Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
Những đám mây tối thẫm, trĩu nước sà thấp, ậm è như đang cố ấn ngôi chùa lún vào khoảng vườn ngập lút đầu ngọn cỏ. Những cái bọng mưa sắp bục vỡ ra. Hối hả kê bộ ván ngựa trước chánh điện - một chỗ ngồi cho bữa tụng niệm chiều, thầy bỗng ngó ra ngoài trời, bảo “đường sá gì mà vắng hoe, buồn quá, ông”
Từng lời của thầy vừa thốt ra khỏi đầu môi đã bị thinh lặng đóng băng. Thầy chờ đợi gì ở gã, một kẻ - đã - chết thì buồn vui có ăn nhập gì.
Gã, khúc củi mục trôi giạt về Thổ Sầu, ghé qua ngôi chùa nghèo này. Nghèo đến mức người xa về không biết gọi là nhà hay chùa. Tuềnh toàng đến mức không cửa, không rào, đến nỗi xưng hô với người kinh kệ trong chùa thế nào cũng ngại. Gọi thầy như những bậc chân tu thấy không được, gọi tao mày như người thế tục cũng không xong. Đành lúng búng hỏi:
- … Quên tôi rồi, phải không?
- Nói chơi hoài!? - Thầy trợn mắt - Tôi đâu có tệ vậy.
Thầy là người đầu tiên ở Thổ Sầu, nhận ra gã, ngay cái nhìn đầu tiên. Những ngón tay xương xẩu của thầy níu lấy vai gã, run run, “Chịu trồi đầu về rồi hả? Ngon! Tôi tưởng ông bỏ xứ đi luôn chớ.”
Gã nhìn bên kinh, nơi tre mọc xanh rì là nền nhà cũ. Gã cũng tưởng mình vĩnh viễn không quay lại nơi này. Gã vật vờ hết đất này đến đất khác, làm lụng mưu sinh, vắt mình kiệt như tìm chút nước trong chày. Hết ngày, trở về nhà trọ, gã thường bàng hoàng, cảm giác những đốt xương mình khô đi, rơi ra lừng lóng, từng lóng một. Gã bỗng thèm trở lại Thổ Sầu. Chẳng làm gì cả. Chẳng ai chờ đợi gã. Cả nhà gã đã bỏ xứ đi vì không dám ngẫng đầu nhìn chòm xóm bởi nỗi ô nhục mà đứa con trai gây nên. Vậy thì phải về, cho người Thổ Sầu thấy gã bây giờ sống tử tế như thế nào. Về để tìm lại cảm giác thanh thản đã bị đánh mất. Hay về để nhìn lại cọng cỏ mình đã giẫm nát, cái cây mình đã vặt trụi ngọn, con lạch trong lẻo đã bị mình sục đến đục ngầu bùn, gã không biết nữa. Chỉ cảm giác thèm về da diết.
- Tôi muốn té chỗ nào thì đứng lên ngay chỗ ấy – Gã cười, và cảm giác nụ cười thật kỳ dị, một xác chết mà nhoẻn cười thử hỏi có khó coi không? Thầy trợn mắt, môi lật phật ở chỗ hai cái răng gãy, rồi phụt ra một bụm cười, “Trời, nói chuyện văn hoa triết lý quá cha nội? Chắc gặp nhà văn nào ở trong tù hả?”.
Bất giác, thầy cũng ngó bên kinh, chỗ ngày xưa gã hay ra đứng đái, và thầy hồi ấy là chú tiểu con con cầm nạng thun rình bắn cho bỏ tội chỉa chim trước chùa. Tiểu bắn không tệ, có bữa thằng nhóc bụm tay giữa hai đùi nhảy cà nhót, chửi thề ỏm tỏi. Bờ đất đó giờ rối nùi cỏ dại, thầy ngậm ngùi, “Ở chùa với tôi, đắp đổi cháo rau qua ngày…”.
Thêm một người cũng không làm chùa vui hơn. Gã cũng trầm mặc, cũ kỹ như mấy bức tượng, nhưng không có được cái an nhiên, thanh thản của thần Phật kia. Trên gương mặt chỉ hiện lên sự nhàu úa. Nhiều khi thầy nói chuyện gì đó và phát hiện ra có con cóc trong góc nhà cọt kẹt trả lời mình. Chỉ lúc thầy giả bộ bâng quơ, “con nhỏ đó vẫn chưa ai cưới”, thấy gã tái đi. Con nhỏ mà thầy nói, vẫn thường ghé chùa chơi, mấy hôm rày không biết đau ốm chi mà không thấy.
