chan_dung-ke_si

HẠNH - Truyện ngắn Khái Hưng

08-02-2024

Lượt xem 1722

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Khái Hưng

HẠNH - Truyện ngắn Khái Hưng

Chân Dung Kẻ Sĩ: Hạnh là truyện ngắn nổi tiếng trong tập truyện cùng tên của nhà văn Khái Hưng in năm 1938. Hạnh không chỉ được độc giả yêu thích, văn đàn đánh giá cao, mà còn được coi là một tác phẩm đắc ý của chính nhà văn Khái Hưng.

 

Hạnh cho tên mình là một sự mỉa mai. Trong hơn hai mươi năm mang cái tên ấy, chàng không một lần nào gọi là gặp may, mà cũng chẳng bao giờ thực là sung sướng.

Ngay lúc ra đời Hạnh đã suýt bỏ mạng và suýt làm mẹ chết lây. Cha Hạnh mếu máo bảo thầy thuốc:

- Xin ông cố cứu lấy nhà tôi, không cần nghĩ đến cái thai.

Nhưng thầy thuốc cứu được cả hai mẹ con. Thế là Hạnh cất tiếng khóc, ra chào đời, để làm em ba anh và hai chị. Ông phán Hà bảo bà phán:

- Nó sống thực là một sự may, vậy đặt tên nó là Hạnh.

Vì thế mà tên chàng là Hạnh. Và có lẽ vì thế mà Hạnh bị ghét, bị ruồng rẫy, bị hành hạ. Bà phán như lúc nào cũng nhìn thấy phản chiếu trong gương mắt đứa con khốn nạn hình ảnh cái chết hụt của bà. Nhiều khi nghe Hạnh khóc lâu quá, bà sang buồng bèn mắng vú em:

- Mày không dỗ cho thằng ôn con nó nín được à?

Rồi cáu tiết bà giơ tay phát mạnh vào mông đứa bé và thét:

- Quý báu lắm đấy! Có câm mồm ngay không?

Sau khi bà phán hằn học quay đi, Hạnh lại nhận tiếp luôn cái phát thứ hai của vú em.

° ° °

Thời thơ ấu, Hạnh sống trong kinh khủng và lãnh đạm. Từ ông phán, bà phán cho chí năm anh chị, hai em bé và cả bọn người nhà, không ai ưa Hạnh hết. Người ta không hành hạ, đánh đập, trêu ghẹo Hạnh thì cũng để mặc Hạnh lủi thủi chơi ở xó vườn, hay ở một góc nhà. Hạnh chạy nhảy một mình, bày đình bày chùa một mình. Bọn anh em có đến gần thì cũng chỉ đấm đá Hạnh hay phá đình chùa của Hạnh.

Bản tính nhút nhát, nhút nhát vì sợ hãi. Hạnh lại ốm yếu, nên thường hay khóc, hay quấy. Vì thế người ta đặt cho Hạnh cái biệt hiệu “Thằng cu Nhè”. Rồi người ta chỉ gọi Hạnh bằng cái biệt hiệu ấy hầu như quên hẳn tên Hạnh.

Hạnh cho những bữa ăn là thứ hình phạt nặng nề. Ngồi vào mâm trước cha mẹ, anh em, Hạnh bị mẹ mắng: “Cái thằng cu Nhè chỉ háu ăn chẳng chờ đợi ai cả!” Câu nói ít khi không điểm một cái tát hay một cái cốc nên thân. Chậm chạp đến sau hết mọi người, Hạnh cũng chẳng tránh thoát câu mỉa mai: “Gớm thằng cu Nhè dềnh dàng mãi, còn định để người ta mời nữa hay sao?” Lúc ăn hình như ông Phán chỉ để ý đến Hạnh, bắt bẻ cách cầm đũa, bát cách gắp: “Ăn gì mà ăn ngốn ngấu thế?” Hay: “Thằng Hạnh gắp mãi một dĩa giò; thôi để nhường cho em”. Sự thực, những món ngon ít khi Hạnh được ăn đến hai miếng.

Rồi Hạnh đi học. Buổi đầu Hạnh học ở nhà. Ông Phán mượn một người đỗ bằng tiểu học dạy các con. Hạnh chăm chỉ chẳng kém anh em mà lại còn phần thông minh hơn ai hết. Nhưng thầy giáo chẳng bao giờ để ý đến Hạnh.

Các anh em Hạnh được một điểm tốt thì thầy giáo trầm trồ khen ngợi. Ở bài của Hạnh, cái điểm tốt ấy sẽ rất thường, không đáng kể. Nhưng trái lại, nếu Hạnh vì hôm trước mệt nên không thuộc bài, thì thế nào cái thước kẻ cũng gõ lên đầu hay dằn lên tay Hạnh. Những trò khác gặp trường hợp ấy chỉ bị mắng mấy câu qua loa, hay bị phạt chép lại hai, ba lần bài học là cùng.

Ra trường Hạnh cũng chẳng sung sướng hơn. Vì bẽn lẽn, nhút nhát, Hạnh không tỏ ra được với ông giáo cái sức học khá và cái thông minh vững chãi của mình. Thành thử Hạnh bị lẫn trong đám học trò xoàng. Kỳ thi hàng tháng Hạnh có nhất được vài bài, người ta cho ngay là một sự may. Còn khi Hạnh để cho người láng giềng chép bài thi của mình thì lúc chấm thầy giáo không phải ngờ vực gì nữa: kẻ chép bài là Hạnh. Nếu Hạnh cho không cho hắn dòm bài làm thì sẽ bị hắn hành hạ khổ sở ngày vì ở lớp và ở trường Hạnh không vây cánh, không bạn thân. Hạnh là một trò ít lời, ít vui cười đùa bỡn, ít có ác cảm nhưng cũng ít có thiện cảm với hết thẩy mọi người.

Năm mười ba, Hạnh đậu bằng cơ thủy cùng với hai anh, hơn Hạnh hai và một tuổi. Lúc về nhà, ông phán bà phán xoắn suýt hỏi thăm và khen ngợi hai con lớn. Mãi về sau ông phán mới biết tin Hạnh trúng tuyển. Ông kinh ngạc kêu:

- Thằng Hạnh cũng đi thi cơ đấy à?

Sau bốn năm cần cù, học tập - bốn năm lạnh lùng, tẻ ngắt, không được tình bè bạn hay tình anh em an ủi, vỗ về - Hạnh thi đậu luôn hai bằng thành chung và trung đẳng tiểu học.

Được bổ giáo học, Hạnh dạy ở một trường huyện, về miền trung du. Trong ba bốn năm, đời chàng lạnh lùng, tẻ ngắt như xưa, không bè bạn, không tình ái, không cả yêu mến của bọn học trò nhà quê.

° ° °

Nhưng một hôm, Hạnh gặp nạn. Xuống một cái dốc dài, và trơn vì trời mưa, xe đạp của chàng trượt bánh văng chàng vào sườn đồi. Và chàng ngất đi...

Tỉnh dậy, trong làn không khí sặc mùi esther, Hạnh thấy mình nằm trên chiếc giường nệm, trong một gian phòng ấm áp, có lửa cháy trong lò sưởi. Sờ tay lên đầu, vì đầu chàng vừa đau, vừa nhức, chàng thấy có vải quấn chằng chịt. Bấy giờ chàng mới nhớ ra rằng mình ngã xe đạp, và đoán chừng người ta khiêng mình đến đây, một bệnh viện, hay một nơi cấp cứu bên đường.

Gần giường, một cái giá gỗ với chậu nước đầy, chiếc khăn bông trắng và bánh xà phòng đựng trong hộp sắt nhẹ. Trên mặt bàn ngủ, ba bốn lọ thuốc có dán nhãn đỏ. Hạnh hiểu ngay rằng người ta vừa băng bó cho mình xong. Chàng toan gọi người vào để hỏi xem mình ở đâu. Nhưng bản tính nhút nhát và do dự, chàng lại thôi, nằm im lặng nhìn hết vật nọ đến vật kia.

Qua cánh cửa sổ mở bụi mưa phùn, cảnh bên ngoài mịt mùng u ám. Hình như đó là một cái vườn cây cối um tùm. Bỗng hai cánh cửa sổ đóng hờ mở tung ra. Một luồng gió lạnh tạt mưa vào phòng, và thổi rạt chiếc màn ren treo ở cửa phòng. Hạnh định ngồi dậy nhưng mình mẩy đau ran, không sao nhúc nhích được. Chàng gọi:

- Có ai đấy không?

Không có tiếng đáp lại. Cái nhà như không người ở. Hạnh ngờ rằng tiếng mình nhỏ quá, liền cao giọng gọi một lần nữa. Vẫn im bặt. Luồng gió lạnh vẫn từng cơn thổi thốc vào phòng. Một cành cam với những quả rám đỏ lọt qua khung cửa rủ vào phía trong. Hạnh quên cả gió mưa, mắt đăm đăm nhìn. Chàng nghĩ thầm: “Giá được ăn một quả!” Và đã khát sẵn chàng lại càng thấy khát.

- Cô lên xem ông ấy đã tỉnh chưa?

Bất giác Hạnh mỉm cười. Chàng vừa nhận thấy tiếng một thiếu phụ mà chàng đoán chắc rằng xinh lắm. Tiếng trong trẻo của một thiếu nữ trẻ hơn đáp lại:

- Chị lên, em sợ lắm.

Người chị gắt:

- Sao mà nhát thế? Sợ cái gì kia chứ?

- Em sợ ông ấy chết rồi.

Hạnh không nhịn được bật cười. Chàng nói một mình: “Chết cái quái thế nào được!” Và nhìn cửa phòng, chờ đợi...

Lát sau, một người vén rèm bước vào kêu:

- Chết chưa?

Rồi vội vàng đóng cửa kính lại. Hạnh yên trí người ấy là một cô khán hộ, tuy cho rằng cô khán hộ trẻ quá, chỉ độ mười sáu, mười bảy tuổi.

- Thưa cô, cô làm ơn cho tôi xin một chén nước. Tôi khát lắm.

Thiếu nữ quay lại, vui mừng:

- Ồ! Ông đã tỉnh!

- Thưa cô, tôi ngất đi?

- Vâng ông ngất đi, mà tôi tưởng ông...

Thấy thiếu nữ ngập ngừng, Hạnh lo lắng nói tiếp:

- Cô tưởng tôi chết, phải không? Ông đốc bảo bệnh tôi nguy kịch, phải không?

- Không, anh tôi đi mời đốc tờ đã về đâu?

Hạnh ngơ ngác hỏi:

- Vậy đây không phải là nhà thương?

- Không ạ, đây là đồn điền của anh tôi, ông ngã xe đạp ở gần đây, anh tôi đi thăm ruộng bắt gặp, cho khiêng ông về, rồi ra tỉnh mời đốc tờ. Thưa ông; ông đã dễ chịu chưa?

- Cám ơn cô. Đầu tôi còn nhức lắm.

- Vâng, đầu ông vỡ, chảy nhiều máu lắm. Nhưng chân tay không gẫy, anh tôi bảo thế.

Không bao giờ Hạnh lại bạo dạn như thế, dám nói chuyện rất lâu với một người con gái lạ. Có lẽ trường hợp đặc biệt này khiến chàng quên được cái tính thẹn thùng cố hữu của chàng. Nhưng một phần cũng nhờ ở cái dung nhan trung bình và hiền lành của thiếu nữ.

Sau mấy giây yên lặng khó chịu Hạnh ngập ngừng hỏi cho có truyện:

- Thưa cô, vậy cái băng ở đầu tôi không phải ông đốc tờ quấn?

- Thưa ông, chị tôi quấn đấy ạ. Chị tôi trước làm bà đỡ.

Rồi chừng cho đứng một mình nói chuyện với khách lạ là một điều bất tiện, thiếu nữ cúi đầu chào, đi ra khỏi phòng. Hạnh nghe thấy tiếng guốc ở nhà dưới đi lên rồi tiếng thiếu nữ bảo chị ở phòng bên:

- Ông ta đã tỉnh đấy chị ạ.

Người chị vui mừng đáp lại:

- Thế à? Lan có nhớ dặn ông ấy nằm im đừng động đậy để chờ ông đốc đến tiêm không?

- Em quên... Mà ông ấy kêu khát em cũng quên rót nước cho ông ấy nữa.

Cả hai cùng vào phòng. Người đàn bà nhỏ nhắn, vào trạc ba mươi tuổi. Da trắng hồng. Dưới đôi mi bán nguyệt hai con mắt sáng ngời cười nhìn thẳng vào mặt Hạnh, khiến mắt chàng lim dim nhắm lại.

- Thưa ông, ông không hề gì hết, lát nữa ông đốc đến tiêm cho ông một phát antitétanique là không lo gì hết. Ông ngất đi chỉ vì mất nhiều máu... Nhưng không sao.

Thiếu phụ đặt ghế ngồi liền bên giường trong khi Lan rót một cốc nước chè nụ nóng đem lại. Hạnh toan ngồi dậy đỡ lấy. Nhưng thiếu phụ vội kêu:

- Ấy, không ngồi được dâu.

Rồi tay phải nàng từ từ nâng đầu Hạnh lên, tay trái cầm cốc nước ghé vào môi chàng.

- Ông nên uống thong thả.

Lần đầu trong đời, Hạnh được chăm nom dịu dàng, hơn thế, được tay một người đàn bà mơn trớn. Chàng sung sướng chảy nước mắt.

Thiếu phụ khẽ hỏi:

- Ông còn đau lắm?

Hạnh nghẹn ngào đáp:

- Không... Cảm ơn... bà.

Nửa giờ sau, chủ đồn điền và thầy thuốc tới nơi. Nghe tiếng còi điện ô-tô người em gái chạy vội ra cổng. Hạnh nghe có tiếng hỏi ngoài đường:

- Thế nào, em Lan, ông ta đã tỉnh chưa?

Và tiếng Lan vui mừng đáp lại:

- Thưa anh, đã. Em cứ lo ông ấy chết.

Giọng cười thản nhiên của hai người đàn ông làm Hạnh hơi khó chịu. Chàng chau mày lim dim nhắm mắt. Tiếng cười nói mỗi lúc một gần thêm. Hạnh nghe rõ họ bàn chuyện săn bắn rồi chuyện tổ tôm. Một mẫu thời xưa vụt hiện trong ký ức Hạnh:

Chàng thấy mình ốm li bì, nằm trong một gian buồng tối. Bên ngoài là phòng khách. Ở đó cha mẹ chàng đương đánh tổ tôm với bạn hữu. Ai nấy nói oang oang. Rồi đêm khuya người ta ăn cháo gà nóng. Tiếng thìa, đũa chạm bát lách cách. Người ta kể những chuyện khôi hài. Và người ta thét lên cười vui thú. Hạnh mệt hơn là đau, nhưng cũng rên mấy tiếng để bên ngoài người ta biết rằng mình đang ốm. Song chẳng ai lưu ý tới.

Tiếng giầy vào phòng kéo Hạnh về hiện tại. Hạnh tưởng là ông thầy thuốc, nhưng đó chỉ là bà chủ đồn điền.

