chan_dung-ke_si

HAI CÕI U MINH – Truyện ngắn Sơn Nam

09-02-2025

Lượt xem 1841

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Sơn Nam

HAI CÕI U MINH – Truyện ngắn Sơn Nam

Nhà văn Sơn Nam (1926-2008)

Chân Dung Kẻ Sĩ: HAI CÕI U MINH là truyện ngắn trong tập truyện cùng tên viết năm 1965 của nhà văn Sơn Nam. Cùng với Hương Rừng Cà Mau, đây là tập truyện được đề cử Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2011. Tuy nhiên gia đình của "Ông già Nam Bộ" đã xin rút tên ông khỏi danh sách do lúc sinh thời, nhà văn chỉ viết cho người đọc mà không màng danh lợi hay giải thưởng.

Nơi giáp giới làng Đông Thái và làng Vĩnh Hòa ở U Minh, có người còn gìn giữ một di tích lạ lùng: một manh áo đen bạc màu, cất giấu cẩn thận trong cái hộp bằng cây.

Nắp hộp ít khi mở ra cho ai xem vì chủ nhân cho rằng làm vậy thì xúc phạm tới vong hồn người từng mặc chiếc áo đó. Có từ trăm năm về trước.

Nhân lúc cao hứng, chúng tôi xem qua manh áo nọ rồi thò tay rờ thử. Chủ nhân vội vã gạt tay chúng tôi ra đậy nắp hộp lại và nói:

- Đừng xúc phạm. Nó quý hơn ngọc ngà châu báu, nó linh thiêng hơn cái sắc thần ở đình làng.

Chúng tôi ngơ ngác, cho rằng chủ nhân muốn thổi phồng sự quan trọng của manh áo. Chủ nhân giải thích:

- Nhờ mồ hôi của manh áo này, nhờ tên của người mặc áo này mà từ trăm năm qua, người mình mới dám cất nhà dựng chòi ở chỗ này.

Rồi chủ nhân kể lại câu chuyện nghe qua thì hơi ly kỳ, nhưng ngẫm lại cũng thông thường, có thể xảy ra.

Ngày ấy, dân số làng Đông Thái lại tăng một người. Vùng đất hoang mới khai khẩn, dân số tăng thêm không có nghĩa là thêm đứa con nít mới chào đời. Người dân mới đến ấy non bốn mươi, hồi hai tháng trước đã theo cụ Nguyễn Trung Trực phá đồn Kiên Giang mà giặc Pháp vừa chiếm đóng.

Vài người đến làm quen:

- Ông là... ông Cai Thoại.

Ông Cai Thoại đáp:

- Tôi không còn cơ hội đánh giặc nữa. Tôi muốn ẩn sĩ quy điền.

Nhưng điền đất ở mé biển, ven bờ U Minh bây giờ thuộc quyền sở hữu của ông Tổng Bá. Và ông Tổng nghiễm nhiên là người chủ điền duy nhất.

Ông Cai Thoại cưới vợ, cất chòi giữa ranh đất của Tổng Bá và khu rừng vô chủ gọi là U Minh. Trong đêm tân hôn, người vợ cằn nhằn khuyên nhủ:

- Mình nên chí thú làm ăn, đừng gây gổ với Tổng Bá. Ổng giết người như giỡn, nghe đâu ổng ra chợ Rạch Giá để nhận chức Cai Tổng với người Lang Sa. Thời đằng cựu làm Cai Tổng, qua tân trào ổng muốn giữ chức cũ. Ổng đáp:

- Nếu tôi gây gổ vì lẽ phải thì em nỡ lòng nào cắt đứt tình nghĩa. Tánh tôi ít chịu thua ai.

- Tổng Bá trả thù thì cả xóm mang họa lây.

Ông gật đầu:

- Dám tới đây tức là tôi lo liệu trước rồi. Gây gổ với Tổng Bá làm gì! Ông ta là tên chúa ngục ở địa ngục trần gian.

Bà vợ mừng vô kể, đưa ra điều kiện:

- Nếu mình gây sự mình tính sao với em?

- Tôi nằm xuống cho mình đánh mười roi. Mình vững bụng đi, nhà cất ở ranh đất, sát bên rừng. Nếu xảy ra điều gì, mình còn chỗ nương thân...

