chan_dung-ke_si

CON NGƯỜI SỞ KHANH - Truyện ngắn Phạm Duy Tốn

13-08-2023

Lượt xem 1216

Đánh giá 1 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Phạm Duy Tốn Truyện ngắn hay

CON NGƯỜI SỞ KHANH - Truyện ngắn Phạm Duy Tốn

Từ trái qua: Phạm Duy Tốn, Phạm Quỳnh (chủ bút Nam Phong), Nguyễn Văn Vĩnh (chủ bút Đông Dương Tạp Chí) - Paris, Pháp năm 1922

Chân Dung Kẻ Sĩ: Phạm Duy Tốn (cha nhạc sĩ Phạm Duy) là một trong những trụ cột của Đông Dương Tạp Chí, tờ báo Tiếng Việt đầu tiên xuất bản ở Hà Nội do Nguyễn Văn Vĩnh phụ trách. Ông cũng là một trong những thành viên sáng lập của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, giảng dạy Pháp văn và Việt Văn trong phong trào này.

 

Thầy thông Ất làm việc ở sở... tỉnh, mới kết duyên với cô Giáp, là lệnh ái ông bá hộ Ðinh. Hai bên lấy nhau cũng là xứng đôi phải lứa. Thiên hạ chẳng ai chê cười điều gì. Thầy Ất đẹp trai, mặt mày nhẵn nhụi. Chàng vừa trạc tuổi thanh xuân; hình dung chải chuốt, áo quần bảnh bao. Cô Giáp, người mũm mĩm, trông cũng xinh xinh. Nàng đương xuân chỉ nhị đào, rượu nồng dê béo, ai nào chẳng ưa!
Nhà ông bá, bà bá cũng có, cho nên đám cưới to. Ðồ tư trang sắm đủ: vòng, xuyến, hột, hoa, mớ ba, mớ bảy, chẳng thiếu thứ gì. Giá người không kể, chỉ những đồ vàng cô dâu đeo ở trong mình, cũng đã ngót nghìn đồng bạc. Lại còn tiền hồi môn, kẻ đồn một nghìn, người nói năm trăm; nhưng thực sự thì chỉ có bốn gói mà thôi, mỗi gói là năm mươi nguyên (Ðồng, tiếng Hán) chẵn. Quý hóa lắm thay! Thầy Ất được cả người lẫn của! Thật là chuột sa chĩnh gạo...
Cưới xong, hai vợ chồng mới, dọn nhà ở riêng. Trừ lúc nào thầy thông đi làm việc thì thôi, còn khi ở nhà, hai người cứ bám chặt lấy nhau, không chịu rời ra một phút. Ngày đêm đóng kín cửa lại, vợ chồng hú hí với nhau: Loan ôm phượng, phượng bồng loan. Miệt mài trong cuộc truy hoan, trai tơ gái nõn, xuân đang mặn mà. Tha hồ vui chữ "nghi gia"!...

*

Cách ít lâu, một hôm chồng bảo vợ rằng:

- Mình ơi, mình với tôi, ta lên Hà Nội chơi một phen cho phỉ chí. Tôi sẽ đưa mình đi coi hát tuồng, đi ăn cao lâu; lên xem Quán-thánh, trại Hàng-hoa, xuống chơi Bôn-be, hồ Hoàn-kiếm. Thuê xe cao su dạo khắp nơi cho thỏa thích. Mình có ưng không ? Vợ hớn hở vui mừng, hỏi:

- Thế thì hôm nào đi?
- Ðể yên xem... Hôm nay thứ mấy?... Thứ tư, có phải không?... Vậy thì mai tôi xin phép, đến thứ bảy ta đi.
- Thật chứ?
- Thật.
- Ừ, thế thì nhẤt định thứ bảy đi, nhé!
- Nhất định.

Tối thứ sáu, vợ bảo chồng rằng:

- À này, mình ạ. Hai trăm bạc, tôi đem gửi thầy đẻ, nhé? Mang đi làm gì cho nó phiền, nhỉ?

