
Nhà văn Hoàng Dân
Chân Dung Kẻ Sĩ: Chiều vô danh là truyện ngắn của nhà văn "không viết gì ngoài sự thật" Hoàng Dân, viết về chiến tranh, đạt Giải Ba cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân Đội năm 1992-1994. Giống như tiểu thuyết All Quiet on the Western Front của nhà văn người Đức Erich Maria Remarque, được viết với kinh nghiệm của một người lính thực thụ trong chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, Chiều vô danh của nhà văn Việt Nam Hoàng Dân, cũng được viết với tư cách của một người lính đã chiến đấu và sống sót trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ. Ở All All Quiet on the Western Front người ta thấy chi tiết "Từ 5 giờ sáng cho đến 11 giờ sáng, khoảng thời gian ngừng bắn - khi chiến tranh đã chính thức kết thúc (vẫn có) - 2.738 người đã thiệt mạng", còn ở Chiều vô danh "ở tất cả cửa ngõ tiến vào Sài Gòn vẫn có hàng nghìn người lính ngã xuống mà không hề biết hôm sau sẽ là ngày toàn thắng".
Nhà văn Hoàng Dân: “Cả nước và thế giới biết đến ngày 30/4/1975, nhưng ít ai biết rằng chiều 29/4, ở tất cả cửa ngõ tiến vào Sài Gòn vẫn có hàng nghìn người lính ngã xuống mà không hề biết hôm sau sẽ là ngày toàn thắng. Ngày hôm đó, tôi là lính bộ binh của E9, F320, QĐIII, đơn vị tôi đánh chiếm cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn, và đại đội tôi chỉ còn sống sót 7 người trong đó có tôi. Khi thu dọn thương binh tử sĩ, có một chiến sĩ rất trẻ bị một mảnh cối 81 găm vào đúng tim, nhịp thở cứ phập phồng thoi thóp. Người lính ấy thều thào nói với tôi: "Anh Dân ở lại cố gắng nhé!". Đêm đó, tôi không sao ngủ được và cứ thầm nghĩ nếu còn sống nhất định phải viết một cái gì đó để tôn vinh người lính”.
***
Nhìn vợ tôi tất bật với bữa ăn tươi chiều nay, tôi nghĩ: “Đàn bà các vị chúa là hay cầu toàn! Cần quái gì phải chẻ hành chẻ ớt cho mất thì giờ? Tống vào dạ dày thì còn đẹp cái nỗi gì?”. Nghĩ vậy, nhưng tôi chỉ mỉm cười, không dám nói ra thành lời.
Thằng Long, con trai tôi hỏi:
- Bố cười cái gì thế?
Tôi ôm nó vào lòng, thủng thẳng:
- Bố buồn cười vì mẹ con chiều bố con mình quá thành ra phải đợi món “mầm đá” khí lâu.
Vợ tôi lườm:
- Người đâu mà háu đói hơn cả trẻ con!
Tôi cười:
- Biết làm sao được! Đời lính đã rèn cho anh thói quen phải ăn nhanh, chạy nhanh và hôn cũng nhanh nốt.
Thằng Long cười khanh khách:
- Ê, bố nói bậy nhá!
Vợ tôi bê nồi sườn bung với dọc hà và nghệ vào, nói:
- Xong rồi! Anh vớt cho con mấy miếng sườn để nó gặm thịt.
Tôi loay hoay đảo ngoát vớt ra một bát sườn đầy, những miếng sườn giẻ quạ ninh nhừ nom đã thấy ngon. Thằng Long vừa thổi phù phù vừa gặm mút một cách thích thú. Nó nhai xương và nhã bã ra đầy một góc mâm. Vợ tôi cằn nhằn
- Con phải cho bã xương vào cái bát con kia kìa, không được nhả ra mâm.
Tôi gạt đi:
- Kệ nó, có khách khứa gì đâu mà ngại.
Đã đói thì chớ, vợ tôi lại chẳng chịu bớt một thao tác nào của cái quy trình ăn bún bung rất là rườm rà: gắp bún vào bát, trần nước sôi, rắc hành và rau thơm, chan nước sườn bung...
Tôi sốt ruột, gắt khẽ:
- Thôi đưa đây, anh làm lấy cũng được.!
Nhận bát bún nóng từ tay vợ, chưa kịp ăn, tôi chợt cảm thấy nôn nao lợm giọng. Tôi đặt bát bún xuống, nhắm mắt để cố trấn tĩnh lại, nhưng không thể nào chịu nổi cái cảm giác buồn nôn đang dâng lên cuồn cuộn. Người tôi ớn lạnh, ghê ghê như bị tái phát một cơn sốt rừng. Tôi cố gắng đứng dậy lảo đảo bước tới cái giường và nằm vật ra hổn hển.
Vợ tôi hốt hoảng quăng tuốt cả đũa với muôi, vội chạy ra đỡ tôi nằm xuống. Một bàn tay đặt lên ngực tôi, một bàn tay sờ trán tôi, vợ tôi run run:
- Anh làm sao thế?
Tôi nhắm nghiền mắt, khẽ nói:
- Em cứ ra ăn với con đi. Anh chỉ chóng mặt qua loa thôi. Chắc là anh bị thiếu máu não thật. Có lần bác sĩ đã bảo thế nhưng anh không tin.