Bà vợ lại sợ sệt:

- Mình rút lui vô rừng, phía U Minh Thượng hả? Trời ơi! Cọp nhiều lắm, vô đó là chết.

Ông nói giọng bí mật:

- Tiến vô chứ đâu phải chạy lui. Người nhút nhát như mình ưa nói bậy quá. Thà ở với cọp còn hơn ở với Tổng Bá.

Hôm sau ông Cai xách dao ra sân, đốn cây trúc khá to đem vào khoe với vợ:

- Đây này, sẵn có cây roi để dành đánh tôi.

Bà vợ cau mày, hiểu chồng mình là kẻ quân tử nhứt ngôn, chẳng bao giờ nói láo với vợ dầu là trong phòng riêng, lúc ban đêm chẳng có ai làm chứng.

Ông Cai nói:

- Mình buồn hả?

- Buồn thì cũng buồn, ngặt nói ra khó quá. Em sợ mình ưa dạo chơi phía U Minh rồi gặp tai nạn bất ngờ.

- Vậy thì mỗi lần tôi dạo U Minh, mình cứ đánh tôi mười roi. Đàn bà phải có chút ít quyền hạn đối với chồng.

Bỗng nhiên từ phía rạch thứ Sáu, một tiếng nổ ầm khiến chim cò bay như vỡ tổ. Đó là pháo tre của Tổng Bá đốt làm hiệu lệnh. Đôi ba tháng một lần, ông ta ra chợ Rạch Giá để "hầu" quan chủ tỉnh người Pháp. Từ nhà ông ta ra vàm biển, con rạch chảy cong quẹo, phơi bãi bùn khi nước ròng. Những lúc ấy, Tổng Bá đốt pháo huy động dân chúng trong điền tới kéo ghe.

Ông Cai Thoại nói:

- Tôi ra xóm vàm xem vụ gì.

Bà vợ lắc đầu:

- Mình cứ ở nhà. Tổng Bá bắt dân kéo ghe. Nếu mấy chú lính tới mình chạy ra sau rừng mà trốn.

- Người anh hùng vai u thịt bắp như tôi mà trốn à! Nếu vắng mặt tôi thì mấy người khác lại phải mệt sức. Tôi muốn tiếp với họ.

Nói xong ông Cai chạy một mạch ra xóm vàm. Tiếng pháo tre thứ nhì nổi lên. Bà vợ nhăn nhó mặt mày, đứng không yên, tưởng đến cuộc đấu khẩu và cuộc đâm chém sắp xảy ra. Chồng bà tuy hiền, nhưng đôi khi rất hung dữ, xem cái chết bằng chơi.

Đến xế trưa, ông Cai trở về với năm sáu người bạn trai. Bà mừng vì chồng mình còn sống. Bà lại lo âu vì bọn người ấy từng nổi danh làm nghề đốn củi, ăn ong rồi họ bỏ nghề, năn nỉ cất nhà trong điền của Tổng Bá vì cọp U Minh đã xuất hiện vài lần, giết người tha luôn xác. Phải chăng ông Cai Thoại rủ rê bọn họ trở lên rừng đốn củi ăn ong như dạo trước. Nếu đụng tới cọp, ông sẵn sàng trừng trị.

Ông Cai nói:

- Mình nấu cơm cho anh em ăn. Nấu thiệt nhiều để ăn no còn gói theo.

Ăn xong, ông từ giã vợ, lên đường với bạn. Bà vợ chạy theo, rơm rớm nước mắt. Ông Cai trở vô nhà nằm sấp xuống đất rồi thét:

- Tôi thất hứa. Mình cứ đánh mười roi về tội tôi rút lui lên U Minh, ủa, tôi tiến vô U Minh!

Cực chẳng đã, bà cầm ngọn roi đánh vào mông ông Cai mười roi, tượng trưng.

U Minh là khu vực không biên giới rõ rệt, chẳng hiểu Đông, Tây, Nam, Bắc giáp với làng nào, xóm nào. Nơi khai thác xong thì mang danh xóm Giáp, xóm Ất. Đào kinh thì gọi kinh 4 thước (bốn thước bề ngang) hoặc kinh Chú Kỵ, kinh Bà Sửu, Bà Bình gì đó. U Minh còn có nghĩa là nơi tối tăm, ban ngày ánh nắng bị tán cây che khuất, vừa quá xế chiều sương mù buông xuống chẳng thấy đâu là đâu. U Minh là tên một cửa ngục ghê rợn trong Thập Điện do Diêm Vương cai quản. Xưa kia. U Minh bao gồm tận bờ biển vịnh Xiêm La, lần hồi địa danh ấy thu hẹp lại, nhờ sự khai thác cần mẫn của dân tứ xứ.

