chan_dung-ke_si

CHIẾC ĐỒNG HỒ - Truyện ngắn của nhà văn Bùi Hiển

03-02-2023

Lượt xem 2927

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

CHIẾC ĐỒNG HỒ - Truyện ngắn của nhà văn Bùi Hiển

Chandungkesi: Nhà văn Bùi Hiển (1919-2009) sáng tác truyện ngắn Nằm vạ (1941) khi mới 22 tuổi và nổi tiếng từ đó. Ông cũng có nhiều bút ký được người đọc yêu thích. Ngoài sáng tác, nhà văn Bùi Hiển còn dịch hàng nghìn trang sách dịch. Ông là hội viên sáng lập, tham gia ba khóa Ban chấp hành, từng làm ủy viên Thường vụ, Thường trực và chủ tịch Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam.

 

Anh ta là một viên thợ họa sở Ðạc điền. Ngày ngày cúi đầu trên vuông giấy dày mà một ngọn đèn chiếu sáng từ phía dưới xuyên qua một tấm kính, anh đồ những nét cong khúc khuỷu, những dải sông xanh, những con đường đỏ và tím, những tràng chữ thập phân địa giới. Anh họa, anh họa, cử động một cách gần như máy móc, im lặng, lưng gù, trí nghĩ vớ vẩn. Cuối tháng lĩnh được đâu vài chục bạc lương, anh bỏ tiền vào một cái phong bì đem về nộp vợ nguyên vẹn. Xong bữa cơm trưa, chị vợ mút mút bút chì loay hoay dự tính trên một trang sổ nhỏ sự chi tiêu trong ba mươi ngày sắp đến. Chị tính cặn kẽ từng tiền gạo củi đến tiền xà phòng, bớt một hào ở khoản này đập vào khoản kia. Rồi chị nói lên, bằng một giọng hơi chớm ý phàn nàn:

 

   - Ðấy còn thừa không đầy năm hào tiêu vặt.

 

   Chồng đáp một câu không thay đổi:

 

  - Thì lương mình chỉ có thế.

 

   Nhưng mà một lần, một nhà điền chủ, bạn ông xếp, cần mấy bản họa đồn điền của mình. Anh nhận làm công việc phụ kia, càng cắm cúi hơn trên bản họa, và được hưởng món tiền thưởng bốn đồng. Trong bữa cơm chiều hôm ấy, cả nhà nhao nhao lên, phân vân về cách dùng số tiền không mong mà có. Chị vợ thèm ước từ lâu một cái áo dài nâu non. Nhưng thực là lạ kỳ: khi không có tiền, chị ao ước cái áo một cách tha thiết. Vậy mà nay cái áo đã vừa tầm túi mình, thì cái thiết tha của chị rơi đi, và tất cả lòng chị bối rối, không còn biết mua gì nhỉ? Sắm gì nhỉ? Hai đứa con làm nũng; chúng nghe bàn bạc những mua cùng sắm, thì cũng vòi mua cái ô-tô chạy được và con búp bê nó kêu chút chít ấy. Nhưng mà anh ta đã có ý định sẵn: cuối cùng anh mới nói:

 

   - Ðể ta sắm cái đồng hồ chơi.

 

  Rồi anh giảng rằng vừa tìm thấy một dịp tốt để mua đồng hồ hàng giá cực rẻ. Hôm nọ, ông xếp nhận tờ quảng cáo của một hiệu đồng hồ ngoài Hà Nội; hiệu kia, sau mấy lời mào đầu báo cáo rằng muốn bán tống cửa hàng để nghỉ buôn, trình bày tất cả những mẫu đồng hồ còn lại với một giá "khó tin". Anh ta đọc trộm tờ quảng cáo và để ý nhất đến một chiếc đồng hồ bàn giấy mặt vuông, xinh nhỏ như một đồ chơi; cạnh hình vẽ con số dử mồi 3 đ viết bằng chữ lớn thay cho số 6 đ, phía dưới bị xóa bằng hai nét gạch chữ thập.

