chan_dung-ke_si

Bia Đá Rìa Làng - Truyện ngắn Văn Linh

16-01-2023

Lượt xem 3253

Đánh giá 0 lượt đánh giá

Chia sẻ

Bia Đá Rìa Làng - Truyện ngắn Văn Linh

Danh lợi ư? Quyền lộc ư? Tôi chán ngấy tất cả và đã đi đến quyết định trở về làng. ở đó tôi có mẹ, có người thầy đầu tiên từng dạy tôi những bài học vỡ lòng về đạo làm người. Tam tự kinh "Nhân chi sơ, tính bổn thiện..." ở làng còn có nấm mồ mối tình đầu của tôi... Nghĩa là về với làng, tôi sẽ có tất cả. Mỗi khi lòng mình lấn bấn, trí mình tù túng, bức bối, tôi lại trở về làng. Quê hương bao giờ cũng dành cho tôi lời mách bảo đúng đắn nhất để mình vững bước trên đường đời.

Về tới làng, việc trước tiên, tôi tới thăm thầy học. Thầy sống thọ, tuổi đã ngoài tám mươi mà da dẻ vẫn hồng hào, râu tóc dù đã bạc nhưng đầu óc còn minh mẫn.

Chỉ tội, đôi mắt thầy, vì bom đạn chiến tranh, giờ chẳng còn nom thấy gì.

Thầy tôi đang ngồi ở tràng kỷ với cái điếu bát đặt trên bàn. Tôi bước vào và lễ phép chào thầy.

Một nét mừng rỡ thấy rõ trên gương mặt thầy:

- Ai như anh Siêu? Lâu ngày anh mới về làng.

- Thưa thầy, thầy nhận ra con sao?

- Trời phú cho kẻ kém mắt. Tôi vẫn nhớ tiếng nói của anh.

Thầy đưa tay ra hiệu bảo tôi ngồi xuống bên, rồi sờ sờ lên mái tóc tôi, vuốt xuống má, xuống cằm, xuống cổ, xuống hai vai tôi... bao âu yếm cứ như với một cháu nhỏ.

Ðoạn thầy hỏi:

- Tóc anh bạc chưa?

- Thưa thầy, đã hết nửa mái đầu.

- Nghe ra tiếng nói của anh còn khỏe.

Thầy ngoái vào nhà trong, gọi cháu nhỏ đem nước chè xanh lên, và thầy trò chúng tôi bắt đầu câu chuyện hàn huyên... Hết chuyện nhà cửa họ hàng, sang chuyện xóm làng. Qua trò chuyện, tôi thấy lòng thầy toát lên một nỗi buồn: dân làng quá ít học hành, đã bao đời nay vẫn mang tiếng "làng dốt", "làng mít"...

Nhưng rồi, thầy trở lại an ủi:

- May còn có anh đi ra học được chữ nghĩa, làm nên nhà văn, cũng mở mày mở mặt cho xóm làng chút ít.

Qua lời thầy, tôi cảm thấy có gì xót xa trong lòng.

- Thưa thầy, con có đáng gì, chỉ là một nhà văn loại năm, loại sáu.

- Nhà văn cũng được xếp loại ư anh?

- Thưa thầy, đó là con tự biết và tự xếp lấy.

Thầy khẽ gật đầu:

- Khiêm tốn, tự biết mình đó là đức tính đáng quý.

Nhưng con nghĩ, thầy cũng đừng nên quá buồn, chẳng qua xóm làng mình chưa tới vận hội. Song chả đến nỗi nào, làng ta cũng đã có người làm nên chức nên quyền rồi đấy, thưa thầy.

- Anh muốn nói tới ông Gừng phải không?

- Dạ, thưa thầy, đó cũng là một ví dụ.

Thầy như chợt nhớ, đưa tay sờ lên trán và hỏi:

- Anh vẫn còn nhìn thấy vết sẹo ở đây chứ?

- Dạ, còn mờ mờ.

- Hồi nhỏ học với tôi, nhà ông Gừng ấy, đã lấy son tự khuyên vào bài mình. Thấy vậy, tôi mắng: "Ðừng hỗn thế". Vậy là ông ta cầm cả đĩa son ném thẳng vào trán tôi, chữ thầy trả thầy luôn. - Thầy chép miệng, lắc đầu và thở dài - Nhà ông ấy, đã không có chữ lại không có nghĩa.

Ðang lúc bên ngoài bỗng có tiếng ồn ào, rồi một đoàn người kéo thẳng vào sân nhà thầy. Trong đó có người lên tiếng hỏi:

- Cụ Mộc có nhà không?

- Có tôi đây. Ai như ông Riềng? Thầy tôi trả lời.

Người lên tiếng lúc nãy bước vào.

- Ðúng rồi, Riềng đây. Tôi có việc phải phiền đến cụ.

- Ông chủ tịch cần gì cứ nói!

Giờ tôi mới biết đây là ông Riềng chủ tịch xã. Ðoàn người đi theo ông vẫn đứng lố nhố ngoài sân, nam có, nữ có...

- Chả là... - Tiếng nói ông Riềng rõ to - mảnh đất xã vừa nhượng lại cho tôi, chẳng rõ từ đâu, có mấy đứa cháu đang đào hố để tôi vôi, bỗng thấy lồi lên một tảng đá xanh, cao khoảng sải tay, rộng chừng bốn gang, một mặt có chữ, toàn chữ Hán. Thấy vậy chúng nó sợ quá liền mua hương thắp, rồi khấn vái. Thế là cả làng chẳng hiểu gì cũng đua nhau đem hương hoa khấn vái tùm lum... Ai lại làm thế! Bởi vậy, tôi mới phải vào, mời cụ ra đọc hộ xem những chữ khắc ở hòn đá đó.

Thầy tôi sốt sắng:

- Ðược, tôi ra ngay. Nhưng ông chủ tịch ra trước đi, cho người rửa sạch mặt chữ tôi mới đọc được.

Thầy liền đi rửa mặt mũi chân tay, mặc áo dài tươm tất, như người dọn mình để đến trước bàn thờ. Ðoạn, thầy rủ tôi:

- Anh Siêu cùng ra chứ?

- Dạ, con đi với thầy.

Quả tình, dân làng đang tụ tập ở thửa đất ấy khá đông, khói hương vẫn đang nghi ngút, cùng với những lời bàn tán to nhỏ:

- Vận làng đã đến, chữ nghĩa mới nổi lên.

- Sông có khúc, người có lúc. Lẽ nào dân làng ta chịu dốt mãi.

- Nghe đâu, ngày xưa, đây còn có cả miếu thờ thiêng lắm.

Ông Riềng, chủ tịch xã lên tiếng:

- Cụ Mộc ra đây rồi. Mời cụ đọc cho, xem đây là hòn đá gì? Kẻo nữa... bà con chưa gì đã hương khói, vái lạy tùm lum như vái bia bà...

Thầy tôi với vẻ trang nghiêm, như thuở trước thầy vẫn dạy học trò "phải biết kính trọng chữ thánh hiền". Ðôi bàn tay gầy guộc, già nua của thầy run run sờ lên mặt đá, lần đọc theo dòng chữ từ phải sang trái... Tay thầy đi qua mỗi dòng chữ, gương mặt thầy một sáng lên. Tôi có cảm giác hai mắt thầy đang dần tỏ, có thể nhìn thấy sau những dòng chữ, trên mặt đá, có một điều gì khác, thiêng liêng lắm.

Thầy đọc xong, đứng lên, bắt thân áo dài lau mồ hôi trán.

Hàng trăm cặp mắt nhìn dồn vào thầy chờ đợi.

