chan_dung-ke_si

CÔ DÂU TRONG THUNG - Truyện ngắn Hải Miên

05-04-2023

Lượt xem 3045

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

  Truyện ngắn hay Hải Miên

CÔ DÂU TRONG THUNG - Truyện ngắn Hải Miên

 Hải Miên

Đưa tay vặn ngọn đèn dầu xuống thật nhỏ, chị Nụ sẽ sàng nằm xuống chiếc giường tôi. Dù sẽ sàng, chiếc giường tre cũ vẫn kêu lên cọt kẹt.
- Cái giường này đã già lão quá rồi, Gỗ nhỉ? Ngày trước mẹ bảo mẹ đã sinh chị ra trên chiếc giường này. Cả em cũng khóc chào đời ở đây. Những vệt thâm đen trên vạt giường là do nước đái của hai chị em mình để lại đấy.
- Thế còn cái giường em đang nằm đây?
- Tự tay bố hạ tre, đóng năm em lên 10. Bố nói con trai lớn phải ngủ riêng, không được nằm chung với mẹ và chị gái. Bố đóng giường em dài hơn chiếc giường bên này cả đoạn vì bố bảo nhìn giò biết em sẽ cao lắm. Em có nhận thấy không?
- Có, nhưng em cứ tưởng khúc tre dài, bố tiếc không muốn cưa đi.
Chị Nụ bật cười, tôi cũng cười rúc rích như chị em nhà chuột cắn lúa trong đêm tối.
- Hai đứa mày không lo mà đi ngủ, khuya rồi - giọng anh tôi ngái ngủ. Tiếp theo là tiếng nói nhẹ nhàng và xa cách của chị dâu:
- Mai cả nhà phải dậy sớm để dỡ đám khoai trên đồi, trưa ở lại luôn. Cô Nụ nhớ nấu cơm sớm và dỡ theo cho chúng tôi.
Chỉ nghe tiếng chị Nụ trả lời khẽ: "Vâng", rồi tất cả chìm vào yên lặng. Hình như chị Nụ không ngủ được, lâu lâu lại nghe tiếng chị trở mình, tiếng thở dài cố nén.
- Gỗ, em còn thức không?
Tôi nắm lấy bàn tay 20 tuổi khô gầy của chị đang rờ nhẹ trên mặt mình, áp vào má. Bàn tay chị có mùi mặn mặn, tôi sực nhớ lúc chiều chị đã muối một vại cà bát và hai chum nhỏ cà pháo. Chị Nụ lại thở dài.
- Gỗ này, chắc chị phải đi lấy chồng.
Cố lắm tôi mới không kêu lên thảng thốt mà cũng thầm thì như chị:
- Nhưng chị mù loà...
- Chị cũng biết vậy - tiếng chị buồn và cam chịu - Nhưng chị không đến nỗi vô dụng. Chắc cũng có người đàn ông kém vẹn toàn nào đó muốn lấy chị làm vợ chứ, em có nghĩ vậy không?
Đột nhiên chị im lặng giây lâu. Tôi quờ tay lên mặt chị chạm phải hai dòng nước mắt chứa chan.
Gia đình tôi đã bao đời sống ở nông trang này, quây quần trong thung cùng hơn 50 nóc nhà khác. Bị chắn chung quanh bởi đồi, núi và một con dốc cao chót vót, những ngọn gió trong thung thường quanh quẩn khắp lượt các cửa nhà, những bàn chân trẻ con hiếu động cũng dừng lại trước vách núi và con dốc chắn. Nhưng chúng tôi không hoàn toàn bị cô lập. Phía bên kia con dốc là đường dẫn xuống chợ, xuống phố phường, cửa hiệu náo nhiệt tưng bừng.