 

   Anh đã nhiều lần điêu đứng vì thiếu đồng hồ. Khi phỏng chừng sắp đến giờ làm việc, hai vợ chồng đều vểnh tai nghe ngóng cái đồng hồ quả lắc của nhà ông tham bên cạnh. Nhiều hôm anh đến sở chậm và phải lên leo qua cửa sổ để khỏi bị cự. Thằng con đầu được việc lắm: mỗi khi cha nó lồm cồm dậy sau giấc ngủ quá trưa, thì nó rụt đầu vào cổ, lạch bạch dìu xe đạp cha ra đợi ở cổng; anh ta vội vàng, khoác cái áo lương rồi chạy ra nhảy lên chiếc xe tàng mà phóng, mặc cho cốt bánh gỉ rít lên cót két đến ghê tai.

 

   Thế rồi ngày hôm sau, anh gửi thư kèm măng-đa ra Hà Nội. Cả nhà sống trong mong đợi bồn chồn, nhắc luôn miệng đến cái đồng hồ. Anh chồng dự định đặt nó trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường, và vợ đã lo trước nhỡ hai thằng con lớn nghịch phá hỏng mất thì tiền đâu mà chữa. Hai đứa bé thì luôn mồm hỏi, không biết lần thứ mấy mươi:

 

   - Ba ơi, bao giờ đồng hồ về? Hà Nội chắc xa lắm nhỉ?

 

   Một sáng, có người nhà bưu điện bước vào sở anh, một cái hộp dưới tay, và hỏi:

 

  - Tôi muốn hỏi có tên là Hoàng Ðịnh Quân?

 

   Anh hồi hộp đáp: "Chính tôi", và ký nhận hàng. Ðó là một cái hộp giấy uốn lượn sóng, mầu vàng tẻ, tấm nắp to bằng khuôn khổ cuốn vở học trò. Anh vừa cắt dây vừa nghĩ: "Nó gói cẩn thận thực. Cái đồng hồ nhỏ xíu mà chịu phí một cái hộp kếch sù". Bạn đồng nghiệp tới xúm quanh; anh đã khoe từ mấy hôm trước rằng anh sắp nhận được một món quà "đặc biệt Hà Nội".  Anh làm chậm rãi, tay run run, cảm thấy một thú kích thích khi cố kéo dài cái phút nóng biết vật mới mua.

 

   Cái nắp giấy bật lên, mỗi người giúp một tay thải lớp rơm phủ. Cái đồng hồ hiện ra và anh ta kêu một tiếng ngạc nhiên: nó chiếm cả bề rộng của hộp, không nhỏ nhắn như anh vẫn tưởng. Một người nâng lên, và thấy theo ra cả một cục đồng tròn xù xì sơn đen móc ở đầu một sợ dây xúc xích đồng nói không hết cái dài! Có mặt các bạn đồng sự, anh ta cố giấu thất vọng. Mọi người ngắm nghía đồng hồ. Cái mặt làm bằng mảnh sắt tây vuông, bốn bề trang trí bằng những ô vuông nhỏ xanh và trắng xen kẽ, các cạnh đều bị đập móp trong cuộc viễn hành vừa rồi. Ðằng sau là một cái hộp bằng gỗ, nhưng mà gỗ gì, thứ gỗ mềm ải của những thùng rượu, cạnh xước lơm nhơm. Cái hộp hổng mặt dưới, giấu trong lòng một bộ máy không có gì phiền phức, chỉ gồm ba cái bánh xe răng cưa, có ai lục lọi trong đống rơm lót đáy hộp và lôi ra một quả suýt bị bỏ quên. Quả lắc là một miếng sắt tròn sơn xanh mỏng manh và thô sơ như "nắp phèng" của con nít dùng đánh đáo vành đục hai lỗ để cho xuyên qua một sợi dây thép thẳng dài chừng một gang.

 

   Viên xếp phòng họa đạc giảng rằng đó là thứ đồng hồ treo nhà bếp. Cả bọn cười nhao, nhắc lại lời khoe món hàng "đặc biệt Hà Nội".

 

   Một người hí hoáy treo chiếc đồng hồ lên tường.  Rồi cả bọn xúm xít, người lắp quả lắc, người móc cục đồng vào sợi dây xúc xích. Quả lắc bắt đầu vang, và tiếng tích tắc đều đều vang dội trong tim anh sung sướng. Anh dùng ngón tay đẩy chiếc sơn trắng để lấy giờ và nói:

 

   - Ðể xem nó có chạy đúng với đồng hồ sở không?