- Ông đốc đã đến. Sắp thăm ông đấy.

Hạnh ấp úng:

- Cảm ơn bà.

Rồi thấy hai người đàn bà nhìn mình mỉm cười, chàng bẽn lẽn nhắm mắt nằm chờ.

- Ông vẫn còn mệt và đau lắm phải không?

Hạnh mở mắt ra, nhưng nhìn thẳng xuống chân:

- Thưa bà, cũng không đau lắm.

Gót giầy cồm cộp nện. Hạnh nghĩ thầm:

- Chuyến này thì hẳn là ông đốc.

Quả thực đó là ông thầy thuốc, một người to lớn, khỏe mạnh, da ngăm ngăm đen. Hạnh lo lắng nhìn cái rọc thuốc lá bằng ngà rất dài mà ông ta ngậm lệch ở một bên miệng, tưởng chừng lửa ở đầu điếu thuốc sắp dí vào trán ông chủ đồn điền đứng đối diện; vì ông này người thấp bé chỉ cao đến mũi ông thầy thuốc.

- Ngã xe đạp?

Hạnh không đáp, tưởng ông thầy thuốc không hỏi mình, nhất lại thấy ông ta quay ra phía cửa sổ.

- Vâng, ông ấy ngã xe đạp.

Hạnh ngước mắt nhìn bà chủ như để cám ơn bà đã trả lời giúp mình.

- Ông ngồi dậy.

Thấy Hạnh ngần ngừ, ông thầy thuốc hỏi luôn:

- Có ngồi được không?

- Được ạ.

Người thiếu phụ vội nói.

- Ông ấy đau lắm, vì vết thương khá nặng...

- Để tôi đỡ ông ấy dậy.

Hạnh kinh hoảng ngồi chồm lên. Ông thầy thuốc yên lặng tháo băng ra xem, lấy tay nắn chỗ đau:

- Không vỡ sọ... không hề gì... Ông đã rửa ether?

Bà chủ đáp:

- Vâng.

- Thế thì tốt lắm rồi. Bây giờ tôi tiêm cho ông một phát huile camphrée và một phát anti-tétanique là không lo ngại gì nữa... Đến mai sẽ lại lên xe đạp phóng nước đại như thường.

Hạnh mỉm cười vơ vẩn.

- Ông làm gì?

- Bẩm... tôi làm giáo học ở trường Huyện.

- Huyện đây?

- Vâng.

- Ông đi xe đạp về tỉnh. Được nghỉ lễ Noel?

- Vâng.

Vừa nói ông thầy thuốc vừa quấn băng lại như cũ. Đoạn mở cái va-li con lấy ra một cái ống tiêm và hai ống thuốc. Tức thì bà chủ nhà đã nhanh nhẹn đặt lên bàn cái bếp rượu mạnh rồi mở cửa sổ nói xuống nhà dưới:

- Lan ơi, lấy cho chị cái xoong đun sữa nhé.

Tiếng Lan đáp:

- Có lấy nước không, chị?

- Có chứ.

Câu hỏi của Lan làm hai người đàn ông bật cười. Hạnh cũng nhách miệng mỉm cười.

° ° °

Trong khi bà chủ ngồi ở một cái ghế đặt bên giường người ốm để đợi xoong nước sôi - xoong nước luộc ống tiêm và kim tiêm - thì ông chủ và ông thầy thuốc uống rượu ở phòng khách liền bên. Hạnh nghe thấy tiếng cốc lách cách đặt lên dĩa. Và chàng đoán họ uống tới vài cốc rồi, vì đã hai lần có tiếng mời: “Một cốc nữa” và sau tiếng rượu rót ra cốc, câu trả lời: “Merci, Monsieur Lâm!” Hạnh nghĩ thầm: “À, ra đây là đồn điền ông Lâm mà mình đi xe đạp qua cổng mỗi khi ra tỉnh chơi!” Chàng nhớ lại cái cổng gạch rộng với hai cánh cửa sắt, xây hơi lùi vào phía trong lũy tre cao, kiên cố. Hạnh không hề nghe thấy người ta bàn tán nói chuyện về ông Lâm bao giờ. Chàng biết cái tên Lâm là chỉ vì, cũng như mọi người ở vùng này, chàng thường chia con đường dài ra từng đoạn, và thường dừng xe nghỉ ở cái quán cuối dốc đồn điền ông Lâm: “Thì ra mình ngã xe ở ngay cái dốc ấy, cái dốc mà mình vẫn tưởng tên là ‘dốc đồn điền ông Lâm’.”

- Thưa ông, ông làm giáo học đã bao lâu?

- Thưa bà, đã hơn bốn năm... Năm nay là năm thứ năm.

- Ở luôn một trường Huyện?

- Vâng.

- Lạ nhỉ! Ít khi có ông giáo dạy luôn một trường Huyện trong năm năm như thế.

- Vâng, kể cũng... Nhưng, thưa bà, không bao giờ tôi nghĩ đến điều đó.

Bà mỉm cười:

- Dễ thường người ta quên ông đi đấy.

Câu khôi hài của người đàn bà, Hạnh chợt cảm thấy không ngoa ngoắt chút nào. Là vì ý nghĩ ấy có luôn luôn trong óc chàng: “Người ta quên mình”.

Mà sự thực, Hạnh quả là một người bị quên. Thời còn nhỏ, cha mẹ Hạnh như quên có Hạnh trong gia đình, các thầy giáo như quên có Hạnh trong lớp học, đến nay sở Học chính lại như quên có thầy giáo Hạnh ở một trường Huyện nhỏ. Và đời cũng như quên rằng có một người tên là Hạnh đương sống, sống trong bóng tối.

- Vâng, thưa bà, có lẽ người ta quên tôi.

- Ông làm giáo học thì sai, phải không?

Thản nhiên, Hạnh đáp:

- Không ạ. Tôi làm giáo học.

Người đàn bà tỏ vẻ kinh ngạc:

- Thế à? Tôi cứ tưởng ông làm trợ giáo.

Hạnh giọng tự phụ:

- Thưa bà, tôi đậu Diplôme và Brevet năm 1930.

Nước trong xoong sôi đã lâu, Hạnh vẫn không thấy bà chủ lưu ý tới. Chàng cũng không nhắc, vì muốn lui cái phút tiêm lại. Trong đời chàng, chàng mới trồng đậu hai lần, một lần thời còn nhỏ mà chàng không nhớ vào năm nào, và một lần học năm thứ hai trường Bảo hộ. Còn tiêm thì chàng chưa bao giờ tiêm. Trông thấy cái kim nhọn đâm vào da người khác, chàng đã rùng rợn như chực ngất đi. Vì thế, những năm có dịch tả, thầy thuốc về trường tiêm cho học trò, chàng vẫn tìm cách trốn tránh: đối với chàng, thà mắc bệnh tả chết còn hơn. Thế mà, lần này, ngay một lúc chàng tiêm liền hai phát.

Tim Hạnh đập mạnh như theo nhịp tiếng lách cách của cái ống tiêm trong nước sôi. Mặt Hạnh tái đi khi thấy bà chủ đồn điền thổi tắt lửa, nói:

- Tiêm thôi.

Bà đứng dậy sang phòng bên, rồi cùng hai người đàn ông đi vào.

- Thưa quan, tiêm huile camphrée trước?

- Vâng.

Vừa nói, ông thầy thuốc vừa cầm cái cưa nhỏ xíu cưa một đầu ống thuốc.

° ° °

Công việc làm nhanh chóng và nhẹ nhàng một cách không ngờ. Bây giờ Hạnh chỉ còn nhôn nhốt đau ở hai bên đùi.

Nằm một mình trong gian phòng ấm áp, chàng mỉm cười tự nhủ thầm: “May mà ông đốc tưởng mình sốt rét. Chứ nếu ông ấy biết mình sợ đến lạnh toát người và run bật lên thì ông ấy cười chết!”

Có tiếng giày rón rén, Hạnh biết ngay là bà chủ.

- Ông ngủ đi một lát thì tốt.

- Thưa bà, tôi không buồn ngủ. Bây giờ độ mấy giờ ạ?

- Thưa ông, hơn tám giờ. Ông có thấy sốt không?

- Thưa không.

- Thế thì chỉ độ mai là ông đi lại được.

Hạnh bâng khuâng buồn. Và chàng cố giữ một tiếng thở dài. Chàng vẫn hay có tính thở dài, nhất những khi buồn. Cái đó đã đành. Nhưng nhiều khi không buồn, chàng cũng thở dài. Có lẽ cái nết xấu ấy đã thành một thói quen do tạng yếu đuối sinh ra. Chàng nhớ một lần vào hiệu Gô-Đa mua hàng, lúc đứng chờ trả tiền, chàng bỗng thốt ra một tiếng thở dài não nuột, khiến cô giữ quỹ ngửng lên nhìn chàng mỉm cười. Người bạn cùng đi với chàng chế nhạo chàng mãi, vì tưởng chàng mê cô đầm lai xinh đẹp.

- Thưa bà, bà chắc mai tôi đi được?

- Vâng, chắc lắm. Vết thương không nặng gì.

Hạnh nói dối một câu để người thiếu phụ khỏi ngờ vực lòng mình.

- Thưa bà, là vì tôi có việc cần ở tỉnh... Cần phải ra ngay.

- Sao ban nãy ông không nhờ nhà tôi giúp?

- Thưa bà tôi quên.

Kỳ thực chàng không có việc gì ở tỉnh. Chẳng qua được nghỉ mấy ngày thì ra chơi nhà một người bạn đồng nghiệp, trước đây học ở trường huyện, vừa đổi ra trường tỉnh mấy tháng trước.

Một thằng bé mặc chiếc áo len đan chạy vào phòng.

- Mẹ!

- Bản, chào ông đi!

Thằng bé trố mắt nhìn Hạnh. Người mẹ giục:

- Kìa Bản chào ông đi.

Thằng bé cười hóm hỉnh, nói:

- Lạy ông ạ.

- Không dám, chào cậu.

Hạnh hỏi bà chủ:

- Thưa bà, cậu này là thứ mấy?

- Thưa ông, tôi mới có một cháu này. Năm nay cháu lên sáu. Bản, lấy sách ông xem đi. Ông giáo đấy, con ạ. Rồi mẹ cho con đến trường học ông giáo nhé?

Bản giọng nũng nịu:

- Không con chả học ông giáo, ông giáo hay đánh lắm.

Hạnh cười:

- Không, tôi không đánh Bản đâu. Bản cứ đến trường học, tôi yêu Bản lắm cơ.

Bản kéo mẹ ngồi xuống ghế và ngồi vào lòng. Cái cảnh tượng âu yếm và cảm động ấy khiến Hạnh hồi tưởng lại tuổi thơ ấu lạnh lẽo của mình. Chẳng bao giờ Hạnh được ngồi trong lòng ấm áp một người đàn bà thơm tho. Vú em nuôi Hạnh chỉ là một người nhà quê to béo cục cằn và hôi hám.

- Nào, Bản đọc bài cho ông giáo nghe nào!

Bản nghiêng đầu lườm Hạnh và phụng phịu nói:

- Không đọc!

Điệu bộ ấy của đứa con nuông làm cho Hạnh càng tủi thản. Cái đời buồn tẻ, không tình cảm đã ảnh hưởng tới ngôn ngữ và cử chỉ trở nên cứng cỏi của chàng. Không bao giờ chàng được vỗ về, ôm ấp. Cũng không bao giờ chàng muốn ngắm sự âu yếm dịu dàng của những người khác đối với nhau. Chàng đã quen cho đó là toàn những sự lố lăng hay giả dối.

- Bản không ngoan nhé!

Người mẹ mắng yêu con rồi tươi cười bảo Hạnh:

- Thưa ông, cháu ngộ nghĩnh lắm cơ ạ. Nào, Bản nói tiếng tây như cậu cho ông giáo nghe nào. Nào, nói đi! À, đố Bản biết chữ gì là người ốm nào?

Bản hất cằm, đáp:

- Le malade!

Rồi chừng để khoe, nó đọc luôn:

- Le malade a bu du café là người ốm đã uống nước cà phê.

Bà chủ như chợt nhớ ra đứng phắt dậy.

- À! Để mẹ xuống bảo nó bưng cà phê sữa lên ông giáo xơi.

Rồi nàng vội vã bước ra khỏi phòng. Bản nắm áo chạy theo sau.

Tiếng thở dài giữ mãi, bây giờ Hạnh mới buông ra được.

° ° °

Chàng ngồi dậy. Đầu chàng lảo đảo quay thái dương dập bần bật vì bị bóp chặt trong những vòng vải thưa. Chàng toan cố gượng bước xuống đất, ra ngồi ở cái ghế cói đặt trước lò sưởi nhưng thấy chóng mặt quá chàng lại nằm xuống: “Cứ thế này thì khó lòng mai đi được”. Ý nghĩ ấy đem vào lòng Hạnh một cảm giác êm đềm, cái êm đềm lười biếng của kẻ nằm trong chăn những ngày mưa lạnh.

Bên ngoài, trời dần dần tối. Hạnh cảm thấy thế, trước khi nhìn khoảng trời xám qua cửa sổ. Như có cái màn vô hình dệt bằng sương mù màu u ám nhẹ nhàng chùm lên vai chàng.

Gió đưa cành cam đập vào cửa kính. Hạnh vơ vẩn mong hai cánh cửa lại tung ra một lần nữa để được ngắm mấy quả cam béo mọng, da rám hồng như đã hút lấy hết cả ánh nắng dịu mùa đông. Mắt Hạnh dán vào cái khung chữ nhật, cố nhận rõ hình những lá đen. Những chút ánh thừa buổi hoàng hôn đã thoáng qua. Chàng chỉ còn thấy một khoảng đen trên bức tường phớt màu vàng nhợt của than hồng...

Yên lặng làm Hạnh bức rứt khó chịu. Không còn cả tiếng lách tách trong lò sưởi, vì củi cháy đã tàn. “Họ quên mình chăng?” Câu chuyện của người đàn bà lúc ban chiều trở lại trong tâm trí Hạnh: “Hơn hết là mình cũng quên họ đi, và ngủ một giấc đến sáng mai dậy sớm”. Trong đời Hạnh, ít khi Hạnh khó ngủ. Nghe bạn nói trằn trọc suốt đêm, Hạnh không thể tin được, vì cứ đặt mình xuống giường độ dăm phút thì chàng đã “không biết trời đất gì nữa”. Người ta bảo chàng rằng đó là một quý tướng của một người vô tư lự. Tư lự thì quả Hạnh không tư lự bao giờ. Vả trong đời chàng, trong cái đời nhạt nhẽo, tẻ ngắt của chàng, cái gì cũng không đáng kể, cả những thống khổ về thể chất và tinh thần.

Những cái đau đớn khổ sở ấy không đủ lực lượng để khiến được Hạnh buồn phiền đến mất ngủ chăng?

Hồi tưởng lại thời thơ ấu, và cố tìm ra những nỗi thống cực, chàng chỉ nhớ một mớ cảm giác lờ mờ: Những sự hành hạ, ức hiếp đã biến trong lãnh đạm, trong quên lãng. “Lần này có lẽ là lần đầu tiên thân thể mình bị đau đớn ê chề?”