Vợ tôi càng lo lắng hơn:
- Bệnh ấy có nguy hiểm không hả anh?
Tôi trả lời quấy quá:
- Nó cũng vớ vẩn như cảm cúm thôi mà!
Thằng Long chợt nheo nhéo gọi:
- Mẹ ơi, nhiều kiến đen quá. Nò bò đầy mâm đây nay!
Trời ơi! Kiến đen! Chính đám sinh vật li ti ấy đã khiến tôi suýt ngã gục trên bát bún bung. Chúng đang nhe răng gặm sồn sột trong óc tôi...
Vợ tôi tất tả trở lại mâm và kêu lên:
- Trời ơi, sao con nhã bã xương lung tung ra cả sàn thế này? Tại con nên kiến mới bò vào nhiều đến thế đấy.
Thằng Long cãi:
- Ứ phải tại con. Tại nhà mình nhiều kiến thì có.
Thằng Long nói đúng. Nhà tôi ở trên một gò đất nên ai cũng bảo nhà tôi là thiên đường của các loài kiến. Tôi đã từng tưới dầu hoả, rắc thuốc diệt kiến mà xem ra chẳng ăn thua gì. Có lần tôi đã xoắn cả mớ giấy để đốt chúng, nhưng không xuể. Không thể nào tiêu diệt nổi đám sinh vật quái quỷ ấy. Mà hễ nhìn thấy chúng là tôi như bị dị ứng và buồn nôn.
Để khỏi phụ công vợ đã mất cả buổi chiều cho một bữa ăn tươi, tôi bèn vùng dậy, hùng dũng bước ra mâm và ngồi xuống:
- Nào, bố con mình tiếp tục đi!
Nhưng rồi, đầu óc tôi bỗng loé sáng những chùm đèn dù ma quái, lơ lửng... Tiếng bom nổ. Tiếng đạn rít. Tiếng gào thét của những người đã chết. Một mớ âm thanh ầm ầm náo động trong tâm tưởng tôi. Tôi chỉ còn nhìn thấy hàng triệu con kiến đen đang xâu xé những mẩu xương thịt của đồng đội tôi trong cái buổi chiều ảm đạm ấy. Tôi bỗng nhớ lại tất cả những gì mà tôi đã cố quên đi.
... Trường Sơn, những chiều mưa rấm rứt. Những cánh rừng đại ngàn âm u, ẩm ướt. Vắt rào rào quăng mình trên lá mục vừa bén hơi người.
Tôi ì ạch bám sát đội hình hành quân. Đầu chúi xuống hai vai tê bại, đầm đìa mồ hôi, ớn lạnh. Dù đã độn lót khá kỹ, những cành đạn cối 60 ly vẫn cứ thản nhiên và vào lưng tôi đau thon thót.
Một tiếng chửi bật lên khe khẽ: “Tổ cha...”. Tôi ngẩng đầu lên. Vũ đang quài tay ra phía sau sờ mó cái ba lô vuông nhầy nhợt mỡ. Chết cha rồi! Cái thùng mỡ 10 ký đã bục vỡ trong ba lô. Mỡ nhểu giọt xuống lá rừng. Mỡ chảy theo lưng áo, ống quần và luồn qua gót chân, chui vào mặt dép đúc, trơn tuột. Vũ hơi cúi người, lột dép cầm tay và lại chửi: “Tổ cha bay!”.
Tôi buồn cười, nhưng không cười nổi. Mệt quá. Chỉ khẽ nhếch mép. Phải nói Vũ là thằng tốt nết nhất tiểu đội. Chỉ có nó mới chịu đeo cái “của nợ” ấy trên lưng mà đi ròng ròng ngày này qua tháng khác. Mồ hôi trộn vào mỡ khét mù. Lúc nào cũng nhớp nháp ngứa ngay. Có một đêm, trong lúc đang mò mẫm lao người xuống một cái dốc đứng, Vũ túm phải một cây nứa tép dập, cây nứa cứa lòng bàn tay vũ tướp máu. Máu, mỡ, mồ hôi quyện vào nhau lầy nhầy. Nghĩ mà sởn gai gà!
Vũ lầm lũi bước đi trước mặt tôi. Cái thằng chân đi vòng kiềng mà khoẻ và lì số một. Hắn là con dân chài nòi vùng biển Nghệ An mà! Ôi chiến tranh kỳ diệu. Con người sinh ra và lớn lên trong bão tố biển khơi bỗng nhiên nhảy lên rừng sâu núi thẳm để tải bộ thế này? Tôi chợt nghĩ đến Thời. Hắn là một gã lính ba trợn ba trạo. Có thói quen nói mà không bao giờ thèm để ý đến người nghe. Những ngày đầu sống với hắn, tôi cứ chờn chờn ghê ghê. Người đâu mà băm bổ, thô lỗ?
