chan_dung-ke_si

ĐẢO CỦA DÂN NGỤ CƯ – Truyện ngắn Đỗ Phước Tiến

17-09-2024

Lượt xem 1368

Đánh giá 2 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Đỗ Phước Tiến

ĐẢO CỦA DÂN NGỤ CƯ – Truyện ngắn Đỗ Phước Tiến

Nhà văn Đỗ Phước Tiến

Chân Dung Kẻ Sĩ: Truyện ngắn Đảo của dân ngụ cư của nhà văn Đỗ Phước Tiến in trên báo Văn học và Dư luận năm 1992, ngay lập tức đã gây chú ý  tới đông đảo độc giả yêu mến văn chương. Năm 1994, Đảo của dân ngụ cư đã được dịch sang tiếng Pháp với tựa Terre des éphémères và được lấy làm tên cho một tập truyện xuất bản ở Paris. Truyện cũng được dịch sang tiếng Anh với tựa The Way Station trong tuyển tập Night, Again xuất bản tại New York năm 1996. Đến năm 2016, tại Việt Nam, nó được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên do Hồng Ánh đạo diễn.

Sau một thời gian dài lang thang khắp miền duyên hải, cái đầu nhọn của tôi dài thượt ra, sạm đi, quắt queo như một trái đậu bắp khô. Cùng một gã Triều Châu mắt lác, tôi săn lùng những cái đồng hồ cổ lỗ sĩ, gọng kính cũ, vỏ đài bán dẫn, bình xăng máy đuôi tôm, bảng đèn hiệu của xác trực thăng. Tóm lại, tôi kiếm sống bằng cách tìm mua những phế phẩm đã thổ tả đến lục phủ ngũ tạng. Những chiếc móc sắt kềnh càng trong kho trạm khai thác nông sản chẳng hạn, dây xích lòng thòng có thể gông trọn một chiếc máy cày. Doanh nghiệp giang hồ gần năm năm không lúc nào trôi chảy một phần cũng tại cái xứ sở nhiệt đới đỏng đảnh này, hết mưa rồi nắng. Khi đã mòn nhẵn tất cả các túi, chúng tôi mới sáng mắt trước một trục trặc khó mà bù đắp nổi: cả hai đứa đều chậm chạp và kiết xác. Rồi vận hội nữa, nếu ai đó tin rằng đi buôn lạc xoong cũng cần có vận hội.

Gã Triều Châu mảnh dẻ như một cọng rơm, tính khí thất thường và keo cú khủng khiếp. Bùa hộ mạng của gã là một cái chuông lắc to đùng như cái loa phóng thanh. Những vố thua đau đớn khiến hai đứa thường xuyên cay cú, hục hặc và hắc ám như những lão phù thuỷ. Bạn đồng hành của tôi cứ cười sằng sặc suốt ngày. Cái chuông dị hợm của gã rung thảm thiết khắp nơi, dội lên những thôn xóm quạnh hiu trong gió chướng âm thanh sùng sục của đói khát. Khi gia sản đã tiêu tán hoàn toàn, chúng tôi nằm liệt hai ngày cạnh một hầm cá tra, thở đến tọp người đi và mơ màng một nồi canh chua với rất nhiều trái giác, một nồi canh khổng lồ. Bụng hai đứa sôi lên vì mặc cảm bất tài, vì ân hận và vì những ám ảnh bất trắc. Khi bình minh êm ái lướt qua những đọt rau đắng non, rau đồng tiền và rau kinh giới, gã Triều Châu gượng dậy trước tiên. Cố vận dụng sức tàn, gã trình bày với tôi về một lối thoát cho cả hai. Gã giảng giải rằng dù có ra sao, tôi với gã vẫn cứ là những trang nam tử. Một nồi canh mơ mộng làm sao đủ nuôi được chí lớn? Rằng cơn ác mộng tha hương này phải kết thúc thôi, ngay tại đây, cạnh cái hầm cá tra này. Rằng vận hội của hai đứa sẽ không như những cơn mưa nhiệt đới, trời già chẳng tuôn xuống bao giờ. Cần phải đi mà tìm, như đàn bà vậy, chộp lấy và nuốt chửng, dù có ở trong túi người khác cũng mặc. Và còn một trăm cái rằng khác nữa, đặc sệt mùi cá kèo khô với bánh dừa không nhân. Tôi nghe gã, mệt mỏi rã rời, và nhụt chí nữa.