Ông Cai muốn thu hẹp địa danh U Minh, bắt đầu từ khu rừng phía nhà ông, ranh đất của Tổng Bá.

Mấy người đốn củi, ăn ong đưa ông Cai đến một giồng đất cao ráo. Họ dừng lại và nói:

- Ổng thường tới rình mồi, đàng kia kìa!

Ông Cai dựa lưng vào gốc cây tràm.

- Tôi ngủ dưỡng sức. Hễ thấy, anh em kêu tôi. Cọp đói đánh hơi giỏi lắm.

Chập sau đoàn người nắm tay ông Cai, giật mạnh:

- Ổng kìa!

Ông Cai ngồi dậy, quan sát rồi bảo:

- Để một mình tôi ra nói chuyện. Ổng đứng một mình, bọn mình thì quá đông. Lắm khi vì ổng quá sợ nên ổng làm liều. Đừng làm cho ổng sợ.

Ông Cai đến gần cọp. Cọp đến gần ông rồi cọp cúi đầu. Ông Cai đấm mạnh vào cần cổ nó. Nó há miệng ra. Ông đưa tay vào miệng nó. Nó rống lên chạy mất. Ai nấy xám mặt sợ giùm cho tính mạng ông Cai.

Chừng ông trở lại, họ quỳ xuống lạy. Ông giải thích:

- "Cha nội" tham ăn, mắc xương ở cuống họng. Tôi rút cục xương ra. "Cha nội" mừng quá nên chạy mất. Thôi, anh em mình về. Bữa nay đủ rồi. Mai mốt mình mang theo dao búa để phá rừng.

Đêm ấy bà vợ khóc nức nở, khuyên chồng đừng quen thói dại dột. Ông Cai nói:

- Ai dại dột, ai khôn thì trời đất biết. Người đời chẳng nên ham tiếng khôn hoặc tránh tiếng dại. Mấy người bạn của tôi làm nghề ăn ong, đốn củi, siêng năng lắm.

Bà Cai ngắt lời:

- Họ gặp cọp nên bỏ nghề.

- Mình nghe nói họ bỏ nghề, xin ở trong điền của Tổng Bá. Tổng Bá bắt họ làm đủ thứ công chuyện, làm thí công. Hồi hôm qua, họ xây lưng đẩy chiếc ghe biển. Tổng Bá ngồi trong ghe, vừa uống rượu vừa chê trách họ lười biếng. Họ cố sức đẩy, nước cạn, ghe quá nặng. Biết sao bây giờ, Tổng Bá sai lính quất roi cá đuối lên lưng, lên đầu họ. Hôm qua, họ tới đây ăn cơm, mình mẩy rướm máu. Họ bận áo để che vết thương. Mình đâu có thấy chuyện đau đớn đó. Bởi vậy tôi lên U Minh một lần nữa.

Đúng hẹn ông Cai và đoàn người chuẩn bị lên đường. Ông rút cây roi, đưa cho bà vợ:

- Mình đánh tôi mười roi nữa đi.

Bà vợ chắp tay xá chồng:

- Em lạy mình.

Ông Cai gắt giọng:

- Ai biểu mình lạy. Nếu mình không đánh, phen này tôi đi tuốt, không trở về.

Mười roi tượng trưng đã đánh xuống. Ông Cai chạy nhanh cho kịp đoàn người. Họ không muốn chứng kiến cái cảnh vừa tức cười vừa cảm động ấy. Lần này họ dạn dĩ hơn, mang theo gạo muối và nóp để ngủ trong rừng. Đến nơi, họ đốn cây, đào ao, chặt lá mật cật phơi khô để lợp nhà, cọp rống từng chập, như gần lắm. Ông Cai đi hồi lâu rồi trở lại:

- Ngưng tất cả công việc. Ai biết săn heo rừng, săn khỉ? Kiếm mồi về cho tôi!

