quốc văn giáo khoa thư học từ thời để chỏm tái hiện đúng lúc để cứu tôi. Tôi tiếp lời thầy:

- Thưa thầy Con là Camot đây. Con nhớ thầy và đến để thăm thầy... . Thầy lại ngẩng nhìn tôi, vẫn chưa mỉm cười, nhưng sắc diện không như lúc mới đến. Có lẽ đang tái hiện trước mắt thầy thằng học trò nghịch ngợm thường bị thầy cho đứng úp mặt vào vách, vì tôi hay nhìn chùm me dốt bên ngoài cửa sổ.

Ngồi đi!

- Thưa thầy, năm 1975 về Mỹ Tho con đến nhà tìm thầy, nhưng thầy đã đổi chỗ, biết tìm đâu. Sáng nay, tình cờ gặp cô Muội cũng học lớp của thầy cho biết, con lập tức đến ngay. Mừng quá!

Thầy đưa tay cho tôi ngưng lời, nhìn ra ngõ, chỉ tay xuống bàn ra hiệu. Không lâu sau, anh con trai bưng vô cho một ly cà phê sữa.

Tôi nhẹ nhõm trong lòng, khoảng cách bốn mươi lăm năm như xích lại gần. Tôi nhắc kỷ niệm:

- Thầy cho uống cà phê, con chợt nhớ thầy rất thích ăn bánh sầu riêng.

A, anh nhớ lâu thật. . .

-  Hồi ấy, đến mùa sầu riêng, trước giờ ra chơi buổi chiều thầy thường gọi con: "Viens ici!" (lại đây). Con lên bục... để nhận tiền thầy đưa, đạp chiếc alcyon của thầy ra phố, chạy một vòng ra cầu tàu lục tỉnh cho thích, sau đó mới vào Tiểu Hương Tửu Lầu mua về hai cái bánh sầu riêng gói giấy nhật trình còn nóng hổi. Thầy chia cho con một cái, ra chơi con rút dưới gầm cầu thang ăn khoái chí!... Và đến chiều, tan giờ học, thầy giao cho mang sổ sách về nhà, thấy thầy ghi cho huit points (tám điểm) mà không có phải trả bài gì sất.

Thầy mỉm cười:

- Thì chẳng phải anh redoublant (lưu ban), đã trả bài từ năm trước rồi sao? Mà này! Tôi quên hỏi anh Bảy mất trong trường hợp nào? Tôi ở thành vẫn được nghe phong thanh (chẳng cha tôi cũng là giáo viên đồng nghiệp).

- Cha con vào bưng dạy trường Văn Chính, không phải dạy học trò để chỏm, mà dạy cán bộ người lớn. Thưa thầy, dân ta rất nhiều người không được học. Cha con mất năm 1970, huyết áp cao ngã trên mô đất đào, vì lúc ấy nghèo quá cha con phải đào mương lên liếp làm thuê cho người ta lấy tiền nuôi các em con.

-  Tội nghiệp anh Bảy.

Sợ thầy mất vui, tôi nhắc đến học trò cũ của thầy:

- Thầy nhớ thằng Huệ không, cũng như con, nó vẫn muốn được gặp thầy. Thằng Huệ "rệp" ấy.

Sao lại gọi là "rệp"?

Chuyện này có khi nhà sinh vật học không biết nhưng học trò biết. Bàn ghế nhà trường rất nhiều rệp. Rệp trăm nhà học trò mang đến, lại được hút máu con nít rất bổ béo nên sinh sôi rất nhanh. Qua hai tháng bãi trường, con nào con nấy đói meo - lạ là chúng không chết. Trước khi nhập học, thầy bắt cả lớp phải diệt rệp mới cho vào ngồi. Chúng tôi lấy que khều chúng ra từ trong kẽ gỗ, con nào con nấy khô rang mỏng dính như bánh tráng, màu vàng vàng, dẹp đép, trong suốt như những mảnh xác khô, thổi nhẹ đã bay - tưởng đâu không còn tí tẹo sự sống. Ấy vậy mà đưa đầu ngón tay đến gần, nghe hơi người lập tức những đôi chân nhỏ xíu lại ngo ngoe thăm dò. Đưa gần nữa, lập tức bám lấy hút lấy hút để, no căng đỏ thẫm, sổng ra bò rất nhanh chui xuống kẹt.

Sau lần tổng vệ sinh, bỗng dưng vài ngày sau, hai cô học sinh nữ gãi sồn sột, đem một cái lọ bên trong còn sót vài cái xác rệp lên mách với thầy. Trò nào đó đã các cớ gom xác rệp cho vào góc tủ của hai cô, cả đám giặc đói xông bu đốt hai cô gái bằng thích.