Chợ năm ngày một phiên. Với bọn trẻ con, xuống chợ là một phần thưởng năm chúng lên 10 tuổi, khi chúng có thể gánh đỡ bố mẹ hai mủng khoai, bắp cải hoặc lúa gạo. Rồi từ đó mỗi năm một lần, chúng lại được theo bố mẹ, ông bà hoặc anh em xuống chợ một lần vào dịp Tết. Để chuẩn bị cho đi chợ Tết, chúng phải để dành tiền xu quanh năm, nhịn thèm tất thảy đến mức nhìn những quả thông, quả ớt hay trái cà chúng đều thấy có hình que kem mát lạnh và viên kẹo mút ngọt lịm. Chúng dành tiền đi chợ Tết mua bong bóng, kẹp tóc, dép mới.
Tôi đã đi chợ Tết bốn lần. Chị Nụ 20 tuổi chưa được đi chợ Tết lần nào bởi quãng đường đó xa xôi và lạ lẫm đối với một người mù như chị. Những người lớn ở nông trang chúng tôi vừa tự hào vừa tự ti về cái làng nhỏ của mình nên nhiều đời các cuộc hôn nhân chỉ chăng đèn kết hoa từ cửa nhà này sang cửa nhà khác ngay trong làng. Đến lứa của anh Cả, chị Nụ tôi thì các bậc cha mẹ đã phải nhờ đến ông mai bà mối cưỡi ngựa vượt qua thung, đi đến các làng khác để kén dâu tìm rể mặc dù điều đó trái với tục lệ của nông trang. Chị dâu tôi bây giờ cũng do một ông bà mối dẫn về từ một làng rất xa...
Gia đình chúng tôi cũng từng vững chãi như mọi nhà khác trong làng, thời mà mỗi bữa ăn chị Nụ phải dọn ra mâm đủ sáu đôi đũa, sáu cái bát cho ông nội, bố mẹ và ba anh em. Thời đó nhà tôi có ông nội trông nhà, hạ tre ngồi đan thúng mủng, giần sàng và vót đũa dưới bóng mát của cây mít trước ngõ, có bố để anh cả theo sau đuôi trâu tập cày, có mẹ để bày chị Nụ nấu cơm, may vá và tôi còn cố trợn mắt trợn mũi nhai nuốt thật nhanh mỗi bữa hai bát cơm chan canh để tối được mẹ cho sờ tí.
Ngày qua tháng lại, mắt bọn trẻ con chúng tôi xa dần, xa dần mặt đất thì những người già cứ mỗi ngày còng xuống gần hơn với đất, cho đến khi nằm hẳn xuống ngủ một giấc muôn đời. Ông nội tôi thở hơi cuối cùng khi mẹ đang hối hả đào hố trồng xuống sau vườn một cây ăn trái lâu năm. Đây là tục lệ của riêng người trong thung. Khi trong nhà có một người lớn tuổi về với đất thì người đàn bà của gia đình đó phải trồng xuống một loại cây lâu năm kịp trước khi người kia im hơi tắt tiếng. Linh hồn của người chết sẽ không chịu vùi sâu dưới ba tấc đất cùng thể xác của họ mà thoát ra, nhập vào thân cây ấy trong vườn nhà. Với những người trẻ, linh hồn sẽ bay đi nương vào một cây trên rừng. Hằng năm vào ngày mồng một Tết, chúng tôi có lễ thăm cây. Trước hết là thăm cây trong vườn nhà và sau đó toả lên rừng.
Giờ ông nội đã trú ẩn trong cây mít trước ngõ, bố tôi ở cây xoài sau nhà và mẹ tôi ở cây xoan cạnh bờ mương. Mỗi khi buồn, chị Nụ hay ra tựa lưng vào gốc cây xoan, một chốc lại lẳng lặng quay vào, không muốn để ai nhìn thấy. Nhưng tôi biết bí mật của chị. Tôi còn biết từ dạo nhà có chị dâu, chị rất hay lén ra dựa gốc xoan...