Hạnh mỉm cười nghĩ đến chữ ê chề: “Chỉ trong văn chương người ta mới dùng chữ ê chề. Chứ chưa bao giờ mình được đau đớn ê chề. Sáng nay mình ngất đi, lúc tỉnh dậy mình tưởng như vừa thức giấc... Giá mình gẫy một tay hay một chân... thì không biết mình ra sao?”

Đấy là về thể chất. Còn về tinh thần? Về linh hồn? Hạnh nhớ một lần đến thăm người vừa mồ côi cha. Chàng thấy bạn gào khóc thảm thiết, và lăn vào ôm lấy thây cha rồi ngất đi. Chàng cho có lẽ người ta chỉ đau đớn vì những sự đau đớn to tát về tinh thần mà thôi. Nhưng nghĩ đến cha, nghĩ đến hết mọi người sống quanh mình, Hạnh không thấy một ai yêu mến mình để lúc chết, mình có thể thương tiếc, khổ sở được. Chàng kết luận: “Mình là một người không vui, không buồn, hay có vui có buồn, thì cái vui cái buồn cũng vô vị!” Và chàng mỉm cười.

Phòng tối hẳn. Lửa trong lò sưởi đã tắt. Hạnh có cảm giác giá lạnh tuy chàng nằm trong chăn ấm. Lần này thì chàng chắc chắn, chàng yên trí rằng người ta quên mình. Nhớ tới cốc sữa cà phê mà bà chủ nhắc ban nãy, chàng chua chát nghĩ thầm: “Quên mình thì quên, nhưng quên cốc sữa cà phê đã hứa thì thật là một sự mỉa mai... và đau đớn”.

Một chút ánh vàng thấp thoáng rung rung trên màn ren. Hạnh đoán chừng người ta đã bắt đầu thắp đèn phòng khách. Quả thực, phòng Hạnh dần dần bớt tối, rồi Hạnh nghe rõ trong yên lặng hoàn toàn tiếng vo vo đều đều của cây đèn măng sông đương cháy: “Có lẽ trừ ông chủ ra, những người trong cái nhà này toàn là đàn bà với một thằng bé con!”

Nhưng để chứng thực ý nghĩ của Hạnh, một đứa thị tỳ cầm cây đèn dầu hỏa đi vào phòng. Ánh sáng nhuộm hồng, cái mặt bầu bĩnh trở nên xinh xinh. Hạnh đăm đăm nhìn, nói:

- Cám ơn... chị nhé.

Người ở gái để đèn lên mặt lò sưởi và quay lại:

- Thưa, ông thức? Bà con cử tưởng ông ngủ. Vậy để con bưng cà phê lên ông xơi.

- Thế bà đã xơi cơm chưa?

- Thưa ông, bà con còn đợi ông con về.

- Ông đi vắng chưa về?

- Vâng, ông con đánh xe tiễn quan đốc ra tỉnh.

Sau một giây yên lặng, Hạnh thở dài, lẩm bẩm:

- Tôi làm phiền ông bà quá, nhỉ?

Nhưng người đầy tớ gái không đáp, vội vã bước ra khỏi phòng. Hạnh nhìn theo, lòng mừng thầm: “Ừ có thế chứ! Chẳng lẽ lại quên được!”

Một lát sau, người ấy bưng vào một cái khay đựng cốc sữa và chiếc bánh mì, và đặt lên bàn ngủ:

- Ông có ngồi dậy được không?

Hạnh nhớ cái cảm giác êm ấm lúc được bà chủ nâng đầu cho uống nước. Và chàng toan đáp: “Không”. Nhưng chẳng hiểu sao, chàng chống tay ngồi dậy.

- Này chị Sen!

Người đầy tớ gái nghiễm nhiên trả lời:

- Thưa ông, tên con là Nhàn.

- Thế à?

Hạnh bẽn lẽn khó chịu:

- Bánh tây mua đâu đấy, chị Nhàn?

- Thưa ông, sáng nay ông con mua ở tỉnh về... Thưa ông xơi chẳng nguội.

Hạnh cầm thìa quấy sữa.

- Bà xơi cơm chưa?

Hình như Nhàn cũng không nhớ rằng ông giáo đã hỏi câu ấy rồi, nên đáp bằng một giọng rất tự nhiên:

- Thưa ông, bà con còn chờ ông con về mới ăn.

- Vậy ông chưa về?

- Chưa ạ.

Hơi cà phê sữa thơm tho bốc lên mũi càng làm tăng lòng đói của Hạnh. Nhưng chàng tưởng nên có cử chỉ thong thả, nhã nhặn trước mặt người thị tì. Vì thế chàng cầm thìa quấy hoài, chờ người con gái đi ra rồi mới dám bẻ bánh nhai ngốn ngấu.

° ° °

Nửa đêm Hạnh thức giấc giữa những tiếng chó sủa và những tiếng giầy lộp cộp bên phòng khách. Rồi có tiếng dép trên cầu thang. Đêm khuya thanh vắng, người ta nghe rất rõ những tiếng động nhỏ. Hạnh nhận thấy cả tiếng mưa rỏ giọt trong lá.

Bỗng tiếng bà chủ kỳ kèo chồng, giọng gắt gỏng dữ dội chứ chẳng còn mềm mỏng hiền lành nữa.

- Sao mình về khuya thế? Có biết mấy giờ rồi không?

Người chồng giọng mệt nhọc, rồi sau một cái ngáp kêu.

- Cụ Tuần giữ đánh tổ tôm.

- Tổ tôm! Thế không biết từ chối à, không biết nói nhà có khách à?

Lâm cười vui vẻ:

- Chết chửa, tôi quên bẵng nhà có khách! Ông giáo ấy, phải không? Thế nào, ông ta khỏi hẳn chưa?... Vậy ông ta vẫn nằm ở phòng bên?

- Chứ còn nằm ở đâu?

- Thế ông ta có ăn cơm đấy chứ?

- Ăn sữa cà phê với bánh tây thôi.

Giọng người đàn bà đã dịu dàng hơn, bình tĩnh hơn. Hạnh nhận thấy điều đó với tất cả lòng cám ơn. Chàng cho rằng vì nhớ đến mình mà bà chủ đồn điền nguôi cơn giận.

Rồi hai vợ chồng lên gác. Rồi yên lặng lại chiếm lấy khu đồn điền.

° ° °

Sáng hôm sau, Hạnh dậy sớm. Khoảng trời hồng lấp loáng qua những miếng kính cửa sổ báo trước một ngày tạnh ráo, tốt đẹp.

Hạnh quay đầu sang hai bên thấy bớt đau liền mừng rỡ bước xuống đất. Cái áo lót chàng mặc nát nhầu và dính đất vàng. Chàng vội đi tìm cái cặp da để lấy quần áo thay, và thấy nó ở dưới gầm cái bàn cói bày giữa hai cái ghế bành.

Đoạn Hạnh mở cửa sổ nhìn. Một cảnh rực rỡ: một vườn cam sành rộng bát ngát và vây lấy mấy nếp nhà gạch. Những quả bắt đầu rám đỏ, nặng trĩu rủ xuống gần sát đất. Một con chim khuyên tí tách nhảy chuyền những cành thưa lá, đậu vào cuống quả cam, ngoẹo đầu, nghiêng mắt nhìn, bắt sâu.

Trong lá bưởi, một con chim chích chòe hót từng hồi dài. Trên đầu Hạnh, dưới khe mái ngói, đàn sẻ kêu chiêm chiếp liên thanh.

Hạnh cho là chim muông chào mừng một ngày quang đãng. Và chàng nghĩ tới những câu văn sáo trong những bài luận của bọn học trò lớp nhất. Nhưng chàng cũng thấy lòng vui.

Chàng muốn ra vườn cam dạo một vòng. Chợt nhớ tới những tiếng chó sủa dữ tợn tối hôm trước, chàng lo lắng nhìn xuống bếp để tìm xem hình thù mấy con chó như thế nào. Bất giác chàng gọi:

- Chị Nhàn!

Người đầy tớ gái, mắt còn ngái ngủ, chạy lên:

- Thưa ông gọi con?

Hạnh định nhờ coi chó và đưa ra vườn nhưng chàng chỉ nhút nhát hỏi:

- Ông dậy chưa, chị?

- Thưa ông chưa. Chỉ mới có bà con dậy sớm...

- Bà dậy sớm nhỉ?

- Thưa ông, ông khỏi hẳn rồi?

- Phải, tôi khỏi hẳn rồi... Tôi định... chào ông bà để xin đi.

- Vậy ông để con mời bà con lên.

Dứt lời, Nhàn đi thẳng ra khu vườn phía trước. Một lát sau, bà chủ và Lan cùng vào phòng; Lan nói như reo mừng:

- Ông giáo đã dậy được!

Hạnh vội khoác cái áo da xù lên mình, rồi nghiêng đầu chào. Bà chủ hỏi:

- Ông còn đau không?

- Thưa bà, tôi khỏi hẳn rồi... Chỉ còn hơi... rức đầu thôi.

- Vậy ông cứ nằm nghỉ ở đây, bao giờ khỏi hẳn hãy đi... ông đừng ngại điều gì hết, cứ coi như ở nhà.

Hạnh ấp úng:

- Thưa bà, nếu không có ông bà cứu giúp thì... Thực ơn ông bà...

Bà chủ ngắt lời:

- Thưa ông nói ơn với huệ làm gì! Giúp đỡ nhau trong khi hoạn nạn đó là bổn phận của mọi người. À! Thưa ông hôm qua ông có ngủ được không?

- Cảm ơn bà, tôi ngủ nhiều lắm. Nửa đêm thức dậy chỉ độ mười phút rồi lại ngủ ngay.

Lan nhìn chị dâu:

- Chừng ông giáo thức dậy lúc anh về.

Bà chủ tiếp luôn:

- Vâng, chừng thế, phải không? Thưa ông, chúng tôi làm mất giấc ngủ của ông?

Hạnh vội nói:

- Thưa bà, không ạ.

Chàng chẳng tìm được ý gì để tỏ với người đàn bà rằng mình không nghe thấy những lời kỳ kèo chồng của người ấy tối hôm trước. Chàng cũng chẳng biết đánh trống lảng nữa. May có Lan giúp chàng khỏi chỗ khó khăn:

- Thưa ông xe đạp của ông quằn bánh, anh Tài đã chữa xong rồi.

Câu nói đột nhiên. Nhưng Hạnh cho là hữu ý. Chàng nghĩ thầm: “Cô ta muốn đuổi mình đi. Phải, mình ở đây làm phiền bao nhiêu người, đi là phải”. Chàng nhìn Lan như để cảm ơn đã có nhã ý bảo ngầm cho mình biết và chàng nói với bà chủ.

- Thưa bà, tôi xin thành thực cảm ơn ông bà và cô đã có lòng tốt đối với tôi. Bây giờ thì xin... kính chào ông bà và cô... tôi đi.

Câu nói dài quá làm cho Hạnh thở hổn hển vì cảm động.

- Nhưng ông còn mệt lắm.

- Tôi đi được ạ.

- Vậy ông nhất định đi.

Không chờ câu trả lời, bà chủ ra khỏi phòng gọi người nhà sắp ăn sáng. Hạnh lại nghĩ thầm:

“Cả bà chủ cũng khó chịu vì mình. Bà ta muốn tống cổ mình đi ngay cho rảnh mắt! Thì mình đi chứ sao!”

Và chàng thở dài, vơ vẩn nhìn ra vườn.

Những quả cam lóng lánh trong ánh nắng buổi sớm. Hạt mưa còn đọng lại trên lá. Hạnh ví với hạt minh châu, tuy chàng không biết hạt minh châu là hạt gì.

Ở chân lũy tre xa, hơi sương bốc lên một màu lam đục, Hạnh thốt ra một câu khen:

- Đẹp!

° ° °

Hạnh thấy bóng người ở gái phản chiếu trong kính cửa sổ, nhưng chàng không quay đầu lại, làm như mê mải ngắm vườn cam. Sự thực, chàng đương mong người ta bưng bữa ăn sáng vào, vì sau một ngày nhịn cơm chàng đói ngấu: Cốc sữa với chiếc bánh mì tối hôm trước chỉ như món khai vị làm cho dạ dầy chàng nôn nao thêm.

- Thưa ông, có nước nóng rồi đấy ạ.

- Nước sôi à? Đâu, chị?

- Thưa ông ở bên buồng “toa lét”.

Hạnh kinh hoảng nghĩ thầm:

“Thì ra nước rửa mặt, mình lại cứ tưởng nước sôi pha sữa. May mà câu hỏi của mình mập mờ, chứ nếu mình nói rõ ra là nước sôi pha sữa thì còn gì là thể diện”.

Như phần nhiều người nhút nhát, Hạnh rất hay lo mất thể diện, nhất khi đứng trước đàn bà.

- Mời ông sang rửa mặt rồi xơi sáng ạ.

Hạnh đáp lại một tiếng “À!” thì thào như hơi gió trong cổ họng. Rồi hấp tấp ra phòng khách.

- Thưa ông buồng “toa lét” ở đây cơ ạ.

Nhàn trỏ phía trước. Đó là một mẩu hiên ngăn ra bằng một bức bàn sơn màu xanh nhạt.

Hạnh mở cửa thò đầu nhìn vào trong. Thấy cái thùng kẽm gần chiếm kín bề ngang hiên, chàng đột ngột kêu:

- À! Buồng tắm!

- Vâng, phòng “toa lét”.

Câu trả lời đi liền với một cái mỉm cười rất tự nhiên và thẳng thắn mà Hạnh tưởng có ngụ một ý nghĩa mỉa mai. “Dễ nó ngờ mình không hiểu nghĩa chữ toilette của nó chăng?” Chàng cáu kỉnh hỏi:

- Chị cũng biết chữ tây chữ tiếc cơ đấy?

Người đầy tớ gái ngơ ngác nhìn Hạnh. Vì tiếng “phòng toa lét” nàng chỉ nói theo chủ mà chẳng hiểu đó là tiếng tây.

- Được, cảm ơn chị.

Hạnh đứng vào trước bàn rửa mặt, một cái bàn sơn trắng đã cũ, ở giữa đục thủng một lỗ tròn để lọt trên cái chậu sứ giang tây men màu sặc sỡ. Cái gương chữ nhật, khung gỗ treo thấp khiến Hạnh phải khuỵu gối mới nhìn thấy bóng mặt mình, cái bóng lờ mờ như hiện ra trong sương mù buổi sớm: hơi nước nóng bốc lên đã phủ đây một lớp bụi nhỏ. Chàng kêu thầm: “Flou arlislique!” 1

Thực vậy, hình chàng hiện ra như một bức ảnh mỹ thuật trong một tạp chí chiếu bóng bên Pháp. Chàng ngắm nghía với một ý nghĩ tự ái. Cái vải băng trắng quấn vòng đầu kẻ một chữ nhân trên trán. Chàng thấy mình như vụt biến thành một ông hoàng Ả Rập trong những truyện “Sách Hồng” đọc ngày xưa. Và chàng mơ màng như lạc tới một cảnh mộng, một cảnh êm đềm, một thế giới lạ lùng mà chàng tưởng tượng có đoàn phụ nữ.