Thầy tôi chậm rãi báo:

- Ông chủ tịch ạ, đây là tấm bia kỷ niệm ngày mất của ông Ðặng Ðình Lân, người làng ta. Ông thi đỗ tiến sĩ, khoa Ðinh Mùi dưới triều Tự Ðức.

Số dân làng vây quanh bỗng "ồ!" lên cùng lúc, tỏ vẻ mừng rỡ trước một chuyện lạ chưa bao giờ được biết. Và tiếp đó là những lời đàm đạo, bàn tán đầy phấn chấn nổi lên:

- Vậy mà ai dám bảo dân làng mình nghìn đời vô học.

- Ðứa nào còn gọi làng mình là "làng dốt" "làng mít" đánh bỏ mẹ nó đi!

- Ðúng, vận làng đã đến, liệu mà cho con cháu học hành, theo chữ nghĩa... mai sau...

Các cụ về hưu còn tỏ ra hăng hái hơn:

- Ðề nghị đảng ủy, ủy ban làm đơn ngay lên Bộ Văn hóa xin công nhận di tích lịch sử.

- Phải rồi, nghe nói xưa còn có đền thờ hẳn hoi.

- Khó gì, ta xây lại đền.

- Ðâu đâu người ta cũng có di tích lịch sử, chỉ tiếc mỗi làng mình, trách chi con cháu cứ dốt đặc cán mai.

Riêng ông Riềng chủ tịch xã vẫn đứng đỏ mặt, đầy hồ nghi:

- Cụ đọc chính xác không đấy, cụ Mộc? Bao đời nay, tôi chưa hề nghe ai nói dân làng mình lại có người học cao, đỗ đến tiến sĩ. Việc này phải xem lại, khéo không "mồ cha chẳng khóc, lại khóc tổ mối". Ðược, ủy ban, cấp ủy sẽ làm sáng tỏ chuyện này.

Thế rồi, ngay ngày hôm sau, ông Riềng đã đáp xe lên tận Hà Nội, gặp ông Gừng là anh ruột, nghe đâu làm cán bộ gì ngoài đó, để thỉnh thị, xin ý kiến...

- ... Em lạ chi, ngoài bọn mê tín dị đoan, lại còn có đứa ghen ăn tức ở, chả là... dằm đất đó đẹp, mai đây đường mở sát vào đấy thì cứ gọi đất đó hót ra vàng. Ngán nhất mấy lão về hưu làm đơn trương kiến nghị đi khắp nơi, gửi cả lên đài, báo, để xin công nhận di tích lịch sử.

Thử hỏi, di tích lịch sử cái quái gì, làng ta đã có đền thờ tiến sĩ... Chẳng biết chữ trên đó, cụ Mộc đọc có đúng không. Em chưa tin!

Ông Gừng lim dim mắt, như xem thấu xa xưa, rồi khẽ nói:

- Hồi nhỏ tôi loáng thoáng nhớ, hình như đó còn cái nền miếu thờ, thờ ai thì không rõ. Nhưng làng mình từ buổi chiêu dân lập ấp đến nay, nặn đâu ra được ông tiến sĩ nào... Nếu điều đó không có, thì thứ miếu thờ thần linh ma quái vớ vẩn, bộ nào lại công nhận là di tích lịch sử. Chú sợ gì? Ðược, tôi sẽ giúp địa phương lo việc này...

- Anh tính, ngay cạnh trường cấp một, chả lẽ để các cháu ngày ngày cứ nhìn thấy cảnh người lớn chổng mông lên cúng bái, hương khói mê tín dị đoan. Lại ở ngay trước cửa trụ sở đảng ủy mới chướng làm sao!

- Chú về lo khâu chuẩn bị vật chất để đón các nhà khoa học đến làm việc.

Ông Riềng cười:

- Chữ nghĩa làng mình mới thiếu, vật chất anh chẳng phải lo. Nhưng, đến khi công bố kết quả nghiên cứu anh nhớ về. Có anh, nhiều tay phải nể mặt. Mấy tướng hưu về làng, công thần bỏ mẹ.

Họ nói và họ đã làm, một thời gian không lâu, có ngay một đoàn cán bộ gồm các nhà sử học, văn học, Hán nôm, văn hóa về làng tôi. Dịp này tôi vẫn còn tại làng. Làng bỗng trở nên vui hơn, mấy bà hàng phở, cô hàng quà ngoài phố bưng hàng vào tận làng bán cho đoàn cán bộ, họ cứ ăn, tiêu, tiền nong đã có xã chịu, bia hộp mở xìn xịt...

Ðáng nhớ nhất là ngày ủy ban xã đứng ra tập trung dân làng tại thửa đất có bia đá nọ để nghe đoàn cán bộ khoa học công bố kết quả nghiên cứu về "di tích lịch sử" của làng.

Hôm đó ông Gừng đánh xe con về dự. Xe đỗ ngay trước cửa đảng ủy. Ông Gừng bước xuống và đi ra trước mọi gương mặt hân hoan kính nể của dân làng. Không thể bắt tay hết từng người, ông Gừng chỉ đến với lớp người có tuổi, quen biết ít nhiều... và, ông ta đã đến trước thầy Mộc:

- Thầy còn nhớ tôi nữa không? - Ông chào thầy.

- Ông Gừng thì phải - thầy đáp lại.

- Giỏi! Thầy giỏi!

Thấy thầy Mộc sờ tay lên trán, chừng như ông Gừng chột dạ, nhớ đến chuyện cũ, đành cười và nói:

- Ngày xưa, tôi còn đi học chữ Hán với thầy, đến là nghịch như quỷ sứ. May có cách mạng giờ mới thành người.

Thầy Mộc cười:

- Nghe giọng, thấy ông vẫn còn trẻ như xưa.

Hình như ông Gừng nghe lọt ý đằng sau câu nói nên nụ cười trên mặt ông bỗng nhạt hẳn.

Giờ phút mọi người mong đợi đã đến. Một số người ra đây còn đem theo cả hương hoa, chờ kết quả nghiên cứu để thắp hương tưởng niệm luôn.

Một nhà khoa học, nom còn trẻ tuổi, nhưng đầu đã hói, làm cho đám con gái làng cứ nhìn ông rồi tủm tỉm cười, ung dung bước ra công bố kết quả nghiên cứu của đoàn. Ðoàn công nhận mặt chữ trên bia đúng như cụ Mộc đã đọc cho làng nghe...

Nghe vậy, dân làng vội hý hửng... Song về kết quả nghiên cứu, đoàn cho biết, bia này không đúng. Qua các khoa tiến sĩ, suốt các triều đại, không có vị nào đỗ tiến sĩ tên là Ðặng Ðình Lân. Cũng như không có một ông tiến sĩ nào quê ở làng này...

Sau khi nghe công bố rành rọt kết quả của đoàn cán bộ nghiên cứu, dân làng bỗng lặng cả lại, hương hoa vẫn trên tay. Thảy như đang chờ một điều gì khác.

Nhận thấy không khí trầm lặng, nặng nề quá, ông Gừng liền bước ra:

- Mời cụ Mộc, bậc lão thành có chữ có nghĩa của làng cho ý kiến, xem có gì khác không?

Theo lời mời, thầy tôi run run chống gậy bước ra, rồi nói:

- Ðúng như các cán bộ nghiên cứu vừa công bố, làng ta, chưa có ai đỗ tiến sĩ. Nhưng tôi nhớ ra rồi, ông tôi có kể, làng ta có một người tên là Ðặng Ðình Lân thật. Ông này là người có chí học hành. Nhưng "học tài thi phận" bao năm nhà nghèo, vợ phải bắt ốc hái rau nuôi chồng ăn học, ông ta đi thi cử nhân, không đỗ. Dân làng vốn yêu thương, quý trọng người hiếu học, nên đã góp cơm, góp gạo nuôi ông ăn học, chờ khoa thi sau. Thi lần thứ hai ông lại hỏng. Sự bất quá tam, dân làng lại nuôi ông thêm mấy năm nữa để dùi mài kinh sử. Ông thi khóa thứ ba, không đỗ nốt! Phẫn chí, vừa nghĩ tới công ơn và lòng mong mỏi của dân làng, ông thấy mình đã phụ lòng, không báo đáp được công ơn và lòng mong mỏi của nhân dân đành uống thuốc tự vẫn. Dân làng lấy làm thương xót, tiếc một con người hiếu thảo tiết nghĩa nên đã phong ông là tiến sĩ, tạc bia và lập đền thờ ông...