Chồng đáp:

- Ừ, đem cả đi làm gì!... Ơ! Thế nhưng mà ngộ mình còn muốn mua bán sắm sửa gì nữa chăng? Bất nhược cứ đem quách cả đi cho tiện.
- Ừ, mà phải. Mấy khi lên Hà Nội, tội gì chẳng sắm? Ðể mai đổi cả lấy giấy, mang đi cho khỏi nặng.

Chiều hôm sau, lúc sắp ra tàu, bố vợ dặn rằng:

- Trong mình mang nhiều tiền bạc, đi đường phải cẩn thận lắm mới được. Tôi chỉ lo vợ chồng trẻ, mê ăn mê ngủ, mà ở tàu thủy, thì kẻ cắp như rươi.

Chàng rể thưa:

- Xin thầy đừng ngại. Con ở sở, lắm khi chủ giao cho bạc nghìn, giắt ở trong lưng, một mình con còn chẳng hề gì, huống hồ nay lại có cả nhà con nữa, thì thầy còn lo sợ gì!

Bà bá bảo rằng:

- Ấy ở nhà không sao, chứ đi tàu thì phải giữ. Tiền đã bỏ cả trong ví, mà để vào va-lít cẩn thận rồi, có phải không?... Thế thì những hoa, hột, vòng, xuyến, nhẫn của chị thông, cũng nên tháo hết ra mà cất vào trong va-lít ấy. Người ngồi đâu thì để liền ngay bên cạnh; hễ nằm thì gối đầu lên trên, nhé.

- Vâng, vâng.

Vội vàng miệng nói tay làm, bao nhiêu bộ cánh thu cả vào va-lít, chỉ để lại đôi hoa đeo tai mà thôi.

*

Tàu xúp-nê (Tiếng Pháp souffler: thổi còi), kéo neo, xịch xịch chạy. Hai giờ đêm, đến bến Hà-thành. Ðèn hiệu sáng trưng, cô thông nom cũng choáng mắt. Chồng bảo vợ rằng:

- Ta thuê xe cao su vào ô-ten (Tiếng Pháp hôtel: khách sạn) cho tiện.

Vợ ưng:

- Ừ, đi đâu cũng được. Nhưng mà có xa không?

Chồng nói:

- Không. Chỉ năm xu xe, chạy nhoáng một cái đến nơi ngay.

Rồi gọi:

- Cao su!... Hai cái!

Vợ lên một xe, chồng lên một xe. Xe vợ chạy trước, xe chồng chạy sau. Xe kéo rập rình, qua hết phố này sang phố khác. Ðêm khuya, đường sá vắng ngắt, thiên hạ ngủ im. Ðến Hàng-đào, phu xe hỏi:

- Ði cà-phê nào đây, cô?
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Anh thử hỏi xe sau xem.

Phu xe ngoảnh lại, chẳng thấy bóng cao-su nào. Cô thông thò đầu ra, bảo quay xe lại; nhìn mãi cũng không thấy gì. Hai bên hàng phố, cửa đóng kín mít; bốn bề im lặng như tờ. Dãy đèn điện sáng choang, thăm thẳm một dải đường dài trắng xóa... Cô thông giật mình:

- Ô, hay! Xe kia đi vào đường nào?... Ðây là phố gì, hử bác?
- Phố Hàng Ðào.
- Bác có biết xe sau chạy ngả nào, không?
- Không biết!
- Chết chửa! Coi khéo chẳng lại lạc, nhé!...

Cậu cu-li (Tiếng Pháp: coolie: phu) giở giọng ngay:

- Ơ, hay! Có lẽ bây giờ cứ đứng giữa đường này, ư? Cô bảo tôi kéo đi đâu, chứ?
- Hãy khoan đã, bác. Thử đợi tí nữa, xem sao. Ngộ xe nhà tôi đi chậm chăng, vì còn mắc cái va-lít nặng.