Tôi không chắc trong hai người, anh cả và chị Nụ, ai là người háo hức đón cô dâu mới hơn bởi anh luôn giữ vẻ mặt căng thẳng, lạnh lùng. Sau ngày đón cô dâu một thời gian cũng vậy. Chị Nụ vốn tính trầm lặng nhưng khi có chị dâu, chị bỗng trở nên hoạt bát và nói nhiều. Tuần đầu chị Nụ là bạn trò chuyện duy nhất của chị dâu. Chị kể rất nhiều về những người trong nhà, nhất là anh cả. Chị nói cho chị dâu biết về linh hồn của ông nội ẩn trong cây mít, bố ở ngoài cây xoài, mẹ nương cây xoan. Chị dâu rất ngạc nhiên, hồ nghi: "Ở làng chúng tôi không có tục lệ như vậy".
Một cách chậm chạp nhưng anh cả ngày một đổi khác. Sau mỗi đêm ngủ dậy anh thường nói với  chị em tôi, nhất là chị Nụ, những điều mới mẻ, lạ lùng. Nói một lèo, trơn tru, chặt chẽ. Chúng tôi vẫn yêu quý anh nhưng ngày một e ngại anh mình. Chị dâu chưa bao giờ rầy la hay tỏ ý không hài lòng về hai đứa em. Đến bữa ăn, chị dâu luôn ngồi ở đầu nồi, nhận lấy việc xới cơm cho cả nhà, và cả tôi lẫn chị Nụ, không ai bảo ai nhưng đều hết sức e dè khi đưa bát cho chị dâu xới bát cơm thứ ba. Rồi dần dà, dù đói dù no, chúng tôi luôn dừng ở bát thứ hai. Tội nhất là chị Nụ. Trước đây tôi là người gắp thức ăn cho chị trong mỗi bữa cơm, nhưng về sau này tôi thực thi nhiệm vụ của mình hết sức e dè, tiết kiệm. Chị dâu ít nói. Chị dâu xoay chuyển nếp sống của cả nhà theo ý riêng của chị bằng một uy lực vô hình.
Nắm lấy tay tôi, quơ quơ cây gậy trên con đường làng nhỏ hẹp, lẫn lộn phân trâu phân ngựa, chị Nụ bảo: "Gỗ, em đi tới nhà bà Duyên với chị. Có em, chị vững tâm hơn". Bà Duyên chuyên làm nghề mai mối ở làng tôi. Bà dẻo miệng, có thể ghép duyên giữa một anh trai thọt chân với cô gái đẹp người tốt nết nhất làng mà không ai trách móc được bà. Giúp chị Nụ nhảy qua một con suối cạn và hẹp xong, tôi hỏi:
- Việc này sao chị không nhờ anh cả đi giúp cho đỡ khổ?
Chị cười, vẫn nụ cười và giọng nói cam chịu:
- Đúng ra là phải như vậy, con gái mọi nhà khác đều để mẹ đi lo việc này. Ở nhà mình thì anh cả đi là phải lẽ nhất. Chỉ có hạng con gái không ra gì, không biết xấu hổ thì mới tự đi nhờ người kiếm chồng cho mình. Nhưng phận chị mù loà, có đáng gì mà chảnh choẹ, người ta sinh ghét thêm.
Từ nhà bà mối Duyên trở về, chị bảo tôi khoan về thẳng nhà mà ngồi nghỉ chân bên lòng suối cạn một lúc. Hai chị em vục chân trong làn nước mát lạnh, trong veo, thấy rõ từng con cá bé bằng đầu tăm trong suối bơi dạt theo nước chảy. Chị vốc nước lên vã vào mặt, cho chảy ròng ròng xuống cổ, ướt cả ngực áo và tạt nước lên rửa chân tay. Tôi nhận ra chị Nụ của mình không hèn kém chút nào như đôi mắt mù của chị. Chân tay chị thon thả, trắng ngần và đẹp đẽ hơn của chị dâu tôi nhiều. Hái một chiếc lá sơn to gấp lại như chiếc phễu, tôi vớt được con cá suối nhỏ bằng đầu đũa, bảo chị khum tay lại rồi thả chú cá vào lòng bàn tay chị. Giơ cao bàn tay chụm lại, chị yên lặng để cho dòng nước tuôn theo những kẽ tay xuống suối. Khi cảm thấy được con cá búng trong lòng bàn tay, chị cúi người trả con cá nhỏ về với suối: "Nếu như chị không mù, chị đã có thể bơi xa như chú cá nhỏ kia rồi...".
