chan_dung-ke_si

Bóng Người Trong Sương Mù - Truyện ngắn Nhất Linh

16-01-2023

Lượt xem 3608

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

Bóng Người Trong Sương Mù - Truyện ngắn Nhất Linh

Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nhì, riêng tôi ngồi đối diện với Trạch, một người bạn cũ, tình cờ gặp vì cùng đi một chuyến xe. Mười năm trước, bạn tôi còn là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi như tôi: bây giờ lại gặp nhau trong toa hạng nhì, hai người cùng ngạc nhiên và cùng mừng cho nhau.

Lúc nói chuyện, tôi thấy bên bạn có cái hộp khảm rất đẹp, liền cầm lấy xem, rồi tình cờ mở hộp ra; bạn tôi như có ý không bằng lòng, nhưng vì nể tôi nên không nói gì. Tôi nhìn vào hộp thấy rất lạ: hộp bịt kín, ở trong có một con bướm rất to, hai cánh đã xơ xác. Tôi hỏi bạn:

- Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quý gì mà anh giữ cẩn thận thế này?

- Vâng, bướm thường, nói cho đúng thì chính là một con ngài, nhưng đối với tôi...

Vừa nói đến đấy, xe rầm rập đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng tai nghe rồi nói:

- Xe đi qua cầu N.G... Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu này đã mười năm nay...

Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện gì, liền hỏi:

- Con bướm này chắc cũng có sự tích gì đây?

- Vâng, những sự tích buồn... chuyện đã ngoài mười năm: mười năm trước độ anh đi Sài Gòn thì tôi còn là anh cầm lái tàu hỏa. Chính độ ấy tôi chạy con đường này, tình cảnh tôi độ ấy anh đã rõ.

- Cũng như tình cảnh tôi...

- Nhưng có một việc tôi không nói anh hay là độ ấy tôi có lấy một người vợ, nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong cảnh nghèo khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng vì cảnh nghèo, vì nhà tôi không quen chịu được kham khổ nên người một ngày một yếu dần.

Về sau, nhà tôi bị bệnh nặng mà tôi thì vẫn phải đi làm, không ai trông nom ở nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người đi mấy lần, mà chính đêm ấy là đêm tôi được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan toàn quyền. Thật là một dịp rất hay cho tôi. Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền vào thưa với ông Chánh, nói là vợ ốm. Ông Chánh đập bàn, đập ghế, gắt:

- Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở ga, hai là từ giờ này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra.

Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ sao: lúc về nhà, ngồi ở đầu giường, nhìn đến vợ mới biết rằng không đi được, dầu có mất việc làm cũng không cần.

Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi duyên cớ vì sao, tôi liền đem việc ấy kể cho nhà tôi nghe. Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên, bảo tôi rằng:

- Thế cậu đi chứ! Việc gì phải ngần ngừ! Tôi không việc gì đâu, đã thấy đỡ nhiều. Chiều mau về mua cái gì làm quà cho tôi đấy.

Tôi thấy nhà tôi cười nói vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Ðến ga đúng mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi tôi mới thấy lo, tôi mới biết là tôi liều. Lúc đó tôi có cái cảm giác lạ lắm: hình như tôi đi thế này, lúc về chắc không nhìn thấy mặt vợ nữa. Tôi cố định trí để cầm máy, nhưng chỉ được một lúc thôi.

Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn đổ. Người "ét" của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi nói:

- Ô hay! Hôm nay ông làm sao thế? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm thế mà ông không hãm máy. Ông ngủ à?

Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí còn nghĩ đến người vợ nằm đợi chết một thân, một mình trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ hôi ra ướt đẫm cả người.

Xe đi vào khe núi, hết lên cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn. Tôi thò đầu ra cửa nhìn thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy sương mù đầy trời, không nhìn rõ gì cả, chỉ một mầu trắng xóa dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa. Bỗng tôi thấy... rõ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái hình người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng mình trông hoảng, nhưng không, hình người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người "ét" lại cửa toa, bảo ông ta nhìn, rồi hỏi:

- Bác có thấy gì không?