Cu-li bèn nạc mỡ rằng:

- Thôi, mất câu rồi. Ðừng mong người với va-lít nữa. Hụt món này, ta lõng món khác vậy.
Cô ta nghe nói, lạnh gáy cả người; những lo ngay ngáy, bụng bảo dạ rằng: "Chết nỗi! Bây giờ làm thế nào đây? Bơ vơ phận gái, đêm khuya một mình ở nơi đẤt khách, biết nương vào đâu?... Mà chồng thì đi đường nào? Sao lại có lạc được? Lẽ đâu vô ý thế!...".

Còn đang lúng túng, thì có phu-lít (Tiếng Pháp: police: cảnh sát) đi qua hỏi: "Cái gì?" Cô kia vừa buồn, vừa hãi, thấp cao kể rõ sự tình. Phu-lít bảo: "Ði lên bóp!" ấy mới rầy rà! ấy mới thật là chết! Làm thế nào được bây giờ. Trời ơi?...May sao, giữa lúc ấy, có một thầy ra dáng làm việc Tây, cũng đi qua đó, thấy lôi thôi, đứng lại gần, xem. Thốt nhiên, thầy ta giương mắt trừng trừng, nhìn vào tận mặt người đàn bà mà hỏi:

- Có phải cô Giáp đấy không?

Cô Giáp ngạc nhiên, đổi lo ra mừng:

- Phải, tôi đây... Kìa, thầy Bính!...
- Chết rồi! Cô lên đây bao giờ?... Lên làm gì trên này?... Ði với ai?... Ðêm hôm khuya khoắt, sao lại chỉ có một mình thôi?
- Tôi vừa ở tàu thủy lên với nhà tôi...
- Vậy... thầy đâu?
- Xe tôi đi trước, xe nhà tôi đi sau. Bây giờ trông lại, không thấy đâu nữa. Dễ thường lạc rồi, thầy ạ.
- Hừ!... Lạ thật! Sao lại lạc được?

Thầy Bính nghĩ một lát, rồi lại đoán rằng:

- Hay là gặp anh em, còn đứng lại nói chuyện, chăng?... Nhưng cũng không có lẽ... Ai lại bỏ vợ bỡ ngỡ, đi một mình trong thành phố đêm khuya như vậy!... Thôi, để tôi nói với thầy đội. Xin mời cô hãy về tạm đằng nhà, nghỉ ngơi với mẹ cháu cho tiện. Rồi sáng mai ta sẽ liệu.

*

Mai cũng chẳng thấy gì; kia cũng chẳng thấy gì. Trong hai ba ngày, tịnh vô âm tín. Cô Giáp sốt gan sốt ruột. Hai vợ chồng thầy Bính trong lòng cũng áy náy mà phân vân: "Ô, hay! Tìm hết nơi này, hỏi hết chỗ kia, sao mà chẳng thấy tăm hơi đâu cả, là nghĩa làm sao? Kỳ thật!..."
Ðến ngày thứ tư nhân ngồi nói chuyện việc cưới mình, cô Giáp mới thuật lại cả đầu đuôi: "Chồng tôi nghe đâu như người ở tỉnh X (nguyên in: XXX). Cha mẹ mẤt sớm, mồ côi một mình, trước sau chẳng có ai cả; thân lập lấy thân. Thầy đẻ thương tình mà gả, chứ nào có phải rằng là tham của tham cải gì đâu! Vả chưng chồng tôi vốn là thanh bạch. Thôi thì nhờ trời, nhờ quan trên, có lẽ nay mai cũng lo được bổ vào làm việc Nhà nước. Tiền của bây giờ chẳng ngại, chỉ cốt lấy chút công danh với họ hàng làng nước. Nay hai vợ chồng đem nhau lên Hà Nội chơi. Có mang cả mấy trăm bạc đi nữa..."
Thầy Bính bèn hỏi rằng:

- Thế thì bạc ấy đâu?
- Ấy, nhà tôi giữ. Bỏ ở trong va-lít... Va-lít nhà tôi mang... Lại bao nhiêu đồ vàng của tôi, cũng để cả trong va-lít ấy.

Thầy Bính lắc đầu, thở dài nhìn cô Giáp mà nói rằng:

- Thôi, cô mắc lừa rồi, cô ạ.