Rồi có một ngày xuân rất xanh, hai đứa chúng tôi chia tay nhau giữa cơn cùng quẫn. Tôi đi lên phía Bắc, cố bứt thật xa những cánh đồng nước mặn với hoàng hôn tím ngắt trong giấc mơ tha hương. Gã Triều Châu trở lại miền cực Nam, lo phần hậu sự. Kế hoạch của chúng tôi mở đầu như vậy.

Nhà chệt Liếm rất dễ tìm bởi cổng gỗ sơn đỏ chói, hàng rào cây mắm có dây nhãn lồng và những chùm trái giác tròn trĩnh cuốn quanh. Lúc tôi đến, quán ăn đã cũ kỹ lắm rồi, tường vôi có mái lợp ngói âm dương đã hở móng. Khu nhà phía sau như cái bẫy chuột, gác gỗ xấu xí, ống thông khói như cái bàn chải răng dựng đứng. Toàn bộ cấu trúc u ám, mờ nhạt và rối rắm. Thị xã lúc nào cũng mịt mù bụi. Trên những con phố chật chội, những quần thể kiến thiết đơn điệu như vậy còn lại rất nhiều, âm thầm bạc thếch dưới nắng xuân.

Theo kế hoạch, tôi sẽ ở phụ việc trong nhà chệt Liếm khoảng hai năm, vừa đủ để tỉnh hồn. Trong thời gian này tôi sẽ tập làm đủ thứ: nếm rượu, cuốn chả hấp lạp xưởng, ướp kim tiền kê và muối những quả trứng bắc thảo. Có thời cơ sẽ nghiền ngẫm món xào chua thập cẩm hay lẩu cá chẽm. Sành sỏi được món hầm nhừ sa tế thì coi như bá chủ căn bếp. Xin nhớ cho: căn bếp của một thương nhân gốc Hạ Môn. Đó chính là lối thoát mà tôi và gã Triều Châu đã thoả thuận.

Tôi là đứa tồi tàn, đúng vậy. Mấy mùa qua tôi đã vận động nhiều hơn một con bò và dư sức hiểu rằng cần phải vận động nhiều hơn nữa nếu không muốn bẹp gí như một con gián trong khi chen lấn với cuộc đời. Tôi cũng có quyền được ăn no ngủ yên như người khác. Hơn nữa, tôi chẳng thích sống một mình chút nào.

Ngoài gia đình chệt Liếm, trong quán còn có một người khách Gia thanh lịch khắc khổ, một người Ấn lai Việt đứng bếp và một người Khmer xuất phát từ miền châu thổ sông Hậu. Tất cả đều lầm lì, rình rập lẫn nhau và bao giờ cũng chu tất phần việc của mình.

Tôi rất thích ông Khmer, một người trầm lặng và hào hiệp, to xám như một con chuột đồng. Tình bằng hữu của chúng tôi bắt đầu bằng cái bật lửa có nắp mở kêu tanh tách của tôi, di vật cuối cùng của một thời lang thang. Ông Miên rất vừa lòng mặc dù bọc cao su đựng thuốc gò của ông xếp cạnh cái bật lửa rất chướng mắt. Trong lúc tôi chui vào một hốc tối, lặng lẽ ngốn những miếng sườn còn lại từ hôm qua thì ông Miên, khăn rằn quấn quanh bụng, điềm nhiên quấn thuốc cạnh tấm thép chắn lò. Ông phục vụ chệt Liếm đã lâu, có lẽ còn trước khi cái sinh mạng hèn mọn của tôi xuất hiện dưới gầm trời này. Cách mổ bụng của ông hoàn toàn theo kiểu cổ: từ dưới lên, hơi chếch qua trái một chút. Người Khmer không có thói quen thay đổi chỗ ở cũng như phương thức kiếm sống, và đó cũng là đặc tính chung của cây cỏ nhiệt đới.

Nhiệm vụ của ông Miên trong quán thật nặng nề. Mỗi tuần ngoài phần việc cố định, ông còn phải hạ thịt từ hai đến ba con dê, có thể là bốn nếu vào những dịp vui vẻ. Những con dê mới đến còn rất tơ, được vỗ béo kỹ càng, lông óng mướt như vừa mới chui ra từ những nụ so đũa cuối đông. Chúng được phục đến say khướt bằng một thứ rượu mía nồng nặc, bị đuổi chạy khắp thị xã với cái lon rỗng cột sau đuôi cho đến mệt lử. Những con dê đó chết rất nhanh trước mũi dao thiện nghệ của ông Miên, mình mẩy đẫm mồ hôi và đáy mắt mở to còn tràn ứ khoái cảm.