Có lệnh tạm dừng, triển khai đào hầm, dựng lán. Tôi thở phào. Sẽ được xả hơi vài ba ngày đây. Không ai bảo au, tất cả đều nặng nề thả người đánh phịch xuống đất, xoạc rộng hai chân, ngả người vào chiếc ba lô và lim dim đôi mắt. Không ít chàng lính đã ngoẹo đầu ngủ rũ. Tôi cũng thèm ngủ kinh khủng. Đầu óc cứ mê mụ, bồng bềnh... Bỗng tôi giật thót. Một cái bàn chải sắt nào đó đang chà sát lên má tôi. Tôi tỉnh hẳn. Thời! Chính hắn! Hắn đang nhăn nhở cười. Dù biết hắn chính gốc Khâm Thiên – Hà Nội, tôi vẫn cứ ngờ ngợ. Hắn có bộ râu tua tủa rất đàn ông. Hắn không giấu giếm niềm tự hào về bộ râu rễ tre ấy. Hắn thường cao giọng kể đi kể lại mối tình đầu của mình. Hắn bảo sau mấy đêm đi chơi với bé (hắn gọi người yêu là “bé”), hắn hỏi: “Em có biết anh yêu em từ bao giờ không?” Bé đáp: “Chưa thấy!”. Thế là hắn lia râu túi bụi vào mặt bé. Hắn bảo bé cứ sướng rên lên... Mỗi lần kể xong, hắn lại cười khùng khục: “Cái hôn không râu như cà phê không đường!” Chẳng hiểu sao, các chiến hữu nghe mãi cái chuyện vặt ấy mà không chán? Ngược lại, hễ hắn dứt lời là tất cả ôm bụng cười ngả nghiêng, ngặt nghẽo, cười đau quặn thắt cả ruột gan. Đứa thì tung hô Thời là “lãnh tụ của ái tình”. Đứa lại gọi hắn là nhà “Ma sát thịt”. Còn tôi thì buột mồm gọi nôm là “Thời râu!” Xem ra Thời có vẻ ưng ý với cái tên của tôi hơn cả. Hắn chộp ngực tôi, day thật lực và hùng hồn tuyên bố: “Thời... râu! Được đấy. Vừa nho nhã, vừa đời và cũng rất...đực! Ô hô! ông Nghĩa thánh thật!...”
Vừa nói Thời vừa làm động tác nhún nhảy. A! Tôi thoáng bối rối, nhưng kịp trấn tĩnh ngay. Cái phản xạ đầu tiên của người lính mà tôi cũng quên phắt đi mất. Đi thì thôi, hễ dừng là phải đào hầm, cưa cây.
Tôi vừa ngật ngưỡng kéo cưa vừa lơ mơ ngủ và rồi lăn ra đất lúc nào không hay. Thời hì hục cắt gỗ một mình. Sau khi bó gỗ thành hai cọc to, Thời mới đánh thức tôi dậy. Tất nhiên vẫn là bằng... bộ râu!
Hắn cất giọng khàn khàn:
- Về thôi!
Dứt lời, hắn xốc vác gỗ to tướng lên vai và lắc lư bước đi như con gấu. Tôi nhìn theo và thèm khát một sức vóc cường tráng như hắn. Hắn khoẻ phát sợ. Hai bên nách kẹp hai bao gạo 50 ký, hắn có thể ung dung bước đi như kẻ nhàn tản dạo mát. Dạ dày hắn có sức chứa bảy lần vục đầy cơm bằng loại bát B.52 và cao hứng lên, có thể tráng miệng thêm hai phong lương khô nữa. Hắn ăn như hùm, nhưng làm khoẻ như voi nên mọi người đều vui vẻ nhường nhịn hắn và hắn cũng sẵn lòng gánh vác giúp anh em những công việc nặng nhọc. Cái sức lực hơn người của hắn còn được chính hắn oang oang tô vẽ không chút ngượng ngùng rằng: “Mẹ kiếp! Đêm nào tao cũng mơ thấy bé. Và đêm nào tao cũng đánh mất một thằng Thời con. Biết đâu trong đám những thằng Thời con chưa kịp làm người ấy, chẳng có đứa sẽ là thi sĩ. Hô hố...”
Sau khi đào xong hầm thì tất cả đều mệt lử. Tôi cảm thấy cơ thể rệu rã, miệng đắng ngắt, mắt nảy đom đóm. Vẫn còn một việc nữa là lấp đất, Thời thở dốc, tì ngực vào cái cán xẻng, lầu lầu:
- Mẹ kiếp! Toàn những việc nặng nhọc, khốn khổ. Thằng lính mà phải làm cả thợ sơn tràng, thợ đấu, ngựa thồ... thì đến đá cũng phải xỉu, nói đếch đến người!
Nhìn đôi mắt đỏ ngầu đờ đẫn của Thời, tôi biết hắn đang phải vật lộn với con đói ngủ dữ dội lắm. Tôi giằng cái xẻng trong tay hắn, bảo:
- Ngủ đi! Giờ thì đến lượt tao làm việc chứ.
Có lẽ chỉ đợi thế, Thời đổ vật xuống đất, ngáy luôn. Bộ râu lem nhem đất và đầy những cọng lá khô quăn queo rung lên đều đều sao mà ngon lành?
Vừa phủ xong đất lên nóc hầm, chưa kịp chui vào ngồi thở thì có lệnh hành quân gấp. Cha mẹ ơi! Nước sông công lính. Chúng tôi lần ngược trở lại con đường vừa mới đi hôm trước. Nghe đâu địch đã đánh hơi thấy một cuộc di chuyển lớn của binh đoàn. Tôi lắng nghe tiếng rên “eo...u u” dai dẳng của thằng OV-10 và buột mồm hỏi một câu bâng quơ:
- Chẳng lẽ nó ở tít trên cao kia mà cũng nhòm thấy cái thùng mỡ trên lưng Vũ khoèo hay sao?
