Nhà văn Khuất Quang Thụy
Chân Dung Kẻ Sĩ: Anh Sức là truyện ngắn của nhà văn Khuất Quang Thụy, đạt Giải A cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1984. Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật cho các tác phẩm: Trong cơn gió lốc, Không phải đùa, Góc tăm tối cuối cùng.
Trưởng phòng tổ chức của nông trường lật đi lật lại tập hồ sơ của tôi, rồi ông giương kính lên và bắt đầu đọc. Ông đọc rất say mê mặc dù tôi biết chắc chắn ông đã đọc tập hồ sơ của tôi ít nhất cũng dăm bảy lần...
Cũng như mọi lần, sau khi đọc qua mỗi trang, ông cẩn thận thấm nước bọt vào đầu ngón tay rồi mới lật qua trang khác và điểm thêm bằng những tiếng khen "Được" hoặc "Cái này được". Cái kiểu đọc như vậy, dĩ nhiên khiến tôi rất sốt ruột. Như mọi lần, tôi chuẩn bị để nghe ông kết thúc bằng câu "Thôi được! Anh cứ để hồ sơ lại đây để chúng tôi xem lại đã". Cái cảnh đi xin việc, năm lần ra ba lần vào là chuyện thường. Nhưng lần này ông ta đọc có vẻ lâu hơn, bình tĩnh hơn, thỉnh thoảng ông còn dừng đọc, ngước lên nhìn tôi một lượt như để xem có cái gì không được khớp giữa tôi và những dòng chữ trong tập hồ sơ vậy? Cuối cùng, tôi thở phào, ông đã gỡ kính ra, tin cậy đặt nó lên tập hồ sơ của tôi.
- Được! Được đấy. Lý lịch của anh thật là tuyệt. Chưa có một dấu vết gì cả. Nhưng này - Ông đột ngột nhô nửa người qua bàn - nghề nghiệp chính của anh là gì?
Tôi sốt ruột nên đáp hơi sẵng giọng:
- Nghề chính của tôi là… đánh giặc ạ.
- Ái chà! Đánh giặc - ông bỗng cất tiếng cười vang - Khá đấy! Nhưng ở đây làm gì có giặc nhỉ? - Bỏ ngay cái giọng công thần ấy đi, anh bạn trẻ nhé. Tuy vậy, tôi thích anh, anh đại đội trưởng xe tăng ạ. Ban giám đốc đã đồng ý tiếp nhận anh rồi đấy. Nhưng… ở đây chúng tôi không có xe tăng cho anh chỉ huy, gay thế?
- Tôi có thể lái xe xích, xe cần cẩu hay bất kỳ loại xe hơi nào.
- Thế thì tốt. Ông trưởng phòng xoa hai bàn tay vào nhau - nhưng rất tiếc ở đây chúng tôi có vài cái xe rách thì xe nào cũng có ít nhất là ba anh tài xế rồi. Tuy vậy… chúng tôi đã quyết định giao cho anh phụ trách cả một đội xe, được chứ?
- Dạ… tôi cũng có thể…
- Nghĩa là được, phải không? Một đội hơn hai chục đầu xe chứ ít ỏi đâu. Nhưng là xe bò kéo, chứ không phải xe hơi đâu nhé!
Nói xong ông lại cười vang và có vẻ thích thú ngắm nhìn bộ mặt ảo não của tôi. Vậy ra người ta giao cho tôi… lái xe bò? Thật chẳng còn ra làm sao. Nhưng chẳng lẽ cứ ăn không ngồi rồi mãi? Tôi là thương binh, được phục viên đã gần một năm nay rồi. Giá như tôi ở nông thôn thì mọi việc đơn giản hơn nhiều. Chỉ việc đến ban quản trị xin nhận vài sào ruộng khoán là ổn. Khốn nỗi tôi lại là dân thành thị, vườn tược chẳng có mà các nghề khác thì… tôi chưa kịp học một nghề gì trước khi đi bộ đội cả. Các đồng chí bên uỷ ban nhân dân thị xã có gợi ý mời tôi lên làm ở văn phòng uỷ ban. Nhưng tôi biết tôi không thể ngồi yên ở bất kỳ cái văn phòng nào lấy một tuần. Tôi thích làm việc ngoài trời, được đi lại, xê dịch hoặc đôi khi còn hò hét nữa. Tôi chỉ sợ nhận làm việc ở cái nơi cực kỳ nghiêm chỉnh ấy mà tính khí của tôi lại hơi bồng bột, không khéo dăm bữa nửa tháng tôi ngứa chân ngứa tay, rồi làm ăn cẩu thả hay nói năng không được chững chạc cho lắm, lại phiền cho những người cưu mang mình. Vậy nên tôi từ chối để vác hồ sơ đi xin việc ở khắp nơi, cho đến khi gặp cái ông trưởng phòng.