Không khí cuộc họp lúc này thật khó tả, là cả một sự im lặng kỳ lạ hẳn không phải ỉu xìu buồn bã, như thể một tâm tư, tình cảm mọi người đang nén lại đến căng thẳng.

Giữa lúc đó thì ông Gừng lên tiếng cười, nửa sảng khoái, nửa như có phần giễu cợt. Ðoạn, như cốt phá vỡ không khí im lặng đến khó chịu, ông nói:

- Bà con thấy chưa? Cứ gì thời buổi kinh tế thị trường này, thuở trước cha ông mình cũng từng tỏ ra chịu chơi đồ rởm - Ông cười ha hả - Theo như cụ Mộc vừa kể thì đây là một thứ tiến sĩ rởm - lại cười ha hả.

Ông Riềng và mấy người nữa cũng ha hả cười theo, văng cả nước bọt.

Tôi vốn là người không bao giờ thích, thậm chí còn hay tránh xa các cuộc tranh luận. Nhưng tại giờ phút này, không hiểu sao, lòng tôi bỗng sôi lên một cơn giận! Bản thân bị xúc phạm chăng? Cá nhân tôi chẳng đáng gì. Nhưng đây là quê hương! Quê hương bị xúc phạm, quả là điều không chấp nhận được. Tôi liền bước ra, xin phép dân làng, xin phép thầy, cho tôi với một tư cách con của dân làng được nói đôi lời.

Tôi như một kẻ nhập đồng:

- Thưa bà con dân làng! ở bên Tàu có "Viên ngọc họ Hòa". Người dân nọ đem dâng lên vua Sở một viên ngọc nói là quý. Thợ kim hoàn cho biết đó không phải là ngọc, nên người dân nọ đã bị chặt đôi tay. Qua mấy đời vua, mỗi lần dâng ngọc là một lần chịu tội, đến khi người dân họ Hòa nọ bị chặt cụt cả tay chân, vua mới biết đó là viên ngọc quý nằm trong đá. Ngay nước ta, xứ Nghệ có một người thi chín khóa cử nhân đều không đỗ. Ðến khóa thứ mười vua mới hiểu, chín khóa trước, hội đồng thi đã không chấm nổi bài của ông nên đã đánh hỏng. Do đó, nếu chúng ta cứ lấy xét nghiệm thi cử làm khuôn vàng thước ngọc để đánh giá vạn vật, khó mà chính xác; hơn nữa đây lại là trí tuệ, phẩm giá một con người - tôi phải ngừng một lát để giữ xúc động - Thưa với bà con, trong câu chuyện này, tấm lòng của ông Ðặng Ðình Lân đối với dân làng là hoàn toàn "thứ thiệt" - Không làm tròn trách nhiệm học hành, thi cử, đỗ đạt, trước công lao và mong mỏi của nhân dân thì ông tự vẫn. Còn tình thương yêu với sự trọng vọng của nhân dân đối với người con hiếu thảo, tiết nghĩa như ông hoàn toàn là thứ thiệt.

Ðến đây vì quá xúc động, tôi chưa nói thêm được gì, chỉ biết thụp xuống trước tấm bia, ứa nước mắt, tôi lạy tạ một linh hồn đẹp đẽ.

*

* *

Ngay lúc đó một em bé gái, rón rén đến bên tôi:

- Hương đây chú này!

Em bé trao cho tôi một nắm hương cháy nghi ngút. Tôi đến lấy hương từ tay em bé và dắt tay em cùng quỳ xuống trước bia.

Trong dân làng vọng lên một lời nói:

- Tiến sĩ hay không, công nhận di tích lịch sử hay không, đó là công việc của cơ quan văn hóa. Còn dân làng ta, đối với một con người như ông Ðặng Ðình Lân là đáng thờ phụng.

Hầu hết dân làng có mặt, trừ mấy ông trong đoàn cán bộ và mấy người lẻ tẻ, tất cả đều quỳ rạp trước tấm bia, cúi đầu xúc động tưởng niệm...

Trong tôi bỗng dâng lên một cảm giác vô cùng tuyệt diệu, như thể mình đang được hóa thân giữa bốn bề khói hương nghi ngút. "Khi những gì đã thuộc về nhân dân đều trở nên bất tử thiêng liêng". Trong câu chuyện vừa xảy ra đó, phải chăng tôi đã nhận lời mách bảo trên của quê hương...

Bộ quần áo mới

Ngô Ngọc Bội

Ông Vạn vác bừa về tới cổng, thì bóng nắng đã lẳn vào chân. Bãi hoa mười giờ đỏ rực, trông lùm lùm như mâm xôi gấc. Màu đỏ nhuộm lên buồng chuối, gốc chanh... Và cả mái nhà mới lợp. Thứ hoa này ông lấy giống từ hồi đi họp huyện, bây giờ nó đã lan ra một bãi khá to ở trước sân.

Ông Vạn có tính hay háu đói, đi làm hết buổi thì cuốc thẳng một mạch về nhà. Bà Vạn lại hay la cà, có hôm quá trưa cũng chẳng chịu về, hôm nhặt mớ củi, hôm nắm rau đồng, và con cua, ốc... chẳng có lại rẽ vào gò Thông bẻ nắm lá xanh về ủ phân. Lắm hôm ông chờ vợ về ăn cơm, cứ rít chán thuốc lào, lại ra cổng ngóng. Từ ngày có bãi hoa này ông đã đỡ bực, không phải ngồi chực niêu cơm như trước nữa.

Hôm nay ông Vạn lại về trước. Vào nhà vớ cái điếu cày, rít hơi thuốc dài, rót chén nước chè tợp một ngụm hãm khói. Rồi tranh thủ ngả lưng xuống giường, xương xẩu trong người giãn ra nổ cục cục thoải mái.

Nằm một lúc ông vùng dậy nhìn quan nhà. Mấy đứa trẻ đi chơi vắng cả. Chỉ có đàn gà phá phách trong bếp. Nhà cửa có vẻ tanh bành rác rưởi. Ông đứng dậy quét dọn, rồi đặt niêu cơm lên bếp.

Niêu cơm đã chín từ lâu. Ông Vạn sốt ruột lại chạy ra ngắm bãi hoa, nhổ vài khóm cỏ, tưới thêm mấy gáo nước. Quay sang nhìn mấy con lợn con béo mụp, đang cầy đầu nhặt thóc ở cây rơm. Mõm nó nhai nham nháp. Ông Vạn gật đầu, mồm lẩm bẩm: "Ðã đến trật bán rồi đây". Lúc ấy bà Vạn cũng vừa vác bừa về tới cổng. Bà lẳng lặng bước vào nhà, cái đầu hơi cúi xuống, chân đi rất nhanh. Manh áo nâu bạc phếch đeo trên người khẽ bay bay về phía sau. Ông Vạn nhìn theo chợt thấy trên vai áo vợ toạc ra dài gần một gang tay. Miếng giẻ lập lều theo nhịp chân đi hở một miếng da lưng nâu rám. Ông Vạn nhăn mặt: "Hừ! Gai góc đâu lại vừa cào toạc ra kia rồi, rách thế mà bảo may vẫn còn gan".