- Mời ông rửa mặt rồi sang phòng ăn xơi sáng.

Hạnh giật mình vội đáp:

- Được.

Rồi dúng khăn bông vào chậu nước, nói tiếp:

- Cái gương này treo khá thấp thành thử cứ phải cúi xuống mới soi được.

- Bẩm có nhẽ ông cao quá.

- Ừ có nhẽ.

Hạnh mỉm cười, nhớ tới tấm thân béo lùn của ông chủ và tầm vóc nhỏ nhắn của bà chủ.

- Chị có cái... khăn lau, lau qua cái gương hộ tôi.

Không nghe thấy tiếng trả lời, Hạnh quay lại người đầy tớ gái đã đi rồi.

Rửa mặt xong, Hạnh nhìn thấy lọ nước hoa pha loãng màu trắng hồng, cái ốc ở đầu nút đã vặn ra. Chàng cầm lấy gội lên tóc và cái băng quấn đầu. Thoang thoảng một mùi thơm. Đó chỉ là một thứ nước xức tóc xoàng của đàn ông, nhưng Hạnh cho hương thơm của nó hoàn toàn có tính cách phụ nữ, hầu như mùi da thịt đàn bà mà chưa bao giờ chàng đã được gần gụi thân mật.

Hạnh nhớ một lần cách đây hai năm, anh em đồng nghiệp rủ đi hát ả đào ở tỉnh. Một đào nương mũm mĩm, cô Lan, lấm lét nhìn chàng, khiến chàng cảm thấy rạo rực tình yêu. Người ta ẩy chàng vào lòng Lan, chàng vùng vẫy ngồi nhích ra, nhưng lặng thinh để mặc Lan nghếch đùi lên đùi mình. Đêm hôm ấy về trường, Hạnh bâng khuâng nhớ người ả đào, và trong luôn mấy tuần lễ mùi nước hoa nhài hăng sè của người ấy phảng phất trong tâm hồn chàng. Từ đấy hễ thoáng ngửi thấy mùi nước hoa là chàng lại chợt nghĩ đến đàn bà, nghĩ đến một cách thản nhiên, không ham muốn.

Lần này mùi nước xức tóc đưa trí nhớ Hạnh tới một kỷ niệm gần hơn, âu yếm hơn: cái nàng đầu nhẹ nhàng trưa hôm trước của bàn tay mát trong làn không khí thơm tho.

° ° °

- Mời ông xơi sáng.

Hạnh lặng lẽ quay ra, đi theo người đầy tớ gái.

- Ở đâu, chị?

- Thưa ông ở phòng ăn.

Người kia đưa Hạnh qua phòng khách. Hạnh ngước nhìn hai bức ảnh phóng đại treo trên lò sưởi và nghĩ thầm: “Chắc song thân ông chủ”. Một ý nghĩ khác theo liền ngay: “Chừng ông ta hồi còn nhỏ được cha mẹ quý mến lắm”. Và chàng thoáng tưởng tới cha mẹ già đã về hưu hiện ở nhà quê, một làng tầm thường miền trung châu với những nếp nhà lợp rạ san sát nhau như bát úp, và những ruộng lúa sàn sàn, bằng phẳng chạy thẳng tấp đến những lũy tre xa. Trước kia, mỗi năm Hạnh về làng thăm cha mẹ bốn lần vào các dịp nghỉ hè, tết nguyên đán và hai ngày giỗ chính: chàng về thăm lấy lệ để khỏi mang tiếng là đứa con bất hiếu. Nhưng hai năm nay Hạnh chỉ ở nhà vừa đúng ba ngày tết. Chàng nói với cha mẹ rằng nghỉ hè chàng bận dạy tư, không về được. Cha mẹ chàng cũng không bắt bẻ, hơn thế, chẳng thèm lưu ý đến sự có mặt của chàng ở nhà. Hạnh không lấy thế làm tủi nhục, và làm cho cha mẹ anh em đã trót lãnh đạm với mình ngay từ thời mình còn nhỏ thì nay cũng khó lòng mà ân cần, tử tế với mình được. Ở đời mọi việc, mọi sự đều do thói quen cả...

- Mời ông xơi sáng.

Hạnh luống cuống:

- Vâng ạ. Cảm ơn bà.

Bà chủ niềm nở kéo ghế nói:

- Ông ngồi đây.

Hạnh yên lặng ngồi xuống, hai cánh tay tì lên khăn bàn trắng, hai bàn tay chắp lại, rít chặt. Những lúc ngượng ngập, Hạnh khổ sở nhất vì hai bàn tay, chẳng biết để vào đâu, và dùng làm việc gì.

Bốn chiếc bánh mì đặt trong bốn cái dĩa. Hạnh lo lắng tự nhủ: “Ăn cơm tây à?”

Bà chủ rót nước chè ra ba chén và nói:

- Ông tha lỗi cho nhà tôi. Nhà tôi chưa dậy vì hôm qua thức quá khuya.

Hạnh hấp tấp toan đáp: “Thưa bà tôi biết thế”. Nhưng chàng giữ ngay lại được, và mừng thầm rằng đã may mắn tránh khỏi được điều lầm lỡ.

- Mời ông nếm thử chè nhà.

Tiếng “nhà” Hạnh nghe thân mật quá. Và tự nhiên chàng sung sướng.

- Thưa ông năm nay tôi bắt đầu làm “thé noir”, chắc chưa được khéo... chắc còn vụng.

Hạnh vội đáp:

- Thưa bà khéo đấy chứ...

Bà chủ mỉm cười, cái mỉm cười tiếp khách, nhưng Hạnh cho là một cái mỉm cười chế nhạo. Vì chàng nhận thấy rằng câu khen của mình hớ quá, vô lý quá: đã uống đâu mà biết khéo hay vụng. Chàng liền nói chữa:

- Thưa bà hương chè bốc lên thơm ngát.

- Vâng, thưa ông hương “thé noir” tôi vẫn yêu thương “thé vert”.

Hạnh lặng lẽ nâng chén nước, để khỏi phải trả lời, vì chàng chẳng biết “thé noir” là chè gì.

- Ấy, thưa ông chưa có đường.

Lan vừa nói vừa đứng dậy cầm thìa xúc miếng đường bỏ vào chén nước mà Hạnh giơ ra.

- Thưa ông phải dùng hai miếng mới đủ ngọt.

- Thưa cô... cảm ơn cô.

Hạnh định nói: “Tôi quen uống không đường”. Nhưng chợt nhớ đến thứ “chè đen” lạ lùng mà mình chưa dùng qua, chàng lại ngồi im. “Chừng chè ô long... Thì sao không gọi là chè ô long lại gọi kiểu cách là thé noir!”

Ngẫu nhiên, Lan như giảng nghĩa cho Hạnh hiểu. Nàng nhắp môi và bảo chị dâu:

- Chè của chị chẳng kém gì chè Ceylan.

Bà chủ cười:

- Hơn ấy chứ chị! Có phải không ông giáo?

Hạnh uống một hớp, rồi làm bộ thành thạo ngẫm nghĩ.

- Vàng, hơn nhiều!

- Hơn một tí thôi. Nhưng mời ông xơi chẳng nguội... Bánh tây hôm qua nướng lại, ông xơi tạm. Hôm nay xe hàng họ chưa đưa bánh đến. Phải chờ chín giờ mới có chuyến xe Tuyên qua đây.

Lan đáp:

- Thưa chị pain noir 2 ăn càng lành.

Hạnh vừa bẻ bánh vừa nghĩ thầm: “Hết thé noir đến pain noir! Còn gì noir 3 nữa?”

- Mời ông xơi jambon 4. Jambon nhà làm đấy ạ, ông thử dùng xem có khác lợn thường không?

- Vậy, thưa bà, đây là lợn tây?

- Lợn rừng ạ.

Mặt Hạnh nóng ran. Chàng lấm lét nhìn Lan, xem nàng có mỉm cười không. Không thấy nét mặt thiếu nữ đổi khác, chàng tự an ủi: “Người ta cũng có thể làm jambon bằng đùi lợn tây được lắm chứ”.

- Sao chị không lấy ruốc ra ăn?

Câu hỏi của Lan, Hạnh cho nó ẩn nghĩa chê mình quê mùa.

- Cô thích ăn ruốc!

- Thưa chị em thích lắm. Lọ ruốc chị gửi vào trường cho em, em phải giấu kỹ để ăn dè, nếu không lũ quỷ nó cướp hết.

Bà chủ quay sang nói với ông khách:

- Thưa ông, cô Lan em nhà tôi hiện học năm thứ tư trường Đồng Khánh.

Hạnh ngả đầu chào. Lan cũng nghiêng đầu chào lại. Hạnh nghĩ thầm: “Thảo nào mà họ thành thạo. Một người làm cô đỡ, một người học năm thứ tư”.

- Thưa cô, nghỉ lễ Noel, cô về thăm ông chủ, bà chủ?

- Vâng.

Những kỷ niệm thời còn theo học trường Bảo hộ chỉ lờ mờ hiện ra trong trí nhớ Hạnh. Vào dịp Noel, không lần nào Hạnh về thăm nhà hay đi chơi đâu xa, nên lễ ấy cũng không để một vết sâu trong ký ức chàng như đối với học trò khác.

- Thưa ông, ông có thích đi bắn không?

Hạnh lạnh lùng đáp:

- Thưa bà không ạ.

- Nhà tôi thì mê săn bắn lắm. Mọi lễ Noel anh em lên chơi đi bắn rất đông. Năm nay chẳng thấy một mống nào. Tưởng ông thích thì mời ông ở lai đi bắn với nhà tôi. Nhà tôi có hai cây súng, một cây calibrc 5 12, một cây calibre 16.

Lan nhìn đầu Hạnh đáp:

- Nhưng ông giáo còn đau, đi bắn đâu được!

- Ờ! Tôi quên nhỉ! Ông còn đau không ạ?

Hạnh vui vẻ trả lời:

- Thưa bà, tôi khỏi hẳn rồi a.

Và chàng tiếp luôn một câu đẹp đẽ mà chàng nghĩ ra từ nãy:

- Thưa bà, nếu bà không nhắc thì có lẽ tôi quên rằng tôi bị thương.

- Thế à? Nhưng mời ông xơi đi chứ.

Bà chủ rót thêm nước chè vào chén ông khách:

- Thưa ông, nhà hết bơ tươi, ông dùng tạm bơ mặn.

- Thưa bà được ạ, tôi ăn quen bơ mặn.

Sự thực Hạnh chẳng dùng bơ bao giờ.

- Nhưng ruốc chị vẫn chưa lấy cho em.

- Ồ! Xin lỗi cô, chị quên.

Bà chủ đứng dậy mở tủ lấy một cái phẫu thủy tinh đặt vào giữa bàn:

- Đây, ruốc của cô. Thưa ông, ông có xơi được ruốc không ạ?

Hạnh cúi nhìn mẩu bánh mì nhỏ xíu còn lại:

- Xin thôi ạ.

Nhưng bà chủ đã nhìn theo và nhận thấy ông khách hết bánh. Bà liền nhắc chiếc bánh phần chồng đặt vào đĩa của Hạnh. Hạnh lặng thinh, quay ra phía cửa sổ, vì chàng còn đói lắm không muốn từ chối chiếc bánh thứ hai.

Bà chủ trở lại câu chuyện săn bắn:

- Giờ này mà đi bắn thì tuyệt!

- Thưa bà, bà cũng thích đi bắn?

- Vâng, bắn những chim gáy, chim dẽ xì xằng thôi.

Bất giác, Hạnh ngắm nghía cái thân hình nhỏ nhắn của người đàn bà xinh đẹp: “Phải thú nhận rằng làm thằng đàn ông như mình mà chưa được bắn một phát nào, điều đó thực là một điều nhục nhã!” Một lần Hạnh đi dạo chơi với một người bạn ở vùng quê. Bạn không hẳn đi bắn, nhưng cũng đeo súng đạn để nếu ngẫu nhiên gặp chim thì bắn chơi, tiêu khiển. Bỗng thấy một con gáy đậu trên cành xoan thưa lá, người bạn lắp đạn rồi đưa súng mời Hạnh bắn một phát. Hạnh thấy lạnh cả người, nói thoái thác rằng đau tim, thầy thuốc cấm, không được bắn. Cái lý đau tim, kiêng bắn, Hạnh không nhớ đã nghe ai nói hay đã đọc được ở sách nào hay là đã bịa đặt ra. Hôm nay chợt nghĩ tới, chàng lại đem ra nói với bà chủ:

- Thưa bà, tôi không dám bắn... nữa, vì tôi đau tim.

Bà chủ kêu:

- Tội nghiệp! Ông đau tim?

- Vâng... đau nhẹ thôi. Khi nổ cò súng, tim hồi hộp khó chịu lắm.

- Vâng, có thế.

Cái bánh thứ hai đã hết. Hạnh đứng dậy:

- Xin cảm ơn bà... Bây giờ thì xin phép bà tôi đi.

- Giá ông ở lại chơi đến chiều... Còn nghỉ lễ Noel thì tưởng ông cùng chả vội gì.

Hạnh ngần ngừ toan nhận lời ở lại. Nhưng chợt nhớ hôm trước đã trót nói có việc cần ở tỉnh, chàng liền đáp:

- Xin bà cho khi khác.

- Vậy xin ông hãy ngồi chơi bên phòng khách để tôi làm pansement lại cho được cẩn thận.

- Thưa bà, phải làm lại?

- Vâng như thế thì chắc chắn hơn.

Bà chủ lên gác, chừng để lấy vải băng và các thức cần dùng, Hạnh thong thả sang phòng khách.

° ° °

Sau khi băng bó lại, Hạnh thấy không thể còn nấn ná được nữa, đứng dậy xin đi. Bà chủ và Lan đưa chàng qua vườn cam để ra cổng, Hạnh đứng lại khen:

- Ông bà có vườn cam đẹp quá.

Rồi nói xin vài quả. Nhưng bà chủ đáp cam còn xanh chưa ăn được. Bà mỉm cười tiếp luôn:

- Tôi cũng muốn biếu ông mươi quả về làm kỷ niệm... chuyến ngã xe, nhưng sợ ông nếm thấy chua lại tưởng cam đồn điền tôi không ra gì.

Hạnh cho chữ “kỷ niệm” âu yếm quá. Nhưng ý nghĩ ấy vụt làm cho chàng bẽn lẽn. Chàng yên lặng nhìn theo những luống cam trong thẳng hàng quanh vườn đồi thoai thoải gốc phủ rạ gọn gàng, cành nặng trĩu những quả tròn và béo, da xù xì màu vàng rám, Hạnh muốn lại xem nhưng không dám ngỏ lời. Hình như ra ngoài trời nắng, sự thẹn thùng của Hạnh càng tăng, và sức thôi miên của hai cặp mắt sáng, và hai cái mỉm cười yên lặng càng mạnh hơn khi ở trong ánh sáng dịu nơi phòng ăn.