- Thế nào? - Ông trưởng phòng lại hướng về phía tôi - Chắc là đồng chí sẽ không nhận việc này chứ gì? - Tôi biết mà… Cánh thanh niên các anh thì chỉ thích nơi nào tao nhã một chút. Cái nghề đánh xe bò… Nhưng thôi được!... Ưu tiên đồng chí là thương binh, tôi có thể xếp đồng chí làm việc ở bộ phận hành chính…
- Không, tôi vội xua tay - Tôi xin nhận xuống đội xe bò.
- Hả?
- Bác cứ cho tôi xuống đội xe.
- Nếu vậy thì hay lắm. Ông trưởng phòng xoa tay hể hả. Có thế chứ! Đúng là là… phẩm chất của giai cấp công nhân. Nếu đồng chí về đó thì chúng tôi yên tâm lắm. Xem ra phải hơi cứng đầu một chút thì mới cầm cương được cánh xe bò kéo. Chà… chà! Một ổ tiêu cực đấy! Đời thuở nhà ai họ dám bán cha cả bò của nông trường rồi vu cho kẻ trộm lấy mất. Dĩ nhiên là những kẻ như vậy là vào tù rồi. Nhưng… cũng chưa phải rồi mọi việc xấu xa ấy sẽ chấm dứt. Hừm… lạ thật! Táo gan thật! Về đó anh phải đặc biệt chú ý đến tay Nguyễn Văn Sức. Hừm… một tay đã từng lái xe bộ đội Trường Sơn. Cũng vào sinh ra tử cả đấy. Đến khi hoà bình, chuyển ra làm đội trưởng đội xe vận chuyển dân chính thì bắt đầu trở chứng. Quả là… Anh tính, đời thuở nhà ai anh ta dám bán gần hết cả một xe vải quý cho con buôn để lấy tiền chia nhau? To gan thế đấy! Dĩ nhiên rồi đến cái đoạn phải chịu kỷ luật, bị đuổi về. Không bị đi tù còn là may đấy. Ấy thế mà rồi thì… Về đây, anh ta làm cách nào đó, có giời biết, mà ông phó giám đốc nhà này cứ say như điếu đổ, rồi nhận anh ta vào làm ở đội xe. Tôi biết mà, hắn lại định nhắm vào cái khâu tiếp xúc với nhiều cơ sở vật chất nhất. Để làm gì, hả? Với những người như anh ta, thì không phải để làm cách mạng đâu, anh nhớ lấy điều đó! Mặc dù năm vừa qua anh ta được bầu là chiến sĩ thi đua hẳn hoi. Nhưng tôi vẫn ngờ lắm. Cái tay đội trưởng cũ ngu ngơ quá, bị chúng nó xỏ mũi cả. Anh thì phải khác, nhớ đấy! Vì anh là cán bộ, đảng viên lại xuất thân từ giai cấp công nhân. Nếu anh mà cũng lơ mơ thì… cứ cứ… coi chừng đấy!
Ông trưởng phòng đe nẹt tôi một cách thân ái rồi trịnh trọng mở cặp ra lấy tờ quyết định tiếp nhận trao cho tôi.
- Đấy… Việc của anh thế là xong. Anh làm nốt các thủ tục còn lại rồi nhanh chóng về mà nhận bàn giao công tác. Kể từ ngày hôm nay anh chính thức là… cán bộ của nông trường này rồi.
Những lời huấn thị của ông trưởng phòng tổ chức không làm tôi bực mình lắm mặc dù nó thấm đậm chất gia trưởng. Có lẽ vì tôi đang vui. Dù sao thì mọi việc chạy xuôi chạy ngược cũng đã kết thúc. Từ nay tôi đã là anh đội trưởng một đội xe bò kéo của nông trường. Chứ đâu phải chuyện chơi?
Cũng như tất cả các vị thủ trưởng mới nhậm chức, sau khi nhận bàn giao tài liệu, sổ sách, bản thống kê tài sản v.v… tôi quyết định bỏ ra vài ngày để làm quen với công việc và anh em công nhân dưới quyền chỉ huy của mình. Tôi định tổ chức hẳn một cuộc họp để ra mắt và "ra tuyên bố" về "chính sách" của mình… Nhưng đã gần hết một tuần mà tôi không làm sao gom đủ quân về trụ sở để tổ chức cuộc họp ấy. Cuối cùng, tôi phải bãi bỏ ý định ấy và đành "nhập gia tùy tục". Nghĩa là tiếp tục dùng cái bảng thông báo ở đầu nhà để phân công công việc và ra những chỉ thị cần thiết.