Chiến dịch lớn đã bắt đầu. Nó cuốn những người lính vào một cơn lốc chóng mặt. Nó thổi bay những ý nghĩ vụn vặt từng đeo bám trong đầu, nhưng cũng thổi bùng lên một nỗi khát thèm được sống tưởng đã bị vùi lấp trong vô vần những biến cố, những sự kiện chồng chéo lên nhau xô bồ, hỗn tạp.
Sống - đó là niềm hy vọng mỏng manh của những người lính trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào, nhưng dường như càng mỏng manh nó càng hối thúc người lính phải suy nghĩ về nó một cách nghiêm chỉnh.
Chúng tôi hối hả hành quân giữa các làng quê và đô thị. Những bàn chân quen bước thấp bước cao trong rừng, nay nện gót trên mặt đường nhựa phẳng lỳ cứ tức anh ách. Máu tụ lại, da phồng rộp, vỡ toét, bỏng rát lên tận óc. Vừa đi vừa chạy vừa chạy vừa thở và xuýt xoa đau đớn. Dừng chân là nổ súng. Nổ súng xong lại chạy suốt đêm ngày. Chiến tranh kết thúc đến nơi rồi. Một cuộc chiến dù dài lâu đến đấu vẫn có ngày kết thúc! Và sẽ có một viên đạn cuối cùng dành cho một người lính cuối cùng ngã xuống trước giờ phút khải hoàn.
Chúng tôi đi suốt đêm và dừng lại ở một trảng cát. Phía sau lưng là một cánh rừng cao su bạt ngàn. Còn trước mặt là căn cứ địch rộng tám kilômét vuông. Đó là mục tiêu phải đánh chiếm của đơn vị chúng tôi.
Một tổ ba người moi một cái hố chiến đấu. Tôi, Vũ và Thời cũng âm thầm đánh vật với cát. Tiếng lưỡi xẻng bập vào cát sột xẹt. Tiếng thở nặng nhọc, gấp gáp. Những chùm pháo sáng của địch lơ lửng trên bầu trời, thứ ánh sáng lạnh lẽo ma quái. Thỉnh thoảng, một loạt đạn lửa từ trong căn cứ địch vọt lên bầu trời, loằng ngoằng những đốm lửa ma trơi.
Đang moi sâu dưới hố, Thời bỗng nhảy phắt lên, thở hồng hộc. Tôi ghé sát vào hắn, thì thào:
- Sao thế?
Thời lia cái cằm bàn chông vào má tôi, giọng rin rít:
- Xương! Xương người!
Tôi và Vũ ngớ ra. Thời lẩm bẩm:
- Dép đúc, dây lưng...
Vũ buột miệng, lào thào:
- Quân ta à?
Tôi lẳng lặng lấy ra tấm ni lông màu cỏ úa và trải rộng trên cát. Thời nhảy xuống hố. Hắn thận trọng moi dần từng cái xương vùi trong cát ướt đưa lên cho chúng tôi. Tôi và Vỹ loay hoay xếp đặt. Tất cả là ba bộ hài cốt. Một tổ ba người bị bom vùi từ bao giờ? Chắc là từ hồi F9 trừng trị sư đoàn “Tia chớp nhiệt đới” của bọn Mỹ. Ngày ấy, bị địch giội bom rải thảm, nã pháo cực nhanh và dùng hàng đàn xe tăng bọc kín sau lưng, các chiến sĩ F9 đã quyết tử trên mảnh đất đẫm máu này. Mai sau, chẳng biết có ai đến đây để cắm một tấm bia với dòng chữ: “Nơi yên nghỉ của hàng trăm liệt sĩ vô danh thuộc sư đoàn 9 – QGPMN”? Thời chống hai tay vào mép hố, nhảy lên. Hắn vừa buộc túm tấm ni lông thành một bọc trông lởm khởm vừa thì thầm:
- Dám thưa hương hồn các anh. Bọn em gồm ba đứa là Thời râu, Vũ khoèo và Nghĩa thư sinh trói gà không nổi...
Nghe Thời khấn khứa, tôi chạnh lòng. Khoé mắt cay cay. Vũ cũng xúc động lắm. Hắn dụi nhanh mắt vào tay áo. Còn Thời khấn xong thì ngồi xổm, bần thần. Bộ râu bê bết cát ướt của hắn như dài ra, tua tủa, rung rung. Lát sai hắn chỉ tay xuống hố, giọng khàn đục:
- Phải mai táng theo nghi lễ nhà binh!
Tôi và Vũ còn đang ngơ ngác chưa hiểu ý định của Thời thì hắn đã gắt khẽ:
- Mỗi thằng nộp ba viên đạn AK thay cho ba loạt súng bắn vĩnh biệt.
Thời đặt cái bọc xuống đáy hố, xếp chín viên đạn thành một hàng ngay ngắn bên cạnh cái bọc và nhảy lên.