Quán mở cửa suốt ngày, nhưng chỉ khởi sắc muộn màng khi chiều xuống, lúc những cơn lốc bụi đã dịu đi.

Người khách Gia cột ngang bụng một tấm vải hoa sặc sỡ. Ông phun nước lên sân gạch, xếp thêm bàn ghế với phong thái đạo mạo cố hữu. Ông người Ấn nặng nề xoay trở quanh những tấm thớt, tráng cái chảo hai quai trên bếp bằng động tác hờ hững khinh bỉ. Ông Miên muối những tảng thịt dê còn bốc khói, còn tôi thì đánh vật với cái máy xay gia vị cứ lồng lên sòng sọc. Khi đèn măng-xông được thắp lên, chệt Liếm vui vẻ xuất hiện. Ông cười hào sảng giữa những thực khách, ly rượu pha sôđa lấm tấm hơi nước trong tay. Ông quan sát từng dĩa thức ăn dồn dập mang ra với đôi mắt tỉnh táo cân nhắc. Chệt Liếm cũng có phần việc riêng và ông không bao giờ cho phép bất cứ ai trong chúng tôi làm thay. Treo những chiếc đèn lồng trước cổng, rót rượu cho thần tài, thanh toán tiền với khách, đó là phần việc của ông.

Hoàn tất phần việc của mình sớm nhất là ông người Ấn. Trong lúc chúng tôi cọ rửa, thu dọn thì ông ta lui vào một góc riêng, lầm rầm những bài kinh dài lê thê trước dĩa đèn dầu. Cái xác phàm chảy xệ của ông rũ xuống trong lúc trò chuyện cùng đấng tiên tri.

Đắp xong một chục lò mạt cưa, tôi tìm cách trèo lên gác với chị Chu. Ở trên đó, chị Chu luôn phải ngồi một mình và chờ đợi từ ngày này qua ngày khác với những con gà nhựa có thể gáy được mỗi khi lên dây cót. Chệt Liếm cấm tất cả mọi người lên gác, trừ xiếm Hoa. Tôi ra vào bằng mái thông gió và bồn chồn căng thẳng mỗi khi ở gần chị. Tôi biết, không phải một mình tôi đến với chị. Có một buổi sáng chệt Liếm từ trên gác bước xuống. Ông đi thẳng một mạch ra sàn nước, nơi ông Khmer đang cặm cụi rửa những bình đất đựng rượu huyết dê. Chệt Liếm đến gần, mắt dán chặt vào gáy ông Miên. Hai người gằm gằm nhìn nhau. Sau đó chệt Liếm rút trong túi ra cái bật lửa có nắp mở kêu tanh tách, ngắm nghía nó một lát rồi đặt trên nắp lu nước, sát người ông Miên. Rồi ông lẳng lặng bỏ đi.

Chị Chu kể với tôi rằng, chị đã ngồi trong cái hộp gỗ của mình từ lâu lắm rồi, từ khi biết ngồi, và sẽ còn phải ngồi cho tới bao giờ cả căn gác tan đi, tan vào thinh không theo khói mạt cưa hàng ngày dưới quán xông lên. Tôi không tin. Tôi ăn những mẩu bánh nướng chị để dành từ bữa trưa cho chị yên lòng rằng tôi là một đứa con nít, chẳng làm hại được ai. Tôi nắn bóp những bắp thịt mỏi nhừ của chị vì ngồi lâu, nghe chị kể lại những đêm rằm vàng ngập ánh trăng, chị ngồi chờ áng mây vẩy cá phiêu bồng qua hiên gác. Chị bảo tôi ngồi im, lắng nghe tiếng thời gian gõ lốc cốc trên những mái ngói âm dương, len lỏi qua những hẻm phố tối tăm lồi lõm. Cái thế giới bạo động liên tục phía dưới, và chệt Liếm nữa, hoàn toàn không dính dáng gì đến chị. Một tay và một chân chị chỉ còn da với xương do chứng liệt cơ bẩm sinh.