Ăn cơm xong, ông trình bày: con cọp hôm trước trở lại vì vết thương khá nặng ở bắp đùi, dòi bu lúc nhúc khoét thịt. Cọp mang tật "cà nhắc" chẳng còn đủ sức rượt bắt mồi. Hễ đói quá, cọp phải ăn thịt người. Con người chạy chậm, dễ rượt theo, ở chỗ rậm rạp; heo rừng và nai thì nhanh chân hơn.

Buổi chiều, nhờ con heo rừng mà ông Cai đến gần cọp, ban bố thức ăn cho nó. Đâu đó xong xuôi, ông khuyên ai nấy ngủ dưỡng sức. Ông thức bên bếp lửa: khi trời gần sáng cọp mất dạng.

Hai ngày sau, bốn căn chòi đã dựng xong. Đoàn người rủ nhau về xóm kiếm thêm gạo. Dọc đường ông Cai nói khôi hài:

- Mai mốt anh em mình trở lên U Minh. Nhớ đem theo vài con chó săn, vài lít rượu, một giạ lúa giống. Cứ lên trước. Tôi ở nhà hú hí với má bầy trẻ, chịu thêm chục roi rồi tới sau. Chẳng lẽ anh em lại sợ... cứt cọp!

Lúa vãi xuống, mọc nhanh vì lòng đất U Minh ẩm ướt. Tuy nhiên, vài hôm mộng lúa bị cắn ngang vì chim chóc kéo tới quá nhiều. Ông Cai khuyên đốn cây to, xóc thành hàng rào xung quanh nhà. Công việc đang tiến hành, chợt có người la hoảng:

- Ông Cai ơi! Ổng kìa!

Ông Cai chạy tới, khuất dạng. Rồi trở về với gương mặt lo âu:

- Rừng này hết nai, hết khỉ. Bởi vậy cọp đói chịu không nổi. Ráng kiếm một con heo rừng cho tôi! Cọp sợ heo rừng. Cọp to lớn nhưng quá dở. Chắc hôm trước ổng mang bịnh, khi đụng độ với con heo rừng có nanh bén.

Ông Cai lựa một cái đùi heo rừng khá to, buộc vào sợi dây mây rồi đốn một cây tre rừng. Mọi người ngơ ngác đặt ra giả thuyết.

- Thưa ông! Cọp nhai nát cây tre đó. Tre yếu quá, làm sao đủ giựt sức ông cọp cho hỏng chân. Sợi dây mây lại bở hơn.

Ông lắc đầu:

- Anh em mình đừng tính chuyện thất đức. Đâu phải tôi làm cần bẫy. Vui lắm, lát nữa tôi rủ một anh đi theo. Một anh thôi. Đi nhiều quá cọp sợ. Ông ta sợ vì ông ta chỉ có một mình. Vậy mà hồi nào anh em nói cọp U Minh sống từng bầy! Dóc quá. Cọp ở ngoài Khánh Hòa mới đông. Rừng U Minh này còn một con cọp lạc bầy này mà thôi. Nó hung dữ vì bị bịnh, vì đói. Ai dám theo tôi.

- Tôi! Tôi!

Đến gốc cây tràm, ông ra lệnh cho anh chàng cảm tử nọ:

- Đứng im, đừng chạy bất tử cọp khinh dễ. Rủi bề gì thì trèo lên ngọn cây. Nhớ cầm cây cần câu này trong tay. Cầm thật chắc, đừng sợ, run tay.

Ông Cai đi khuất dạng trong rặng cây thưa thớt rồi trở ra với con cọp theo sau. Ông nói to:

- Làm như người câu cá. Cái đùi heo là miếng mồi.

Anh chàng cảm tử nói giọng cà lăm:

- Thà chết còn sướng hơn. Rủi ổng tưởng tôi là con mồi thì làm sao?

Ông Cai nín cười không được:

- Thịt của chú em chưa chắc ngon hơn thịt heo rừng. Đừng cãi nữa, ổng tới rồi. Phải đứng im, đừng giựt khi ông táp mồi. Đứng im cho tôi.

Anh nọ day mặt, chẳng dám nhìn đối diện con cọp già nua. Cọp bước cà nhắc, lông rụng khá nhiều, trông thiểu não như ông tướng trong tuồng hát bội mặc áo giáp lủng lỗ. Cọp táp đùi heo rồi chạy, sợi dây mây đứt luôn.