Hạnh đương lúng túng cuống quýt thì Bản vừa thức dậy chạy đến ôm chầm lấy mẹ và nũng nịu kêu:

- Mẹ đi đâu đấy?

Người đàn bà cúi xuống bế con lên hôn:

- Không, mẹ có đi đâu, mẹ vẫn ở nhà với con đấy chứ.

- Thế sao me lại đánh phấn, me lại mặc áo đẹp? Cả cô nữa?

Bất giác Hạnh liếc nhìn bà chủ đồn điền và Lan. Hai người cùng trang điểm khác hôm trước: dung nhan không để mộc mạc, y phục không để xuềnh xoàng. Cái ao dạ màu nâu hồng của bà chủ đồn điền, Hạnh cho rất nhã nhặn. Đứng cạnh bà, Lan mặc chiếc áo kiểu mới màu đỏ thắm. Mà lạ thực, Hạnh không thấy nhan sắc Lan tầm thường như hôm qua nữa. Nàng đã trở nên một thiếu nữ xinh đẹp, một thứ xinh đẹp khỏe khoắn, tươi tốt như những quả cam đầy nước ngọt rung rinh đầu cành mềm, trong nắng buổi sớm mai. Và Hạnh ví ngay nàng với một cô dâu mới.

Câu hỏi của Bản làm mẹ và cô gượng gùng.

Thấy sự yên lặng kéo dài và khó chịu, Hạnh hỏi lảng:

- Thưa bà, cậu em bao giờ bà cho ra tỉnh học?

- Ấy, chúng tôi cũng định gửi cháu đằng ông đốc, nhưng còn nấn ná chưa muốn để cháu đi xa, sợ nhớ.

Hạnh giọng mô phạm:

- Thưa bà, cho con ở xa cha mẹ là phải. Cha mẹ không bao giờ dạy được con, vì một là nuông con, hai là nghiêm khắc với con quá. Chứ không như một thầy giáo, đã thạo pédagogie 6.

Bản ngước mắc nhìn miệng ông khách và hiểu lờ mờ rằng ông ta khuyên mẹ đưa mình ra tỉnh học. Trong lòng căm tức, nó ẩy Hạnh và nói:

- Cái ông này không đi đi, cứ ở mãi nhà người ta.

Bà chủ vội mắng con:

- Thằng Bản hỗn nhé. Chốc thầy dậy me mách cho đấy.

Lan phàn nàn:

- Chị cứ nuông nó nên nó hỗn: phải đánh mới được.

Hai câu nói khéo không đủ làm cho má Hạnh bớt đỏ. Chàng lẳng lặng tiến về phía cổng. Bỗng, có lẽ vì quá ngượng, chàng dừng lại trên lối đi lát gạch:

- Thưa bà, tôi nộp bà tiền thuốc.

Bà chủ ngơ ngác:

- Thưa ông có tiền thuốc nào đâu!

Nghe giọng trả lời mát mẻ. Hạnh biết mình hớ, liền nói chữa:

- Thưa bà, thế này thì khi không phải, xin bà làm ơn nộp ông đốc giúp món tiền thuốc.

Buông miệng, Hạnh nhận thấy câu nói chữa càng hớ hơn, vì chàng vụt nghĩ: “Tiền thuốc thì sao mình không đem lên tỉnh mà trả?” Nhưng bà chủ đồn điền niềm nở đáp.

- Ông không phải trả gì hết. Ông đốc với nhà tôi là chỗ bạn thân. Vả có mấy tí.

Hạnh thong thả tiến ra cổng.

- Thưa ông, xin ông tha lỗi cho nhà tôi. Nhà tôi hôm qua thức khuya quá, nên ngủ mệt chưa dậy được để tiễn ông.

- Thưa bà, bà cứ để ông nghỉ ạ.

Hạnh nghĩ thầm: “Càng hay!”

Vì sự thực Hạnh không ưa gì cái ông chủ ít điều ấy, cũng như chàng không ưa ông thầy thuốc ngạo nghễ với với cái rọc thuốc lá dài lêu nghêu của ông ta.

Tới cổng, Hạnh yên lặng nhìn hai người đàn bà, chẳng biết nói gì. May có Bản gợi chuyện, hỏi mẹ:

- Ông ấy đi đâu đấy, mẹ?

- Ông giáo ra tỉnh. Con chắp tay chào ông giáo đi.

Cái ý đuổi khách lại lởn vởn trong trí óc Hạnh. Chàng cầm lấy xe đạp mà người ta đã đem ra để dựa ở cạnh cổng, rồi dắt xe ra đường đứng quay lại cất mũ chào. Hai người đàn bà chắp tay vào ngực nghiêng đầu đáp lễ. Cử chỉ ấy đủ làm cho Hạnh luống cuống, ngượng nghịu. Chàng cũng vội hai tay ôm mũ ép vào ngực, ngả đầu chào lại, để cái xe đạp đổ xuống đường.

Đầu nóng bừng, tay run lẩy bẩy, chàng lóp ngóp cúi xuống nhấc xe, rồi vừa đặt chân lên bàn đạp vừa chào vội vàng:

- Lạy bà ạ, lạy cô ạ.

Hạnh đạp mạnh. Sau lưng, tiếng bà chủ đồn điền:

- Khi nào thong thả mời ông đến chơi.

Hạnh quay đầu lại đáp:

- Xin vâng... Xin cảm ơn bà...

° ° °

Đến cái quán cuối dốc đồn điền. Hạnh xuống xe. Người đàn bà bán hàng mời:

- Rước thầy vào nghỉ chân xơi nước.

Hạnh dựng xe đạp vào phên liếp rồi ngồi xuống ghế dài, hỏi:

- Hàng bà hôm nay vắng nhỉ?

Bà hàng niềm nở đáp:

- Thưa thầy vâng, vắng lắm. Về trưa, về chiều còn khá đông khách, chứ buổi sáng thì vắng quá.

- Vậy sao bà không để đến trưa hãy dọn hàng?

Bà hàng mỉm cười nhìn khách:

- Thưa thầy ở nhà cũng chả có việc gì. Ra dọn hàng kiếm được xu nào hay xu ấy.

Chợt nhận thấy cái đầu băng bó của Hạnh, bà ta hỏi tiếp:

- À! Thầy ngã xe đạp sáng hôm qua ở đây, phải không?

- Phải.

- Thưa thầy có việc gì không?

- Chả việc gì. Chỉ vỡ đầu thôi.

Bà hàng nhớn nhác, mắt tròn xoe nhìn Hạnh:

- Vỡ đầu lại còn chả việc gì!

- Nhưng lành rồi bà ạ.

- Phúc đức quá!

Hạnh quay nhìn về phía lũy tre đồn điền:

- May nhờ có ông Lâm bà Làm mời đốc tờ chữa giúp nên khỏi ngay.

Bà hàng vẻ mặt cảm động:

- Quý hóa quá! Ông chủ, bà chủ đồn điền tốt lắm. Hay làm phúc đức lắm.

Hạnh hơi khó chịu, nghĩ thầm: “Làm phúc! Họ làm phúc? Mình là kẻ nghèo khó được người ta làm phúc!”

Và chàng tự trách, tự ghét mình ban nãy đã nhu nhược, không cố ép bà Làm nhận tiền trả thầy thuốc hộ. Một lần nữa chàng nhận thấy rằng mình vô lý, như chàng đã nhận thấy thế ngay lúc xin đưa tiền cho bà Lâm: “Ừ, sao mình không thân mang số tiền thuốc lên tỉnh nộp ông đốc?”

- Thưa thầy, thầy xơi nước?

- Phải, bà bán cho tôi một bát nước vối.

Hạnh uống vội vàng vài hớp nước nóng, rồi ném trả một xu lên cái mâm bồng gỗ mộc.

- Thưa thầy không dùng gì nữa?

- Không.

Hạnh lặng lẽ đứng dậy ra đường. Bà hàng gọi với:

- Còn thừa của thầy một trinh.

- Thôi, đãi bà.

- Cám ơn thầy.

Hạnh dắt xe đạp lên dốc, lòng buồn rời rợi. Cái cảnh từ biệt bà chủ đồn điền và Lan còn như vẽ ra trước mắt chàng.

Hạnh buồn không phải vì có tình quyến luyến nhưng vì nhận thấy sự vụng về, ngớ ngẩn của mình trước sự ngạc nhiên dễ dàng của hai người đàn bà. Chàng lấy làm lạ rằng sao đàn bà mà lại bạo dạn được đến thế.

Có tiếng chào:

- Lạy thầy ạ.

Hạnh quay nhìn: đó là một người học trò lớn tuổi theo lớp nhất, lớp Hạnh dạy:

- À anh Đăng. Anh biết tin tôi ngã?

Người học trò ngơ ngác không hiểu:

- Thưa thầy con ra tỉnh chơi với người anh em bạn.

- Thế à? Vậy anh đi nhé!

- Lạy thầy ạ.

Trí Hạnh trở lại với cái đời buồn tẻ cái đời ông thầy giữa một bọn học trò không thân, không yêu. Vài hôm nữa, lại đến trường, lại dạy học, lại chấm bài, lại quát mắng, lại nói, nói trong hàng giờ.

Tự nhiên sau những ý nghĩ chán nản ấy, cái phòng ấm cúng, thơm tho, yên lặng hiện ra trong ký ức Hạnh. Hiện ra cùng với hai người đàn bà dịu dàng, âu yếm như người mẹ, thân mật như người chị, ngoan ngoãn như người em, nhất là đẹp mơ màng như người tình trong mộng. Nhưng đó chỉ là những hình dung từ trong tiểu thuyết. Hạnh nhận thấy thế, và càng ngầm nghĩ, Hạnh càng tủi thân. Không bao giờ mẹ chàng đã âu yếm với chàng, chị chàng đã thân mật với chàng, em chàng đã ngoan ngoãn với chàng chưa có, và ngờ rằng có lẽ không bao giờ sẽ có.

Ý nghĩ chàng lại xoắn lấy hai người đàn bà. Và chàng cố nhớ xem những cử chỉ và ngôn ngữ của hai người ấy có giấu chút cảm tình gì đối với mình không.

Hạnh nhận thấy có nhiều cảm tình. Và chàng sung sướng tự yêu mình: không bao giờ chàng đã yêu chàng như thế.

° ° °

Hôm Hạnh đến trường dạy học thì cái vải băng quấn trên đầu đã tháo ra rồi.

Hạnh không thấy đau, ngay từ buổi trở về huyện. Nhưng chàng có ý muốn ngấm ngầm giữ mãi cái vải băng dấu hiệu của bệnh chàng, của tai nạn vừa xảy ra và đưa chàng đến cách cái chết không bao xa. Bỏ nó ra là hết. Là sự lành mạnh là cái đời thường đã sống. Một cớ nữa mà có lẽ đó là cớ chính: Hạnh có chiều lưu luyến với kỷ niệm của đồn điền “Kỷ niệm êm đềm, ấm áp”. Hạnh không khỏi có tư tưởng âu yếm ấy mỗi khi rờ tay lên đầu.

Nhưng hôm trước Hạnh đến nơi cho thuốc để người khán hộ quấn lại băng, theo như lời dặn của ông thầy thuốc. Người ấy bảo chàng sau khi ngắm nghía vết thương:

- Còn quấn làm gì nữa cho nặng đầu. Khỏi rồi!

Bất giác Hạnh nhắc lại hỏi:

- Khỏi rồi?

Người khán hộ cho đó là một câu reo mừng. Sự thực, đó chỉ là một lời kinh ngạc nhiễm vẻ thất vọng. “Khỏi rồi! Chóng thế ư! Một cái tai nạn, một sự nguy hiểm, trong có vài ba hôm đã mất hết dấu vết?” Hạnh mỉm cười nghĩ tiếp: “Thế nào chả còn cái sẹo”. Và chàng hỏi người khán hộ:

- Cái sẹo có to không, ông?

Người kia vạch tóc ở bên tai ra xem rồi nói:

- May ra không có sẹo. Mà nếu có cũng nhỏ và sẽ lẩn trong tóc, chả sao.

Hạnh bắt tay người người khán hộ, buồn rầu ra về. Tới cổng chàng bỗng quay lại:

- Thưa ông, tôi xin cái băng.

Người khán hộ rút ngăn kéo, đưa cho Hạnh một cuốn vải thưa mới, sực nức mùi ether, cái mùi huyền ảo của phòng dưỡng bệnh nơi đồn điền.

- Không, cái băng cũ cơ ạ... Đây rồi.

Hạnh cúi xuống nhặt và xin một tờ giấy để gói.

- Ông vứt cái băng bẩn ấy đi, dùng làm gì. Thiếu gì băng mới. Đây tôi biếu ông.

Mặt Hạnh nóng bừng và Hạnh ấp úng:

- Giữ... kỷ niệm.

Người khán hộ đã quay ra hỏi một người đàn bà rách rưới vừa đến bên bàn giấy và như không lưu ý tới Hạnh nữa.

- Vậy ông cho tôi chỗ băng này?

- Vâng, xin biếu ông.

Hạnh bắt tay một lần thứ hai, rồi đi thẳng. Giữa đường chàng dừng lại giở ra ngắm nghía nắm vải băng cũ còn dính ít bông. Một cảm giác buồn phảng phất trong tâm hồn chàng, một cảm giác mơ màng như giấc chiêm bao.

° ° °

Thấy Hạnh vừa qua cổng trường, Quý, ông giáo lớp nhì, chạy vội ra bắt tay hỏi:

- Noel toa chơi có thú không?

Hạnh chưa kịp đáp, - chàng vẫn có tính chậm chạp nhất về ngôn ngữ - Quý đã tiếp luôn:

- Moa Réveillon 7 ở tỉnh vui quá... Mỗi người góp có hai đồng mà rượu thả cửa. Messe minuit 8 về, rồi thức suốt sáng.

Hạnh đăm đăm nhìn người hạn đồng nghiệp, vẻ mặt nghĩ ngợi:

- Toa có đạo à, thế mà moa không biết.

- Không, moa có đạo đâu!

Quý vỗ vai Hạnh, cười nói tiếp:

- Toa tưởng cứ phải có đạo mới chén được Reveillon?

Hạnh sợ Quý chê mình không biết gì, liền lúng túng nói chữa:

- Cố nhiên là chén được. Nhưng sao toa lại đến nhà thờ dự Messe de minuit?

Quý vẫn cười:

- Làm thế linh hồn moa cùng sẽ chẳng lên Thiên đường đâu mà sợ. Nhưng nghỉ Noel toa ở luôn đây ư?

Hạnh ngập ngừng:

- Không... moa... đến chơi một người bạn.

Và chàng nghĩ thầm: “Thì ra mình ngã xe đạp, mình suýt chết nó vẫn chẳng biết gì hết! Giá cứ để nguyên cái băng mà đến trường...”

Quý ghé tai Hạnh thì thầm:

- Con Lan lại trở về tỉnh rồi đấy, toa ạ.