Không ngờ mọi việc tiến triển nhanh thế. Khi bà mối Duyên đến nhà báo cho biết đã có một đám bên kia núi chịu cưới chị Duyên cho con trai họ, với điều kiện nhà gái không đòi hỏi tiệc tùng, lễ vật thì đúng vào bữa cơm tối, có anh cả và chị dâu cùng nghe.
Anh chị hơi ngạc nhiên nhưng không tỏ ý gì đặc biệt. Chị dâu nhẹ nhàng:
- Mừng cho cô có nơi có chốn để nương tựa. So tuổi thì cô cũng hơi cứng rồi.
Anh cả hỏi kỹ hơn về gia đình đằng trai và bản thân người chồng sắp cưới của chị Nụ. Bà mối Duyên trả lời qua loa, bảo:
- Bên mình đừng đòi hỏi quá. Phận cô Nụ mù loà, có người chịu cưới cho là may lắm. Tôi phải trổ hết tài khéo của một bà mối giàu kinh nghiệm ra mới xong đấy.
Tối đó, chị Nụ không ngủ được. Chị quay sang tôi:
- Gỗ này, không biết mai sau đời chị thế nào nhỉ? Có được như chị dâu nhà mình không?
Tôi chưa biết nói sao thì chị đã tiếp:
- Chắc là không. Chẳng biết xứ ấy nó ra làm sao? Đã bao giờ em thả trâu sang tận xứ ấy chưa, có giống như ở đây không?
Tôi chưa bao giờ biết xứ ấy cả, mà cả làng tôi cũng chưa chắc ai đã một lần đặt chân đến. Một làng ở sau núi? Sau ngọn núi cao dựng đứng vây bọc thung này, còn có một làng nào đó sinh sống ư? Hiểm trở, heo hút đến thế kia mà.
Ngồi dậy uống một hớp nước để trong chiếc ấm đất ở dưới nhà, ngay cạnh đầu giường, chị nài nỉ tôi:
- Hai hôm nữa tới phiên chợ, em dẫn chị đi chợ với nghe, Gỗ. Chị đi không được mau nhưng chị sẽ cố, miễn là em chịu đi chậm lại một chút. Chưa bao giờ chị được biết chợ cả, chị thèm lắm. Hồi xưa, mẹ có hứa sẽ đưa chị xuống chợ một lần cho biết, nhưng mẹ không kịp...
Tối hôm sau chị Nụ xin anh cả cho tôi dẫn chị đi chợ, chị dâu sang nhà bác họ dạm đổi đỗ giống. Anh cả vào buồng một lúc, quay ra nhét vào tay chị Nụ mấy tờ bạc:
- Em cầm lấy, xuống chợ muốn mua gì thì bảo thằng Gỗ nó dẫn đi mua. Anh thấy hôm chị nhập dâu về nhà mình, trên đầu chị giắt nhiều những thứ gì lóng lánh, trông đẹp lắm. - Ngập ngừng một lúc, anh cúi đầu thở dài - Lẽ ra anh phải cho em nhiều hơn, nhưng chị em có thai. Sắp tới sinh em bé, hao tốn lắm.
Rồi anh vuốt vuốt mấy sợi tóc xoà xuống trán, còn vướng tro bếp của chị Nụ, nghẹn ngào:
- Lẽ ra anh phải đưa em xuống chợ huyện nhiều lần rồi mới phải. Suốt mấy năm qua, từ khi...
Để lẩn tránh phút yếu lòng, anh quả quyết đứng dậy, vớ lấy bó đuốc giắt sau chái bếp, gắp than bỏ vào rồi thổi bùng lên:
- Anh đi đón chị về. Mới mưa đường trơn lại đang có mang.