Gã ở chùa, người đến chùa bỗng đông. Họ cúi đầu lạy Phật mà mắt láo liêng tìm gã, hớn hở, nườm nượp như hồi nhà văn hóa huyện triển lãm heo ba mắt, ngựa hai đuôi và những thai nhi dị dạng ngâm trong mấy chậu thuỷ tinh hoá chất. Gã hay tránh ở vườn thuốc phía sau mỗi khi có bóng người xấp xãi rẽ vào sân trước. Loáng thoáng nghe hỏi dồn, nó về rồi hả? thằng đó đâu? Sao thầy chứa nó trong chùa? Nghe thầy cười nhẹ, nói thấy về thì biết về nhưng chưa về đâu. Ủa, vậy là sao? Thầy niệm mấy tiếng a di đà. Gã hình dung được ánh mắt hấp háy, tinh quái.
Thầy nhờ gã tiếp một tay làm hàng rào sân trước. Thầy buộc gã phải từ giã việc chui lủi bên những pho tượng. Hì hụi trên sân, vần nhau với những khúc cây ngâm nước lâu ngày tanh tưởi mùi bùn, gã gặp lại nhiều người quen cũ. Bối rối không giấu được, họ nhận ra đã quên gã rồi, từng chi tiết một, nên chẳng thể căm thù, xua đuổi càng không thể đối xử mặn nồng như một người xa xứ trở về. Không biết phải đối xử thế nào với cái thằng người đã từng là thú vật.
Những cây son mọc hoang ngoài đường bắt đầu trổ bông, một bữa, gã bê bức tượng Đức Di Lặc ra sơn lại, thì một cô gái già xộc vào. Cô định đạp xe đâm thẳng vô gã, nhưng nhác thấy bức tượng, sợ vỡ, nên cô dùng thân mình nhảy chồm trên đất ghìm trớn xe đang nhanh. Mặt đỏ lựng, bết mồ hôi, cô hét: “Ê…!”.
Tiếng kêu gọn lỏn. Như người ta vẫn thường ê xe vua, ê xe lôi, ê hủ tiếu bò kho… Nhưng sau tiếng “ê” ấy thì mọi ngôn ngữ tắc nghẹn. Cô cũng rơi vào bi kịch của sự không đủ nhớ để nhảy xổ vào cào cấu, băm vằm gã đàn ông ấy cho hả giận. Chỉ biết chơi vơi nhìn mối thù lớn của đời mình tơi tả như con bù nhìn rơm giữa gió trời. Những ngày qua, lúc buồn, lúc những gã trai trong xóm rước cô dâu mới về, lúc… đạp phải đinh, lúc… ho, cô đều bới tên gã ra chì chiết, để hả hê, để sống tiếp. Nhưng giờ điều đó chẳng có ý nghĩa gì hết.
Cô quày quả bỏ đi, mặc kệ gã đàn ông đang chết sững. Sau này, cô cũng chỉ kêu mỗi tiếng “Ê!!!” khi ghé lại. Có bữa nghe da diết, như bảo tôi đây nè, tôi ra nông nổi vầy nè, ông sáng mắt chưa. Có bữa chất chứa tủi hờn, tôi nè, đã nông nổi vầy rồi, hết hy vọng rồi. Bữa khác trong âm nghe hằn học, tôi đây, tôi đã ra nông nổi này, tại ai tại ai tại ai. Và đợi gã ngước nhìn cô sẽ quay đi. Những bữa không thấy gã cô day qua hỏi thầy:
- … đâu rồi?
Thầy thấy bụng mình hơi quặn chuyện thế tục.
Những bông son nở bung từng chùm trắng xoá. Son ra bông trắng, báo hiệu mùa mưa rất dài, trời lạnh lẽo. Người già trong Thổ Sầu rủ nhau chết, thầy đi tụng kinh siêu độ suốt, chùa vắng tanh. Dù gã ở đó, dù cô có ghé kêu “Ê”. Nhưng cuộc gặp gỡ chỉ là của một - người - đã - chết ngồi nhìn một - người - đã - chết.
Chết từ cái lúc thằng con trai mười bảy tuổi dìm đứa bé gái xuống mé ao. Đứa bé mỏng manh ấy đã la hét hãi hùng vì đau, gã choáng váng nghĩ rằng tiếng kêu đó xuyên thấu vào đầu từng người trong xóm Thổ Sầu, đến với bà mẹ già ốm o của hắn đang ngồi câu. Gã muốn bịt kín tiếng hét cho đến khi con bé kiệt sức đến mức không còn giãy dụa. Nước trong, gã nhìn thấy da con bé tím dần, ngực nó thôi phập phồng, tóc nó trôi lều bều quyện vào đám rong nhớt. Xuyên qua làn nước, đôi mắt đen buốt của con bé nghẹn ứ những câu hỏi về sự tha hóa, man rợ của con người. Trong khoảnh khắc, gã thấy mình chỉ còn là một cái xác. Gã chết rồi. Vì những ly rượu đầu đời, những bộ phim tục tỉu đầu đời. Vì gã đang rạo rực không kiềm chế nỗi, và con bé đi học một mình trên đường trưa thưa vắng người.