Sau đó tôi quyết định đi theo anh em chở hàng một vài chuyến để tìm hiểu công việc. Tuy chưa nói với ai, nhưng tôi định chuyến đầu sẽ đi với anh Nguyễn Văn Sức. Tôi chọn đi với anh là vì hai lẽ. Thứ nhất, vì những lời lưu ý đặc biệt của ông trưởng phòng tổ chức. Thứ hai, sau một tuần làm việc ở cơ quan, tôi đã có vài lần được tiếp xúc với anh Sức. Tự nhiên tôi lại có cảm tình với anh. Ở anh có một cái gì đó chững chạc, bền vững chứ không có những nét xộc xệch cẩu thả, tạm bợ như số đông anh em đánh xe ở đây. Tôi không nghĩ rằng người ta đã phạm kỷ luật, thậm chí phạm tội một lần thì không thể thay đổi được. Ông trưởng phòng có vẻ mê cái lý lịch của tôi. Nhưng, tất cả những sự tốt đẹp, trong sạch của quá khứ có bảo đảm để tôi mãi mãi là người tốt hay không lại là chuyện khác. Tôi đã từng biết không ít những người vẫn được coi là tốt, là trong sạch đã nhanh chóng hư hỏng như thế nào. Ngược lại, tôi từng biết những người phạm tội, xa xẩy đã vươn lên để trở lại với bản chất tốt đẹp của một con người chân chính như thế nào. Quá trình thứ hai, chắc chắn phải gian khổ, vất vả hơn quá trình thứ nhất.
Vì thế, tôi muốn đi với anh một chặng đường. Khi tôi đến, anh em trong đội đang nhận hàng để chuẩn bị cho chuyến đi ngày hôm ấy. Một số anh em đã đóng hàng xong đang quây quần xung quanh bác Mạc, một người nhiều tuổi nhất trong đội. Cánh thanh niên vừa chuyền tay nhau cái điếu cày chạm khắc rất cầu kỳ của bác Mạc vừa cười nói ồn ào. Sức không ở trong đám đông ấy, anh vẫn đang loay hoay bên xe của mình. Thấy tôi tới, một thanh niên ở trần, mặc quần bò, đội mũ cối rộng vành liền la lên:
- Thủ trưởng tới đấy… Chú ý! Bò bê… Tất cả nghiêm!
Mọi người cười rộ cả lên. Tôi cố làm ra vẻ tự nhiên bước tới.
- Chào anh em!... Mọi việc ổn cả rồi chứ?
- Xong cả rồi đấy anh ạ. - Bác Mạc lên tiếng trả lời thay mọi người - Ba xe chở cỏ khô. Năm xe chở gạch và xi măng vào cho đội Sáu xây lò đường. Riêng xe của anh Sức và xe của tôi thì chở phân đạm và vào xóm Trại cho đội Mười hai bón thúc ngô. Sau đó hình như chở gỗ từ đó ngược ra Sơn Tây giao cho nhà máy đường để đổi lấy mắm ma-ri. Anh muốn đi với xe nào thì tuỳ. Ông thủ trưởng trước, dạo mới về cũng đã đi thử với tôi một chuyến! Nhưng chỉ được vài cây số thì ông ta bắt đầu ngáp, rồi gật, bập cả đầu vào thành xe. Tôi đành phải trải chiếu lên trên hàng cho ông ta ngả lưng. Nhờ giời, ông ta ngủ liền một mạch đến tận nơi trả hàng. Khi lay ông dậy, tôi nói đùa "Nếu tôi mà tiêu cực thì tôi bán quách cả thủ trưởng cho mấy con mẹ phe ngoài chợ Ba Trại rồi".
Mọi người lại cười ồ lên. Tôi cũng cười theo rồi vỗ vai bác.
- Thôi, thế thì tôi sẽ đi với bác và anh Sức. Nếu tôi ngủ dọc đường, hai bác cứ việc quẳng tôi xuống đường.