Dù không nói ra và vẫn giữ nét mặt phẳng lặng, hiền dịu vốn có của một người mù, nhưng tôi biết chị Nụ đang hồi hộp và lo sợ lắm. Lâu nay mọi việc nhà chị đều chu toàn, dù có hơi chậm chạp, là nhờ chị đã quen với mọi ngóc ngách và những trật tự không bao giờ thay đổi của các đồ vật trong nhà. Nay chị sắp sửa về một nơi xa hút, bước chân vào một ngôi nhà hoàn toàn xa lạ, phải mất bao nhiêu tháng chị mới quen được với những ngóc ngách và vị trí đồ vật? Biết có ai trong nhà ấy tốt bụng, thương chị mù loà để cầm tay dẫn chị từng li từng tí như ngày xưa mẹ đã chỉ dạy cho chị hay không?
Sáng ấy hầu như cả thung ngưng làm việc, nhất là các bà và đám trẻ con. Họ đứng chật sân, giẫm nát cả đám cải con mới xoè ba lá sau giếng nước, chờ đợi đến ngộp thở người đàn ông sẽ đến lấy chị Nụ mù loà của tôi về làm vợ. Chị Nụ chân mang giày mới, đầu do chị dâu bới chải cầu kỳ, dắt những món trâm cài lấp lánh mà chị đã mua ở phiên chợ hôm đi với tôi, ngồi ngay đơ trên chiếc chõng tre của chị. Bên cạnh là tay nải quần áo, toàn đồ cũ, để chị mang theo, có một bộ mới duy nhất vừa may thì chị đang mặc trên người. Khi nghe đám con nít chạy như bay ngoài đầu dốc vào, cấp báo "Chú rể tới rồi, chú rể tới rồi!" chị kêu tôi lại khẽ khàng:
- Gỗ này, tí nữa em đừng bỏ ra ngoài đó theo đám trẻ con mà hãy ngồi đây với chị. Em cố nhìn qua kẹt cửa xem chú rể là người như thế nào, tả thật tỉ mỉ cho chị nghe với. Tỉ mỉ hơn ngày em tả chị dâu nữa. Gỗ, em là đôi mắt của chị.
Nói đến đó chị nghĩ tới ngày mai hay sao mà hai dòng nước mắt đổ xuống chứa chan.
Đoàn nhà trai đã vào đến ngõ. Chẳng đông đúc, rầm rộ như những đám cưới khác. Đi theo chú rể chỉ có hai người đàn ông đã đến tuổi đổ dốc, một người dắt ngựa, một người bưng quả trầu cau bé xíu, ngả màu héo hon, nằm lọt trong khay trà rượu. Cả hai người đàn ông đều có dáng vẻ thảm hại do những gì họ mang lên trên người, mặt gầy choắt và đặc biệt đôi mắt mí sụp vằn lên những tia hung ác. Tôi lo sợ cho chị mình. Con ngựa trắng đang cõng chú rể trên lưng cũng lộ vẻ già nua, đói kém. Lông nó ngả màu khói như những đám cỏ nắng táp trên đồi.
- Chú rể của chị đã xuống ngựa, có vẻ cao hơn anh cả nhà mình. Chú rể mặc đồ mới, trông chững chạc, đường hoàng lắm.
- Sao chị nghe ngoài sân ồn lên ghê thế? Có gì không ổn hả em?
- Các bà đang trầm trồ về chú ngựa tuyệt đẹp của chú rể đấy. Úi chà, chú rể có dáng đi thẳng và đẹp lắm chị ạ.
Chị nghiêng tai về phía tôi, sốt ruột:
- Em tả cho chị nghe về nét mặt của người ấy đi. Hiền hay dữ? Có hiền như bố không?
- Mặt anh ấy vuông chữ điền, lông mày rậm và đen, mắt sâu, trông tình cảm lắm...
- Gỗ, sao chị nghe ngoài sân xôn xao ghê vậy?
- Em đoán anh ấy là người nhân hậu, chị à.