Vừa nói xong hình người vụt biến mất. Bác "ét" thò đầu ra và bảo tôi:

- Chỉ thấy sương mù! Ông lại mê ngủ rồi.

- Không, rõ ràng tôi thấy có hình người đàn bà in trên sương mù nhưng vừa biến mất.

Người "ét" cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc than cho vào lò, còn tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Ðược một lát, hình người đàn bà lại hiện ra, lần này rõ ràng hơn, hai tay vẫn dang thẳng như muốn ngăn đường không cho xe chạy lên nữa.

Tôi gọi người "ét" nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy, cứ cắm đầu xúc than cho vào lò. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái hình người ấy có thật, mà ai nhìn cũng phải thấy. Tôi đến cầm lấy tay bác "ét" kéo bác ra xem rồi bảo, cả quyết:

- Nhìn xem!

Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt hốt hoảng nói:

- Lạ thật!... Ma ông ạ!

Xe tiến đến đâu, cái hình người lui đến đấy, có lúc mờ, có lúc rõ, lơ lửng giữa lưng chừng trời.

Rồi cái hình người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ý bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự gì nguy hiểm.

Tôi bảo bác "ét":

- Bác này, có sự gì lại sắp xảy ra.

- Vâng, sao cái hình lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại.

Cái hình người trước còn vẫy tay thong thả, sau vẫy thật nhanh như người tỏ ra ý thất vọng vì bảo chúng tôi không nghe.

- Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma!

- Không được, tự nhiên vô cớ.

Còn tôi lúc bấy giờ hai tai ù như người mất trí khôn; tôi văng vẳng nghe có tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo tôi:

- Ðỗ lại! Ðỗ lại!

Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái "phanh" như định hãm rồi lại không dám hãm.

Một lát, tôi lại nghe tiếng người đàn bà, rõ hơn lần trước, giục tôi:

- Hãm lại! Hãm lại ngay!

Lúc bấy giờ tôi không biết gì nữa, nhắm mắt hãm phanh lại thật mạnh. Các toa rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng. Xe chạy từ từ một quãng rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đã thấy người "xếp tanh" cầm đèn chạy lên hỏi:

- Việc gì thế?

Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, vì nói thật ai tin mình. Tôi trả lời một cách mập mờ.

- Chắc có sự gì lạ. Ðể tôi cầm đèn đi xem đã.

Lúc bấy giờ mấy ông quan hầu quan toàn quyền cũng vừa đến, rồi thấy lạ, đi theo chúng tôi. Vừa đi được một quãng thì nghe trước mặt có tiếng nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G.

Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậy. Ðến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G. bị nước nguồn chảy về xoáy gãy làm đôi.

Một tí nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở quan toàn quyền đâm nhào xuống sông sâu, chắc không sống sót một ai: tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính nhờ tôi nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu ra sao cả.

Người "xếp tanh" mừng cuống quýt, hỏi tôi:

- Sao ông biết mà hãm?

- Tôi cũng không hiểu.

Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi dồn, tôi không biết trả lời ra sao, một lát, mọi người đứng giãn ra. Quan toàn quyền đến, ngài không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ tay bắt tay tôi, cái bàn tay đầy bụi than, rồi ngài tỏ lời khen.

Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng thưởng lúc đó đối với tôi cũng như không, tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không biết ra sao. Tôi đi trở lại và thoáng thấy con gì bám ở cái đèn để ở đầu toa, nhìn kỹ thì ra một con bướm thật to, vướng vào đèn đương đập cánh để tìm đường thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây.

Trông thấy con bướm, tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái hình người đàn bà lúc nãy là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là đầu hình người mà hai cánh con bướm đập là hai cánh tay người vẫy.

Tôi bắt con bướm rồi định thả cho nó bay đi; sau nghĩ con bướm đã giúp mình được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nhìn vào đồng hồ trong toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm...

Hôm sau tôi vừa về tới cổng nhà thì thằng nhỏ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua.

Tôi không tin nhảm; tôi chắc đó chỉ là một sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí là linh hồn nhà tôi đã nhập vào con bướm này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn đêm hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà làm gì, tôi thoát được thân tôi mà làm gì, giàu sang phú quý bây giờ đối với tôi cũng như không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu.