- Lại nói cái chuyện ngủ - Bác Mạc hào hứng tiếp tục câu chuyện - Có lần đi chở than ngoài cảng Sơn Tây về đêm. Trăng thanh gió mát, xe cứ nhẩn nha lọc cọc lăn trên đường. Tựa lưng vào tải cỏ khô, tôi ngủ cha nó lúc nào chẳng biết. Đến khi mở choàng mắt ra thì… Quái! Đây là đâu thế nhỉ? Bỏ mẹ, đây đã tới gần đập Phùng rồi cơ à? Thì ra cái con mẹ này nó định kéo mình về Hà Nội chơi một chuyến chăng? Nghĩ đi nghĩ lại vẫn còn thấy may. Giá mà gặp thằng bợm nào nó trèo lên, xúc cha nó hết than có lẽ cũng chẳng biết. Vô phúc còn bị nó xịt ê-te cho mình lịm đi rồi tháo mất bò như ông Sáu Đỗ ngoài Sơn Tây thì cũng đành chịu chứ biết làm sao?
- Năm ngoái anh Sức đã chẳng chơi cho cái bọn mất dạy ấy một vố ra trò ấy à? - Cậu thanh niên đội mũ cói rộng vành lên tiếng - Xe anh ấy chở phân đạm từ Sơn Tây về, đến quá dốc Đồi Thông, đang mơ mơ màng màng thì bốn thằng ập tới. Chúng dí dao găm vào cổ anh và đòi anh phải để cho chúng lấy vài tải đạm. Cưỡng lại thì chúng đâm chết ngay. Anh Sức rất khôn ngoan liền bảo chúng "Các ông đã định lấy thì cứ khuân tất cả xuống rồi trói tôi lại. Sáng mai có người đi qua, tôi sẽ kêu họ cởi trói lập biên bản. Chứ các ông chỉ lấy một vài bao rồi tha tôi thì về cơ quan tôi cũng đến chết". Bọn kia tưởng chuyến này "trúng quả", máu tham liền nổi lên. Thế là chúng bảo anh dừng xe, rồi ì ạch khuân hàng xuống. Chúng tưởng gặp phải anh chàng yếu đuối nên càng chủ quan chẳng đề phòng nữa, xúm cả lại bốc hàng. Thế là anh Sức lựa lúc chúng sơ hở, rút được cây gậy cài bên thành xe rồi nhảy bổ tới phang cho hai thằng gần nhất mỗi thằng một gậy gục ngay tại chỗ. Hai thằng còn lại hốt hoảng tháo chạy. Anh trói gô hai đứa bị đòn lại, quẳng lên xe rồi đưa vào giao cho một đơn vị bộ đội đóng quân gần đó. Mấy hôm sau công an tóm được nốt hai thằng còn lại. Hồi đó nhà báo chả về tận nơi phỏng vấn, rồi chụp ảnh, viết bài đăng trên báo là gì?
- Có, tớ có đọc bài báo ấy - Một anh khác vội chen vào - Phải nói bài báo viết rất hấp dẫn ly kỳ. Nhưng… tớ không khoái cái đoạn anh Sức nghĩ. Lúc ấy thì làm quái gì mà nghĩ được nhiều thế? Thậm chí lại còn nghĩ đến cả mấy chục héc-ta ngô, lạc của nông trường đang chờ phân nữa? A… anh Sức đây rồi! Này, lúc ấy anh có nghĩ lắm như thế không anh Sức?
- Nghĩ gì? - Sức vừa bước tới nên chẳng hiểu mô tê gì cả - cho mình mượn cái điếu. Chuẩn bị đi thôi chứ còn gì. Bò bê nó đang dậm chân dậm cẳng ầm ầm lên kia kìa.
- Bọn tôi đang kể cho xếp mới nghe cái tích anh đánh cướp cứu tài sản xã hội chủ nghĩa đấy. Cậu thanh niên đội mũ rộng vành vừa nói vừa khẽ nháy mắt - Hôm nay thủ trưởng sẽ tiếp tục đi sâu đi sát để tìm hiểu đồng chí chiến sĩ thi đua của đội xế bò ta đấy.
Sức quay lại, nhìn thấy tôi anh khẽ gật đầu thay cho câu chào rồi hỏi.
- Anh định vào đội xóm Trại à?
- Vâng, tôi muốn đi với anh một chuyến.
- Được, xin mời anh - Sức trả lời sau khi rít một hơi thuốc lào - Anh lên xe tôi, bò của bác Mạc hôm nay không được khoẻ lắm đâu.
Anh em đánh xe cũng vội vã trở về xe của mình. Tiếng giục bò vang lên. Tiếng bánh xe lăn trên con đường rải đá lọc cọc. Một hồi kẻng đổ rền báo giờ làm việc buổi sáng đã đến. Các cô trong đội trồng dừa từ ngôi nhà tập thể túa ra đường. Cô nào cô nấy nai nịt như thể sắp bay vào vũ trụ: Chân đi giày ủng, tay đeo găng bảo hộ lao động, khăn trùm đầu trùm cổ kín mít, chỉ có hai con mắt là các cô vẫn phải để cho nó lóng lánh, liếc ngang liếc dọc nhoay nhoáy. Chẳng bù cho lính của tôi, mười người thì tới sáu bảy người ở trần phơi ra những mảng lưng, mảng ngực đen cháy, những bắp thịt cuồn cuộn. Vậy mà cái duyên bóc trần ra ấy của "Lính xế bò" vẫn buộc các cô phải để mắt tới.