- Mình về chòi mình ở, bộ chú em muốn câu hoài sao chớ?

Ngày lại ngày, theo lịnh ông Cai, tất cả mọi người khai hoang lần lượt đóng vai anh thợ câu... cọp. Ông Cai đứng xa cổ võ cho ai nấy đừng sợ. Giếng đã đào xong. Mấy vồng khoai phủ xanh mướt, đọt non khoe tươi dưới bầu trời sáng sủa. Ông Cai dạo suốt ngày trong rừng, tìm hướng ngọn rạch Thầy Quơn và ngọn rạch Lốc Hỏa với ước mơ sẽ đào con kinh ăn thông ra sông Cái Lớn.

Xóm nhỏ đã thành hình. Ông Cai về thăm nhà. Bà vợ khuyên đừng phiêu lưu nữa, ông đáp:

- Tổng Bá giận tôi lắm. Nó nói xấu, đòi bắt tôi về tội lôi kéo tá điền lên rừng. Ở đây lâu ngày, xảy ra chuyện đổ máu. Chi bằng vợ chồng mình lên U Minh cất chòi cho gần gũi anh em.

Bà vợ tuân lời.

Nhưng, ông cọp thỉnh thoảng lại đến đòi ăn. Vấn đề thật nan giải. Chẳng lẽ cả bọn thay phiên nhau săn heo rừng để cúng cho cọp. Vài người đưa ý kiến:

- Xin ông trổ tài, giết hoặc đuổi ổng qua xứ khác.

Ông đáp:

- Anh em chưa trở thành điền chủ mà đã lười biếng, sanh tệ. Nếu giết con này, biết đâu còn con nữa, ở trong rừng sâu chạy tới. Đuổi nó đi, tức là gieo tai họa cho người lân cận. Rủi mai chiều, tôi mắc dịch, mắc gió chết thì chẳng lẽ anh em bỏ xóm?

- Ông nói chí lý. Chúng tôi sợ lần hồi cọp về xóm để ăn heo nhà, trâu nhà.

Vài ngày sau ông Cai nài nỉ:

- Ráng săn con heo rừng hay con nai giùm cho tôi, lần chót.

Ông Cai nhặt cái đùi heo, trao cho anh chàng cảm tử hôm trước:

- Đi theo tôi.

Ra khỏi xóm chừng mười công đất, ông bảo anh ta đứng một chỗ. Ông chạy vào rừng sâu, khi trở về có con cọp già lẽo đẽo phía sau.

Anh nọ xám mặt:

- Trời ơi! Làm sao tôi đốn tre, bứt mây làm cần câu cho kịp?

Ông nghiêm mặt:

- Trận này mới biết thắng bại. Chú mày đứng yên một chỗ. Có tôi đây. Nhưng mà chú mày cứ coi như là tôi vắng mặt.

Cọp tới trước mặt anh nọ. Anh ta luýnh quýnh, đem cái đùi heo rừng mà giấu sau mông.

Ông Cai nói:

- Được rồi! Đứng im! Hễ chạy là cọp ăn thịt anh liền. Mọi khi, tôi kêu bằng "chú em", hôm nay tôi kêu bằng anh. Anh chạy trốn thì mọi người chạy theo, về xóm của Tổng Bá để ăn mày.

Cọp dừng bước, lè lưỡi, cúi đầu, rồi từ phía sau lưng anh nọ, nó bước chậm rãi từng bước.

Ông Cai nói từng chặp:

- Anh coi chừng, nó lại gần rồi. Đừng day mặt, nó khinh dễ. Nó tới sát đó. Nó muốn ăn cái đùi heo rừng. Hễ nó táp là buông tay ra.

Cọp táp đùi heo, quay mặt, chạy tuốt. Ông Cai trố mắt. Anh nọ như chết đứng tại chỗ.

Ông cười to:

- Đã là anh hùng thì phải tỉnh táo về nhà nhậu cho vui chớ. Đứng đó một mình, ổng trở lại. Cám ơn anh. Xong xuôi rồi. Gửi lời thăm bà con trong xóm. Tôi đi đây.

Anh nọ như tỉnh giấc chiêm bao:

- Ông Cai đi đâu?

Ông Cai đã khuất dạng.

Và từ đó về sau, chẳng ai gặp ông nữa.