Năm đó, son trổ bông đỏ như đang cháy. Nhà chức trách dẫn kẻ phạm tội ra khỏi đầu kinh xáng, ngoái lại bông son rực như ai đó vãi lửa lên trời. Gã nửa sợ nửa như nhẹ nhõm khi nghe tin đứa bé gái đã được cứu.
Được cứu, cũng không có nghĩa là sống lại, gã tin điều đó, khi trông vào mình. Trông vào cô, cũng vật vờ, chao chát, khác thường. Buồn lại cười, lúc vui vùi đầu vô góc bếp khóc. Buồn, vui đều thái quá, như cơm quá lửa khét, canh quá muối mặn lè. Cả xóm ngậm ngùi, “con nhỏ chết hụt mà, bây giờ không tưng tưng mới là lạ”. Người ta chỉ nhớ biến cố đó, và vì mãi nhớ nó nên cô vẫn không lấy được chồng. Thầy thì không nhớ, nhưng phải kinh kệ giữ chùa. Những lúc Thổ Sầu có đám cưới, cô hay mua rượu về, uống một mình. Qua chùa, cô ghé vào than, gần như là câu kinh điển, “Thầy ơi, tui ế chồng thiệt rồi, thầy tính sao đi chớ!”. Thầy day mãi cuốn kinh Phật trong tay, tụng niệm mãi mê để át ý nghĩ vừa lóe lên thảng thốt, nếu mình không theo Phật nữa? Mà cô ta không lấy được chồng liên quan gì tới mình?
Thầy luôn ám ảnh câu hỏi đó. Thầy nghĩ, nếu mình trút áo nâu rồi, ít nhất có một người sẽ thôi say, khi mùa cưới đến. Ba tuổi, cả nhà chết vì chìm ghe, thầy lon ton vào chùa, theo sư bà Tư Huệ học đạo. Rồi sư bà buông tay lúc thầy vẫn còn lơ ngơ, không còn ai dắt thầy đi trên con đường đạo sâu thẳm. Nên gần bốn mươi năm sau thầy vẫn chưa đủ hạnh, cũng giận, cũng buồn. Giận vẫn chửi, có điều chửi chay, kiểu như rầy đám con nít hái trộm bông trang trong vườn chùa: “mấy đứa bây kiếp sau sẽ biến thành cỏ.. cứt heo”. Có lúc, hứng chí quá uống chút rượu, về tụng kinh sám hối suốt đêm, mà thầy bảo là “bù đắp cho hạnh bị hót mất một lổ”. Mấy bà già quen lối nghĩ người tu hành thường nghiêm trang, từ tốn, gặp thầy lần nào cũng buộc miệng rầy, “thầy chùa mà không nên nết”. Thầy cười xuề xòa, nhìn cái áo thì không biết được ai là bậc chân tu đâu.
Thầy chỉ cãi cố vậy thôi chứ không ám chỉ mình. Thầy vẫn phân vân, hay ngoái lại nẻo đời, vẫn loay hoay với ý nghĩ có những số phận mà trăm ngàn quyển kinh kệ cũng bó tay, không cứu chuộc được. Đó là lúc bông son rụng trụi cành, người ta nườm nượp cưới xin, cô say nhiều hơn, ghé chùa thường hơn, gục gặc bên mấy pho tượng Phật. Gã bạn thầy chỉ biết nhìn cô vơ vất, không biết nói gì, làm gì, bản thân gã chết rồi làm sao cứu được người chết khác.
Gã lao vào học Phật. Chùa cũng không còn mấy quyển kinh, gã thuộc mau, tụng niệm mê mỏi. Gã còn đòi xuống tóc. Thầy cười buồn, không còn tóc thì tâm vẫn chẳng an, có nghĩa gì đâu. Và để chứng minh điều đó, thầy cũng làm cái lễ xuống tóc nho nhỏ. Cô trông thấy cái đầu trọc bóng của gã, kêu “Ê! Sao ai cũng bỏ tui đi tu hết vậy?”, chới với như té cầu khỉ. Bữa sau, mở cửa thấy cô nằm bẹp trước sân, người vương vất sương, thầy nổi quạu, ôm mấy cuốn kinh quăng phẹp trước mặt gã, chửi mặn:
- Ông là thứ cỏ chỉ vô dụng. Tối ngày chỉ biết làm chuyện bá láp, may vô đất thì có ý nghĩa gì? Người ta té sông, ông đọc kinh sám hối thì tự dưng người ta nổi lên sao? Phải lấy tay mình kéo họ kìa, ông ơi.