Bà Vạn đã bưng niêu cơm lên nhà, hai đứa trẻ đi chơi cũng kéo về, nhảy tót lên giường ngồi xếp bằng tròn vây quanh mâm cơm. Tay chúng vớ lấy đũa, hai mắt hau háu nhìn vào những món ăn. Trong nhà vui nhộn hẳn lên.

Bữa cơm hôm nay thêm món cua rang của bà Vạn mới bắt. Ông Vạn nhá giòn rau ráu. Mỗi bát cơm đầy, và ba miếng đã hết. Lũ trẻ tíu tít tranh nhau tìm càng cua to, làm nghiêng cả bát canh rau xuống mâm, nước chảy lênh láng.

- Mẹ chúng bay, ăn uống gì mà nhộn thế, ông thì cho cái cốc bây giờ.

Bữa cơm ngon lành chuyện trò cũng giòn tan. Bà Vạn nói hết chuyện bừa, sang chuyện cấy. Lúc vui mồm lại cất tiếng khen bà Lược:

- Gớm bà Lược mới may bộ quần áo bằng vải gì mà đẹp đẹp là, chẳng biết bao nhiêu tiền mà sang thế.

Ông Vạn bắt chuyện luôn:

- Thì bảo may lại chẳng may, người ta mặc thì khen. Giỏi lắm chục bạc chứ mấy.

- Chục bạc kia! Gần hết năm mươi cân thóc à? Chết chết! Bộ quần áo mất nửa tháng ăn.

Ông Vạn khó chịu, ngoảnh sang lườm vợ:

- Người đâu mà cứ nói đến tiền là co rúm lại. �n thì cũng phải mặc chứ. Ai người ta lại như bà ấy. Cũng liệu mà may lấy một bộ thỉnh thoảng có đi họp hành chăng. Còn sáu chú lợn con đấy.

- Họp hành đâu lại đến cái con mẹ này.

Bà Vạn thấy chồng nói sợ lại khêu ra chuyện quần áo, liền lảng sang chuyện khác. Ông Vạn nín lặng, hai mắt nheo nheo đăm đăm nhìn ra ngoài sân nghĩ ngợi. Một cơn gió rít lên. Lũy tre trước ngõ trút xuống những chiếc lá khô rào rào. Ông Vạn khẽ rùng mình lẩm bẩm: "Sang đầu mùa rét rồi đây..."

Ông liền đặt đũa bát xuống mâm, đứng dậy rót chén nước súc miệng, rút chiếc tăm cặp vào mồm rồi đi thẳng vào buồng. Ông đi tìm dao. Gian buồng tối mờ ẩm ướt, bề bộn thúng mủng, bồ, cót và những đùm quần áo ẩm sì, muỗi réo vo ve. Lục hết xó này đến xó nọ, ông khẽ reo lên một tiến nhỏ "à đây rồi". Con dao bỏ mãi trong xó tối, bên cạnh mấy cái que đẽo nham nhở. Chắc là thằng Trí mang nghịch bỏ đây. Ông cúi xuống nhặt. Khi ngẩng lên đầu đội luôn cái bị rách của bà Vạn rơi xuống đất. Mùi hôi hám bốc lên. Mấy cái mạng nhện chằng vào mặt nhặm nhụa. "Cái của nợ này". Ông tiện chân đá luôn một chiếc, cái bị lăn lông lốc, ộc ra nào giẻ rách, nào lọ thủy tinh... Mấy cái cúc lăn lọc cọc trong hộp bơ gỉ cũng ộc ra xếp thành hàng đến tận chân vách.

Ông cau mặt nhìn cái bị, vừa ghét lại vừa thương. Nó chẳng còn ra hình thù cái bị cói nữa. Cái quai ken hàng trăm lượt dây bẹ chuối sù ra bằng cái nùn rơm. Thân bị đụp vào đến chục miếng giẻ. Cái miệng đã bai ra toang hoác rách lướp tướp đầy những cói nát. Cái bị này bà Vạn xách về từ hồi vợ chồng mới lấy nhau, tính ra vừa hai mươi nhăm năm. Ngày ấy nó cũng rách thế này rồi. Thế mà đã đeo đi hết Lào Cai, Yên Bái rồi đấy.

Ông bần thần một chốc, toan quay ra. Nhưng nghĩ thế nào, ông lại quay vào nhặt nhạnh cẩn thận, rồi treo cái bị lên chỗ cũ. Ông chép miệng thở dài: "Hừ! Bảo vứt đi thì không vứt, cứ đeo đẳng mãi".

Ông Vạn cầm dao ra bụi tre đứng ngắm nghía từng cây một, rồi lách vào tận giữa bụi chọn đẵn một cây bánh tẻ, để đan rọ lợn. Gai tre cào vào người cũng chẳng thấy đau. Hình ảnh cái bị cứ bám riết lấy óc. Cuộc đời của hai vợ chồng từ thuở lấy nhau đến nay hiện lên rõ mồn một.

Ông nhớ lại từ năm đã lâu lắm, giữa trận đói tháng ba, có hai mẹ con người đàn bà quê ở dưới xuôi dắt díu nhau đến ở nhờ cái điếm ngoài cổng làng. Tên gọi là mẹ con bà Lành. Mẹ thì quanh năm mò cua bắt ốc. Cái Lành đi dắt trâu thuê cho nhà lý Cựu. Quần áo can vá hàng trăm mảnh. Bà Lành chỉ đi nhặt mụn giẻ của thợ may để can thành váy áo. Bộ váy đụp của bà Lành, không biết có tự bao giờ. Ðến khi chết, để lại cho cái Lành, ông Vạn đã thấy nó dày tới bốn lượt. Nặng chình chịch như khố tải đẫm nước mưa.

Cuộc đời hai mẹ con như vậy, lại có cái tên là Lành. Dân làng gọi thế như thấy chua chắt quá, mới gọi chệch sang là "Can", vì bà mặc rách rưới can vá như tổ đỉa. Tên cái Lành cũng tự nhiên được gọi là cái "Can". Ðĩ Can đi dắt thuê con trâu đực cày của nhà lý Cựu, nó phá đi ngóng cái suốt ngày. Ðĩ Can cứ lẽo đẽo chạy theo trâu kêu khóc. Cu Vạn lớn hơn, cũng chạy lừa bắt trâu hộ. Bọn trẻ trông thấy thế liền gán ghép: "Cu Vạn lấy con đĩ Can". Bọn trẻ con nói: "Váy của đĩ Can thằng cu Vạn khiêng không nổi đâu". Thế rồi duyên giời xe, hai người lấy nhau thật.

Vợ chồng lấy nhau cũng đủ sự cay đắng. Ông chẳng muốn nghĩ đến làm gì. Nhưng còn một điều đến chết cũng không quên được. Cái ngày sắp cưới nhau đĩ Can dành dụm được bốn hào bạc định may một chiếc áo mới. Những chỉ đủ mua bốn vuông vải thô, may được tầng trên, còn tầng dưới không biết làm sao, đành liều ăn cắp cái vạt áo cũ của vợ lý Cựu. Nó tra soát mãi không ra. Ðến hôm đĩ Can mặc áo đi gặt thuê, vợ lý Cựu trông thấy nó nheo nhéo chửi từ đằng xa, rồi chạy xộc đến, túm tóc đĩ Can dúi xuống đất. Nó tát nó đấm túi bụi. Váy, áo đĩ Can nó xé rách tơi tả, người tô hô. Lúc ấy nó mới nhả ra. Ðĩ Can vội cầm chiếc nón úp vào bụng chạy về nhà. Ðành lấy bộ váy áo đụp của mẹ mặc vào, len lén về nhà chồng.