- Ê… Này các em đội dấm dớ… A quên, đội giồng dừa chứ nhẩy! - Cậu đội mũ rộng vành ngồi ngất ngưởng trên chiếc xe chở cỏ khô vung roi hét lên. - Muốn ăn cơm tám với giò, lại đây mà ủn xe bò với anh. Nào…!
- Anh Phong ơi! Cho bọn em ngồi ca-bin xe bò với nào.
- Lên đây! Lên đây. Ca-bin của anh đây thì êm hết xẩy!.
- Nhưng mùi nước đái bò… khai lắm!
Các cô cùng cười ré lên khiến anh chàng đội mũ rộng vành cứng họng, mắt đỏ phừng lên. Bị hố với các em, anh ta đâm cáu, hai cái mông bò bị vụt lia lịa một hồi. Nhưng… chỉ một lát sau đã thấy anh ta nằm ngửa trên đống cỏ khô, vừa dứ dứ cái roi lên trời vừa hát vang lên.
Ra đến ngã ba, mấy chiếc xe chở cỏ khô rẽ lối khác. Xe của Sức và của bác Mạc nhằm thẳng vào hướng Ba Vì đi tới. Trước mắt chúng tôi là những đồi cỏ sữa của trung tâm bò giống Môn-ca-đa, thứ cỏ có sức sống mãnh liệt và có hương vị đặc biệt do nước bạn Cu-ba giúp ta gây giống và gieo trồng. Vào ban đêm, mùi cỏ bị nắng nung khô tái, suốt ngày toả ra mùi hương nồng say, thấm đậm trong không gian, khiến bất kỳ ai đi qua đây cũng thấy nao lòng. Buổi sớm, sương còn đọng long lanh trên những ngọn cỏ, hương thơm vẫn nồng nàn khiến ta cứ ngỡ chính những giọt sương kia đã toả ra cái hương vị lạ lùng ấy! Nhưng rồi mặt trời lên, sương tan. Sự hào nhoáng của những giọt sương mỏng manh tan biến ngay dưới ánh nắng mặt trời nhưng hương cỏ thì vẫn nồng đượm, vẫn lắng đọng, quanh quất đâu đây, êm dịu luồn lách vào tận da thịt, như nhắc ta đừng bao giờ quên cái hương vị diệu kỳ này. Nhưng làm sao có thể quên, dù chỉ một lần qua đây?
- Buổi sáng thật tuyệt vời, phải không anh Sức?
Tôi hỏi và đợi câu tán đồng của anh. Nhưng hình như anh không nghe tiếng, như quên cả sự có mặt của tôi trên chiếc xe này. Mắt anh nhìn đăm đắm như bị hút vào một điểm nào đó ở phía trước. Gương mặt anh lúc đó thật đẹp. Một vẻ đẹp đầy nam tính, khoẻ khoắn, góc cạnh và lộ rõ vẻ từng trải, dày dặn nhưng chưa hề chai sạn.
- Anh có thuốc lá không? Anh hỏi khẽ và vẫn không nhúc nhích.
- Có đây. Tôi trả lời rồi vội rút bao thuốc lá trong túi ra đưa cho anh.
- Cám ơn! Anh nói khẽ khi điếu thuốc đã bắt lửa. Sau đó anh lại im lặng. Anh ngậm điếu thuốc trên môi và lặng lẽ hút, lặng lẽ nhả khói, không một lần nhấc ra khỏi môi cho đến khi điếu thuốc chỉ còn một mẩu nhỏ anh mới thổi phù một cái cho mẩu thuốc bay ra vệ đường.
- Anh nghiện thuốc lắm, phải không? Tôi hỏi khi nhìn thấy cung cách hút sách lạ lùng ấy của anh.
- Không. Tôi không nghiện bất cứ thứ gì. Nhưng thứ gì cũng chơi được tới cùng như bất cứ một kẻ nghiện ngập chính cống nào.
- Anh đã từng là lái xe mà - Tôi nói như để thừa nhận sự sành sỏi của anh. Nhưng anh lại cười khẩy.
- Chắc ông Phục trưởng phòng tổ chức đã kể cho anh nghe đủ điều xấu xa về tôi, phải không?