Sau khi lấp đầy cát vào hố, Thời bảo:
- Ngày mai, đứa nào còn sống phải nhớ đánh dấu ngôi mộ này. Nếu quên thì thằng Thời râu mang trọng tội lừa dối các linh hồn chết, hiểu chưa?
Chúng tôi hì hục moi cát đào một cái hố khác. Vừa buông xẻng thì pháo binh ta cũng khai hoả.
*
Hàng nghìn quả đại bác và hàng chục phi đạn ĐKB gầm rít vang trời. Không gian như vỡ toác và rùng rùng chuyển động. Cùng lúc, các cỡ súng của địch cũng thi nhau khạc đạn. Cả một vùng trời đất bị nung nóng ngùn ngụt lửa khói. Không thể phân biệt nổi tiếng nổ của súng ta và súng địch. Chỉ còn một mớ âm thanh hỗn độn ù ù như xay lúa, chát chúa như muôn vàn cặp đe búa gõ đập loạn xạ bên mang tai.
Nép sát vào nhau dưới hai làn hoả lực khủng khiếp, chúng tôi tưởng như ngạt thở trong trạng thái cảm xúc đầy mâu thuẫn. Chợt thấy sung sướng là vì được chứng kiến đoạn kết ngoạn mục của một cuộc chiến tranh kéo dài ba thế hệ. Lại thoắt run bởi thấm thía nỗi sợ hãi con người. Chao ôi, những ngày thiếu đói triền miên của cuộc đời sinh viên, những cơn nguy khốn cùng cực giữa vòng vây kẻ thù, những lời khen chê vô bổ, những soi mói đố kỵ tầm thường của người đời... Tất cả, phỏng có nghĩa lý gì khi chỉ lát nữa thôi, có thể sẽ bị vùi sâu dưới cát? Vào khoảnh khắc yếu đuối nhất của bản năng con người khi phải đối mặt với tử thần, tôi bất giác nhìn sang Thời. Hắn nghiến răng trèo trẹo, quai hàm bạnh ra, những sợi râu đen bóng dựng đứng lên như con nhím xù lông. Nhưng, không hiểu sao, tôi thấy hắn rất đẹp. Một vẻ đẹp ngạo nghễ gai góc, hình như hắn bất cần? Và vì thế, có lễ hắn không có những phút yếu đuối như tôi? Tôi bỗng nôn nao thèm khát có được phẩm chất liều lĩnh như hắn. Tôi bị thuyết phục trước vẻ đẹp ngang tành, dữ dằn của Thời. Tôi ôm lấy hắn. Khác với mọi lần, bộ râu của hắn không hề gây cảm giác khó chịu, mà hình như những sợi râu cắm vào da thịt tôi khiến tôi có thêm sức mạnh, giúp tôi can đảm hơn! Đột nhiên, Thời quàng tay siết chặt cả tôi và Vũ. Tôi nghe rõ nhịp đập không bình thường của cả ba con tim. Thời nói. Lần đầu tiên, tôi được nghe hắn nói bằng một giọng run run, ngập ngừng:
- Nếu còn sống, chúng mày phải ra Hà Nội. Tao có hai đứa em gái...
Hoả lực của ta đột ngột chuyển làn, bắn sâu vào căn cứ địch. đó là hiệu lệnh mở cửa. Đại đội chủ công chúng tôi bắt đầu phần việc của mình.
Người thứ nhất ôm bộc phá lao lên. Một tiếng nổ rung chuyển trận địa. Cát bụi, mẩu dây thép gai, ống bơ... bay lên tung toé.
Dường như địch cũng nín thở, căng tai căng mắt chờ đợi cái biến cố sinh tử này?
Cửa mở chìm trong lưới đạn dày đặc của kẻ thù. Chớp lửa loang loáng chói mắt. Tiếng nổ rền rĩ vô tận. Cát bị quyện vào khói lửa vón cục thành từng cây nấm xám khổng lồ từ từ bay lên không trung, tản ra, che kín cả một góc trời vần vũ...
Con số thương vong tăng lên chóng mặt. Hầu hết các cán bộ trung đội, tiểu đội đã hy sinh. Đồng đội của chúng tôi lần lượt gục ngã ở các hàng rào vòng ngoài. Vẫn còn hai hàng rào dây thép gai nữa.
Chính trị viên trưởng Toán rướn cổ thét to, giọng khản đặc:
- Đồng chí Hào dẫn bộ đội lên mở cửa!
- Rõ ... o õ!
Lát sau đã thấy hai người trườn ngang qua mép hố của chúng tôi. Đó là Bê phó Hào và chiến sĩ Bình. Hào động viên Bình:
- Bình tĩnh nhé! Ôm chặt bộc phá, chuẩn bị lao lên áp sát mục tiêu.
Bình ngẩng mặt lên, lý nhí: “Rõ!”. Bỗng “hự” một tiếng, Bình ngoẹo đầu sang bên phải. Một viên đạn xuyên qua trán Bình. Máu và óc trắng phun ra xối xả. Hào giật khối bộc phá trong tay Bình, đứng bật dậy, vọt lên. Nhưng cả một băng tiểu liên cực nhanh AR15 của địch đã hất anh ngã ngửa. Đầu Hào thõng xuống vai Thời. Thời nâng gáy Hào, vuốt mắt cho anh. Thời xoay xác Hào nằm dọc theo mép hố, lẩm bẩm: “Thế là toi một cây tiếu lâm!”. Những sợi râu dựng đứng của Thời chợt giãn ra nom dễ sợ.