Hạnh giật mình, hỏi lại:

- Toa bảo gì cơ?

- Con Lan mà toa thích ấy mà!

Mặt Hạnh tái đi, miệng Hạnh há ra. Quý cười hỏi:

- Toa quên Lan rồi? Lan năm ngoái chúng mình đến hát...

Hạnh như vụt hoàn hồn:

- A... Moa cứ tưởng...

- Toa tưởng ai?

- Không... moa lại tưởng Lan nào kia.

Mấy lần Hạnh toan thuật câu chuyện gặp gỡ của mình. Giữ chôn sự bí mật trong lòng, chàng luôn luôn thấy trí chàng rối loạn, tim chàng hồi hộp. Và chàng muốn nói tung ra cho hả. Nhưng chàng vẫn im lìm. Một là vì chàng nhút nhát bẽn lẽn, dù chỉ nghĩ đến một người đàn bà chứ đừng nói thuật chuyện đến người ta vội. Hai là vì chàng không muốn để bạn đồng nghiệp biết mình ngã xe. Xưa nay những việc riêng của chàng, dù là một việc dữ dội, có khiến được ai thương hại, hay phàn nàn hay cảm động đâu! Kể cho người ta nghe nhỡ người ta lại lạnh lùng, thản nhiên, hay vui cười nói đùa cợt thì mình còn ra sao... Chỉ thêm khó chịu, thêm bực tức mà thôi.

Hạnh thoáng nhớ lại một lần cùng Hân - một bạn đồng nghiệp đã đổi đi trường tỉnh - dạo chơi vùng quê. Bỗng chàng bị một con chó đớp trộm một miếng vào bắp chân rồi cúp đuôi cắm đầu chạy biệt. Vết thương chỉ hơi rớm máu, nhưng Hạnh kinh hoảng kêu thất thanh. Khi đã trấn tĩnh, chàng ngẩng lên nhìn bạn, thấy người này thản nhiên không đổi sắc mặt và mủm mỉm cười hỏi chàng:

- Có đau không?

Hạnh lãnh đạm ném ra một tiếng:

- Không.

Chàng lấy khăn buộc chặt vết thương, rồi giơ tay bắt tay Hân, nói:

- Tôi phải về rửa teinture d’iode ngay mới được.

Người kia vẫn mỉm cười, đáp:

- Về thì cùng về.

Trên con đường phố huyện, Hân bình thản, kể những sự nguy hiểm của nọc độc chó dại. Rồi bảo Hạnh.

- Nếu không bắt được con chó mà xem gan nó thì chịu, chả còn biết lành hay điên. Nếu nó điên thì phải tiêm ngay.

Hạnh, giọng lo lắng:

- Hơn hết là cứ tiêm ngay.

Hạnh nghĩ ngay đến cái phiền phải xin nghỉ về tiêm ở viện Pasteur Hà Nội. Thế rồi chàng bỏ qua và vài hôm sau quên bẵng rằng mình đã bị chó cắn. Lười biếng và cẩu thả vẫn là những cố tật của Hạnh.

Nhưng cái vẻ mặt lạnh lùng của người bạn đồng nghiệp thì không bao giờ Hạnh quên được: “Ai cần gì mình, mình sống hay chết thì có can dự gì đến ai!” Cái ý nghĩ bị người ta hất hủi nhóm từ ngày thơ ấu, từ trong gia đình, một ngày một ăn sâu mãi vào tâm hồn Hạnh.

Một hồi trống như đánh thức Hạnh.

Vào lớp. Tiếng thì thào nói chuyện trên khắp các bàn, mặc dầu Hạnh đã thét tới ba lần “silence!” 9. Bực mình, Hạnh trỏ liền bốn trò nhỏ ở bốn bàn đáy lớp: “Khuất! Phi! Can! Hùng! Chép một trăm lần câu: ‘Tôi nói chuyện trong lớp’.” Hùng bé nhất lớp, và không hiểu vì lẽ gì thường bị Hạnh ghét và mắng, có khi đánh nữa. Hùng đứng dậy mếu máo:

- Thưa thầy con có làm gì đâu?

Hạnh nhảy từ bục gỗ xuống, sầm sầm tiến tới đáy lớp và thét:

- Chắt! Thằng Hùng nó có nói chuyện không?

Chắt nổi tiếng nghịch và hỗn và bướng, đứng lên trả lời dõng dạc:

- Không ạ.

Hạnh hầm hầm nhìn Chắt, hỏi:

- Không?

Chắt nghiêm trang nhắc lại:

- Không ạ.

- Vậy ai nói chuyện?

- Thưa thầy anh Bằng ạ. Anh Bằng bảo Hùng: Hôm nọ thầy ngã xe đạp. Anh Đăng ra tỉnh gặp thầy đầu quấn băng chằng chịt.

Hạnh mỉm cười vơ vẩn:

- À ra thế!

Rồi trở về bàn thầy giáo, ngồi rút khăn hỉ mũi.

Chắt vẫn đứng hỏi to:

- Thưa thầy, thay đã khỏi chưa ạ?

Ba, bốn trò hỏi tiếp cũng một câu ấy.

Hạnh cảm động, đáp:

- Cám ơn các anh, thầy khỏi rồi.

Chàng đưa mắt nhìn Đăng mỉm cười khẽ gật. Lần đầu chàng cảm thấy chàng yêu học trò, và chàng tỏ tình yêu thành thực của chàng bằng cách xóa hết phạt.

Giờ ấy là giờ học thuộc lòng, Chắt chừng không thuộc bài, nên muốn kéo dài câu chuyên “ngã xe” cho hết giờ để khỏi bị gọi đọc:

- Thưa thầy, thầy ngã ở đâu ạ?

- Ở cuối đồn điền ông Lâm.

- Thưa thầy cái dốc ấy dài lắm. Thế thầy có việc gì không?

- Tôi vỡ đầu.

Hạnh nhìn quanh một vòng lớp học, để xem công hiệu của hai chữ “vỡ đầu” vừa thốt ra. Quả thực có nhiều trò nhớn nhác và rầm rì nói chuyện với nhau. Sung sướng Hạnh kể luôn:

- Tôi ngất đi. May có... ông Lâm cho khiêng đưa về đồn điền rồi mời đốc tờ chữa chạy.

Một trò hỏi:

- Thưa thầy ông Lâm là ông chủ đồn điền?

- Phải. Cái đồn điền đẹp quá. Cam tốt lạ, toàn giống cam Bố Hạ, quả nào quả nấy to gần bằng cái bát ăn cơm một. Nhưng còn xanh chứ nếu chín rồi thì thế nào ông Lâm... cũng cho tôi một ít, ông hẹn...

Hạnh bỗng ngừng lại, vì cho rằng không nên đem những câu chuyện quá thân mật kể với học trò, nhất vì chàng nhận thấy chỗ nói dối của mình: sự thực thì không phải ông Lâm mà chính bà chủ đồn điền xinh đẹp đã hẹn cho chàng cam. Chàng vội lảng:

- Nhưng làm việc thôi.

Chàng nhìn đồng hồ nói tiếp:

- Chuyện nhảm phí mất gần mười phút!

Rồi mở sổ ra định để gọi tên học trò. Nhưng như vui thích điều gì, chàng tươi cười ngửng lên đưa ngón tay trỏ quanh một vòng các hàng ghế, Ngón tay dừng lại:

- Anh... Chắt, đọc bài.

Chắt đứng lên nói khẽ: “Chết rồi!” khiến mấy trò ngồi bên khúc khích cười. Nhưng hình như thầy giáo không biết gì hết, không biết cả rằng Chắt nhìn sách mà đọc chứ không phải đọc thuộc lòng.

Chàng trở nên dễ tính quá, cho sáu điểm.

Và các học trò đọc sau dù ngấp ngứ cũng đều được điểm tốt.

° ° °

Sau buổi học chiều thứ Sáu. Hạnh hớn hở về nhà, một căn nhà gỗ năm gian lợp lá ở phố huyện. Ngày mai chàng sẽ được nghỉ “tết tây” và ngày kia sẽ là ngày Chủ nhật.

“Hai hôm liền ở nhà...” Hạnh không nghĩ dứt câu, vì chính chàng cũng không biết ở nhà làm gì.

Hạnh băn khoăn tự hỏi. “Ừ, ở nhà để làm gì? Thà cứ đi dạy học còn dễ chịu hơn”. Bất giác chàng tưởng đến Hân với cái thú ngủ suốt ngày đêm. “Đối với anh chàng ấy nghĩ chỉ có một mục đích là ngủ”. Và Hạnh cũng muốn theo gương.

Liền mấy đêm nay, mỗi lần kéo chăn lên đến cằm, Hạnh không sao không nhớ cái phòng ấm áp và hai người đàn bà xinh tươi ở nơi đồn điền. Rồi chàng nằm mơ mộng liên miên cho tới khuya mới ngủ được, có khi trong giấc chiêm bao, hai người đàn bà vẫn không rời chàng ra, đến tha thướt quanh quẩn bên mình chàng.

Tự nhiên, Hạnh mỉm cười sung sướng: “Ăn xong, ta đi ngủ, rồi mai nằm chùm chăn suốt ngày đọc sách”.

Đọc sách? Mấy quyển tiểu thuyết chàng xem cả rồi. Quyển Roman d’un jeune homme pauvre 10, chàng lại đã xem đến hai lượt: chàng hầu như thuộc lòng các đoạn trong truyện, hơn thế, chàng tưởng như mình đã sống với các nhân vật thân yêu. Và nay không hiểu sao, chàng thấy cô con gái trong lâu đài cổ giống hệt người đàn bà nhỏ nhắn xinh đẹp ở đồn điền, giống cả dung nhan lẫn tính tình.

° ° °

Ăn cơm xong, Hạnh sắp sửa lên giường nằm xem lại đoạn “thiếu niên và thiếu nữ bị nhốt nhất” trong tiểu thuyết “Roman d’un jeune homme pauvre”. Bỗng có tiếng gọi cổng. Hạnh nhận được tiếng Quý và chau mày nghĩ thầm: “Nó lại đến rủ mình đi đánh tổ tôm! Nhất định từ chối. Nhất định!”

Tiếng mở then. Rồi một tia ánh sáng đèn điện bấm trong sân tối.

- Bonsoir, Hạnh!

- Bonsoir, Quý.

- Ngủ rồi à?

- Sắp.

Quý bước vào trong nhà, giơ tay bắt tay Hạnh.

- Ai lại ngủ sớm thế bao giờ!... À! Tôi đến rủ anh mai ra tỉnh sớm.

Hạnh ngẫm nghĩ: “Ra tỉnh sớm! Ra tỉnh làm gì mới được chứ?” Và tò mò chàng nhìn cái áo đi mưa của Quý:

- Mưa đấy à?

- Không, tôi mặc áo mưa đi cho ấm, vì ở ngoài đường rét lắm.

Hạnh mỉm cười:

- Vậy rét thế ra tỉnh làm gì?

- Mai tết tây, chúng ta đến chúc tết ông thanh tra học chính.

Quý láu lỉnh tiếp luôn:

- Lấy cớ chúc tết hắn, để ra ra tỉnh chơi ấy mà. Hôm nọ tôi đã trót nhận lời An mời đi hát.

Cái tên Lan chợt đến trong tâm tư Hạnh, và gợi luôn cái hình ảnh cô Lan em ông chủ đồn điền.

- Được, đi thì đi. Vậy mấy giờ bắt đầu?

- Năm giờ ta đi cho sớm. Mình đạp thong thả thì cũng chỉ bảy giờ đã tới tỉnh rồi. Vào quãng tám giờ ta cùng bọn họ đi chúc tết ông thanh tra.

- Đi xe đạp?

- Ừ, chả đi xe đạp còn đi gì? Đi xe tay chậm như rùa thì bao giờ mới đến.

Hạnh mỉm cười:

- Nào tôi có sợ đi xe đạp đâu mà anh phải thuyết lý.

Sự thực, Hạnh đương mơ màng và cảm động ngắm trong trí nhớ suốt con đường từ huyện ra tỉnh, không bỏ sót một cái quán, một cây gạo, một đồi chè, một quãng lên dốc xuống dốc, nhất là cái dốc “đồn điền ông Lâm”.

Và khi tiễn Quý ra cổng. Hạnh vui mừng bắt tay nói:

- Sáng mai, năm giờ.

Đêm hôm ấy Hạnh sung sướng quá, không đọc được một trang tiểu thuyết nào, tuy chàng để đèn gần đầu giường và tuy chàng thức quá mười một giờ khuya.

Chàng dự định cả một chương trình gặp gỡ. Chàng bày mưu lập mẹo để đánh lừa Quý. Chàng nghĩ thầm: “May mà mình chưa nói cho hắn biết câu chuyện... Vậy bắt đầu ta sẽ nói khích Quý, để hắn cùng ta đạp rất mau, cho mệt... Đến quán nước dốc dồn điền ông Lâm phải nghỉ lại... Rồi ta cố khiến được hắn dắt xe đạp đi bộ qua đồn điền... Hễ gặp bà Lâm hay Lan thì thế nào họ chả mời vào chơi. Nếu không...

Hạnh chẳng tìm ra được kế gì để nếu không gặp hai người đàn bà, cũng có thể vào chơi đồn điền được. Mãi sau chàng tính liều: “Thì sao ta không cứ vào chơi ông Lâm? Ừ, vào chơi là phải chứ. Mình mang ơn người ta, đi qua vào cảm ơn một câu”. Bây giờ thì chàng nhận thấy rằng bổn phận chàng là phải vào hỏi thăm vợ chồng ông chủ đồn điền. Nhưng lòng nhút nhát vẫn như thì thầm bảo chàng: “Khó khăn lắm! Vào thế cũng bất tiện, nhất lại có Quý cùng đi”. Chàng bỗng có dã tâm đi trước đi một mình và để mấy chữ lại nói chờ Quý ở dốc đồn điền ông Lâm.

Hạnh nhận thấy ngay rằng làm như thế không ổn thỏa mà lại bất nhã nữa. “Vả thiếu gì cách, cần gì phải dối trá, lừa lọc! Ừ, thiếu gì cách!” Nhưng Hạnh chưa nghĩ ra cách gì thì đã ngủ lúc nào không biết.

° ° °

Hạnh giật mình thức giấc. Ngọn đèn dầu hỏa vẫn cháy ở đầu giường. Hoảng hốt chàng giơ tay toan vặn tắt. Bỗng nhớ tới giờ hẹn ra tỉnh sớm với Quý, chàng vội mở đồng hồ xem. Bốn giờ đúng, Hạnh mừng thầm tự nhủ: “Tí nữa mình ngủ lại thì nhỡ to!” Liền dậy gọi thằng nhỏ lấy nước rửa mặt và đun nước sôi pha chè uống. Rồi mặc quần áo xong, chàng băn khoăn ngồi chờ Quý, chốc chốc lại xem giờ.

Năm giờ kém năm có tiếng chuông xe đạp của Quý ở cổng. Hạnh dắt xe ra đi liền.