Chệt Liếm đối xử với chúng tôi rất tốt và chưa bao giờ tôi nghi ngờ lòng nhân hậu của ông chủ. Ông xứng đáng là một người đàn ông Trung Hoa, nỗi ô nhục do chị Chu gây ra ông đã biết từ lâu mà vẫn âm thầm chịu đựng với một nghị lực phi thường. Ông điều khiển cơ đồ của mình chính xác đến từng cái nút chai. Những miếng sườn tôi ăn trộm thật ra đã thiu rồi, cho nên đối với chệt Liếm chúng không còn mang ý nghĩa vật chất nữa. Ông sẵn sàng khen ngợi không tiếc lời một bó rau cần vàng úa hay giỏ nấm mèo nhăn nhúm thảm hại chỉ vì chủ của chúng đã mang đến cho ông từ những thôn ấp khô cằn xa xôi. Tóm lại, chệt Liếm có đầy đủ phẩm chất của một thương gia trung bình, và chỉ có vậy thôi. Thời trai trẻ ông đã không biết tìm, bằng mưu lược của mình, một điểm tựa có sức đàn hồi để vọt đi xa hơn. Còn tôi, tôi đang tìm cách bổ sung thiếu sót của ông: chị Chu là một trong những mục tiêu của tôi, với gã Triều Châu nữa, tất nhiên.

Tôi dành ngày càng nhiều thời gian cho chị Chu, và tâm lực nữa. Những lúc chị tuyệt vọng nhất chính là lúc tôi cảm thấy tự tin nhất. Tôi rất ghét nước mắt, nước mắt và sự im lặng. Những giọt nước mắt của chị Chu lăn suốt đêm chưa tới cằm. Nó khiến tôi nhớ đến cái thân phận khốn nạn của mình. Tôi ôm chị Chu vào lòng và bắt chước gã Triều Châu, tôi giảng giải cho chị nghe rằng mây vẩy cá chỉ là một đám hơi nước lẩn thẩn và ngu ngốc. Thời gian và gió tha hồ rỉa rói tấm thân mỏng mảnh bạc nhược của nó. Mà thời gian là gì, tiếng lốc cốc là do chiếc trống dây tự va đập vào nó trong lúc cùng người nhuộm đồ rong lang thang tìm kiếm một miếng ăn vô định. Thời gian là sự vận động hết sức nhảm nhí của cảm giác, rất bấp bênh bởi vì nó không hề có định mức. Chẳng phải chị hay tôi, hay bất cứ một người nào khác, chúng mình như những chiếc máy cày chỉ làm mỗi một việc là lê lết mỏi mòn qua cánh đồng thời gian, và khát vọng hiện hữu có hơn gì một cái móc sắt han rỉ? Ngồi một chỗ như chị hay suốt đời di động như tôi thì có gì khác nhau. Bao giờ còn chưa quên vị trí xuất phát của mình, thì tôi với chị vẫn chưa bước nổi một bước, dù chỉ một bước, trong cuộc đời.

Tấn tuồng của tôi với chị Chu kéo dài hơn nửa năm. Sau đó tôi không thể tiếp tục vì không còn đủ sức. Trong lúc soạn thảo kế hoạch với gã Triều Châu, tôi đã không lường trước tình huống này. Trong lúc ôm ấp thân thể trần trụi của chị Chu, tự đáy lòng tôi đã thành khẩn tin rằng mình đang làm một điều thiện, hết sức chân thiện. Giống như những thứ thổ tả tôi săn lùng ngày trước, dù đã tồi tàn, đôi khi chúng vẫn mang giá trị vật chất vượt ra ngoài những ước lệ của quy chế trao đổi. Chị Chu cũng vậy, lúc vùi đầu vào bộ ngực mềm ấm của chị, tôi cay đắng nhận ra rằng vang sâu trong cái sinh vật dị dạng đang rệu rã kia là những cơn bùng nổ liên tục của khát vọng làm người, của những đam mê hết sức chân thành, trong trắng. Linh hồn của mỗi người, nếu quả có nó, thật ra không ăn nhập gì với các xác phàm mà nó ẩn náu cả. Cho nên tự do tâm linh dễ dàng trở thành một thứ nhu cầu đồi truỵ bởi thói tắc trách vô liêm sỉ của nó. Tôi cố gắng lèo lái những cuộc ái ân với chị Chu mềm mại hơn so với trí tưởng tượng thô thiển của mình. Tôi luôn bị ám ảnh bởi nỗi hờn ghen trẻ con rằng trên cái giường của chị Chu, trước tôi đã có những trận luyến ái bão táp kinh hồn. Và tôi chỉ là một thứ hình nộm để lấp đầy khoảng trống giữa hai cơn bão. Với những cơ bắp rắn chắc và lì lợm, ông Miên dồn ép quần quật chị Chu bằng những động tác quyết liệt và chi li, giống như đang đối xử với những con dê tử tội vậy. Biết làm sao được, có thể đó cũng là một dạng phân tâm bệnh lý. Trong tay tôi, chị Chu cũng ngất đi rất nhanh, mình đẫm mồ hôi và lớp lông tơ trên ngực chị đỏ rực khoái cảm.