Cuộc đời cứ thế xô đẩy mãi. Ðĩ Can đeo đẳng bộ quần áo can vá của mẹ cho đến ngày cải cách ruộng đất. Ðội cải cách đến xin mang đi triển lãm nỗi khổ của nông dân, đĩ Can mới dứt được bộ quần áo nặng nề tội nghiệp ấy.

Từ Cải cách đến nay, ông Vạn đã định may quần áo cho vợ nhiều lần. Những cứ lo chữa nhà xong, lại đến tậu trâu. Năm ngoái năm nay bảo bà ấy may mà mặc, thì nhất định không may, cứ vá chằng vá đụp. Cái ăn cái uống ở trong xó bếp với nhau, có miếng đầy miếng vơi ai biết được. Còn cái mặc thì nó phơi ra đấy. Người ta cười vào mũi ấy chứ! Cái bà này! Cái bà này! Thật không hiểu bụng chồng tí nào!

Ông Vạn vằm mạnh lưỡi dao vào gốc tre, bật ra những miếng dăm trắng mọng. Chỉ ba nhát dao, cây tre nổ ôm ốp rồi gục xuống.

Ông vác tre lại gốc cây ngồi chẻ nan. ánh nắng buổi trưa xiên vào giữa gáy bỏng rát ông vẫn không đổi chỗ ngồi. Hai đứa trẻ xúm lại lột lụa bụng tre làm cờ, chạy tung tăng trước sân. Ông âu yếm nhìn theo: đứa nào cũng hao hao nửa giống bố, nửa giống mẹ.

Một lúc, bà Vạn vác cuốc từ trong nhà đi ra, tưởng bà đi làm đồng. Nhưng bà lại ra đánh đống phân ngay gần chỗ ông ngồi. Ông để ý nhìn: miếng rách lập lều trên vai áo, bà Vạn đã vá rồi. Ông lắc đầu, da trán cau cau: "Không đi may cho bà ấy, rồi đến cùn đời vẫn cứ ăn mặc thế thôi". Người đâu lại có người suốt đời chịu cực khổ. Ðến lúc có ăn có mặc vẫn cứ phải bóp chắt để nhường nhịn chồng con. Chẳng nghĩ đến ăn ngon mặc lành. Làm thì hì hục như trâu lăn suốt ngày. Từ khi vào hợp tác xã bà lại là người làm ăn khỏe mạnh đảm đang nhất. Mấy lần được bầu là gương mẫu rồi, vụ mùa vừa qua tính điểm bà ấy cao nhất trong hợp tác xã. Chính bản thân ông cũng còn kém vợ gần hai trăm điểm. Hơn tháng nay vừa được bầu vào tổ trưởng lao động. Lại cứ ăn mặc rách rưới thế kia thì còn ra làm sao?

Ông Vạn cứ ngồi thần ra nhìn vợ, quên bẵng cả việc đan rọ lợn. Hôm nay ông mới để ý những miếng vá trên quần áo bà Vạn. Miếng nọ chèn lên miếng kia, nhưng cái mụn nào cũng phẳng phiu ngay ngắn. Mũi kim nhỏ lí nhí thẳng tắp. Tưởng như những đường cấy của bà Vạn ở ngoài đồng.

Cái Lý nhìn thấy bố ngồi cứ mân mê chiếc rọ lợn, chẳng đan xong. Nó chạy lại giục:

- Bố! Bố đan đi!

Ông Vạn chợt nhớ ra, nhìn xuống: "Thế là lỗi rồi". Ông kỳ cục dỡ ra đan lại. Cái Lý chạy đi chơi với em. Ông Vạn lại ngồi thẫn thờ, nhìn vợ. Một lúc nó lại chạy đến. Nó đang sốt ruột chờ lấy một cái rọ lợn, mang đút đá vào để khiêng với thằng Trí. Nhưng lần này nó không giục ngay cứ ngồi chầu hẫu nhìn lên mặt bố, rồi lại nhìn sang chỗ mẹ. Thấy hay hay nó cũng nhe răng cười:

- Bố! Bố đan đi. Bố cứ nhìn mẹ mãi.

Ông Vạn giật mình, lườm con một cái:

- Con này chỉ nói càn.

- Thật ị! Bố nhìn mẹ thật ị! Có cái rọ đan mãi chẳng xong.

Ông Vạn nhay nháy mắt nhìn con, như có ý bảo: "Ðừng nói nữa mẹ mày nghe thấy". Bà Vạn ngẩng đầu lên, mặt mũi cũng đỏ bừng.

- Bố con nhà mày y như bố con phường chèo ấy. Bố mày thèm vào nhìn mẹ, cái con mẹ khai dinh dích này ấy.

Cái Lý càng cãi khỏe:

- Bố nhìn thật ị. Khéo bố nhìn để đan rọ đút mẹ vào đấy!

Ông Vạn nhe răng cười, nói gióng giả:

- Bố đem rọ bán lợn để may quần áo cho mẹ mày đấy!

Bà Vạn nghe tiếng, chống cuốc xuống đất, quay ngoắt cổ lại giãy nảy lên như đỉa phải vôi:

- Này, đừng có may với vá mà chẳng xong với tôi đâu!

- Chả xong cũng may.

Ông lắc lắc cái đầu cười khà khà: bà này cứ phải đi may cho rồi mới xong. Cũng như cái giường năm ngoái, sắm đoạn bảo nằm nhất định không nằm, cứ bám lấy cái chõng tre nát. Ðến nước phải phá đi quăng vào đống củi, bà ấy mới chịu nằm. Lại đến cái màn, căng được mấy hôm, rồi đem cất luôn đi, kêu là nằm màn bí hơi, không chịu được. Nhưng có phải đâu, chỉ sợ nó cũ mất. Nói mãi nào có để vào tai. Ðến khi thằng Trí bị sốt, anh y tá bảo: Vì bị "muỗi đốt". Lúc ấy ông mới la cho một chặp. Bà này nói ngọt không được, cứ là phải bắt ép. Ông Vạn sung sướng đã tìm được "biện pháp" hay, liền giơ dao lên ngang mặt chặt vào thanh tre kê trên đòn, bốp! bốp! bốp!

*

* *

Phiên chợ hôm ấy bán lợn xong, ông Vạn mua vải may cho vợ bộ quần áo thật. Ông còn tạt vào hàng mậu dịch mua cho con mỗi đứa một chiếc áo bông hoa. Trên đường từ chợ về làng, người đi đông nghịt. Rủi cho những người đi ngược chiều phải tránh bà con về, chào hỏi mỏi miệng. Dọc đường về đủ các thứ chuyện: chuyện cửa chuyện nhà, chuyện chồng chuyện con, chuyện hợp tác xã... �n mặc cũng đủ màu sắc: áo hồng, áo trắng, áo xanh... Nhiều nhất là áo gụ quần thâm của các bà trung nữ. Người gánh, người mang đủ thứ. Chăn chiếu, vải hoa... Có người còn thiếu bồ cót đựng thóc, đi mua về gánh nghênh ngang chật cả lối đi.

Ông Vạn hôm nay cũng đi trong đám người này. Ông mặc bộ quần áo "phăng". Cái túi dết đầy lặc lè đeo bên cạnh sườn. Tay phải xách nửa cân thịt lợn. Tay trái vắt hai chiếc áo bông hoa. Ông cứ lùi lũi chen đi trước mọi người. Vừa chen ông vừa ngắm nghía hai chiếc áo bông làm cho những người cùng đi cũng phải chú ý:

- Bao nhiêu tiền đấy hả ông?

Ông giơ áo lên ngang mặt, ngoái cổ lại tươi tỉnh trả lời:

- Chỉ mất có ba cái chân con lợn con thôi đấy! Của đứa lớn sáu đồng, đứa bé bốn đồng, thế là vừa chục bạc.