Dân chúng xóm biển lần hồi bỏ Tổng Bá, lên U Minh Thượng lập nghiệp. Xóm biển trở nên vắng vẻ, nhiều người ra tận hải đảo như Hòn Tre, hòn Sơn Rái, theo nghiệp chài lưới. Mỗi lần ra chợ hầu quan chủ tỉnh Lang Sa, Tổng Bá không còn đốt pháo làm hiệu lịnh nữa: đốt vô ích, chỉ lơ thơ vài người chạy tới. Tổng Bá mướn thợ về xây nhà, làm hàng rào kiên cố mặc dầu tiền bạc ông ta chẳng còn bao nhiêu. Ông ta hút á phiện để giải sầu, đêm đêm thức từng chập khi nghe chuột chạy, dế kêu. Sợ ăn cướp, sợ ma.

Vùng đất hoang ở U Minh Thượng đã nở rộ câu hò tiếng hát. Bà Cai chẳng hiểu chồng mình dạo chơi phương nào. Bà muốn lập bàn thờ, nhưng dân chúng ngăn cản vì chưa có bằng cớ gì chứng tỏ ông Cai đã chết. Đôi khi cọp về viếng xóm, có người đến nhà bà Cai để cầu cứu. Bà nói:

- Nhà tôi để lại cái áo rách đây! Anh em mặc thử xem. Có lẽ cọp còn nhớ mùi mồ hôi quen thuộc của ổng.

Họ mặc áo của ông Cai, quát to cố ý cho cọp nghe. "Đi ra xa! Thử hửi mồ hôi thì biết ta là ai!". Thế là cọp rút lui. Lần hồi, chiếc tàn y nọ rách nát. Người đi rừng bèn xưng danh hiệu, vắn tắt:

- Tao là Cai Thoại đây!

Mười lần như một, cọp đều chạy trốn.

Vài chục năm sau, tin rằng ông Cai đã chết, mấy ông kỳ lão trong xóm bàn bạc, muốn hùn tiền cất ngôi miếu nhỏ thờ ông. Nhưng vừa hùn tiền xong lại nghe tin ông Cai Thoại còn sống nhăn. Bằng cớ là đêm đêm, người đi bắt trăn giữa rừng đã gặp ông thấp thoáng bên đống lửa, trong sương mù, kế bên có con cọp bạch quỳ xuống chầu chực. Lời đồn đại còn kèm thêm chi tiết: Ông Cai ngồi, uống rượu, thỉnh thoảng vỗ vai cọp, nói tiếng gì, không ai nghe được, nhưng cọp gật đầu.

 

Bài liên quan
  • NGƯỜI THÀY THUỐC - Truyện ngắn Thanh Châu

    NGƯỜI THÀY THUỐC - Truyện ngắn Thanh Châu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Người Thày Thuốc là truyện ngắn trong tập truyện cùng tên của nhà văn Thanh Châu, Tân Dân xuất bản năm 1938. Ông chính là tác giả của truyện ngắn Hoa Ti-gôn, vốn là khởi đầu cho một cuộc tranh luận bất tận cho tới tận ngày nay về bài thơ  “Hai sắc hoa Ti-gôn”, của nhà thơ “bí ẩn” T.T.Kh.
  • ÔNG CẢN NGŨ – Truyện ngắn Kim Lân

    ÔNG CẢN NGŨ – Truyện ngắn Kim Lân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Từ lời khuyên của nhà văn đàn anh Vũ Bằng: “Ông viết về nông thôn không bằng cụ Tố (Ngô Tất Tố), Nam Cao, ông nên viết về nông thôn kiểu Đôi Chim Thành.", nhà văn Kim Lân đã viết một loạt truyện ngắn phóng sự rất thành công in trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy về nông thôn,  Ông Cản Ngũ, như loạt truyện khác của ông, đã lưu giữ cho đời sau biết được rằng; vào thời bị thực dân Pháp cai trị, dân ta dù bị áp bức bóc lột, vẫn có những hoạt động văn hóa, những kiến thức dân gian vô cùng sâu sắc.
  • ĐOẠN TUYỆT - Nhất Linh - Phần cuối