Dù rất yêu chị Chu và luôn luôn tâm niệm với mưu đồ dựng nghiệp, tôi vẫn không sao quen được với lối sống đơn điệu và tệ hại của mình trong nhà chệt Liếm. Thời gian qua, cùng chui rúc trong cái hộp gỗ lưu cữu mùi củ cải muối với chị Chu, tôi đã hiểu ra được nhiều điều. Nhiều khi bắt chước chệt Liếm, tôi cố đánh tan những dự cảm đen tối bằng cách nốc thật nhiều rượu vào. Những ly rượu cay xé lưỡi dĩ nhiên cũng là của ăn trộm. Và càng uống nhiều, tôi càng tin tưởng rằng mình đã khôn ra thật. Mặc cảm về sự hèn mọn của mình là động lực thúc đẩy con người vượt lên trên, nhưng đồng thời cũng vì nó mà con người đã tự vùi dập không thương tiếc chính cuộc đời mình.

Rồi một ngày, một ngày mà xuân cũng rất xanh, tôi từ bến đò trở về, ì ạch kéo theo một xe đầy mạt cưa. Cơn lốc tháng ba lồng lộn qua những hẻm phố, nhét đầy miệng tôi những hạt cát vừa khô vừa mặn. Cổng gỗ trước quán mở toang, sân gạch vắng ngắt. Dưới hiên, ông già người Ấn ngồi thờ thẫn ngắm những con ruồi đang phơi nắng, dĩa đèn đặt bên cạnh. Phía sau, lơ lửng trên cái bẫy chuột có tiếng đàn bà khóc rấm rứt. Tôi đi vào, ê ẩm choáng váng vì những dự cảm chẳng lành, vì mệt và nắng. Nhà sau cũng vắng vẻ. Tiếng khóc nỉ non trên gác. Lạy trời, lẽ nào những dự cảm đen tối của tôi đã thành sự thật? Tôi không tin. Nhưng rõ ràng đêm qua tôi đã chứng kiến cuộc đụng độ giữa chệt Liếm với ông Miên ngay dưới chân thang gác. Chệt Liếm là một người đàn ông phi thường, tôi tin chắc như vậy.

Thấy có bóng người nhốn nháo trên gác, tôi phóng lên.

Trên cái giường mà tôi với chị Chu vẫn lét lút với nhau hằng đêm, giờ cũng có hai người. Chỗ của tôi, cũng là chỗ của ông Miên, được thay bằng xiếm Hoa. Chị Chu nằm ngửa, cằm trễ xuống, mắt trợn trừng trông thật kinh khủng. Xiếm Hoa cong người như một con tép sắt, nức nở trên người chị. Trên cái bàn thấp kê sát đầu giường, bữa ăn đang dở dang, cơm văng tung toé, một chiếc đũa gãy cắm trên chiếu. Tiếng khóc không thoát ra từ đôi vai rung rẩy của xiếm Hoa mà dội trừ trên mái ngói đầy bồ hóng xuống.

Người khách Gia đứng dưới mái thông gió, cần cổ duỗi ra chống đỡ cái đầu đang gục xuống vì xúc cảm. Ông Miên tựa vào tường cạnh cái bàn thấp, bộ mặt lầm lì của ông phồng lên, đỏ lửng. Chệt Liếm ngồi cứng đơ trong chiếc ghế duy nhất có trên gác, mặt nhợt nhạt, những con gà nhựa lăn lóc dưới chân ông. Không có khói mạt cưa, nhưng căn gác như sắp tan ra thật, tan ra vì những ánh mắt thù địch, vì hơi thở căm giận ngấm ngầm của những đàn ông, dồn dập và sôi sục.