- Thế còn bà ấy không có cái gì à?

- Bà cháu đã có cái khác ở trong túi này.

Tay ông vỗ bèn bẹt vào túi dết, chân bước càng nhanh. Nghĩ đến bộ quần áo của bà Vạn, ông lại muốn giở ra xem. Nhưng trót xếp xuống đáy túi dết, không làm sao mà moi ra được, ông đành kéo cái túi dết ra đằng trước, rồi lại vất ra đằng sau. Cái quai túi nhùng nhằng trên cổ. Bây giờ lại thấy thắc mắc, chính lúc vào lấy ở hàng may, ông cũng chưa nhìn kỹ cái quần, chẳng biết ngắn dài ra sao, may vá có cẩn thận không? Bà ấy là khó tính lắm đấy. Lúc ở hàng may, chết chết bao nhiêu là người đứng chờ đông nghịt cả. Ông lách mãi mới vào tới nơi. Ông định giở ra xem, cái cậu ở thôn trên chạy ngay lại:

- Quần của bà ấy đây à? Mùa màng năm nay khá mà... Già như ông cũng thích chơi trống bỏi. Ha! Ha!

Ông Vạn mặt đỏ gay, nói tuể tỏa:

- Gần chót đời, tao mới may cho vợ được cái quần đây, trống bỏi với trống cơm gì.

Thế là bao nhiêu người đổ xô lại. Mẹ kiếp, ngượng chết được. Ông lúng túng vội xếp bộ quần áo vào túi dết rồi lủi ra. Bây giờ lại không yên tâm.

Về tới đầu làng còn phải qua một quãng đường hẻm, hai bên ria đường bát ngát rừng cọ, đồi chè. ở đây có nhiều chỗ khuất, ông Vạn nhìn trước nhìn sau, liền giở bộ quần áo của vợ ra xem:

- Chà! Thằng cha này may kỹ đáo để!

Ông vạch xem từng đường chỉ máy. Tay run run như bị cóng, sờ vào cái quần cứ mát lịm đi. Ông chợt nghĩ tới cái váy của bà Vạn hồi mới lấy nhau: "Cái váy vứt bảy khúc sông chẳng chìm". Nước mắt ứa ra, ông từ từ gấp quần lại, bước về nhà.

Mấy đứa trẻ con nhà ông Vạn, mọi ngày bố đi làm thì chúng bỏ nhà đi chơi thật biệt. Hôm nay biết bố đi chợ, chúng chỉ chơi quanh quẩn trước sân. Chốc chốc cái Lý chạy xuống cổng ngóng bố. Chưa thấy về, nó lại lừa em:

- Bố về rồi, bố về rồi! Hoan hô! Thằng Trí chệch choạng chạy theo. Cái Lý reo lên:

- Thế là phải lừa rồi.

Thằng Trí mếu máo, đuổi đánh chị. Ðến lần nghe ông Vạn bô bô từ ngoài ngõ:

- Chúng mày ơi! Có ở nhà không?

Hai đứa con reo hò chạy xô ra. Cái Lý nhanh chân hơn nhảy tót ra tận bờ ao, giằng luôn chiếc áo hoa trên tay bố, mặc vào nhảy nhót như hát chèo. Rồi chạy biến sang hàng xóm. Ông Vạn nhìn theo tủm tỉm cười:

- Cái con nhà... dáng lại đi khoe.

Bà Vạn đang nấu cơm trong bếp thấy trẻ con ầm ĩ, cũng đi ra, cầm cái áo hoa trên tay chồng đem mặc cho thắng Trí. Nó sung sướng cũng chạy theo chị. Trong nhà còn lại hai vợ chồng.

Bà Vạn chợt nhìn thấy nửa cân thịt lợn chồng mới mua treo trên vách, vội kêu lên:

- Ghê chưa! Lại mua cả thịt nữa. �n hoang thế!

- Hoang! Làm được thì ăn chứ hoang nỗi gì.

Thấy vợ kêu "hoang", ông chột dạ. Còn cái ở trong túi kia bà lão ấy cũng kêu hoang thì rầy rà. Ông chưa đưa ra vội. Cứ ngồi rít thuốc lào, nói chuyện tràn cung mây, dò ý vợ.

- Lợn con đắt đáo để, mười sáu đồng một chú đấy. Thế mà bà bảo chỉ đáng mười bốn đồng.

- ừ, đắt thật! Gặt hái xong chắc ai cũng muốn nuôi.

Ông Vạn khua chân múa tay cười hể hả, hai cái má hơi nhăn cứ luôn động đậy:

-... Chết chết, hàng hóa bây giờ sao mà lắm thế! Nhất là hàng mậu dịch, toàn quần áo, vải vóc... Bà con nông dân mình khuân cũng đến khỏe. Những đống vải to bằng con trâu nằm, quay ra quay vào đã hết veo. Ðấy, bà có thấy không, chục bạc hai cái áo hoa.

Hai mắt bà Vạn mở to, môi nhếch nhếch cười, đầu gật gù theo nhịp nói của chồng.

- Bây giờ cái gì cũng hạ rồi, tôi cứ tưởng phải mười hai đồng.

Qua mấy câu chuyện, thấy vợ đã bằng lòng những việc mình làm, ông giả vờ như bây giờ mới nhớ ra:

- à, của mẹ mày có cái này! Mặc thử xem.

Ông móc túi dết đưa quần áo cho vợ. Mặt mũi tươi tỉnh, hai mắt lim dim như cố lấy lòng. Bà Vạn không cầm, nét mặt đang tươi, tự nhiên xịu dần xuống.

- Này, chỉ mất có chín đồng rưỡi thôi đấy!

- Chín đồng rưỡi kia à? Tiền đâu mà lắm thế? Mất nửa tháng ăn rồi còn gì nữa!

- Chao ồi! �n thì cũng phải mặc chứ. Cùng thứ vải của bà Lược mặc đấy mà.

Mặt bà cau có lại khó chịu:

- Kệ thây bà Lược, ai khiến ông may? Khéo lắm! Làm chảy máu mắt ra mới được đồng bạc, một giây một giờ tiêu mấy chục liền. Bảo rằng dành dụm để chữa cái bể nước mà ăn, rồi bó cái thềm lại, cứ để cho nó lở mãi đi.

Bà vùng vằng chạy xuống bếp cứ ngồi đay đi đay lại.

Ông Vạn bực mình hét lên dằn từng tiếng:

- Gớm thật! Nói mãi, lẫn mãi! Ðâu có cái người khốn khổ thế!

- Khốn khổ cả đấy, may về thì để đấy mà mặc. Tôi không có mặc đâu mà.

Cổ ông Vạn nghẹn ắng lại: đã biết trước là bà ấy sẽ cằn nhằn, nhưng có ngờ đâu lại đến nỗi này. Bao nhiêu năm giời, bây giờ mới có mà may, không chịu mặc lại còn gằn hắt. Ông ngồi bó gối trên giường. Bà Vạn lại rít lên:

- Ðã bảo từ hôm đan rọ lợn kia rồi. Ai khiến ông, ai cầu ông?

Ông Vạn đứng phắt dậy:

- Chả mặc thì bán cổ nó đi, thế đếch nào mà phải cằn nhằn.

- Bán! Bán! Mua vải bán áo lỗ trật mắt ra.

- Lỗ cũng bán cổ mẹ nó đi! Người đâu lại có thứ người không nói được.

Ông Vạn cầm chén nước uống ừng ực, buông cái chén ra liền nằm vật xuống giường. Tiếng bà Vạn vẫn chì chiết dưới bếp.