Chiến sĩ Ngọ từ phía sau bò lên, tiếp tục công việc dang dở của Bình và Hào. Ngọ bị trúng đạn vào chân nhưng vẫn cố lết lên. Chúng tôi dán mắt vào Ngọ. Hai mươi thước. Mười thước. Năm thước... Một vồng lửa tròn lăn tới và trong nháy mắt đã nuốt chửng Ngọ. Súng phun lửa! Thời chửi toáng lên: “Đ. mẹ! Chúng nó xịt súng phun lửa!”... Nhưng, Ngọ vùng đứng dậy. Toàn thân Ngọ rừng rực như một bó đuốc. Bó đuốc khét lẹt ấy lừng lững tiến về phía hàng rào. Một tiếng nổ kinh thiên động địa. Thịt xương người chiến sĩ bị hút vào cây nấm xám khổng lồ, bay lên trời và tan biến trong khoảng không mờ mờ, vô định.
Thắng, cậu liên lạc đại đội chạy ào đến chỗ chúng tôi như một cơn lốc. Thắng nằm sấp, hổn hển:
- Các anh trong Ban chỉ huy đại đội bị thương và hy sinh ba người rồi. Chỉ còn chính trị viên phó Huấn. Cấp trên chi viện xe tăng. Anh Huấn bảo anh Nghĩa cử người ra rừng cao su dẫn xe tăng vào vị trí chiến đấu. Hết!
Truyền xong lệnh, Thắng chồm dậy và lao vụt đi. Tôi bật lên tiếng kêu thảng thốt. Những con rắn lửa loằng ngoằng đang quấn lấy người Thắng. Chúng nó đổ đạn vào một mục tiêu trần trụi trên mặt đất. Trời ơi! Thắng còn trẻ quá. Chưa đầy mười tám tuổi và mới suýt soát ba mươi sáu ký!
Thời thở dài:
- Tôi và ông phải đi bộ đội và đi bộ đội là phải. Còn nó? Ai bắt nó tống gạch đá vào túi quần. Ai bắt nó khai gian ngày sinh tháng đẻ?
Đến lượt tôi thở dài. Thời nhăn nhó:
- Ông đa cảm bỏ mẹ. Sao không ở nhà mà làm thơ? Thôi, xin chào!
Dứt lời, Thời đứng dậy sửa lại bao đạn chuẩn bị vọt lên khỏi hố. Tôi vội vàng:
- Không! Việc này của tao.
Thời nheo mắt nhìn tôi. Những sợi râu của hắn giật giật như thể có một bàn tay vô hình nào đó đang túm những chân râu kéo tụt vào trong da. Tôi hiểu, đó là dấu hiệu của sự điên khùng. Mặc! Tôi vụt đứng dậy. Vũ cũng lập tức đứng dậy. Tôi ấn vai hai chiến hữu:
- Ngồi xuống! Nó xơi gọn cả tổ bây giờ!
Vừa kịp thụt xuống thì “oành”, một quả đạn cối 81 ly rơi sát mép hố. Oành! Oành! Oành... Mảnh cối rít lên lạnh gáy. Cát bụi trút ào ào xuống đầu khiến chúng tôi tối tăm mặt mũi. Thời khạc nhổ ầm ầm và văng ra một câu chửi rất tục.
Cối địch bắn lui dần về phía sau lưng chúng tôi. Hình như chúng muốn ngăn chặn quân ta ở trong rừng cao su?
Bỗng “xoẹt – rầm – oành! Oành oành oành...” Những tiếng nổ loạn xạ đã nuốt chửng tiếng gào thét của Thời. Chúng tôi đều ôm đầu, nhắm mắt. Chúng nã pháo 155 ly. Những quả đạn réo lên như xé màng nhĩ và nổ từng chuỗi như bom chùm. Thời lắc đầu rũ đất cát, rác rưởi đầy tóc đầy râu, gào lên:
Nghe đây! Sau này chúng mày chịu khó lang thang khắp 36 phố phường Hà Nội tìm “bé” cho tao. Còn bây giờ, tao ra dẫn xe tăng. Đứa nào cãi, tao rút chốt lựu đạn US cho chết luôn cả ba ở đây!
Tôi gai người trước những lời lẽ quyết liệt của Thời. Đầu óc sách vở của tôi còn kịp hiểu rằng Thời là một hiệp sĩ mà chúng tôi phải chịu ơn suốt đời. Vũ rơm rớm nước mắt:
- Anh Thời ơi, anh cầm nốt chỗ bông băng cá nhân của em...
Rồi Vũ run rẩy móc túi ngực ra mấy viên tăng lực ấn vào miệng Thời, nói vội: “Anh ăn đi để lấy sức”...
Tôi ôm lấy Thời, âm thầm gạt nước mắt. Những sợi râu xuyên qua áo lính, mơn man trên da thịt tôi buồn buồn, nao nao. Mắt tôi nhoè nhoẹt, cay xót. Thời buông tôi. Đôi mắt hắn đỏ ngầu, nhưng không phải màu đỏ của cơn đói ngủ hôm nào. Hình như hắn cũng khóc? Theo cách của hắn. Những mao mạch trong mắt hắn vỡ ra thành nước mắt. Hắn cất giọng khàn khàn, là lạ:
- Vĩnh biệt!