Tôi ngồi bệt xuống dưới sàn gác. Tiếng trống dây của người nhuộm đồ rong lảng vảng đâu đây, rồi bất ngờ nổi lên ầm ầm như tiếng trống trận trong đầu tôi. Rất mơ hồ, tôi thấy ông Miên nâng tô canh trong mâm cơm lên, múc ít nước canh đổ vào lòng bàn tay, chà xát rồi ngửi. Điệu bộ của ông lúc đó rất giống dáng dấp băn khoăn của con chuột đồng trước miếng mồi đã bị đánh bả. Ông đăm đăm nhìn ra hiên gác, nơi những thanh gỗ mỏng lắp chéo nhau tạo nên một góc trang trí mờ tối. Có lẽ đó là nơi hẹn hò của chị Chu với đám mây vẩy cá hoang tưởng. Rất lâu, tôi cảm nhận sự vận động chậm rãi ấy bởi hàng trăm tiếng lốc cốc đều đặn xuyên qua đầu mình, tôi thấy ông Miên bưng tô canh đến gần cái ghế duy nhất trên gác. Rất bình tĩnh, ông chụp tô canh lên đầu chệt Liếm, nhẹ nhàng và từ tốn. Lá cải trôi từ đầu chệt Liếm xuống chân mày, xuống gò má, xuống cằm rồi rơi nhanh xuống đùi. Chệt Liếm vẫn ngồi cứng đờ, hai tay bóp chặt thành ghế. Sắc vàng đùng đục của nước canh loang chầm chậm trên mặt ông. Phủi tay với vẻ hả hê, ông Miên chệnh choạng đi xuống. Rồi ông đi mãi không bao giờ trở lại nữa.

Vài ngày sau đám tang chị Chu, đến lượt ông người Ấn ra đi. Ngày xuân chưa kịp tàn, những con ruồi trơ tráo sau khi tắm nắng thoả thuê đã nhảy vào dĩa đèn của ông, vùng vẫy rồi chết luôn trong đó. Ông người Ấn rũ người đi khi chứng kiến đức tin tận tuỵ của mình đã bị đấng tiên tri phỉ báng. Ông bỏ đi không nói với ai một lời, chẳng buồn thanh toán số tiền dầu lâu nay chệt Liếm vẫn cung cấp cho ông.

Ông khách Gia rồi cũng ra đi, chệt Liếm không thể giữ ông ở lại. Ông đã già yếu đến mức không còn giữ được phong thái đạo mạo cố hữu nữa. Liên minh của chệt Liếm đã tan rã. Trong liên minh hỗn hợp của ông, những phần hồn tha hồ lang thang trong khi mỗi phần xác chỉ biết chu tất phần việc của riêng mình. Nhưng sai lầm vẫn có thể cứu vãn nếu chệt Liếm không để cho khái niệm cân bằng tồn tại trong căn quán của ông. Vậy mà ông vẫn để, và hành động vũ lực chỉ khiến mọi thứ nhanh chóng sụp đổ. Bởi vì cái sườn gia phong của ông có khác nào bức tường đã hở móng.

Cuối cùng người ta cũng tống cổ tôi ra khỏi cánh cổng gỗ sơn đỏ sau khi đã giải quyết xong những mẩu xương dê còn lại. Nằm bên vệ đường, trong lúc chờ đợi một thời kỳ cùng quẫn nữa lại đến, tôi nghiền ngẫm đủ điều. Tôi không tiếc những tháng năm đã mất trong cái bẫy chuột của chệt Liếm. Làm sao tôi có thể san sẻ với họ, những người tồn tại phía sau hàng rào dây nhãn lồng kia, một cuộc sống lâu bền được. Tôi nghĩ đến gã Triều Châu. Trong cuộc chia tay ngày ấy, giữa tôi với gã nào biết ai đã may mắn hơn ai. Là người Trung Hoa nên gã hiểu người Trung Hoa hơn tôi. Gã hiểu chệt Liếm nên thay vì dấn thân vào, gã đẩy tôi phiêu lưu trong cái bẫy chuột của ông. Cứ để gã ôm ấp căn quán tương lai trong giấc mơ êm đềm ở miền cực Nam, tôi sẽ tìm cho mình một con đường khác. Tôi không phải là đứa phụ bạc, với cặp mắt lác gã có thể cùng lúc nhìn thấy hai phía của cuộc đời. Còn tôi, sẽ không bao giờ, suốt cuộc đời còn lại, không bao giờ tôi còn có được hạnh phúc nữa, không bao giờ.

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.