*

* *

Chiều hôm nay bà Vạn lại xách cái bị ra, ngồi vá quần áo. Vẫn cái bị rúm ró mọi ngày. Vẫn những giẻ rách, lọ kim, ống chỉ... Ðem ra bày biện trên giường như bà lang dạo bán thuốc trẻ con. Bà ngồi loay hoay bới đám giẻ rách, để tìm mụn vá, nhưng còn lại toàn gấu, cạp với gân đường chỉ. Có vài miếng gọn mắt lại chẳng vừa lỗ thủng. Bà đành phải phá cái quần rách nhất để lấy mụn. Gượng nhẹ mãi mới kiếm được vài mụn tạm gọi là dai sợi. Bà cầm miếng giẻ cứ xoay giở mãi trên chiếc quần, chẳng biết đặt thế nào cho đẹp mắt.

Kỳ cục từ chiều đến gần tối cũng vá xong cái quần. Bà khoan khoái ngửa cổ vươn vai. Cắm chiếc kim lên độn khăn, tiện tay vuốt lại đường ngôi, vén mấy sợi tóc mai vào kẽ tai. Bà giơ chiếc quần lên ngắm nghía. Cái quần chẳng được vừa lòng, chỗ thì nhăn nheo, chỗ lại phùng phùng. Ðôi chân quần bên hếch lên, bên quặp xuống. Bà Vạn đứng dậy ướm thử vào người. Cái quần đã vá nhiều lần, nó co lên chỉ bằng ngang bắp chân. Bà lắc đầu chép miệng vứt xuống giường:

- Thế này có chết người không, mất toi cả buổi chiều.

Bà ngồi xịu xuống nghĩ ngợi: ở nhà chỉ cần mặc kín thịt thì thôi. Ði họp huyện mà mặc thế này ư? Người ta cười chết. Mình là đại biểu của hợp tác xã, mặc rách rưới quá họ lại bảo: "Chắc cái hợp tác xã bà này mới bị thất thu". Thế thì hợp tác còn ra gì nữa? Dại thật! Biết thế này cứ mặc cho xong. Ông ấy lại biết lo xa... mà có ngờ đâu là mình được đi họp.

Bà tiếc ngẩn ngơ. Thấy mình lại phụ cả lòng chồng. Ông lão hí hửng đi mua về, vợ chẳng mặc lại còn bị "dồn" một mẻ nên thân. Lấy nhau nửa đời người, có bao giờ vợ chồng xô xát, nay chỉ vì bộ quần áo mà nên chuyện. Cũng chỉ tại mình cả.

... Ðêm hôm ấy bà Vạn không sao ngủ được. Thằng Trí hôm nay ngủ ngày nhiều nó cứ róc rách mãi không chịu nhắm mắt, bóp nặn hai cái vú mẹ đã teo hết sữa. Bà Vạn lấy tay kéo vú ra ấn đầu nó xuống.

- Ngủ đi, gớm thật!

Muốn đi một tí mà chẳng tài nào lừa nổi con. Cứ khẽ nhích người ra nó liền níu lại, rồi chộp đầu vú nhai nhằng nhằng. Ông Vạn nằm bên kia đã ngáy khò khò.

Mấy lần bà định gọi chồng mà không mở miệng được. Ðến lúc sốt ruột không thể nén được nữa, bà đánh bạo hắng dồn mấy cái rồi cất tiếng gọi:

- Ông Vạn! Ông Vạn ơi! Sang nằm với con, tôi đi đằng này một lúc.

Ông Vạn không thưa, cứ lặng lẽ lần sang giường vợ. Bà Vạn đứng ngần ngừ định hỏi, nhưng lại mở cửa ra ngoài. Gió lạnh thốc vào nhà, ông thấy buốt tê cả cổ. Ông động lòng thương vợ: "Rét thế này mà cứ chạy mãi ngoài trời. Khổ! Người đâu lại có người... Cho thế mới chừa. Lại không thèm hỏi cả...".

Khoảng mười giờ đêm thì bà Vạn quay về. Chân bước lặng lẽ trong đêm vắng, chỉ có sương mù với ánh trăng vằng vặc. Bà nghĩ ngợi lan man: Thế là hết ngày rồi, chỉ còn đêm nay nữa, sáng mai đi sớm. Mọi việc chuẩn bị chẳng đâu vào đâu cả. Quần áo vẫn chưa có. Hỏi mượn mấy bộ thì chật căng không mặc được. Vợ chồng cũng chưa bàn bạc với nhau câu gì, chả nhẽ sáng mai cứ thế này lùi lũi mà đi. Từ chiều đến giờ mấy lần định hỏi quần áo hôm nọ, mà cứ nhìn thấy "lão ấy" là gờm gờm.

Bà Vạn, bỗng thấy tức dồn lên cổ, làm gì mà lão ấy không biết mình đi họp, vậy mà không hé răng ra hỏi được một câu.

Bà Vạn lách cửa bước vào nhà, quờ quạng sờ bao diêm đốt đèn. Ba bố con ông Vạn vẫn ngáy phì phò trong màn. Bà lấy tay rũ những hạt sương đọng trên quần áo, đảo mắt nhìn quanh nhà. Chợt thấy chiếc áo nâu của ông Vạn treo trên mắc phồng cộm lên. Bà Vạn ngờ ngợ, vội vặn nhỏ đèn rón rén bước lại: "à, lão ấy mang về đây rồi, cất đâu mà kín thế, gớm thật, cứ để tìm mãi...". Bà nắm chặt lấy quai túi, người lặng đi, tim đập thình thình. Bà khẽ bước lại giường thấy chồng vẫn ngủ say. Thằng Trí xoay ra ngoài chăn, nằm tênh hếch, chắc là nó rét lắm. Nhưng bà chưa dám đắp lại, sợ chồng thức giấc. Thấy đã yên trí, bà khẽ lấy cái túi dết xuống, lẻn vào buồng giở ra xem. "Ðầy đủ cả rồi, ông ấy chuẩn bị cho chăn, màn, quần áo, lại cả tiền nữa". Bà cảm động tần ngần, tay đặt lên trên túi dết.

Bà đứng dậy mặc thử quần áo. Cứ lúng túng chân xỏ mãi không vào ống quần, người run bần bật. ánh sáng đèn hoa kỳ chiếu lại, cái quần láng nhẫy nhấp nhánh lên. Bà ngắm nghía thấy quần áo thật là vừa vặn. Tay bà vân vê trên mặt vải. Tự nhiên nước mắt ứa ra, nỗi nghẹn ngào cứ hừng hực đưa lên cổ. Bà cắn chặt môi cố kìm lại, để khỏi bật ra tiếng khóc. Hai vai bà rung lên, cảnh vợ lý Cựu xé quần áo giữa hôm vợ chồng mới cưới nhau. Cái váy đụp của mẹ để lại, mặc mãi đến ngày Cải cách... những cảnh đó đều sống lại trong giây phút.

Bà đứng ngẩn ra rất lâu, rồi định vào giường ngủ, nhưng lại quay ra. Cái quần cứ cọ vào người sột soạt. Bà thấy bâng khuâng như hồi Cải cách mới được chia nhà. Ðang định cởi ra, đến sáng mai đi họp hãy mặc, nằm ngủ thế này sợ nó vò nát.

Chợt thằng Trí bị hở chăn rét quá, giật mình thức giấc, nó khóc tru tréo, gọi mẹ. Ông Vạn vẫn ngủ say, bà vội chạy lại:

- à! Mẹ đây, ngủ đi con!

Bà khẽ ghé lưng nằm xuống, những chiếc thang giường chuyển răng rắc. Bà nhấc thằng Trí ra ngoài, vạch áo cho con bú. Chỗ nằm của hai mẹ con có vẻ hơi chật, bà lấy lưng ấn chồng dịch vào trong. Ông Vạn chợt thức giấc.

- Về rồi à?

