Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng (1941-2022) tranh biện tại một phiên tòa ở Kiên Giang năm 1991
Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng là tác giả của bài thơ nổi tiếng Mùa lúa chín. Ông từng dạy học và sáng tác văn nghệ tại quê nhà Thái Bình cho tới năm 1977, sau đó chuyển vào công tác tại Hội văn nghệ Kiên Giang.
Tại vùng đất Nam bộ, ngoài sáng tác, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng bất ngờ có nghề mới là nghề "thầy cãi" trong Đoàn bào chữa viên của tỉnh Kiên Giang suốt 3 năm tới lúc gần nghỉ hưu, với hơn hai trăm vụ tranh biện cho các thân chủ là bà con nghèo thân cô thế cô.
Năm 1993, ông nghỉ hưu rồi trở lên định cư tại thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, ông viết hai cuốn tiểu thuyết về cải cách ruộng đất được nhiều người biết đến là Nước mắt một thời (2009) và Hoàng hôn lạnh (2011).
Sáng ba mươi, đang vui với tám quân bài tam cúc mới được chia đỏ rực bộ ba "tướng sĩ tượng", thì bố tôi đưa cho gói quà tết bọc giấy điều:
- Lớn rồi, tết này con đi tết thầy một mình! chẳng có gì. Cặp bánh chưng với cân đường gọi là.
- Tôi gật đầu nhưng bụng rất run. Tôi vốn là đứa trẻ nhút nhát. Chưa dám đến nhà ai một mình. Kể chi nhà thầy giáo có tiếng nghiêm khắc như thầy tôi. Thành ra trên đường có bao nhiêu cái vui của ngày tết mà tôi chả thiết gì. Tranh gà, tranh lợn, tố nữ, đu xuân. Lại có chỗ trẻ con đá bóng. Chiếc bọng đái của con lợn tết phơi khô thổi hơi vào căng cứng, chân chạm đến nẩy câng câng. Tôi cũng chả thiết!
Tôi đi thật chậm nhưng rồi cũng đã đến cổng nhà thầy. Đã mấy lần giơ bàn tay nhỏ bé định đập nên đó nhưng cả mấy lần tôi đều rụt lại. Sợ quá. ước gì có ai đó ra mở cổng. Tôi sẽ dúi vào tay cái khối nặng nề này rồi ù té chạy đi. Nhưng chờ mãi chả thấy. Chỉ thấy còn cách là quay về. Rồi muốn ra sao thì ra!
Đường về, tôi đếm từng bước một. Đã đến quán nước bà Ngải, một bà lão sống mỗi một mình từ hồi nào. A! phải rồi! Tôi rẽ vào quán, đặt vội lên đôi bàn tay nhăn nheo run run của bà gói quà tết:
-Thầy u cháu....
-Bà lặng người đi. Cái miệng móm mấp máy:
- Đa tạ ông bà...
- Xong việc, tôi về đến nhà, mặc dù tự trấn an: "Thầy giáo thì thiếu gì quà tết" nhưng vẫn cứ thấy bứt rứt. Tâm trạng của người vừa phạm tội, vừa không. Bố tôi không nhận ra điều ấy nên đã reo lên khi thấy tôi về
- Thằng này giỏi! Tết thầy một mình!
Bố tôi càng khen, tôi lại càng nơm nớp chờ đợi...
Ngày mồng một, điều ấy không đến, may sao!
Ngày mồng hai, lạy trời, cũng thế. Nhưng...
Vừa mới sáng bảnh mắt, bà cụ Ngải đã xồng xộc bước vào nhà, miệng rối rít:
- Năm mới kính chúc ông bà làm ăn phát đạt bằng năm bằng mười năm ngoái...
Tôi chạy tọt vào buồng. Tim thắt lại. Bà ơi, bà đừng nói cái chuyện hôm trước bà nhé.
- Sau nữa xin cảm ơn ông bà có lòng nghĩ tới kẻ nghèo hèn như tôi. Cặp bánh ông bà cho, nó không phải bằng gạo, bằng thịt đâu, bằng vàng đấy ạ!
Tôi tái người, chỉ còn biết ngồi sụp xuống chờ ăn đòn. Quả không sai, bố tôi nghiêm mặt nhìn tôi sau lúc bà Ngải về:
- Vậy là thế nào?
Tôi nghĩ ngay được câu biến báo:
- Dạ, thầy con nhận rồi sai con tết lại bà...
- Thật không?
- Thật ạ!
- Được rồi, để tao xem lại!
Bố tôi rất ghét nói dối, xưa nay đã nói là ông làm, tôi chỉ còn biết cầu mong bố tôi quên việc đến gặp thầy. Mà rồi sau đó bố tôi quên thật. Có lẽ nhờ mải mê lau chùi những món đồ thờ. Bố tôi đã vừa làm vừa đọc lên những câu đối tiếu lâm làm cả nhà cùng cười. Tôi tạm yên dạ.
Ngoài sân bỗng vang lên tiếng chào. Tôi giật mình nhìn ra và tái mặt. Thầy tôi. Trời ơi, làm sao thầy lại đến nhà tôi vào giữa lúc này!
Tôi nhảy tọt vào buồng run còn hơn buổi sáng. Tôi nghe thầy nói:
- Có hộp mứt đến mừng tuổi ông bà. Cũng là cảm ơn ông bà đã cho bánh tết. Gớm, bánh gói khéo quá. Vừa chặt tay lại vừa đẹp.
Tôi không tin ở lỗ tai của mình, vội lẻn ra khỏi buồng, chạy thẳng một mạch tới quán bà Ngải. Trên mảnh gỗ lâu nay vẫn được làm bàn thờ tổ tiên của bà vẫn là cặp bánh chưng nhà tôi lại thêm hộp mứt giống hệt cái hộp thầy vừa mừng tuổi bố mẹ tôi. Chẳng để tôi kịp hỏi bà Ngải đã a lên:
- Cậu. Bữa cho quà, cậu bỏ quên lá thơ. Lão nhờ người đọc mới biết thơ thầy u cậu gửi cho ông giáo. Lão vội đưa tới ông giáo ngay, nhân dịp biếu ông giáo chục cam. Cảm ơn ông giáo dạy học trò biết nhớ đến người nghèo. Ông giáo nhận thơ lại còn cho mứt. Quý hoá quá!
Vậy là còn lá thư trong gói quà tết tôi nào biết. Nhưng tôi biết, thầy tôi đã đọc thư, đã rõ hết chuyện, đã đỡ đòn cho tôi. Nếu không, phải ăn đòn ngày tết thì giông cả năm. Có khi cả đời.
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com