 

   Nhưng chạy được chừng một phút, quả lắc như hết hơi không kêu tích tắc nữa rồi xang nhẹ dần. Một người nói:

 

   - Chỗ này thoáng quá, gió thổi bay quả lắc, đồng hồ không chạy được.

 

   Một người khác pha trò:

 

   - Thôi hãy để cho nó nghỉ vài hôm đã, vừa đi tàu về mệt mà?

 

   Anh ta bắt đầu nghi ngờ sự mẫn cán của cái đồng hồ có cái dáng khổ khổ lôi thôi lốc thốc. Anh nói: "Ông chủ mà về bây giờ thì chết cả bọn. Thôi". Ðoạn hạ máy xuống, cất lại vào hộp, phủ rơm cẩn thận.

 

   Trưa, lúc về đến nhà để ngừa trước sự thất vọng của vợ, anh ta vừa đặt hộp xuống bàn vừa khen rối rít.

 

   - Cái đồng hồ về rồi đấy, xinh lắm mình ạ. Nó to chứ không nhỏ đâu, nhưng người ta bảo đồng hồ to chạy càng khỏe. Cũng không phải đồng hồ bàn giấy, đây là thứ đồng hồ có quả nặng, chạy đều hơn đồng hồ lò xo nhiều.

 

   Anh lại bịa:

 

  - Có người bạn trên sở bảo năm ngoái có mua một cái y hệt như thế mà giá những tám đồng.

 

   Chị vợ ngắm nghía cái đồng hồ, xem chừng không được hài lòng, nhưng không nói gì. Hai thằng con nằm trườn trên bàn, đưa đưa ngón tay trên mặt đồng hồ và kêu:

 

  - Nhẵn nhỉ! Mà có nhiều chấm xanh đẹp quá! Ba treo lên đi.

 

   Cố hoãn cái lúc thử máy đáng lo ngại, anh bảo:

 

   - Thôi ăn cơm đã, đói bụng rồi.

 

   Xong bữa cơm, anh khép tất cả các cửa để ngăn gió đoạn đóng đinh vào một góc tường kín gió nhất, anh mắc đồng hồ lên, xê đi dịch lại mãi cho thực ngay ngắn, đẩy kim lấy theo giờ vừa đánh bên nhà ông tham; rồi tay run run, anh đưa quả lắc. Cả nhà đứng nghiêm trang thành vòng nhìn. Mắt chăm chăm theo dõi cái xang đưa uể oải quả lắc mảnh khảnh, anh lo lắng tự bảo thầm : "Này này... nó sắp đứng...   nó sắp đứng... ". Nhưng may, lần này cái đồng hồ chịu làm việc hơn. Nửa giờ sau, anh hớn hở xoa tay đi ngủ. Hai thằng con ngước cổ ngắm vật mới; thằng đầu hẹn:

 

   - Hai giờ kém mười con sẽ đánh thức ba dậy, nhé?

 

   Rồi nó đứng rình giờ.

 

   Chiều hôm ấy, thằng bé đón anh ở cửa và bảo: "Ba ạ nó dừng từ lúc bốn rưỡi rồi". Anh lại loay hoay chữa, xê dịch đồng hồ, áp đầu vào tường nheo mắt ngắm nghía lên xem đã thực thẳng quả dọi chưa, tụt mặt quả lắc xuống một chút. Vợ đứng im lặng nhìn; anh nói, như để tự bào chữa:

 

   - Nó cũng như người, cho chạy vài ngày mới quen. Ði tàu bị lắc mạnh, máy móc hẳn cũng có sai suyển.

 

   Chiếc đồng hồ, dường như cảm động vì từng ấy chăm chút của chủ, lại bắt đầu chạy.

 

   Ðêm nằm, anh lắng nghe. Có lúc hình như cái máy im lặng hẳn. Nhưng cố sức chăm chú, anh lại nghe tiếng tích tắc đều đều. Rồi hễ anh nhãng ý một chút tiếng máy lại chìm đi. Anh bèn lặng lẽ ngồi dậy, rón rén đi ra. Dưới ánh đèn con anh thấy quả lắc đứng lặng như tờ. Chiếc kim ngắn chỉ một giờ. Ðồng hồ ông tham vừa đánh bốn tiếng; thì ra tiếng tích tắc nãy giờ chỉ là do trí tưởng tượng của anh tạo nên. Anh ta lại hí hoáy sửa chữa, nâng mặt quả lắc lên, nắm cục đồng sẽ kéo. Rồi anh ngồi phịch xuống ghế, da toát mồ hôi lạnh, tim bóp chặt trong niềm bi thống.