Thầy đưa ve chai lên hỏi ai là thủ phạm và rất giận vì cả lớp im như thóc. Thầy bảo:

- Đáng lý tôi phạt cả lớp, nhưng tôi để chiếc ve chai ở đây

- Thầy đặt xuống trước bàn

- Tôi để đây không ai được lấy đi, để đến khi nào có người nhận tội. . . tôi muốn em nào đó đừng để suốt đời bị ám ảnh rằng mình là kẻ hèn, dám làm không dám chịu . . . không đáng nhân cách làm học trò tôi!

Sau hơn một tuần, ngày nào cũng bị hình ảnh chiếc ve chai ám ảnh, chịu đựng không thấu thằng Huệ về nhà khóc rấm rứt, ba nó khăn đóng áo dài dắt con đến nhà thầy để cậu quý tử tạ tội.

Nghe xong, thầy bảo:

Trò Huệ? Con ông vựa cá bên bến tắm ngựa phải không?

- Dạ đúng! Cậu ấy bây giờ nên thân lắm, thuyền trưởng tàu biển! Giờ về hưu rồi. Nó vẫn nhắc thầy luôn.

- Năm nay anh bao nhiêu tuổi?

- Dạ thưa thầy con sáu mươi lăm. Tuổi con rắn nhưng mà rắn nước, hiền lắm!

-  Sao lại là rắn nước?

- Dạ hồi trước thầy dạy con phải như vậy.

- Tôi dạy anh cái gì về rắn?

- Dạ? Con rắn cắn Jean Fréron...

- A ! Tên này nhớ lâu thật.

Bài đó không có trong chương trình sơ học, phải lên cấp cao mới học. Bữa ấy tôi giận thầy Mậu lớp D. Ông ấy độc miệng lắm, khích bác tôi trước các thầy, nên tôi về lớp cho các trò chép bài ấy...

Và thầy cất giọng đọc:

L’ autre jour, au fond  d’un vallon

Un serpent piqua Jean Fréron

Que pensez-vous qu‘ il arriva ?

Ce fut le serpent qui creva(l).

Vậy đó, trên đời miệng lưỡi con người độc hơn miệng rắn độc. Ông Voltaire làm thơ nhiều ngụ ý... Mà này, anh vẫn chưa nói cho tôi, thoát ly mấy mươi năm anh làm chức gì?

- Dạ con đi nuôi ong thôi ! Không có chức. Dạ, tuổi con rắn nhưng sinh vào giờ mùi.

- Nghĩa là sao?

- Người ta định đề bạt con lên một cấp, con lại phạm vào giờ mùi, nên lại bị đánh tụt xuống một cấp.

- À ! Trong cách mạng, người ta nghiêm khắc cái chuyện ấy. Vậy có buồn không ?

- Dạ vui vẻ là liều thuốc sống.

- Không nản à?

- Dạ ! Vấp ngã thì lồm cồm ngồi dậy đi nữa. Không lẽ nằm mọp luôn.

- Giỏi đấy! Nhưng đi nữa bằng cách nào?

- Biết chấp nhận thực tế - thích ứng và hội nhập.

- Làm sao để thích ứng ? Nói nghe coi?

- Dạ ! Cuộc đời nó gặm nhắm chúng ta, nó còn chép miệng khen ngon, tội gì mình phụ họa với nó để làm mình buồn thêm? Số phận, condition humaine - tôi ngứa miệng xùy Liếng Tây ta - mỗi người một khác, nếu cả nghìn tỉ người trên thế giới không biết tự thích nghi với hoàn cảnh, thế giới này loạn mất. Thứ hai, để thích ứng, phải có cái nghề để tự nuôi sống và trả nợ cơm áo cho xã hội (payer la dette sociale), thầy đã dạy con như vậy. Con bây giờ làm nghề nuôi ong, không dám nào, tiện đây còn đem mật ong, cây nhà lá vườn, tay con làm ra đến biếu gia đình, xin thầy vui lòng.

- Cám ơn ! Anh giỏi đấy. Có được cho mình một cái nghề, còn tôi đây sau khi về hưu, ngoài ba cái giáo điều trên bục giảng, moi, je n’ ai rien entre mes deux cuisses (tôi chẳng có gì giữa hai bắp vế) .

- Dạ thưa, còn chưa hiểu ý thầy. Thầy nói tiếp:

- Sách vở thánh hiền đọc hàng pho, đi đâu cũng tự hào rằng mình là bậc trí giả, ngoài ba cái giáo điều cóc có thực tế, không năng động, cũng chẳng có sức bật, đá phòng ngự thôi chứ không dám tiến công đột phá, làm chủ gia đình thì con cái xác xơ, giao cho làm nhà nước thì quốc gia chỉ có mạt.

Tôi biết thầy ví von để ám chỉ thực tế đạm bạc của mình: vợ chồng già, con đạp xích lô, ngôi nhà cũ kỹ... Tôi vội đỡ lời :

- Dạ thưa thầy, không phải giáo điều đâu ạ! Học trò của thầy hàng ngàn đứa đi kháng chiến hoặc lập nghiệp ở năm châu bốn bể. Hiểu vậy mới là chân lý. Ấy chết, con lại nói chính trị rồi . . .