Tôi gật đầu xác nhận điều đó vì tôi biết, trước những người như anh mà nói dối là một sự ngốc nghếch.
- Nhưng anh có tin không?
- Không.
- Thế thì anh lầm rồi. Tất cả những điều ông ta nói về quá khứ của tôi đều đúng cả đấy. Ông ta biết rất kỹ và nhớ rất dai - Anh bỗng cười vang rồi sôi nổi nói tiếp - Có điều… chưa bao giờ ông ta hiểu đúng tôi cả. Ông ta là một người… Biết nói thế nào nhỉ? Có thể nói là một người trong sạch, tận tuỵ và rất nghiêm khắc. Ông ta có thể ngồi miệt mài bên đống hồ sơ ngày này qua ngày khác, bất chấp giờ giấc, thời tiết, ngày nghỉ hay ngày lễ… Và nếu anh đến xin việc chẳng hạn, vô phúc lại tưởng ông ta cũng giống như một số cán bộ tổ chức khác, mà định giúi cho ông ta một thứ gì đó, dù chỉ là một bao thuốc lá loại rẻ tiền thôi thì… anh sẽ hết đời! Ông ta sẽ liệt ngay anh vào danh sách những thằng vứt đi của xã hội. Chẳng thế mà, tuy đã từng là cán bộ tổ chức của một xí nghiệp vận tải, nghĩa là ngồi ở cái vị trí mà người ta có thể hái ra tiền, nhưng ông ta vẫn sống rất nghèo, rất thanh bạch, hàng ngày vẫn đi về bằng chiếc xe đạp mà ông cụ đẻ ra ông ra mua từ hồi còn thằng Tây kia. Về mặt ấy và về sự tận tụy với công việc, ông ta thật là một người đáng kính trọng. Nhưng ông ta có một cái lỗi, thậm chí là một cái tội nữa, là chỉ tin vào lý lịch, chỉ làm việc với những hồ sơ khô cứng chứ không tin vào con người với tất cả những cái tốt và cái chưa tốt của họ. Với ông ấy, chỉ có hai loại người, loại đã có tội, đã bị kỷ luật hoặc có lý lịch không trong sạch và loại hoàn toàn trong sạch, chưa có "phốt" gì bị ghi trong lý lịch hồ sơ. Với loại thứ nhất, ông ta coi như hoàn toàn khả nghi, không thể dùng được, phải lập tức tìm cách mà xéo đi cơ quan khác. Tôi cũng là người đã từng bị ông ta xếp vào loại này. Rất không may cho tôi là về tới tận cái xó xỉnh này tôi đã lại thấy ông ta lù lù ngồi đó rồi. Thực ra, sau khi bị kỷ luật, tôi cũng chẳng thiết tha trở lại làm một anh công nhân viên chức Nhà nước làm gì. Nhưng nhờ có ông phó giám đốc nhà này, ông Thức ấy mà, ông ta động viên, tạo điều kiện cho tôi vào làm việc ở nông trường, không phải vì ông ấy thấy tôi cần phải trở lại biên chế nhà nước để có miếng cơm manh áo. Ông ấy hiểu tôi, biết tôi hoàn toàn không phải người xấu, không có ích gì cho xã hội nữa. Được ông Thức khuyến khích, tôi làm đơn xin vào nông trường. Đến khi bước vào phòng tổ chức cán bộ, vừa nhìn thấy ông Phục, tôi đã phát ớn, định quay về. Nhưng tôi lại nghĩ. Thì đã sao? Nếu mình rút lui, chẳng hoá ra những ý nghĩ của ông ta về mình là vĩnh viễn đúng hay sao? Mình không thể trở thành người tốt, người có ích cho xã hội nữa hay sao? Nghĩ vậy, tôi cứ liều tiến tới. Dĩ nhiên ông ta ngạc nhiên, và ông ta kiên quyết không chịu chấp nhận tôi. Cuối cùng, có lẽ nể ông Thức nên ông ta tạm dẹp những nguyên tắc của mình qua một bên để hé cửa cho tôi trở lại làm anh công nhân. Nhưng… ông ta luôn luôn cảnh giác với tôi. Có lẽ ông luôn nghĩ rằng Sức này định tuồn vào để moi của Nhà nước một lần nữa đây. Ngay cả cái lần tôi đánh nhau với bọn cướp để cứu tài sản Nhà nước ấy mà ông ta vẫn nhìn hiện tượng ấy bằng cặp mắt cảnh giác. Tôi được anh em tín nhiệm bầu làm tổ trưởng, rồi chiến sĩ thi đua, ông ta cũng chưa tin, có lẽ ông ta nghĩ rằng tôi chuẩn bị một "cú" gì đây nên mới ra vẻ tích cực, liêm khiết đến thế? Anh thấy ông già ấy có kỳ cục không - Anh lại cất tiếng cười vang rồi kết luận - Tuy vậy, tôi không hề thù ghét ông ta. Vì, suy cho cùng, ông ta vẫn là một người tốt, một cán bộ tận tụy trong công việc và liêm khiết, trong sáng. Ông ta trong sáng ngay cả trong sự thành kiến một cách kỳ quặc với những người như tôi.