Hai người yên lặng cùng đạp đều đều. Hai chiếc xe song song đi ngang hàng nhau. Lửa đèn điện ở xe Quý lập lòe vạch một vệt vàng trên con đường nhựa đen.

Mãi nửa giờ sau trời mới lờ mờ sáng. Quý nhìn Hạnh mỉm cười nói:

- Rét nhỉ!

Hạnh mỉm cười đáp lại:

- Rét thực! Nhưng được cái khô ráo... Sao không mặc tây cho ấm và gọn?

- Bộ đồ áo tây của tôi tàng quá... chào tết ăn mặc tồi, e bất nhã.

Sự thực, Quý chỉ sợ ngượng với bọn ả đào.

Hạnh lại than phiền, giọng run run:

- Rét quá!

- Giá có bún riêu nóng làm một bát thì vừa ấm vừa đỡ đói.

- Sáng anh ăn gì chưa?

- Tôi dậy muộn nên vội vàng đi ngay, sợ anh chờ. Anh hẳn ăn sáng (...)?

- Chưa, tôi cũng chưa ăn sáng.

- Vậy ăn bún riêu nóng nhé?

- Để đến hàng dốc đồn điền ông Lâm.

- Anh biết hàng ấy có bún riêu?

Hạnh trả lời liều:

- Chắc thế nào chả có.

Phong cảnh hai bên đường dần dần rõ. Những lũy tre như bập bềnh nổi trên làn sương làm bay trắng đục. Hạnh cảm thấy buồn bâng khuâng, và lạnh từ trong lòng thấm ra:

- Đi mau cho ấm.

Hạnh nằm rạp xuống tay lái để gió lạnh khỏi tạt vào mặt và nói như một mình:

- Gần đến đồn điền ông Lâm rồi đấy.

Bây giờ cái đồn điền như thu lấy cả ý nghĩa của Hạnh. Mỗi khi một lũy tre sát vệ đường hiện ra ở đằng xa, chàng lại nghển cổ nhìn kỹ, rồi lại tự nhủ thầm: “Không phải!”

- Có lẽ sớm quá.

Hạnh định nói có lẽ sớm quá không tiện vào chơi trong đồn điền. Quý không hiểu, đáp:

- Chưa. Chúng ta sẽ nghỉ ở hàng nước dốc dồn điền.

- Cũng chả sớm đâu. Hơn sáu giờ rồi đấy. Anh đã mệt chưa?

- Nghỉ ăn bún riêu nhé?

- Ừ! Ăn bún riêu!

Hạnh nhớ lại buổi ăn sáng ở đồn điền với hai người đàn bà. “Cũng vào giờ này... Dăm bông ngon quá”. Chợt nghĩ ra một điều, chàng kêu:

- Chết chửa!

Quý hỏi:

- Cái gì thế?

- Không.

Hạnh vừa nhận thấy cái hớ to của mình hôm từ biệt hai người đàn bà: lúc xin đi, chàng nói ra tỉnh có việc cần, thế mà chàng lại nghiễm nhiên ngược lên phía huyện. “Không biết bà chủ đồn điền nghĩ sao? Mình ngốc đến thế là cùng!...”

Và Hạnh áy náy, lo buồn.

° ° °

Một lát sau, đến dốc đồn điền. Tim Hạnh hồi hộp đập mau, người nóng lên, chân đạp nhanh nhẹn.

- Bóp “frein” chẳng trợt bánh ngã đấy.

Quý đáp lại hàng một tiếng cười. Hạnh nói luôn:

- Chính tôi ngã xe ở cái dốc này

- Dốc này thì mùi mằn gì!

Hạnh muốn thuật lại buổi ngã xe, nhưng vẫn bẽn lẽn nhút nhát không dám.

Đến hàng nước, hai người xuống xe. Hạnh trỏ phía trước mặt bảo Quý:

- Kìa, đồn điền ông Lâm đấy!

Quý nhìn theo hỏi:

- Anh quen ông ta?

Hạnh đỏ mặt đáp:

- Không,.. cùng hơi quen thôi.

Rồi đánh trống lảng hỏi bà hàng:

- Có bún riêu không, bà?

Bà hàng niềm nở đáp:

- Không ạ. Thưa hai thay sớm thế này ai ăn bún riêu? Có xôi nóng mời hay thầy xơi.

- Xôi nóng cũng được.

Mỗi người ăn luôn hai nắm xôi đậu đen, uống một bát nước chè tươi nóng, rồi đứng dậy trả tiền ra đi. Hạnh bàn:

- Ta đi bộ một lát cho dãn cẳng.

- Cũng được.

Hai người dắt xe đạp đi về phía đồn điền. Hạnh mừng rằng bà hàng không nhận được mặt mình: “Có lẽ lại không có cái băng”.

Bây giờ, chàng nghe rõ tim đập thình thịch. Tay chàng bần bật run. Qua lũy tre, chàng tò mò nhìn vào trong vườn, bảo Quý:

- Kìa anh trông đỏ ối như cam... Toàn cam Bố Hạ.

Quý nhìn theo nói:

- Ồ! Đẹp quá... giá ta vào mua mấy quả.

- Chưa ăn được vì chưa chín... hãy còn chua.

- Sao anh biết?

- Bà Lâm...

Hạnh toan đáp: “Bà Lâm bảo thế”. Nhưng chàng kìm ngay lại rồi lặng thinh dắt xe đi.

Cổng đồn điền đóng im ỉm. Cả một khu nhà và vườn như còn yên giấc ngủ say, bao bọc trong làn sương mai từng chỗ loang loáng ánh mặt trời mới ló.

Hạnh nghĩ thầm: “Lúc trở về sẽ hay!”

° ° °

Vừa đến đầu tỉnh, hai người đã nghe thấy tiếng pháo nổ ran và trông thấy làn khói trắng bốc lên quyến trong lá long não trên một ngọn đồi cao. Quỷ trỏ bảo Hạnh:

- Chừng các quan Annam đến chúc tết quan Sứ.

Hạnh đương mải nhớ lại lần đi chúc tết năm ngoái, nên không để ý đến lời bạn. Chàng hỏi:

- Không biết có chóng xong không nhỉ!

- Anh bảo cái gì chóng xong?

- Vào ông Inspecteur 11 ấy mà.

- Chóng chậm thì cần quái gì!

- Tôi muốn về ngay.

Quý kêu:

- Về ngay?

Hạnh rụt rè đáp:

- Tôi đương xem dở quyển tiểu thuyết, đương gặp đoạn hay.

Quý cười:

- Chẳng tiểu nào bằng tiểu thuyết cô đầu. Đọc mãi vẫn không chán.

Chàng cười càng to, rồi hỏi Hạnh:

- Anh đã xem tiểu thuyết Ce Cochon... cái gì quên đi mất... của Guy de Maupassant ấy mà?

Hạnh chau mày, và cho là bạn giễu mình. Nhưng Quý thẳng thắn nói tiếp:

- Trong đó có một anh chàng đọc truyện một cách thú vị, và vì đọc truyện như thế mà cứu được một người bạn khỏi bị kiện.

Quý lại cười, vui thích:

- Anh có muốn đọc truyện thú vị ở nhà cô đầu thì xin mời anh tối nay đi chơi với tôi.

Hạnh chẳng hiểu Quý định nói gì, nhưng muốn tỏ rằng mình không quá ngây thơ đối với chuyện đời chàng trả lời liền:

- Thôi, tiểu thuyết ấy xin mời anh đọc một mình.

Một chiếc ô-tô vượt hai người Hạnh thoáng nhìn thấy cái rọc thuốc lá dài của ông thầy thuốc.

Chàng vội quay bảo Quỷ:

- Xe ông Lâm đấy.

Quý ngơ ngác hỏi:

- Ông Lâm nào?

- Ông Lâm chủ đồn điền ấy mà.

- À! Cái ông có vườn cam, phải không?

- Chính.

Từ đó, Hạnh càng lơ đãng trong câu chuyện. Chàng nghĩ thầm: “Chắc tối hôm qua họ tiệc tùng với nhau ở đồn điền!... Thế nào chả có hai người đàn bà!” Tự nhiên, Hạnh ghen với ông thầy thuốc, ghen cả với ông chủ đồn điền.

Va chàng hậm hực hỏi Quý:

- Anh có quen ông lão đốc tờ không?

Quý thản nhiên đáp:

- Quen thì không quen. Biết vậy thôi.

- Anh trông lão ta có ghét không?

Quý ngẫm nghĩ:

- Tôi cũng không nhớ bộ dạng lão ta ra sao nữa.

- Lão ta ngậm cái Porte-cigaretle 12 dài lê thê ấy mà.

- Thế à?

- Trông dơ dáng lạ lùng.

Quý nói vơ vẩn:

- Được cái mình cùng không cần đến ông ta chữa bệnh.

- Biết đâu đấy... Chính tôi đã bị ông ta chữa rồi.

- Thế à? Bao giờ?

- Ừ... ừ... độ nọ... Chúng ta đến Hân đã nhé?

- Phải đấy.

Hai người liền rẽ qua chợ, đạp thẳng lên phố Vọng Cung.

° ° °

Được tin Hân cho biết ông thanh tra Học chính về Hà Nội, Hạnh không giấu nỗi vui mừng. Nhưng chàng cùng vờ thản nhiên:

- Chán quá nhỉ! Lóp ngóp từ huyện lên đến đây, lại lóp ngóp về ngay.

Và chàng bắt tay hai hạn đồng nghiệp nhảy xe đạp đi thắng, nói ở nhà có việc cần.

Tới chợ, Hạnh qua một hiệu phở. Mùi thơm nước ninh thịt bò chợt nhắc chàng nhớ ra rằng chàng đói. Chàng liền vào hàng gọi làm một bát phở tái năm xu.

Ăn xong, Hạnh thấy ấm áp dễ chịu và toan đứng dậy trả tiền. Nhưng chàng nghĩ lẩn thẩn: “Trả năm xu thôi? Họ cười chết!” Vì thế, chàng lại ngần ngừ ngồi xuống.

Vợ người chủ hiệu đến hỏi:

- Ông dùng gì nữa ạ?

- À, làm cho tôi một bát nữa.

- Thưa ông, lại một bát năm?

- Phải, một bát năm.

Hạnh băn khoăn khó chịu gần như tự cáu kỉnh với mình. “Rõ khỉ quá! Vô lý quá!” Nhưng chính chàng cũng không biết vô lý về điều gì. Hình như có một sự liên tưởng đưa tâm tư chàng tới hai người đàn bà ở đồn điền. Và tự nhiên chàng buồn. Cái buồn mênh mang vô duyên cớ.

Ăn xong bát phở thứ hai và mấy quả quýt tráng miệng. Hạnh trả tiền đứng dậy đi.

Tới chỗ ngã ba đầu tỉnh, chàng bỗng lo lắng nghĩ thầm: “Hay thôi quách! Quay về nhà Hân ngồi chầu rìa bàn tổ tôm...”

Nhưng chân chàng vẫn đạp đều đều, như không chịu vâng theo những ý định không quả quyết.

Mặt trời vừa ra khỏi một đám mây và chiếu ánh dịu xuống một cảnh hùng vĩ, Hạnh có cảm tưởng một bức tranh sắc xám vừa nhúng vào trong nước thuốc nhuộm màu vàng tươi, và ở phía trước mặt, dãy núi đột ngột chọc mây vụt hạ thấp hẳn xuống.

Những tia nắng ấm như lọt vào trong lòng trống trải, lạnh lẽo của chàng, làm cho chàng mất hết những cảm giác ban nãy. Chàng thấy chàng như đã biến thành một người khác hẳn, một người hoạt bát. Tuy không nói một lời, - vì nói với ai? - chàng vẫn cảm thấy dòng tư tưởng dồi dào đương nói huyên thiên.

Rồi cái vui bồng bột ít có ấy thốt ra lời ca. Hạnh hát đi hát lại mãi câu: “On dit qu’au delà des mers là-bas sous le ciel clair”13. Vì chàng thuộc mỗi câu ấy, nhưng sau chàng cũng đổi sang câu khác, một câu chàng tự đặt ra và hát theo đủ các điệu, đủ các bậc cao thấp: “Oh! Que je suis heureux! Oh! Que je suis heureux!”14

Một bọn người nhà quê vừa đàn ông vừa đàn bà con gái ở chợ tỉnh trở về, quay lại nhìn Hạnh, mỉm cười. Hạnh bạo dạn hỏi:

- Hát có hay không, các cô?

Vì đi xe đạp thì dễ bạo dạn lắm: Mình vượt qua, dù ở đằng sau người ta có chế riễu, mình cũng không nghe thấy gì. Tuy thế mà khi tiếng cười của bọn kia phá lên đuổi theo Hạnh cũng chột dạ và im bặt. Nhưng Hạnh cảm thấy lòng chàng vẫn thì thầm hát: “Oh! Que je suis heureux!”

Xưa nay ít khi Hạnh nghĩ đến sung sướng. Chàng sống, chàng làm các việc phải làm. Và đời chàng cứ thế mà đi như thế mãi. Một đôi khi ăn ngon miệng, ngủ ngon giấc, chàng cũng có những cảm giác khoan khoái. Nhưng thực chưa bao giờ chàng lại nhủ thầm: “Mình sung sướng”.

Tới đồi thông, - vì trên ngọn đồi trơ trọi có một cây thông cỗi - Hạnh đạp chậm lại. Chàng biết đã gần đồn điền. Chàng lo lắng, sợ hãi nữa. Lượt đi, chàng phàn nàn ngầm rằng có Quý nên không tiện vào chơi đồn điền. Lượt về này, chàng lại phàn nàn điều trái ngược: “Mình rõ vội vàng vô ích! Sao không chờ Quý để cùng về... chứ vào một mình thì trơ trẽn quá”.

Hạnh mơ màng tưởng tượng ra cảnh đón tiếp:

Chàng thấy chàng đến cổng đồn điền, xuống xe không chút ngần ngừ, do dự. Rồi mạnh bạo kéo chuông. Nhàn mở cổng reo! “À! Ông giáo!” Tức thì bà chủ đồn điền đương đứng ngắm vườn cam vội đi ra, sau lưng theo cô em chồng.

- Mời ông vào chơi.

Hạnh cất mũ chào, lí nhí:

- Bà ạ!... Cô ạ!...

- Thưa ông ra chơi tỉnh?

Hạnh nói dối một câu nhã nhặn và lịch thiệp mà chàng đã nghĩ sẵn từ trước:

- Không ạ. Được ngày nghỉ, tôi ra thăm ông bà và cô, để cảm ơn ông bà và cô một lần nữa.

Bà Lâm cười:

- Dễ thường ông đến chúc tết chúng tôi!

Hạnh và Lan cùng cười theo, vui vẻ:

- Thưa bà, ông có ở nhà không ạ?

Đó là câu nói dối thứ hai của Hạnh, vì Hạnh thừa biết rằng Lâm ra tỉnh chưa về.

- Thưa ông, nhà tôi đi vắng, nhưng không hề gì, mời ông vào chơi, nhà tôi cũng sắp về đấy ạ.