Thầy nắm tay, dứ trước mặt gã, như níu lấy một cái gì đó, không rõ ràng. Gã lúi húi nhặt nhạnh, như nỗi khổ tâm đang rơi ra, lúc nhúc bò trên đất. Vì lời của thầy, vì màu da dưới áo cô nhiễm lạnh ngã tím, như bị dìm lâu trong nước. Khi cô tỉnh giấc, ra về, gã nói vói theo, “chừng nào buồn, lại rủ tôi uống rượu với”.
Cô hơi khựng lại, có lẽ giọng nói của gã rất khó nghe, nó đã quánh đặc, đông thành khối trong lòng, từng từ rắn như đá, lục cục lăn qua đầu môi. Thầy nghe còn lạ, bấy lâu gã không nói với thầy bằng lời như vừa rồi, ngộ ở chỗ thầy lại thấu điều gã sợ, điều gã đau.
Mình cũng giỏi thiệt, nhiều khi nghĩ lại, thầy mắc cười. Gã đã chịu ngồi chơi với cô, đôi khi còn uống chút rượu. Dù mùi men rượu gạo của năm mười tám tuổi thốc lên làm gã sợ đến tê dại, đến mụ mẫm. Sau cơn chếnh choáng gã đầm đìa mồ hôi như vừa xông nồi lá thuốc. Người nhẹ hẫng, vì ngó vào lòng, thấy dục vọng trống không. Gã có thể nhìn thẳng vào cô, bàng hoàng vì trên gương mặt của cô gái chớm già đã xuất hiện những đốm tàn nhang. Cô nạt:
- Ê!?
“Ê” có nghĩa, “nhìn gì mà nhìn?” Mặt cô hơi đỏ, như máu đang mon men quay lại chảy trên những cái mạch đã cũ. Có gã giữ chai rượu, cô không còn cơ hội để say, bớt xơ xác. Kinh Phật không làm được điều này, nghĩ tới đó, gã hoang mang. Thầy ngó cái lưng của bạn, nghĩ, hình như gã đã ngộ ra được điều gì rồi.
Và điều đó hẳn rất quan trọng, lớn lao khi thầy thấy gã từ trốn chạy nhớn nhác chuyển qua chịu trận đương đầu. Gã thôi bỏ chạy khi có việc ngang qua bờ chuối cũ. Những tay chuối rối tung. Nơi đứa bé gái giãy khóc ằng ặc, đòi méc má trong bàn tay thô bạo cuống cuồng của gã. Gã chịu trận những ánh nhìn nghiệt ngã lúc theo thầy đến những đám tang, thức thâu đêm, giữ đều từng hồi trống, phụ gia chủ phần trà nước.
Giữa hai mùa son, gã đã dựng được cái hàng rào, tôn nền mộ của sư bà lên cao, trồng bốn luống mỏ quạ, thuộc được mấy bản kinh, cạo đầu một lần. Một lần được cô gái buồn nhất Thổ Sầu, đề nghị, “Anh cưới tui đi” sau khi chúc cạn chai rượu vào đất. “Không là tui chết đó”, cô giơ cái chai không dấm dứ thêm. Gã đứng chết trân.
Gã bỏ Thổ Sầu đi. Chuyện đi ở của gã như khúc củi mục linh đinh dưới sông, thầy đã cố vớt lên, nhưng rồi con nước dâng, củi lại trôi rồi. Gã cần thời gian để đương đầu với nỗi sợ khi bóc tách lớp áo của cô ra, sẽ hiện ra hình ảnh đứa bé gái gầy gò, tóc dài, mắt chong chong ngơ ngác trước sự tàn nhẫn của con người.
Chùa nhớ gã, sáp đèn cầy chảy ròng như nước mắt. Cô nhớ gã, ghé chùa dáo dác, “Đi luôn rồi hả? Không cưới tui thì thôi, mắc gì phải trốn đi?”. Thầy nhẹ nhàng nói, đừng lo. Tới nắng gã lại về.
Thầy đoán trúng. Chỉ không biết mình lại chơi vơi khi thấy đôi người ấy đi cạnh nhau trên con đường xóm, như hai con số 11, hai cây tre miễu lêu đêu, bóng soi xuống sông dài nhằng, vặn vẹo… Thầy chỉ không hiểu sao mình lại nghe rười rượi lúc nhìn khói bếp bọc lấy ngôi nhà nhỏ vừa dựng trên vườn cũ bên sông. Vì cái buồn vơ vẩn đó, thầy nghĩ chắc mình phải đi tu chùa xa quá.
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com