Bạn tôi kể xong câu chuyện, đậy cái hộp khảm lại rồi thẫn thờ nói:

- Bây giờ chỉ còn lại cái xác bướm không hồn.

1937

Bài liên quan
  • CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    CHUYỆN Ở BẢN PIÁT – Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu

    Chân Dung Kẻ Sĩ: CHUYỆN Ở BẢN PIÁT là một trong chùm ba truyện ngắn của nhà văn Tuyên Quang “viết văn phải có văn” Vũ Xuân Tửu, thắng Giải Nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2005-2006.
  • MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    MỘT BỮA NO – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Một bữa no là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 480, ngày 25 tháng Chín năm 1943. Tác phẩm, là một tiếng kêu cứu về nhân cách của người dân Nước Nam đang bị sự bần cùng, cái đói, cái rét, do thực dân Pháp tạo ra, hủy diệt.
  • NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    NẮNG TRONG VƯỜN – Truyện ngắn Thạch Lam

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nắng trong vườn là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Thạch Lam, Đời Nay xuất bản năm 1938.
  • HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    HAI HÀO – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai hào là truyện ngắn trong tập truyện đầu tay Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích của nhà văn Lê Văn Trương, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934.
  • TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trẻ con không được ăn thịt chó là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao, in lần đầu trên Tiểu thuyết Thứ Bảy số 444, 19 Tháng Mười Hai 1942.
  • CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    CHIM KHÁCH KÊU – Truyện ngắn Nguyễn Kiên

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chim khách kêu là truyện ngắn trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Kiên, được trao giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 và giải thưởng Văn học Đông Nam Á (Thái Lan) năm 2002.
  • ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    ĐÔI MẮT – Truyện ngắn Nam Cao

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Đôi mắt là truyện ngắn của nhà văn Nam Cao in lần đầu trên Văn Nghệ số 2 năm 1948. Đây là một trong những tác phẩm giá trị nhất của nhà văn Nam Cao. Năm 1996, ông đã được nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I cho truyện ngắn nói trên cùng với các tác phẩm Nhật ký Ở rừng, Chí Phèo và Sống mòn.
  • TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH – Truyện ngắn Lê Văn Trương

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Trước cảnh hoang tàn đế thiên đế thích là truyện ngắn in trong tập truyện ngắn đầu tay cùng tên của nhà văn Lê Văn Trương, gồm 11 tác phẩm, Trung Bắc tân văn xuất bản tại Hà Nội năm 1934. Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964) được xem là nhà văn có số lượng tác phẩm lớn nhất Việt Nam với 200 tác phẩm đã in và 40 tác phẩm chưa in bao gồm truyện ngắn và tiểu thuyết. Lê Văn Trương là thành thành viên quan trọng hàng đầu của nhà xuất bản Tân Dân, cùng với các nhà văn nổi tiếng như Tản Đà, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Lan Khai, Thanh Châu, Ngọc Giao, Tchya Đái Đức Tuấn, Trần Huyền Trân, Nam Cao, Bùi Hiển…
  • NƯỚC ĐỜI LẮM NỖI – Truyện ngắn Phạm Duy Tốn

    NƯỚC ĐỜI LẮM NỖI – Truyện ngắn Phạm Duy Tốn

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nước đời lắm nỗi là truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Tốn, một trong những thành viên sáng lập của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, đăng trên Nam Phong số 23, Tháng 5 – 1919.
  • CÂU CHUYỆN MỘT TỐI CỦA NGƯỜI TÂN HÔN – Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

    CÂU CHUYỆN MỘT TỐI CỦA NGƯỜI TÂN HÔN – Truyện ngắn Nguyễn Bá Học

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Câu chuyện một tối của người tân hôn là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Bá Học đăng trên Nam Phong số 46 – năm 1921. Đây có thể nói là truyện ngắn tiên phong của văn học hiện đại Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ viết về đời sống công nhân cơ cực dưới thời thực dân Pháp cai trị nước ta.