 

   Sáng hôm sau, khi đi làm, anh không quên giắt trong mình một cái lọ con; xin được tí dầu máy anh đem về tra vào những cốt bánh xe, thò giẻ quấn đầu cây tăm lau chùi. Thấy vợ đứng nhìn, anh thẹn thẹn làm sao ấy và cố tỏ vẻ tin chắc ở kết quả việc mình làm; anh nói:

 

   Máy cũng như mình; nó cần dầu như mình cần cơm, có thì mới làm việc được.

 

   Quả thực lần này cái đồng hồ chạy thông. Có điều nó chạy hơi chậm, mỗi buổi tụt lại mất năm phút. Anh ngoắc vào cục đồng, cho nặng thêm, một cái đinh ốc chẳng biết nhặt được ở đâu. Máy vẫn chưa chạy đúng, anh lần lượt thử buộc vào dây xúc xích một con dao nhíp, mấy hòn bi đạn; cho đến khi anh treo một cục quặng xin của thợ rèn, thì chiếc đồng hồ không chịu nổi, chệch đi và quả lắc đứng dần.

 

   Anh không biết làm thế nào nữa. Chị vợ đã chớm lời trách móc:

 

   - Ðã bảo của rẻ là của ôi mà.

 

   Anh đáp:

 

   Cứ để nó chạy cho quen máy. Ðể xem vài hôm nữa nó chạy có đúng hơn đồng hồ ga không!

 

   Và từ đó anh bắt đầu gian lận. Sau giờ bãi trưa, anh ở nán lại sở năm phút, rồi thong thả đạp xe về, để kêu lên "Ðấy, tính xem, tôi đi mất mười phút, thế là bây giờ vừa mười hai giờ". Rồi trưa đó, thừa lúc không ai để ý, anh đẩy kim tới thêm năm phút. Buổi chiều anh cũng dùng mưu như thế. Anh ta cứ lặp đi lặp lại, bộ hả hê: "Gọi là cứ đúng ngăn ngắt! Ðúng ngăn ngắt !".

 

   Chị vợ nghi ngờ hỏi:

 

   - Thế sao vẫn cứ chậm hơn đồng hồ nhà ông tham?

 

   - Bì sao được! Người ta là ông này ông nọ, đến sở chậm nửa giờ cũng chẳng sao, nên cứ mặc đồng hồ chạy phăng tê. Ðồng hồ bên ấy chả đúng.

 

   Mỗi đêm, trước khi đi ngủ, anh lại lén lút đẩy kim tới thêm mười phút; được trừ hao vậy rồi, giờ sáng mai sẽ đúng.

 

   Lâu dần, anh quen với công việc gian lận ấy, mà anh làm trọn không một lần nào sao nhãng, như một nghi lễ tôn giáo.

 

   Rồi anh thuộc lầu cả tính nết của cái đồng hồ. Nó có một tật xấu: dễ cảm. Mỗi khi trời muốn trở mưa, hơi ấm luồn từ mặt dưới tổng hổng của hộp gỗ, làm rít bánh xe, và anh nghĩ: "Hừ hừ, mà định làm biếng đấy. Thế thì tối nay tao phải vặn thêm đến mười lăm phút". Trái lại, khi trời hanh ráo, quả lắc xang đưa lẹ làng, anh biết chỉ cần ăn gian nỗi buồn từ hai đến ba phút là đủ lắm.

 

   Và chiếc đồng hồ sống sung sướng trong gia đình nhỏ ấy, được ông chủ ân cần săn sóc như cha, đúng hơn, như mẹ, như một người mẹ càng thương yêu con vì đã cứu nó qua nhiều bệnh hoạn, đã cướp nó khỏi tay thần chết, đã cho nó sự sống hơn một lần. Cái máy không ngừng chạy nữa, chỉ õng ẹo một đôi khi trở trời, như đứa con cưng mới hơi váng đầu sổ mũi đã làm nũng mẹ.

 

1941

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.