Ba người qua phòng ăn vào phòng khách. Bao kỷ niệm! Bao cảm động! Mỗi vật hiện ra một nụ cười nở trên môi Hạnh. Cái bàn ăn và bốn cái ghế gỗ lát, cái tủ dĩa bát với sau kính tủ từng hàng chai rượu nho trắng, đỏ. Trong phòng khách, hai bức ảnh vẫn thân mật nhìn Hạnh.

Bà chủ hỏi Hạnh:

- Thưa ông, ông có muốn ngắm lại cái phòng ngủ của ông không?

Hạnh nghĩ thầm: “Âu yếm quá!” và lém lỉnh đáp:

- Thưa bà, cố nhiên là có. Nơi đất thánh của tôi đấy ạ. Ước gì mỗi năm, bà cho phép tôi được một lần đến viếng.

Bà chủ cười:

- Xin vâng. Ồ! Thế thì hân hạnh cho tôi quá.

Ở phòng ấy, không khí ấm áp. Hạnh nhìn vào lò sưởi. Lửa còn chảy. Chàng cau mày hỏi:

- Thưa bà, đêm hôm qua ông đốc-tờ ngủ ở đây?

- Không ạ. Tôi bảo đốt lò sưởi để đón khách đến chơi vì hôm nay là ngày nghỉ mà lại rét quá.

Câu trả lời của bà chủ, Hạnh cho là vô lý, nhưng âu yếm biết bao! Và chàng mỉm cười đáp lại:

- Thưa bà, người khách ấy là tôi đây.

Lan trả lời thay bà Lâm:

- Vâng, chính thế.

Rồi hỏi:

- Chắc ông chưa xơi sáng?

Hạnh nghĩ đến hai bát phở tái vừa ăn. Nhưng chàng đáp:

- Cảm ơn cô, sáng nay tôi đã dùng một cốc sữa cà phê lớn và...

Chàng định nói “và một cái bánh tây năm xu”. Nhưng ngừng ngay được vì chợt nhớ ra rằng ở huyện không có bánh mì.

Bỗng xe đạp Hạnh nẩy bật lên: Bánh xe vừa vấp phải một hòn đá. Và Hạnh sực tỉnh giấc mộng. Phía tay trái chàng, lũy tre đồn điền. Chàng nhớn nhác dòm qua các khe cành thưa: Cam, quýt đỏ ối một khu vườn. “Ồ! Sao chóng đến nơi thế này?... Cổng đồn điền kia rồi!”

Chẳng hiểu sao, Hạnh xuống xe, thủng thỉnh bước một và nhìn vào trong vườn...

Bỗng chàng khinh ngạc, đứng sững lại. Ở cổng đồn điền, bà Lâm đương ngồi chọn mua củ cải: bó củ cải trắng nuột trong bàn tay trắng hồng, Và Hạnh thì thầm kêu: “Trời ơi!”

Giữa lúc ấy, bà chủ đồn điền ngửng mặt lên, Hạnh luống cuống cất mũ chào. Bà kia hơi nhổm lên và lạnh lùng ngả đầu đáp lễ, rồi lại cúi xuống thúng củ cải.

Hạnh hấp tấp dắt xe bước mau.

° ° °

- Ừ! Có thế chứ!

Đó là ý nghĩa đầu tiên của Hạnh, sau một hồi lâu im lặng. Và Hạnh nghĩ tiếp:

- Ừ! Có lý nào!... Tất nhiên phải thế!

Rồi Hạnh mỉm cười vui vẻ, làm trí nhẹ bổng như vừa cất được một khối phiền muộn. Phiền muộn không phải cội rễ ở ngờ vực, ở chỗ chưa rõ mình có được người ta yêu hay không. Nhưng phiền muộn vì tự dưng mang một tình yêu trong lòng, một tình yêu làm cho mình vừa sung sướng vừa khổ sở, nhất là làm cho mình băn khoăn, lúc nào cũng phải tưởng đến nó, nhớ đến nó, thầm nhắc nhỏm đến nó, loay hoay cảm động vì nó mãi mãi, suốt đời...

Bây giờ thì hết! Bây giờ thì thoát. Vì đã biết chắc rằng người ta không yêu mình. Rõ ràng lắm! Đối với mình, người ta chỉ là một khách qua đường như trăm nghìn khách qua đường khác. Bất giác, những cảnh náo nhiệt, tưng bừng ở Hà Thành vẽ ra rất mau trong tưởng tượng dễ dàng của Hạnh. Những thiếu nữ tươi đẹp ấy, những sắc màu rực rỡ ấy, những tiếng cười trong sáng ấy có bao giờ đã cảm động được Hạnh? Hạnh không hề ham muốn họ, vì thấy họ xa mình quá, thấy họ như muốn sống một xã hội cách biệt hẳn cái xã hội mình sống.

Hai người đàn bà kia cũng chỉ là hai người trong xã hội xa lạ ấy. Còn bận lòng đến họ làm gì?

Hạnh sung sướng vì cho rằng đã tìm được chân lý của sự sống. Và chàng biểu lộ vui sướng của chàng ra: chàng cắm đầu ghì sức đạp thật mau, vừa đạp vừa nghêu ngao hát lại mấy câu ban nãy: “Oh! Que je suis heureux!”

Nhưng cái vui sung sướng bồng bột ầm ỹ chỉ lâu trong mười phút. Buồn - một thứ buồn vô căn cứ - đã vụt hiện ra, rồi dần dần lan rộng, dần dần tăng sức mạnh để chiếm đoạt lấy tâm hồn Hạnh. Hạnh không buồn vì bà chủ đồn điền. Cách đối đãi lạnh lùng của người đàn bà ấy có chi lạ lùng và đáng buồn! Nó chỉ như trăm nghìn lần người ta đã đối đãi lạnh lùng với Hạnh, lạnh lùng và có khi còn tàn tệ nữa. Hạnh như một cơn gió ủ dột từ ngọn núi âm u kia thổi tới, đã lọt vào trong lòng chàng. Hay đó là âm hưởng của quãng đời quá khứ vừa chợt vang lên trong một tâm hồn yên lặng?

° ° °

Sự thực, cái cử chỉ của người đàn bà vừa nhắc Hạnh nhớ tôi một câu chuyện thời còn nhỏ mà chàng như đã quên hẳn từ lâu. Câu chuyện xưa và câu chuyện này cũng chẳng giống nhau lắm, nhưng Hạnh có cùng một cảm giác buồn thoáng qua, cùng một cảm tưởng hồn nhiên lãnh đạm.

Thời ấy, Hạnh theo học năm thứ hai. Trong lớp chàng không thân với một ai, mà cũng chẳng cần được ai thân yêu mình. Ngày hai buổi đến trường, đứng lủi thủi một góc sân, ngồi lủi thủi một góc bàn, chẳng chơi với ai, chẳng nói chuyện với ai.

Nhưng một hôm không hiểu sao, một người bạn học lại gây sự với Hạnh, rồi đấm đá Hạnh túi bụi Hạnh tối tăm cả mặt, giơ cặp lên vừa lùi vừa chống đỡ. Bỗng một người bạn học khác nhảy xổ vào cứu Hạnh, vì thấy Hạnh hiền lành yếu đuối.

Thế là Hạnh đem lòng kính phục và yêu mến Thuận, tên người bênh vực Hạnh. Lần đầu Hạnh yêu, và tình yêu bồng bột, nồng nàn ngay, tuy chỉ là một thứ tình yêu thầm vụng giấu diếm: Hạnh nhút nhát không dám biểu lộ tâm sự mình với ai bao giờ. Có khi Hạnh ngồi lặng hồi lâu, cảm động ngắm bạn, và trở nên lơ đãng đến nỗi không nghe thấy ông giáo gọi đọc bài.

Hạnh không bỏ một dịp nào để tỏ với Thuận - tỏ một cách kín đáo - cái tình yêu lặng lẽ của mình. Chàng cố biếu Thuận những thứ mà Thuận hơi lộ vẻ ưng thích, vì Thuận là con nhà giàu sang, không bao giờ thèm muốn ao ước tha thiết một cái gì. Có lần Hạnh ăn cắp tiền nhà để mua những thứ rất quý đem cho Thuận. Và Hạnh sung sướng mỗi khi không bị Thuận từ chối.

Nhưng chẳng bao lâu, Thuận xin vào trường trung học Albert Sarraut. Hạnh nhớ bạn khóc luôn mấy đêm. Và suốt một tháng đầu, buổi nào Hạnh cũng đi học thực sớm, đến lảng vảng trước cửa trường Albert Sarraut để mong được gặp mặt bạn.

Một hôm trong lúc Hạnh băn khoăn chờ đợi thì Thuận đi xe đạp tới. Hạnh reo lên: “A! Anh Thuận!” Thuận quay nhìn, mắt đăm đăm nghĩ ngợi, rồi đưa tay ra yên lặng bắt tay Hạnh.

Đó là lần hội diện cuối cùng của hai người. Ngày nay Hạnh không biết Thuận ở đâu, Thuận làm gì, Thuận còn sống hay đã chết.

Nhớ lời Thuận, Hạnh cảm thấy buồn êm ái tràn ngập tâm hồn.

Nhưng trong cái buồn mênh mang ấy, hình ảnh người đàn bà vẫn thấp thoáng hiện ra như bóng con chim én thấp thoáng bay vụt qua lại cửa sổ.

° ° °

Về đến nhà, Hạnh lấy nê mệt nhọc, đi ngủ ngay.

Nhá nhem tối. Nhỏ lên đánh thức chàng dậy, giữa một giấc chiêm bao. Hạnh mơ nhận được thư xin lỗi của bà chủ đồn điền. Lời lẽ trong thư rất thành thực, ân cần, tuy trang nghiêm và chỉ vắn tắt có mấy dòng. Hạnh đọc đi đọc lại ba, bốn lượt và đã thuộc lòng khi tỉnh giấc.

Nhỏ thấy chủ tung chăn lên và ngơ ngác như tìm vật gì chung quanh mình liền hỏi:

- Thưa cậu mất cái gì ạ?

- Không.

Hạnh chợt nhớ ra rằng mình chiêm hao, và bức thư kia chàng chỉ nhận được trong giấc mộng. Chàng cau có nghĩ thầm: “Vô lý! Việc quái gì người ta phải xin lỗi mình!”

Những bức thư trong mộng cũng an ủi Hạnh được đôi chút. Nó đem đến cho chàng những ý tưởng mà lúc tỉnh chàng không có, không dám có: là người đàn bà có tính lơ đãng và lúc chưa kịp nhận ra được chàng thì chàng đã đi xa rồi.

Hạnh cho lý ấy đúng lắm, hợp khoa học lắm... Chính chàng nhiều khi giữa đường gặp người quen mà mãi mấy giây sau mới biết.

Chàng mỉm cười: “Dẫu sao thì đó cũng không phải là một việc quan trọng đáng để mình chú ý”.

Và chàng đi ăn cơm.

Hôm sau, Chủ nhật một ngày mưa phùn. Hạnh khoác áo ngồi uống nước. Đã hơn tháng nay, chàng bắt chước Quý sáng dậy uống chè Tàu, tuy chàng chẳng thấy chè Tàu ngon.

Một cảm giác ấm vỗ về Hạnh.

Và Hạnh rung đùi thì thầm ngâm Kiều như một ông đồ già.

Ngang mái tranh, nước mưa đọng giọt, một hàng lấp lánh như những ngôi sao. Đều đều sao theo nhau rụng. Và đều đều sao theo nhau mọc. Thong thả, rời rạc lười biếng như đời! Hạnh nghĩ thế nhưng thấy cái hình cảnh trừu tượng của mình không đúng và mỉm cười. Mấy hôm nay Hạnh sinh ra mơ màng và hay so sánh những hình, những sắc, những ý với nhau. Lúc này chàng lại loay hoay làm thơ nữa. Nhưng không thấy trong óc nảy ra một ý nghĩ rõ rệt, chàng vội nghĩ thầm: “Linh hồn mình khô khan quá, làm thơ sao được! Có lẽ viết tiểu thuyết cỏn hơn”. Chàng tưởng ngay đến chép đời mình thành truyện như Dickens trong truyện David Copperfield.

Cái mộng đẹp ấy đưa tâm trí Hạnh ôn lại đời mình từ thời bốn, năm tuổi cho tới ngày nay lãnh đạm ôn lại bằng óc nhà nghệ thuật tìm tòi để viết, chứ không phải bằng cảm giác một người đã sống. Hạnh thấy lộn xộn quãng đời nọ với quãng đời kia, bề bộn các cảnh dùng làm khung cho tập chuyện. Một điều lạ cho Hạnh nhất, là cảnh nào trí Hạnh cố gợi ra cũng thuộc về mùa rét: trời mưa phùn, u ám, gió bấc lạnh hiu hiu. “Có lẽ tại bây giờ đương mùa đông, nên mình xây dựng dĩ vãng bằng hiện tại?”

Bất giác Hạnh lại nhìn ra sân, cái sân lát gạch Bát tràng. Sau bức tường hoa thấp, mấy bông hồng quế rung rinh đầu cành gầy, mảnh. Hai bên hệ cây hương, hai gốc cau cân đối, những tàu lá nặng trĩu rủ im trong mưa. Cảnh ấy Hạnh nhớ đã ngắm nhiều lần, không biết ở đâu.

Cái ý định viết văn mỗi lúc một thêm quả quyết. Hạnh phác qua trong trí hình ảnh các nhân vật chính: cha chàng mẹ chàng, các anh em chàng những thầy giáo, những bạn hữu của chàng. Hạnh chỉ nhìn thấy phía buồn cười của các nhân vật mà chàng tự hứa sẽ làm cho thực hoạt động.

Bỗng Hạnh bật cười lên tiếng. Chàng vừa nghĩ đến ông thầy thuốc với cái rọc thuốc lá dài lê thê. “Đoạn ấy tất mình tả phải hay!”

Nhưng ông thầy thuốc đi liền với hai người đàn bà mà Hạnh không thể tách rời ra được... Chợt một ý tưởng êm đềm làm má Hạnh ửng đỏ: Chàng vừa có tà tâm tô điểm cho ái tình ngắn ngủi của chàng thêm đẹp, thêm tươi.

Nhận ngay thấy rằng đó là một sự mỉa mai đau đớn, chàng đứng dậy buồn rầu tự nhủ:

- Thôi mai lại đi dạy học như thường.

Làm như mình đã không như thường trong tuần lễ vừa qua.

--------------------------------

1
Mờ mỹ thuật.
2
Bánh đen.
3
Đen.
4
Dăm bông.
5
Độ lớn nhỏ của nòng súng.
6
Khoa dạy học.
7
Tiệc ăn giữa đêm Noel.
8
Lễ nửa đêm.
9
Im.
10
Truyện một chàng nghèo.
11
Ông Thanh Tra.
12
Cái rọc thuốc lá.
13
Người ta nói rằng ở phía bên kia bể, dưới trời trong...
14
Ồ! Ta sung sướng! Ồ! Ta sung sướng!

 

Từ tập truyện Hạnh - Đời Nay xuất bản năm 1940

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.