- Không sao, không nói là không nói thứ chính trị nhăng nhăng khó nghe kia. Chứ không có chính trị để mất nước à?

Bụng tôi mừng rơn, vì thầy trò tôi đã tìm được điểm tương đồng để tâm đắc:

- Thưa thầy, ba năm học, những gì thầy gieo vào đầu óc thời non trẻ con vẫn nhập tâm. Lúc nào con làm đúng là con  thành, lúc nào con làm sai là thất bại. Tuổi đời càng chồng chất càng thấm thía bài học của thầy về nhân cách.

Nghe hai chữ nhân cách, bất giác thầy ngẩng lên nhìn thẳng. Bốn mươi lăm rồi tôi mới được thầy tái hiện nguyên mẫu thầy Đức trên bục giảng thuở nào:

- Phải rồi! - câu tiếp theo thầy nói nguyên văn tiếng Pháp rất chuẩn, bàn nay nắm lại chỉ thẳng một ngón về phía trước Qui perd sa digité, perd tout (mất nhân cách là mất tất cả).

Hai âm p của từ perd (mất) - thầy mím môi phát âm nghe sốc dậy cả cuộc đời.

***

Tôi từ giã thầy, chào cô và anh con trai xích lô ra về, sau khi hẹn gặp lại. Lên xe, đạp một đỗi tôi nhủ thầm :

May quá  Hôm nay mình đi thăm thầy bằng xe đạp... 

TTCN, 29-9-1996 

(1) Tam dịch nghĩa:  Ngày kia dưới thung lũng sâu một con rắn cắn Jean Fréron. Biết việc gì xảy đến không? Người không chết, mà chính con rắn lăn ra chết. .

Bài liên quan
  • TRI KỶ - Truyện ngắn Thanh Châu

    TRI KỶ - Truyện ngắn Thanh Châu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Tri kỷ là truyện ngắn hóm hỉnh, hơi khác so với các tác phẩm trữ tình lãng mạn vốn xuyên suốt các tác phẩm của nhà văn Thanh Châu. Truyện, góp phần tạo ra một Thanh Châu đa dạng, tài năng, không hẳn chỉ là "một con dế chuyên kể đẹp chuyện đêm khuya” như nhà văn tự nhận.
  • NHẬT KÝ Ở RỪNG – Nam Cao

    NHẬT KÝ Ở RỪNG – Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: “Sống đã rồi hãy viết… góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn…” là một tuyên ngôn về văn chương trích từ Đường Vô Nam và Nhật ký Ở rừng, được khắc trên trang sách bên phải bằng đá tại khu lưu niệm về nhà văn Nam Cao tại làng Đại Hoàng, Hà Nam. Nhật ký Ở rừng cũng là một trong các tác phẩm xuất sắc của ông được Nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.
  • CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: CHUYỆN Ở BẢN PIÁT là một trong chùm ba truyện ngắn của nhà văn Tuyên Quang “viết văn phải có văn” Vũ Xuân Tửu, thắng Giải Nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2005-2006.
  • MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Một bữa no là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 480, ngày 25 tháng Chín năm 1943. Tác phẩm, là một tiếng kêu cứu về nhân cách của người dân Nước Nam đang bị sự bần cùng, cái đói, cái rét, do thực dân Pháp tạo ra, hủy diệt.
  • NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nắng trong vườn là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Thạch Lam, Đời Nay xuất bản năm 1938.
  • HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai hào là truyện ngắn trong tập truyện đầu tay Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích của nhà văn Lê Văn Trương, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934.
  • TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trẻ con không được ăn thịt chó là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao, in lần đầu trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 444, 19 Tháng Mười Hai 1942.
  • CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chim khách kêu là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Kiên, được trao giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 và giải thưởng Văn học Đông Nam Á (Thái Lan) năm 2002.
  • ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Đôi mắt là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao in lần đầu trên Văn Nghệ số 2 năm 1948. Đây là một trong những tác phẩm giá trị nhất của nhà văn Nam Cao. Năm 1996, ông đã được nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I cho truyện ngắn nói trên cùng với các tác phẩm Nhật ký Ở rừng, Chí Phèo và Sống mòn.
  • TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trước cảnh hoang tàn đế thiên đế thích là truyện ngắn in trong tập truyện ngắn đầu tay cùng tên của nhà văn Lê Văn Trương, gồm 11 tác phẩm, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934. Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964) được xem là nhà văn có số lượng tác phẩm lớn nhất Việt Nam với 200 tác phẩm đã in và 40 tác phẩm chưa in bao gồm truyện ngắn và tiểu thuyết. Lê Văn Trương là thành thành viên quan trọng hàng đầu của nhà xuất bản Tân Dân, cùng với các nhà văn nổi tiếng như Tản Đà, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Lan Khai, Thanh Châu, Ngọc Giao, Tchya Đái Đức Tuấn, Trần Huyền Trân, Nam Cao, Bùi Hiển…