Ông vội nhỏm dậy định sang bên kia nằm với cái Lý, nhưng thấy lạnh ngắt, ông lại đặt mình xuống giường. Tay quờ phải vợ, vội vàng rụt lại, người lặng đi. Ông nằm ngẫm nghĩ một lúc, khi tỉnh ngủ hẳn mới nhận ra: "à! Mặc rồi! Chả chê mãi đi!". Ðầu óc ông Vạn bỗng mông lung quay cuồng. Cả cuộc đời tủi nhục đắng cay hiện lên... Bây giờ ông có nhà, có trâu... Vợ con có quần áo mới... Bà Vạn nằm bên cạnh cũng đang thổn thức. Ông ngập ngừng hỏi vợ:

- Mặc rồi à?

- ...

- Có vừa không?

- Vừa!

Không khí lặng đi, chỉ có nhịp thở với tiếng chụt chụt mút bú của thằng Trí. Mùi hồ vải thơm phảng phất, man mát.

- Ngày mai đi sớm à?

- ừ, đi sớm!

- Ðến đấy mạnh bạo mà phát biểu, đừng có im ỉm như miệng hến thì chán chết.

Một lúc lâu, bà Vạn lại dặn chồng:

- Mai ông nhớ nhắc tổ cày lại chân ruộng đồng Na lượt nữa. Năm nay phải làm kỹ hơn năm ngoái đấy.

- Biết rồi!

Ánh trăng luồn qua khe hở chiếu vào chiếc màn, gió lay động rung rinh. ánh sáng quệt đi quệt lại, nghịch ngợm như hai đứa trẻ nhà ông Vạn.

2-1960

Bài liên quan
  • BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    BẾN ĐỢI CHỒNG – Truyện ngắn Nguyễn Thị Châu Giang

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng... "
  • HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    HAI NGƯỜI BẠN – Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Hai người bạn là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, in trong tập truyện ngắn Hạnh, Đời nay xuất bản năm 1940.
  • CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    CÁI ĐÈN LỒNG – Truyện ngắn Vũ Bằng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Vũ Bằng hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí từ những năm 1930-1940 khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật khi mới hơn hai mươi tuổi. Khi Nhật-Pháp so kè với nhau chiếm nước ta, dưới áp lực kinh người của những kẻ xâm lược, Vũ Bằng vẫn giữ tư thế của tờ Trung Bắc Chủ Nhật là phục vụ người Việt, vì quốc gia dân tộc, khiến cả chính quyền Pháp và Nhật đều phải kiêng nể.  Trước 1945, Vũ Bằng nổi tiếng trong việc giúp đỡ các nhà văn khác cả tiền bạc lẫn kinh nghiệm viết lách. Rất nhiều nhà văn nhận những lời khuyên của Vũ Bằng sau này đều trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Thế nhưng, một thời gian dài kể từ khi Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954, các tác phẩm của ông biến mất không còn dấu vết, không được nhắc tới trong nhà trường, bị đưa vào danh mục cấm do cái tiếng "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến"... gây ra. Ông lâm trọng bệnh và mất ở TP. Hồ Chí Minh năm 1984 trong cảnh vô cùng túng thiếu. Mãi sau này, ông mới được minh oan rằng không phải ông quay lưng với kháng chiến mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952 và vào Nam năm 1954 theo lệnh của tổ chức. Tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
  • ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    ÔNG NỘI VÀ ÔNG NGOẠI – Truyện ngắn Xuân Quỳnh

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019. Là nhà thơ nên tất nhiên bà nổi tiếng về thơ và hầu như khó tìm được ai không biết bài Thuyền và Biển của bà. Nhưng Xuân  Quỳnh cũng viết văn và viết rất nhiều truyện cho thiếu nhi, truyện Ông nội và ông ngoại dưới đây là một trong số đó.
  • LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    LỜI NGUYỀN - Truyện ngắn Khái Hưng

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Lời Nguyền là truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng, viết về quãng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội (1941) và đưa lên giam giữ tại trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Truyện được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc cuối cùng của nhà văn Khái Hưng. 
  • CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN III. - MƯỠU CUỐI - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Mưỡu Cuối được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1946, đặt làm Phần cuối và đem đi xuất bản ở Quốc Văn với tên Chùa Đàn. Với Tâm sự của nước độc, Nguyễn Tuân băng băng trèo lên đỉnh đèo văn, còn với Chùa Đàn, ông bồng bềnh trôi, chưa mỏi gối nhưng đã không còn đỉnh đèo nào để leo nữa.
  • CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - II. TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC - Truyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần II của Chùa Đàn, được nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1945 có tên Tâm sự của nước độc. Truyện có phần đề từ lấy trong Chữ Nhàn, một bài hát nói của Nguyễn Công Trứ; “Ai hay hát mà ai hay nghe hát”. Trong Chùa Đàn, truyện được sắp xếp thành phần II. Nhà văn Khái Hưng và một số nhà văn khác cho rằng, (việc) Nguyễn Tuân viết thêm Dựng và Mưỡu Cuối, đã làm hỏng mất sự toàn bích một tác phẩm tuyệt mỹ.
  • CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    CHÙA ĐÀN - DỰNG - Tuyện ngắn Nguyễn Tuân

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Chùa Đàn được xem là tác phẩm hội tụ những gì tinh hoa nhất của nhà văn Nguyễn Tuân do Quốc Văn xuất bản năm 1946 tại Hà Nội. Chùa Đàn bắt đầu từ truyện ngắn Tâm sự của nước độc trong loạt truyện kinh dị Yêu Ngôn ông đăng trên các báo thời bấy giờ. Đến năm 1946, để phù hợp với diễn biến thời cuộc, ông viết thêm hai phần bổ sung, đặt làm phần Một và Ba, Tâm sự của nước độc trở thành phần Hai của tác phẩm.
    Dù là tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân, nhưng Chùa Đàn đã bị đánh giá thấp do các yếu tốc ma quái kì dị đầy màu sắc tâm linh của nó. Kể từ lần in năm 1946 và sau đó được Tân Việt tái bản ở Sài Gòn* năm 1947, đến tận năm 1981, Chùa Đàn vẫn không được nhà xuất bản đưa vào tuyển tập của ông. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân buồn bã đến nỗi; "Tôi tiếc cái Chùa Đàn quá. Họ cắt cái Chùa Đàn khỏi tuyển tập này, cũng giống như cắt cái gan ra khỏi bụng tôi".
    Đến năm 1999, Chùa Đàn mới được in trở lại trong tập Yêu Ngôn do nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thực hiện. Ngày nay Chùa Đàn không những đã được xuất bản, mà còn được chuyển thể sang nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch nói, cải lương, phim điện ảnh. Ở mảng điện ảnh, Chùa Đàn được dựng thành bộ phim khá nổi tiếng Mê Thảo – thời vang bóng do đạo diễn Việt Linh thực hiện.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần cuối

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Phần cuối của Ngõ lỗ thủng, tác phẩm dựa trên những ký ức, sự kiện và nhân vật có thật của nhà văn Trung Trung Đỉnh, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.
  • NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    NGÕ LỖ THỦNG – Trung Trung Đỉnh Phần 1

    Chân Dung Kẻ Sĩ: Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh dựa trên ký ức của những sự kiện, nhân vật có thật của chính nhà văn, về một con ngõ quanh co gần phố Vân Hà của Hà Nội thời đất nước đang chuyển mình những năm 1980. Truyện, cùng với Tiễn biệt những ngày buồn, đã được Đài truyền hình Việt Nam chuyển thể thành phim truyền hình 29 tập Ngõ Lỗ Thủng, và dù, ông viết lời cho ca khúc trong phim, nhưng ông lại chả biết bộ phim ấy thế nào, vì ông bảo không xem phim.