chan_dung-ke_si

HỌC TRÒ GIÀ – Truyện ngắn Trần Kim Trắc

20-09-2024

Lượt xem 1524

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Trần Kim Trắc

HỌC TRÒ GIÀ – Truyện ngắn Trần Kim Trắc

Nhà văn Trần Kim Trắc (1929-2018)

Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà văn quê gốc Chợ Gạo Trần Kim Trắc, còn được biết đến với tên gọi Ông Thiềm Thừ, theo tên một truyện ngắn xuất sắc của ông, là một trong những cây đại thụ của văn chương Nam Bộ. Truyện nào của ông, cũng như gieo những cơn mưa Nam Bộ, thấm đẫm từng trải và bạt ngàn vốn sống lên văn đàn.

Đi biền biệt ba mươi năm, được trở về Mỹ Tho, sau khi đoàn tụ với gia đinh, việc đầu tiên của tôi là tìm  thăm thầy, ông giáo Đức, đẹp trai nhất trường, ai cũng phải ngắm khi thầy thong dong trên chiếc xe alcyon màu đen, lốp confort màu trắng, tóc chải láng mượt, quần tussor sơ mi trắng, phong thái vừa văn minh vừa quý phái. Trẻ chúng tôi rất tự hào vì được là học trò của người thầy phong lưu nhất tỉnh.

Ngôi nhà của thầy ngày trước vẫn còn đó nhưng đã đổi chủ. Tôi lần dò sang các nhà lân cận và các khu phố, người quen biết thầy trước kia không còn bao nhiêu, chỉ biết rằng sau khi tỉnh ly thất thủ năm 1945, thầy đã chuyển đi xứ khác, nghe nói lên Sài Gòn. Làm sao tìm được thầy giữa rừng người đô hội.

Tôi học thầy ba năm. Một năm lớp moyen. Năm sau thầy được cất nhắc lên dạy lớp nhứt, tôi lên theo như duyên phận thầy trò sắp sẵn. Học năm đầu tiên, đi thi tuyển vào trường Collège (trung học), đọc danh sách tôi trúng tuyển môn viết; chỉ còn môn oral (hạch miệng) là đỗ nhưng buồn cảnh gia đình sau khi mẹ mất, tôi bỏ không thi hạch miệng. Tất nhiên là tôi bị cha dần cho một trận vì cái tính trái gió trở trời và bắt trở lại trường lớp cũ thêm một năm nữa. Cao lêu đêu hơn bạn bè mới cùng lớp một nửa cái đầu, xếp hàng đứng cuối, ngồi bàn cuối, xấu hổ, nhưng xếp hạng là người "major", tôi đáng mặt là đại ca của sư môn.

Mười bốn năm sau, tình cờ gặp chị bạn học cùng lớp. Trường primaire hồi ấy là của con trai, nhưng đặc biệt lớp tôi có hai trò gái. Một cô tên là Huệ, con ông đốc tờ, có lẽ ông đốc tờ mến mộ tài phát âm tiếng Pháp rất ư là Tây của thầy nên xin ưu tiên đặc biệt cho cô con gái rượu theo học. Còn cô bạn gặp tôi là Muội, cha Hoa, mẹ Việt, do cô Huệ vòi vĩnh phải có bạn gái với nhau mới dám đơn phương xông pha vào chốn nhất quỷ nhì ma, nên được "ăn theo".

Cô Muội chỉ tôi nơi ở của thầy. Mừng quá, tôi quơ hai chai mật ong làm quà, vội vàng lấy xe đến thăm thầy.

Nhà thầy ở một gian giữa dãy phố trệt. Hồi ấy mới có kinh tế mở nên chỉ có vài quán cà phê hoặc tiệm sửa xe. Từng căn phố ngăn cách bằng rào gỗ. Khoảng trống trước nhà có chiếc xe xích lô đang kê nghiêng để vá bánh. Anh xích lô hao hao giống nên đoán biết là con thầy. Sát vách kê một cái phản nhỏ, một bà lão đang ngồi. Cô không nhận ra tôi, nhưng sơn đình còn lưu dấu thời thiếu nữ đã từng lọt vào mắt xanh ông giáo trường tỉnh.

Tôi chào hỏi và trình bày ý định học trò thăm thầy. Anh con trai vào trong, trở ra mời vào.