Thời phốc lên và mất hút trong biển cát bụi mịt mù. Tôi căng mắt dõi theo bóng Thời. Không thấy gì cả. Chỉ có khói lửa cuồn cuộn. Một cảnh tượng tan hoang, hỗn độn. Có cái gì đang sụt lở ầm ầm trong tâm tưởng? Lòng đầy mặc cảm, tôi muốn được hét lên gọi tên Thời. Hắn thế đấy! Dám sống thật với con người thật của mình. Đùa bỡn với tất cả!
Tôi mệt mỏi ngồi thụt xuống hố và lại bồn chồn đứng bật dậy. Vũ nhìn tôi, đôi mắt đỏ hoe, thẫn thờ. Cái hố cát nơi chúng tôi đang đứng chợt như rộng ta, toang hoác, trống trải lạ lùng - Ước gì nó rộng nữa, rộng mãi và tan biến thành biển cả hay sa mạc.
Mặt đất bỗng rung lên cùng với những tiếng động lạ. Xe tăng! Tiếng ai đó reo lên. Tôi và Vũ cùng dán mắt vào cánh rừng cao su. Đúng là xe tăng rồi!
Bốn chiếc xe tăng T34 từ trong rừng cao su lừ lừ bò ra. Xe tăng ta vừa hành tiến vừa nã đạn yểm trợ cho bộ binh mở cửa. Chúng tôi nhìn rõ Thời ngồi chễm chệ trên chiếc xe tăng đi đầu.
Bàng hoàng vì sự xuất hiện đột ngột của bốn chiếc xe tăng, súng địch chợt im bặt khoảng mấy giây đồng hồ. Nhưng, ngay lập tức, quân địch điên cuồng giáng trả. Một cơn mưa đạn cấp tập ác liệt trùm lên bốn chiếc xe tăng. Mặt đất chao đảo. Không gian như bị nung nóng hàng ngàn độ trong cuộc đọ sức của sắt và lửa. Tưởng như tất cả sẽ hóa lỏng trong chớp mắt.
Bỗng, một quầng lửa màu da cam bùng lên, phủ kín chiếc xe tăng đi đầu. Một tiếng nổ long óc... Chiếc xe tăng bốc cháy đùng đùng. Con mãnh thú bị tử thương còn kịp gửi lời chào vĩnh biệt bằng mấy phát đạn cuối cùng. Không có chiến sĩ nào bật nắp tháo pháo nhảy ra! Bi tráng thay là cái chết của những người lính xe tăng. Họ tự đến, tự đi, tự bắn chào vĩnh biệt và tự mai táng cho mình! Mắt tôi hoa lên, chập chờn... Lửa vàng rừng rực... khói đen cuồn cuộn... Tiếng nổ âm u, văng vẳng... Mười ngón tay vô tri của tôi chới với bấu vào bờ cát đang sụt lở... Thời ơi!
Tôi cũng không nhớ nổi, sau cái chết của Thời cùng năm chiến sĩ xe tăng, tôi và Vũ đã xông lên như thế nào và vì sao tôi còn may mắn sống sót?
Tôi còn sống? Sống ngơ ngác giữa bãi chiến trường ngổn ngang bao nhiêu đồng đội đời đời im lặng! Tại sao kẻ may lạ là tôi? Nếu tất cả những kẻ hay do dự và sĩ diện hão như tôi đều sống sót cả thì cuộc đời mới vô duyên làm sao? Ờ, tại sao kẻ thù lại bắn tồi đến thế? Tôi cũng xông lên, cũng phơi mình lù lù trên bãi trống kia mà! Sao tôi không dính một viên đạn? Ôi, Thời, mày thiêng lắm! Bom đạn tránh người mà! Nhưng mày đâu biết nó tránh những ai?
Chiến tranh đến trời long đất lở và ra đi lặng ngắt như thế này ư? Tôi lẳng lặng bước đi như một kẻ mộng du. Tôi lẩm bẩm gọi tên từng người đang yên nghỉ theo những tư thế rất khác nhau. Vũ đây! Chàng trai vùng biển chất phác vô tư, chỉ nghe nói đến chuyện người ta hôn nhau đã thẹn thùng ngượng nghịu. Tôi quỳ xuống vuốt mắt cho Vũ và cúi đầu vĩnh biệt. Nước mắt tôi ứa ra, ròng ròng. Bên má tôi còn ấm nóng hơi thở của Vũ đêm nào, gần đây lắm, chỉ vài chục tiếng đồng hồ thôi... Bây giờ... Tôi nấc lên nghẹn ngào và lảo đảo đứng dậy. Tôi vừa loạng choạng bước thấp bước cao vừa lảm nhảm gọi tên đồng đội. Bình này, Ngọ này, Hảo này, Lân này, Hùng này, Phong này, Khương này... Bỗng tôi khựng lại. Thắng! Chú liên lạc đại đội nằm ngửa, giang rộng hai tay hai chân, đôi mắt mở to nhìn bầu trời cao xanh vòi vọi. Tôi ngồi sụp xuống, vuốt mắt cho Thắng nhưng vô ích. Thi thể người lính trẻ đã lạnh ngắt, cứng đờ. Chẳng lẽ Thời luôn luôn đúng? Đôi mắt trong veo của Thắng chưa kịp hiểu gì hết! Cả cuộc đời và cả chiến tranh. Thế mà lồng ngực bên trái của Thắng đã hứng trọn một loạt đại liên bắn vỗ mặt?