Những lời kết luận của anh Sức về ông trưởng phòng tổ chức khiến tôi ngạc nhiên. Khi ngẫm nghĩ lại tôi hiểu và càng mến phục anh hơn. Tôi biết, trước mặt tôi là một con người có phẩm cách, có ý chí và nhân hậu. Cuộc đời của anh hẳn lắm thăng trầm, chỉ có sự từng trải mới tạo nên cho con người những phẩm chất ấy, mới giúp con người có khả năng để không ngộ nhận, để có thể phân biệt được những khoảng sáng và những vùng còn tối tăm trong mỗi con người. Tôi muốn biết về những thăng trầm ấy của cuộc đời anh vì tôi biết, ở đó những phẩm chất của anh đã được bộc lộ và thử thách.
* * *
Tuy vậy, tôi vẫn im lặng chờ đợi. Đã qua hết những đồi cỏ và bây giờ, trước mắt chúng tôi là những đồi dâu của nông trường dâu đồi. Ai là người đầu tiên đã mang cây dâu từ miền bãi lên vùng đồi cằn cỗi này nhỉ? Cũng là một cuộc cách mạng, một cuộc biến cải chứ đâu phải chuyện bình thường. Ấy vậy mà bây giờ cây dâu mọc xanh tươi ở đây, được chấp nhận ở đây một cách tự nhiên, như tạo hóa sinh ra vốn đã như thế. Người qua kẻ lại cũng coi sự có mặt của cây dâu kia ở đây là chuyện thường tình, chẳng ai biết tới sự trăn trở đau đớn của cây dâu và của những người lần đầu tiên đặt cây dâu xuống vùng đồi đá ong này.
Anh Sức không phải là người sinh ra ở đây và cũng không phải vào đời bằng nghề đánh xe bò. Nhưng phải tới đêm hôm ấy, tôi mới được biết vì sao anh đã đến đây và trở nên gắn bó với vùng đất này.
Lượt trở về xe chúng tôi chở gỗ ván xẻ. Chúng tôi gỡ mui xe ra, chất gỗ lên rồi trải chiếu nằm khểnh trên đó mà ngắm trăng, mặc cho đôi bò tận tụy và trung thành nhẩn nha kéo đi. Những lúc như thế này mới thấy nghề đánh xe bò cũng không phải tồi tệ gì. Có thể nói là thơ mộng ấy chứ. Suy cho cùng thì nghề nào mà chẳng có những lúc nhọc nhằn cay đắng và những lúc thảnh thơi nhàn hạ như những ông hoàng?
Đêm nay chúng tôi là những ông hoàng. Ngửa mặt lên gặp một trời đầy trăng; xung quanh mặt đất ngạt ngào hương cỏ, hương cây, thuốc lá trong túi còn đủ hút tới sáng: nước chè đặc đầy hai bi đông và nếu đói bụng thì đã có một rổ khoai luộc chị em đội xóm Trại vừa biếu hồi chiều. Xe của bác Mạc nằm lại đợi sáng mai chở lợn về nông trường. Có lẽ vì thế mà tôi và anh Sức cảm thấy hoàn toàn được tự do. Chúng tôi có thể lang thang trên đường suốt cả đêm mà không bị ông già khó chịu và cẩn thận luôn miệng thúc giục.
- Hồi còn lái xe ở Trường Sơn những đêm trăng như thế này thật quý vô cùng - Anh Sức bắt đầu câu chuyện khi xe chúng tôi ra đến đường lớn. Bọn mình có thể đàng hoàng chạy trên những con đường bị bom đạn địch cày xới tơi bời mà không phải dùng đèn. Bỏ nghề lâu rồi mà bây giờ cứ tới những đêm trăng như thế này tôi vẫn thấy nao nao cả người, cứ như sắp sửa nhảy lên xe mà phóng vù đi vậy.
- Anh chuyển sang lái xe dân chính từ hồi nào?