Nhìn vào trong, tôi thấy thầy thay áo, bộ pijama của thầy đã ngả màu theo thời gian. Thầy đã già yếu, bước từ từ ra, vừa đi vừa cài nốt nút áo cuối cùng, dáng vẻ vẫn cao đạo, tự tin, có chút lạnh lùng. Tôi lễ phép cúi chào.

Thưa thầy! Con đến thăm thầy.

Thầy đưa tay cho tôi bắt, chưa hề bộc lộ thoáng buồn vui và không để cho tôi chờ đợi. Thầy bất ngờ giáng cho tôi một câu (Có lẽ vì trước đây có trò nào đó đã đến thăm thầy trước ' tôi và nói cách mạng sơ giản với thầy):

Tôi không thích nói chính trị à nghe ! . . .

Tôi bị cú bất ngờ choáng váng, chưa lường trước được thái độ của ông già ra sao đây ? Không thích nói chính trị phải chăng ám chỉ rằng thầy không mấy cảm tình với cách mạng, mà bản thân mình lại là kẻ theo kháng chiến trở về.

Thời may ba mươi lăm thủ pháp ứng xử có thủ pháp "đánh gió", nghĩa là có đến bao nhiêu đòn cũng không trúng quân mình. Chính quyển sách Quốc văn giáo khoa thư học từ thời để chỏm tái hiện đúng lúc để cứu tôi. Tôi tiếp lời thầy:

- Thưa thầy Con là Camot đây. Con nhớ thầy và đến để thăm thầy... . Thầy lại ngẩng nhìn tôi, vẫn chưa mỉm cười, nhưng sắc diện không như lúc mới đến. Có lẽ đang tái hiện trước mắt thầy thằng học trò nghịch ngợm thường bị thầy cho đứng úp mặt vào vách, vì tôi hay nhìn chùm me dốt bên ngoài cửa sổ.

Ngồi đi!

- Thưa thầy, năm 1975 về Mỹ Tho con đến nhà tìm thầy, nhưng thầy đã đổi chỗ, biết tìm đâu. Sáng nay, tình cờ gặp cô Muội cũng học lớp của thầy cho biết, con lập tức đến ngay. Mừng quá!

Thầy đưa tay cho tôi ngưng lời, nhìn ra ngõ, chỉ tay xuống bàn ra hiệu. Không lâu sau, anh con trai bưng vô cho một ly cà phê sữa.

Tôi nhẹ nhõm trong lòng, khoảng cách bốn mươi lăm năm như xích lại gần. Tôi nhắc kỷ niệm:

- Thầy cho uống cà phê, con chợt nhớ thầy rất thích ăn bánh sầu riêng.

A, anh nhớ lâu thật. . .

-  Hồi ấy, đến mùa sầu riêng, trước giờ ra chơi buổi chiều thầy thường gọi con: "Viens ici!" (lại đây). Con lên bục... để nhận tiền thầy đưa, đạp chiếc alcyon của thầy ra phố, chạy một vòng ra cầu tàu lục tỉnh cho thích, sau đó mới vào Tiểu Hương Tửu Lầu mua về hai cái bánh sầu riêng gói giấy nhật trình còn nóng hổi. Thầy chia cho con một cái, ra chơi con rút dưới gầm cầu thang ăn khoái chí!... Và đến chiều, tan giờ học, thầy giao cho mang sổ sách về nhà, thấy thầy ghi cho huit points (tám điểm) mà không có phải trả bài gì sất.

Thầy mỉm cười:

- Thì chẳng phải anh redoublant (lưu ban), đã trả bài từ năm trước rồi sao? Mà này! Tôi quên hỏi anh Bảy mất trong trường hợp nào? Tôi ở thành vẫn được nghe phong thanh (chẳng cha tôi cũng là giáo viên đồng nghiệp).

- Cha con vào bưng dạy trường Văn Chính, không phải dạy học trò để chỏm, mà dạy cán bộ người lớn. Thưa thầy, dân ta rất nhiều người không được học. Cha con mất năm 1970, huyết áp cao ngã trên mô đất đào, vì lúc ấy nghèo quá cha con phải đào mương lên liếp làm thuê cho người ta lấy tiền nuôi các em con.

-  Tội nghiệp anh Bảy.