Cô Giáp không hiểu:

- Mắc lừa ai?... Thầy bảo tôi mắc lừa ai?...
- Mắc lừa thằng bợm, chớ mắc lừa ai?... Nó cuỗm cả vàng lẫn bạc, nó tếch lên ngàn rồi... Sao lại tin cái đứa vu vơ, trên không chằng dưới không rễ thế?!...
- Nhà... nhà... nhà tôi ấy, ư?
- Chứ lại gì!

Cô Giáp chết điếng người. Ngồi lặng im một lát, rồi bưng mặt khóc òa lên:

- Trời đất ôi! Ngờ đâu con người thế, mà xỏ lá ba que!...
- Cô ơi, đời bây giờ thiếu gì những giống tốt mã dài đuôi, làm nghề cậu Sở!... Thôi đà mắc lận thì thôi, đi đâu chẳng biết con người Sở khanh!...

*

Cách hai ba tháng sau, dò la mãi, quả nhiên biết rõ tin rằng: cậu Sở ấy đồng mưu với một ả giang hồ, để lập cái kế tàn nhẫn này, mà lấy của và hại một đời người đờn bà đầu xanh tuổi trẻ. Xong rồi, hai đứa đem nhau đi trốn sang đâu Xiêm, Lào, để cùng vui hưởng cái của bất nhân bất nghĩa.

Phạm Duy Tốn

(tháng 2 năm 1919)

Cùng tác giả: SỐNG CHẾT MẶC BAY - Truyện ngắn Phạm Duy Tốn

Bài liên quan
  • VỰC THẲM – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    VỰC THẲM – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vực thẳm là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Kiên. Ông là một trong số các văn nghệ sĩ được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I, cho các tập truyện ngắn: Trong làng, Vụ mùa chưa gặt, Trái cam trong lòng tay.
  • Ở XỨ VÔ LOÀI – Truyện ngắn Nguyễn Đình Tú

    Ở XỨ VÔ LOÀI – Truyện ngắn Nguyễn Đình Tú

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ở xứ vô loài là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Đình Tú in trong tuyển tập Hoa Cúc Vàng, gồm các truyện ngắn hay đăng trên Tạp Chí Nhà Văn, do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2007.
  • XÓM CHUỒNG NGỰA – Truyện ngắn Nguyễn Đức Sơn

    XÓM CHUỒNG NGỰA – Truyện ngắn Nguyễn Đức Sơn

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhà văn Nguyễn Đức Sơn (bút danh Sao Trên Rừng - 1937-2020), một trong ba kỳ nhân của làng văn, tức ba người có cá tính kỳ dị bậc nhất làng văn, gồm Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện. Về tài năng, giới văn chương xếp Nguyễn Đức Sơn cùng với Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên là tứ trụ thi ca miền Nam. Đang học Đại học Văn khoa Sài Gòn, Nguyễn Đức Sơn nghỉ ngang và tuyên bố: "Nếu trường Đại học Văn khoa Sài Gòn sản sinh ra được một nhà văn nhà thơ nổi tiếng tôi xin chịu chặt đầu." Năm 1979, Nguyễn Đức Sơn đưa vợ con lên đồi Phương Bối, Bảo Lộc, Lâm Đồng lập nghiệp. Trên quả đồi do nhà sư Nhất Hạnh tặng, ông trải qua bốn mươi năm cùng vợ con sống như những sơn nhân. Năm 2020, ông ra đi và để lại cho Bảo Lộc một đồi thông Phương Bối tuyệt đẹp rộng 15ha do chính tay ông trồng, canh giữ, và thậm chí đổ máu để bảo vệ.
  • NGÔI ĐỀN VÀ ÔNG GIÀ CÂM - Truyện ngắn Trần Tâm

    NGÔI ĐỀN VÀ ÔNG GIÀ CÂM - Truyện ngắn Trần Tâm

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngôi đền và ông già câm là truyện ngắn trong tập truyện Khuyển Đế của nhà văn Trần Tâm xuất bản năm 2017.
  • SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư - Phần cuối

    SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư - Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Sống Nhờ là tác phẩm của nhà văn Mạnh Phú Tư in trên Phổ Thông Bán Nguyệt San năm 1942. Giữa những nhà văn hiện thực xuất sắc khác trước năm 1945, Mạnh Phú Tư tạo ra một thế giới riêng với các tác phẩm cất lên tiếng nói phê phán mạnh mẽ các lề thói cũ, ông dùng cây cọ văn chương, đưa những nét vẽ, rồi ở đấy, trong thế giới của ông, đã để lại những nhân vật, những cảnh đời đẫm máu và nước mắt.
  • SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư

    SỐNG NHỜ - Mạnh Phú Tư

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Sống Nhờ là tác phẩm của nhà văn Mạnh Phú Tư in trên Phổ Thông Bán Nguyệt San năm 1942. Giữa những nhà văn hiện thực xuất sắc khác trước năm 1945, Mạnh Phú Tư tạo ra một thế giới riêng với các tác phẩm cất lên tiếng nói phê phán mạnh mẽ các lề thói cũ, ông dùng cây cọ văn chương, đưa những nét vẽ, rồi ở đấy, trong thế giới của ông, đã để lại những nhân vật, những cảnh đời đẫm máu và nước mắt.
  • TÔI KÉO XE - Phóng sự Tam Lang

    TÔI KÉO XE - Phóng sự Tam Lang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Tôi kéo xe là thiên phóng sự mẫu mực của nhà báo Tam Lang, in lần đầu trên Hà Thành Ngọ Báo năm 1932. Dù đã gần một thế kỷ trôi qua, giá trị văn học của tác phẩm vẫn nóng hổi cho tới tận ngày nay, thời mà truyền thông, mạng xã hội bùng nổ chưa từng thấy. "Nghề viết văn viết báo ở xã hội VN là nghề bạc bẽo và bấp bênh nhất. Đâm đầu vào nghề mà không có được người vợ đảm đang tháo vát, tần tảo nuôi nổi gia đình trong thời gian mình thất nghiệp vì bất mãn, vì báo bị đình bản có giới hạn hoặc thu hồi giấy phép thì chuyện treo niêu gác bếp là chuyện rất thường" - Tam Lang.
  • MŨI TỔ - Truyện ngắn Lý Văn Sâm

    MŨI TỔ - Truyện ngắn Lý Văn Sâm

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trong suốt năm mươi năm cầm bút, nhà văn tài hoa của Miền Đông Lý Văn Sâm đã để lại một số lượng tác phẩm khá đồ sộ, bao gồm nhiều tác phẩm được độc giả yêu thích như Kòn Trô (1941), Nắng bên kia làng (1948), Sương gió biên thùy (1948), Sau dãy Trường Sơn,... Năm 2007, nhà văn Lý Văn Sâm được trao Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật cho các tác phẩm; Sau dãy Trường Sơn, tập truyện ngắn Sương gió biên thùy và Toàn tập Lý Văn Sâm.
  • CHUỒNG NUÔI NGỰA – Truyện ngắn Như Phong

    CHUỒNG NUÔI NGỰA – Truyện ngắn Như Phong

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chuồng nuôi ngựa là truyện ngắn của nhà văn Như Phong in trên Báo Mới số 2 (ngày 15-5-1939) và số 3 (ngày 1-6-1939). Nhà văn Như Phong được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt 2 Năm 2007.
  • NGƯỜI THÀY THUỐC - Truyện ngắn Thanh Châu

    NGƯỜI THÀY THUỐC - Truyện ngắn Thanh Châu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Người Thày Thuốc là truyện ngắn trong tập truyện cùng tên của nhà văn Thanh Châu, Tân Dân xuất bản năm 1938. Ông chính là tác giả của truyện ngắn Hoa Ti-gôn, vốn là khởi đầu cho một cuộc tranh luận bất tận cho tới tận ngày nay về bài thơ  “Hai sắc hoa Ti-gôn”, của nhà thơ “bí ẩn” T.T.Kh.