Tôi cúi đầu im lặng. Không gian cũng im ắng lạ thường. Chỉ có giò ù ù bên tai. Bầu trời quang đãng bao la. Và con người sao mà bé bỏng? Và tôi ngậm ngùi hiểu ra rằng, khi buông vũ khí, tôi mới là kẻ đáng thương đến chừng nào?
Bất giác, tôi vồ lấy khẩu AK, lên đạn và chĩa thẳng nòng súng lên trời. Tôi nghiến răng bóp cò. Có tiếng ai đó quát to. Mặc! Tôi quẳng cái hộp đạn rỗng và lắp tiếp một băng khác. Lại lên đạn và siết cò. Ai đó bóp mạnh vào vai tôi, quát:
- Điên hả? Không được bắn nữa!
Tôi mắm môi, miết cứng vòng cò. Một tiếng “đoàng” lẻ loi, khô khốc. Hết đạn. Đó là viên đạn cuối cùng trong đời lính của tôi. Tôi thẫn thờ buông thõng khẩu súng. Tôi bỗng thèm được nghe tiếng gầm của hàng ngàn khẩu trọng pháo. Thiếu vắng những âm thanh đó, tâm hồn tôi như hụt hẫng?
Chính trị viên phó Huấn đứng trước mặt tôi. Nom anh hốc hác, nhợt nhạt. Anh buồn rầu, nói:
- Không tìm thấy xác Thời, ông ạ!
Tôi giật nẩy người:
- Sao? Mất xác à?
Huấn gật đầu và lầm lũi bước đi. Tôi chạy như bay tới chỗ chiếc xe tăng bị bắn cháy đen thui. Không còn dấu vết gì của Thời, kể cả một vệt máu cháy đen.!
Chúng tôi dàn hàng ngang tìm kiếm. Mười phút. Hai mươi phút. Rồi ba mươi phút. Bất chợt, tôi dừng lại trước một đám kiến đen lổm ngổm, xúm xít. Tôi vội ngồi xuống, dán mắt vào cát. Không có gì cả. Đàn kiến đang kiếm ăn trên một vũng máu tím bầm đầy cỏ rác và bụi bặm. Tôi thất vọng đứng dậy đảo mắt nhìn đám kiến đen đang tầng tầng lớp lớp bu quanh một miếng mồi. Một miếng mồi tua tủa râu đen.
Tôi qùy đầu gối xuống cát, chống hai tay, chổng mông, phồng má lấy hơi thổi đám kiến đen đang lăn xả vào phần thi thể của Thời. Vô ích! Chúng cứ ỳ ra không chịu buông tha miếng mồi. Và hình như chúng còn cố tình trêu ngươi tôi? Chúng chúi đầu rúc sâu vào các chân râu, ngoáy chân, một cách ngạo mạn. Mắt tôi long lên nhức nhối. Những con kiến đen to dần, to dần đến khủng khiếp. Những sợi râu của chúng oằn oại như những cái vì bạch tuộc. Những chiếc răng của chúng nhọn hoắt như răng cá mập. Người tôi chợt đờ ra, lạnh toát. Một nỗi sợ hãi xen lẫn sự kinh tởm dâng lên khiến tôi nghẹt thở và buồn nôn. Kiến đen, những con vật nhỏ bé hiền lành vụt trở thành những tên đồ tể khổng lồ say máu một cách điên dại. Chúng đang gặm sồn sột khiến tôi đau đớn và bất lực. Nhưng, chính vào cái thời khắc yếu đuối một cách quái gở ấy, hàng ria vểnh lên ngạo nghễ của Thời đã hối thúc tôi hành động. Tôi dùng bàn tay phải cướp lại mảnh thi thể của Thời. Những con kiến đen túa ra trên mu bàn tay và các kẽ ngón tay của tôi. Chúng tràn cả lên trên phía cổ tay. Tôi điên tiết dùng bàn tay trái miết mạnh giết từng con cho đến khi không còn một mống kiến đen nào trên tay tôi nữa. Giá có một nắm rơm hoặc một can xăng, tôi sẽ phóng hỏa thiêu sạch lũ kiến nhung nhúc trên mặt đất. Tôi dùng hai đế dép đúc chà đi xát lại đám kiến đàn chạy trốn náo loạn. Tôi biết là không thể nào tận diệt được những sinh vật nhỏ bé này bởi vì chúng có mặt ở khắp các hang cùng ngõ hẻm. Và bởi vì tạo hóa sinh ra chúng cũng như đã sinh ra con người vậy. Mọi tính toán nhằm tận diệt lẫn nhau đều có kết cục đáng buồn. Tôi thốt rùng mình như bị lên cơn sốt rét ác tính...
... Trong cơn mơ chập chờn mộng mị, tôi nghe văng vẳng một lời ai đó rất mơ hồ: “Không khéo tay này bị bệnh thiếu máu não cũng nên!”.
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com