Sợ thầy mất vui, tôi nhắc đến học trò cũ của thầy:

- Thầy nhớ thằng Huệ không, cũng như con, nó vẫn muốn được gặp thầy. Thằng Huệ "rệp" ấy.

Sao lại gọi là "rệp"?

Chuyện này có khi nhà sinh vật học không biết nhưng học trò biết. Bàn ghế nhà trường rất nhiều rệp. Rệp trăm nhà học trò mang đến, lại được hút máu con nít rất bổ béo nên sinh sôi rất nhanh. Qua hai tháng bãi trường, con nào con nấy đói meo - lạ là chúng không chết. Trước khi nhập học, thầy bắt cả lớp phải diệt rệp mới cho vào ngồi. Chúng tôi lấy que khều chúng ra từ trong kẽ gỗ, con nào con nấy khô rang mỏng dính như bánh tráng, màu vàng vàng, dẹp đép, trong suốt như những mảnh xác khô, thổi nhẹ đã bay - tưởng đâu không còn tí tẹo sự sống. Ấy vậy mà đưa đầu ngón tay đến gần, nghe hơi người lập tức những đôi chân nhỏ xíu lại ngo ngoe thăm dò. Đưa gần nữa, lập tức bám lấy hút lấy hút để, no căng đỏ thẫm, sổng ra bò rất nhanh chui xuống kẹt.

Sau lần tổng vệ sinh, bỗng dưng vài ngày sau, hai cô học sinh nữ gãi sồn sột, đem một cái lọ bên trong còn sót vài cái xác rệp lên mách với thầy. Trò nào đó đã các cớ gom xác rệp cho vào góc tủ của hai cô, cả đám giặc đói xông bu đốt hai cô gái bằng thích.

Thầy đưa ve chai lên hỏi ai là thủ phạm và rất giận vì cả lớp im như thóc. Thầy bảo:

- Đáng lý tôi phạt cả lớp, nhưng tôi để chiếc ve chai ở đây

- Thầy đặt xuống trước bàn

- Tôi để đây không ai được lấy đi, để đến khi nào có người nhận tội. . . tôi muốn em nào đó đừng để suốt đời bị ám ảnh rằng mình là kẻ hèn, dám làm không dám chịu . . . không đáng nhân cách làm học trò tôi!

Sau hơn một tuần, ngày nào cũng bị hình ảnh chiếc ve chai ám ảnh, chịu đựng không thấu thằng Huệ về nhà khóc rấm rứt, ba nó khăn đóng áo dài dắt con đến nhà thầy để cậu quý tử tạ tội.

Nghe xong, thầy bảo:

Trò Huệ? Con ông vựa cá bên bến tắm ngựa phải không?

- Dạ đúng! Cậu ấy bây giờ nên thân lắm, thuyền trưởng tàu biển! Giờ về hưu rồi. Nó vẫn nhắc thầy luôn.

- Năm nay anh bao nhiêu tuổi?

- Dạ thưa thầy con sáu mươi lăm. Tuổi con rắn nhưng mà rắn nước, hiền lắm!

-  Sao lại là rắn nước?

- Dạ hồi trước thầy dạy con phải như vậy.

- Tôi dạy anh cái gì về rắn?

- Dạ? Con rắn cắn Jean Fréron...

- A ! Tên này nhớ lâu thật.

Bài đó không có trong chương trình sơ học, phải lên cấp cao mới học. Bữa ấy tôi giận thầy Mậu lớp D. Ông ấy độc miệng lắm, khích bác tôi trước các thầy, nên tôi về lớp cho các trò chép bài ấy...

Và thầy cất giọng đọc:

L’ autre jour, au fond  d’un vallon

Un serpent piqua Jean Fréron

Que pensez-vous qu‘ il arriva ?

Ce fut le serpent qui creva(l).

Vậy đó, trên đời miệng lưỡi con người độc hơn miệng rắn độc. Ông Voltaire làm thơ nhiều ngụ ý... Mà này, anh vẫn chưa nói cho tôi, thoát ly mấy mươi năm anh làm chức gì?

- Dạ con đi nuôi ong thôi ! Không có chức. Dạ, tuổi con rắn nhưng sinh vào giờ mùi.

- Nghĩa là sao?

- Người ta định đề bạt con lên một cấp, con lại phạm vào giờ mùi, nên lại bị đánh tụt xuống một cấp.