Rồi tôi còn huyên thuyên một lúc nữa, nhưng nước mắt tôi đã lưng tròng. Tội nghiệp chị Nụ của tôi! Anh rể mặc áo mới, rộng thùng thình, đoán là áo mượn. Đầu tóc anh xù lên như một tổ quạ và luôn tay đưa khăn lên chấm nước dãi liên tục đổ xuống hai bên mép. Đầu anh ngoẹo sang một bên, dựa hẳn vào vai trái. Chắc chắn anh là người bị ngớ ngẩn, đần độn. Khổ thân chị tôi biết bao! Họ còn nói một thứ tiếng mà không ai ở thung chúng tôi hiểu được. Họ khác ngôn ngữ với chúng tôi! Nếu không có bà mối Duyên thông dịch thì hai bên đàng trai đàng gái đã như hai kẻ điếc trò chuyện với nhau.
Bỏ chị Nụ ngồi lại trong nhà, tôi lao ra sân, vẹt đám các bà bu quanh để núp sau lưng anh cả. Tôi năn nỉ:
- Anh cả ơi, anh đừng gả chị Nụ cho họ. Chị ấy chết mất! Có gì khổ lắm, mai em sẽ dẫn chị Nụ xuống phố chợ đi xin ăn. Còn hơn...
Anh cả ngập ngừng, lưỡng lự, nét mặt anh tỏ vẻ kinh tởm khi nhìn thấy chú rể, con ngựa và hai người đàn ông đi họ. Nhưng rồi anh bắt gặp ánh mắt của người chị dâu...
Tự tay tôi nắm dây mũi của con trâu già dắt ra khỏi chuồng. Con trâu mẹ này do bố mẹ chúng tôi để lại, đã đẻ cho anh cả ba con nghé đực, giờ anh chia con trâu mẹ cho chị Nụ đi lấy chồng, coi như của hồi môn. Một tay gạt nước mắt, tôi đỡ chị Nụ lên lưng trâu, dưới có lót tấm chăn cho chị đi đường xa đỡ mỏi người. Lúc tôi khoác tay nải quần áo của chị lên cặp sừng cong vút của con trâu mẹ, chị quờ tay nắm lấy tay tôi, cúi đầu xuống cho má chị áp vào mái đầu khét nắng của tôi.
- Em đừng lo nhiều cho chị, Gỗ ạ. Dù họ có như vậy, anh ta có như vậy, chị vẫn tin là chị có thể sống được ở nhà người ta. Chắc dù sao họ cũng thương một kẻ mù loà như chị mà không đòi hỏi quá khắt khe. Em có nghĩ vậy không?
Hoá ra chị Nụ biết hết. Và chị cam chịu đón nhận cái phận hẩm hiu mà số phận đã dành cho một cô gái mù như chị.
- Em ở lại ngoan, đừng giận anh cả, đừng oán chị dâu, Gỗ nhé. Thực ra chị dâu không xấu gì với chị em mình đâu.
Người đàn ông bên họ nhà trai cất giọng the thé xổ ra từng hồi. Tôi đoán là ông ta giục lên đường.
Vẫn giữ nét mặt phẳng lặng của một người mù và nét dịu hiền vốn có, chị Nụ kéo mạnh dây mũi, thúc vào lưng con trâu mẹ. Con trâu mang chị đi được một quãng rồi cứ quay đầu trở lui. Tôi chạy theo gọi: "Chị Nụ, chị Nụ nhớ về thăm em!". Chị quay đầu lại, nghẹn ngào: "Em cố lớn nhanh băng núi vượt đèo lên thăm chị, Gỗ nhé. Xa quá thế này, chắc chẳng khi nào họ dẫn chị về lại nhà mình nữa đâu".
Tôi leo lên gốc thị cụt ngọn ở đầu thung, ngóng theo bóng đoàn người mang chị Nụ tôi đi mỗi lúc một xa dần. Trước là chú rể cưỡi con ngựa trắng xỉn màu, sau là chị tôi ngồi nhỏ bé trên lưng trâu, hai bên hai người đàn ông loắt choắt. Rồi cứ khuất dần, khuất dần, cho đến khi tôi chỉ còn nhìn thấy một chấm đỏ xa mù, đó là tay nải áo quần của chị tôi đu đưa trên cặp sừng cong vút của con trâu mẹ...

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.