    ĐOẠN TUYỆT - Nhất Linh - Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Đoạn Tuyệt là truyện của nhà văn Nhất Linh, ra mắt vào năm 1934, đúng năm văn đoàn nổi tiếng nhất thời bấy giờ do chính ông thành lập là Tự Lực Văn Đoàn ra mắt. Đây là tác phẩm không chỉ đóng đinh về một tài năng văn chương Nhất Linh, nó còn tiêu biểu cho cả văn đoàn mà ông là chủ soái.
  • ĐOẠN TUYỆT - Nhất Linh - Phần 1

    ĐOẠN TUYỆT - Nhất Linh - Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Đoạn Tuyệt là truyện của nhà văn Nhất Linh, ra mắt vào năm 1934, đúng năm văn đoàn nổi tiếng nhất thời bấy giờ do chính ông thành lập là Tự Lực Văn Đoàn ra mắt. Đây là tác phẩm không chỉ đóng đinh về một tài năng văn chương Nhất Linh, nó còn tiêu biểu cho cả văn đoàn mà ông là chủ soái.
  • CON TRÂU – Truyện dài Trần Tiêu - Phần Cuối

    CON TRÂU – Truyện dài Trần Tiêu - Phần Cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Dưới sự khuyến khích của anh trai là nhà văn Khái Hưng (Trần Khánh Giư), nhà văn Trần Tiêu viết văn khi đã 36 tuổi. Ông có quan hệ mật thiết với Tự Lực Văn Đoàn của Khái Hưng, nhưng chỉ chuyên viết về đời sống nông thôn Việt Nam. Con Trâu là truyện dài kỳ đăng trên báo Ngày nay bắt đầu từ số 140 ra ngày 10/12/1938, sau đó NXB Đời nay in thành sách năm 1940, trở thành một trong những tiểu thuyết sớm nhất viết về đề tài nông thôn Việt Nam. Nhà văn Trần Tiêu còn là cha của giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Bảng và là ông nội của diễn viên, đạo diễn Trần Lực.
  • CON TRÂU – Truyện dài Trần Tiêu - Phần 2

    CON TRÂU – Truyện dài Trần Tiêu - Phần 2

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Dưới sự khuyến khích của anh trai là nhà văn Khái Hưng (Trần Khánh Giư), nhà văn Trần Tiêu viết văn khi đã 36 tuổi. Ông có quan hệ mật thiết với Tự Lực Văn Đoàn của Khái Hưng, nhưng chỉ chuyên viết về đời sống nông thôn Việt Nam. Con Trâu là truyện dài kỳ đăng trên báo Ngày nay bắt đầu từ số 140 ra ngày 10/12/1938, sau đó NXB Đời nay in thành sách năm 1940, trở thành một trong những tiểu thuyết sớm nhất viết về đề tài nông thôn Việt Nam. Nhà văn Trần Tiêu còn là cha của giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Bảng và là ông nội của diễn viên, đạo diễn Trần Lực.
  • CON TRÂU – Truyện dài Trần Tiêu - Phần 1

    CON TRÂU – Truyện dài Trần Tiêu - Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Dưới sự khuyến khích của anh trai là nhà văn Khái Hưng (Trần Khánh Giư), nhà văn Trần Tiêu viết văn khi đã 36 tuổi. Ông có quan hệ mật thiết với Tự Lực Văn Đoàn của Khái Hưng, nhưng chỉ chuyên viết về đời sống nông thôn Việt Nam. Con Trâu là truyện dài kỳ đăng trên báo Ngày nay bắt đầu từ số 140 ra ngày 10/12/1938, sau đó NXB Đời nay in thành sách năm 1940, trở thành một trong những tiểu thuyết sớm nhất viết về đề tài nông thôn Việt Nam. Nhà văn Trần Tiêu còn là cha của giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Bảng và là ông nội của diễn viên, đạo diễn Trần Lực.
  • CÔ TƯ HỒNG – Đào Trinh Nhất - Phần cuối