- À ! Trong cách mạng, người ta nghiêm khắc cái chuyện ấy. Vậy có buồn không ?

- Dạ vui vẻ là liều thuốc sống.

- Không nản à?

- Dạ ! Vấp ngã thì lồm cồm ngồi dậy đi nữa. Không lẽ nằm mọp luôn.

- Giỏi đấy! Nhưng đi nữa bằng cách nào?

- Biết chấp nhận thực tế - thích ứng và hội nhập.

- Làm sao để thích ứng ? Nói nghe coi?

- Dạ ! Cuộc đời nó gặm nhắm chúng ta, nó còn chép miệng khen ngon, tội gì mình phụ họa với nó để làm mình buồn thêm? Số phận, condition humaine - tôi ngứa miệng xùy Liếng Tây ta - mỗi người một khác, nếu cả nghìn tỉ người trên thế giới không biết tự thích nghi với hoàn cảnh, thế giới này loạn mất. Thứ hai, để thích ứng, phải có cái nghề để tự nuôi sống và trả nợ cơm áo cho xã hội (payer la dette sociale), thầy đã dạy con như vậy. Con bây giờ làm nghề nuôi ong, không dám nào, tiện đây còn đem mật ong, cây nhà lá vườn, tay con làm ra đến biếu gia đình, xin thầy vui lòng.

- Cám ơn ! Anh giỏi đấy. Có được cho mình một cái nghề, còn tôi đây sau khi về hưu, ngoài ba cái giáo điều trên bục giảng, moi, je n’ ai rien entre mes deux cuisses (tôi chẳng có gì giữa hai bắp vế) .

- Dạ thưa, còn chưa hiểu ý thầy. Thầy nói tiếp:

- Sách vở thánh hiền đọc hàng pho, đi đâu cũng tự hào rằng mình là bậc trí giả, ngoài ba cái giáo điều cóc có thực tế, không năng động, cũng chẳng có sức bật, đá phòng ngự thôi chứ không dám tiến công đột phá, làm chủ gia đình thì con cái xác xơ, giao cho làm nhà nước thì quốc gia chỉ có mạt.

Tôi biết thầy ví von để ám chỉ thực tế đạm bạc của mình: vợ chồng già, con đạp xích lô, ngôi nhà cũ kỹ... Tôi vội đỡ lời :

- Dạ thưa thầy, không phải giáo điều đâu ạ! Học trò của thầy hàng ngàn đứa đi kháng chiến hoặc lập nghiệp ở năm châu bốn bể. Hiểu vậy mới là chân lý. Ấy chết, con lại nói chính trị rồi . . .

- Không sao, không nói là không nói thứ chính trị nhăng nhăng khó nghe kia. Chứ không có chính trị để mất nước à?

Bụng tôi mừng rơn, vì thầy trò tôi đã tìm được điểm tương đồng để tâm đắc:

- Thưa thầy, ba năm học, những gì thầy gieo vào đầu óc thời non trẻ con vẫn nhập tâm. Lúc nào con làm đúng là con  thành, lúc nào con làm sai là thất bại. Tuổi đời càng chồng chất càng thấm thía bài học của thầy về nhân cách.

Nghe hai chữ nhân cách, bất giác thầy ngẩng lên nhìn thẳng. Bốn mươi lăm rồi tôi mới được thầy tái hiện nguyên mẫu thầy Đức trên bục giảng thuở nào:

- Phải rồi! - câu tiếp theo thầy nói nguyên văn tiếng Pháp rất chuẩn, bàn nay nắm lại chỉ thẳng một ngón về phía trước Qui perd sa digité, perd tout (mất nhân cách là mất tất cả).

Hai âm p của từ perd (mất) - thầy mím môi phát âm nghe sốc dậy cả cuộc đời.

***

Tôi từ giã thầy, chào cô và anh con trai xích lô ra về, sau khi hẹn gặp lại. Lên xe, đạp một đỗi tôi nhủ thầm :

May quá  Hôm nay mình đi thăm thầy bằng xe đạp... 

TTCN, 29-9-1996 

(1) Tam dịch nghĩa:  Ngày kia dưới thung lũng sâu một con rắn cắn Jean Fréron. Biết việc gì xảy đến không? Người không chết, mà chính con rắn lăn ra chết. .

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.