    CÔ TƯ HỒNG – Đào Trinh Nhất - Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Năm 1926, Đào Trinh Nhất (quê Thái Bình) được tuyển chọn sang theo học tại Khoa Báo chí, Trường Đại học Sorbonne (Pháp) và trở thành người Việt Nam đầu tiên có bằng cử nhân báo chí.  Yêu nước giống như cha mình, nhà chí sĩ Đào Nguyên Phổ, một trong những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục, Đào Trinh Nhất mặc dù được Pháp đào tạo nhưng vẫn hướng về dân tộc bằng các tác phẩm của mình. Trước bộ máy kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân Pháp, ông đã khéo léo ca ngợi các chí sĩ yêu nước như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu và các tấm gương yêu nước khác, nhằm thức tỉnh và cổ súy lòng yêu nước của nhân dân. Tuy vậy, thực dân Pháp, đương nhiên vẫn nhận ra và đã khẩn cấp trục xuất và giải ông về Bắc vào giữa năm 1939. Dưới ngòi bút của Đào Trinh Nhất, tác phẩm Cô Tư Hồng, nói về một nhân vật có thật, một đối tượng đả kích trong bài hát Chầu văn đương thời “Đĩ Cầu Nôm” của cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, một nữ lưu từng khuynh đảo đất Bắc với những di tích vẫn còn cho đến ngày nay xung quanh Hồ Gươm, người đã phá thành Hà Nội… đã khiến các độc giả của Trung Bắc Chủ Nhật xưa kia nô nức đón đọc hàng tuần.  
  • CÔ TƯ HỒNG – Đào Trinh Nhất - Phần 2

    CÔ TƯ HỒNG – Đào Trinh Nhất - Phần 2

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Năm 1926, Đào Trinh Nhất (quê Thái Bình) được tuyển chọn sang theo học tại Khoa Báo chí, Trường Đại học Sorbonne (Pháp) và trở thành người Việt Nam đầu tiên có bằng cử nhân báo chí.  Yêu nước giống như cha mình, nhà chí sĩ Đào Nguyên Phổ, một trong những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục, Đào Trinh Nhất mặc dù được Pháp đào tạo nhưng vẫn hướng về dân tộc bằng các tác phẩm của mình. Trước bộ máy kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân Pháp, ông đã khéo léo ca ngợi các chí sĩ yêu nước như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu và các tấm gương yêu nước khác, nhằm thức tỉnh và cổ súy lòng yêu nước của nhân dân. Tuy vậy, thực dân Pháp, đương nhiên vẫn nhận ra và đã khẩn cấp trục xuất và giải ông về Bắc vào giữa năm 1939. Dưới ngòi bút của Đào Trinh Nhất, tác phẩm Cô Tư Hồng, nói về một nhân vật có thật, một đối tượng đả kích trong bài hát Chầu văn đương thời “Đĩ Cầu Nôm” của cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, một nữ lưu từng khuynh đảo đất Bắc với những di tích vẫn còn cho đến ngày nay xung quanh Hồ Gươm, người đã phá thành Hà Nội… đã khiến các độc giả của Trung Bắc Chủ Nhật xưa kia nô nức đón đọc hàng tuần.
  • CÔ TƯ HỒNG – Đào Trinh Nhất - Phần 1

    CÔ TƯ HỒNG – Đào Trinh Nhất - Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Năm 1926, Đào Trinh Nhất (quê Thái Bình) được tuyển chọn sang theo học tại Khoa Báo chí, Trường Đại học Sorbonne (Pháp) và trở thành người Việt Nam đầu tiên có bằng cử nhân báo chí. 
    Yêu nước giống như cha mình, nhà chí sĩ Đào Nguyên Phổ, một trong những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục, Đào Trinh Nhất mặc dù được Pháp đào tạo nhưng vẫn hướng về dân tộc bằng các tác phẩm của mình. Trước bộ máy kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân Pháp, ông đã khéo léo ca ngợi các chí sĩ yêu nước như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu và các tấm gương yêu nước khác, nhằm thức tỉnh và cổ súy lòng yêu nước của nhân dân. Tuy vậy, thực dân Pháp, đương nhiên vẫn nhận ra và đã khẩn cấp trục xuất và giải ông về Bắc vào giữa năm 1939.
    Dưới ngòi bút của Đào Trinh Nhất, tác phẩm Cô Tư Hồng, nói về một nhân vật có thật, một đối tượng đả kích trong bài hát Chầu văn đương thời “Đĩ Cầu Nôm” của cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, một nữ lưu từng khuynh đảo đất Bắc với những di tích vẫn còn cho đến ngày nay xung quanh Hồ Gươm, người đã phá thành Hà Nội… đã khiến các độc giả của Trung Bắc Chủ Nhật xưa kia nô nức đón đọc hàng tuần.