- Năm bảy mươi sáu - anh kể. Như anh biết đấy, sau chiến tranh, người lính nào cũng bắt đầu nghĩ đến cuộc đời mình, đến cái tổ ấm của mình. Đó là lẽ tự nhiên. Tôi cũng vậy. Những năm còn là bộ đội Trường Sơn, tiếng là ở phía trước nhưng năm nào tôi chẳng có dịp ghé qua nhà vài ba lần. Nhưng đi thì đi, về thì về, tôi nào có để ý nhiều đến cái gia đình riêng nhỏ bé của mình. Hình như mọi cái đều ổn cả. Cái nhà do bố mẹ làm cho, dù là nhà lợp lá, nhưng vẫn còn có vẻ chắc chắn. Vợ đẻ sòn sòn ba năm đôi, nhưng "giời sinh voi giời sinh cỏ" các cháu vẫn lớn đều, vẫn có cơm ăn áo mặc, chứ có đến nỗi nào mà phải lo. Tuy vẫn chưa hơn cuộc sống thanh đạm của ông cha xưa bao nhiêu nhưng thời chiến, đòi hỏi nhiều làm gì. Vợ ở nhà vẫn phải vo vo véo véo mới đủ ăn, đủ mặc thật đấy nhưng thỉnh thoảng chồng còn ghé thăm nhà được trong khi chồng con người ta vẫn đi biền biệt, thế là mình hơn người rồi. Đòi hỏi gì nữa? Mình cũng vậy, sau bao ngày vào sống ra chết, được ra nhận hàng một chuyến, được tranh thủ ghé về thăm vợ thăm con, thế là nhất rồi, hơn người rồi. Đòi hỏi gì nữa. Cứ nghĩ, có lẽ cuộc đời chỉ cần thế này là đủ, miễn là không còn chiến tranh, không còn nay sống mai chết. Nhưng rồi chiến tranh cũng đến lúc chấm dứt. Cả dân tộc vui mừng, hể hả vài ngày, vài tháng rồi mỗi người phải tiếp tục cuộc sống riêng của mình. Hoà bình rồi, cũng phải thu xếp đời sống sao cho kha khá hơn một chút chứ. Vợ bắt đầu nhắc tôi chuyện nhà đã dột, giá như có tiền xây lên, lợp ngói thì tuyệt. Hợp tác đưa điện về, hoà bình rồi phải dần dần điện khí hoá nông thôn chứ. Nhưng có điện thì có nhu cầu về đồ điện. Chí ít cũng phải có cái đài cho con nghe, có cái quạt đỡ ngày nóng bức cho những đứa bé… Trong xóm đã có nhà người ta khuân được ti vi, tủ lạnh về rồi kia kìa. Mà họ cũng là cán bộ, bộ đội cả đấy chứ? Bấy giờ về thăm nhà mới thấy cái nghèo của mình lòi ra. Vợ con mình sống vất vả quá. Nhà cửa của mình loang toàng quá. Không thể thế này mãi được! Là cái thằng đàn ông, để vợ con nhếch nhác, thua kém mọi người đủ đường thì còn ra làm sao? Mình là bộ đội, làm gì thì làm thế nào được? Nhưng hà cớ gì mình phải ở bộ đội mãi nhỉ? Mà làm lính suốt đời được à? Hoà bình rồi, mình đã hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc. Còn nghĩa vụ với gia đình thì…
Thế là tôi viết đơn xin chuyển ngành. Đúng dịp đó đơn vị cũng đang thu gọn đội hình nên tôi được chấp thuận ngay. Hồi ấy bộ đội lái xe Trường Sơn có giá lắm nên tôi dễ dàng được tiếp nhận vào một xí nghiệp vận tải của Bộ Nội thương và được giao phụ trách một đội xe chạy đường dài. Tất cả dễ dàng như được sắp đặt từ trước vậy.
Những tháng đầu chưa có chuyện gì xảy ra, tôi vẫn còn giữ được cái chất của một người chiến sĩ. Nói như cách nói của cánh lái xe dưới quyền tôi lúc bấy giờ là tôi vẫn còn "sặc mùi lính tráng". Tuy vậy thu nhập của tôi cứ tăng dần lên. Nhiều khoản phụ thu lạ lùng đến mức tôi không thể hiểu nổi, nhưng thực tình, cũng cố làm ra vẻ vô tâm, không tìm hiểu xem đồng tiền từ ngõ ngách nào mà cứ chảy về ngày một nhiều hơn. Có tiền tôi tiêu pha rộng rãi hơn, thỉnh thoảng gửi về cho vợ dăm ba trăm hoặc mua sắm một vài thứ cần thiết. Tôi cam đoan với anh rằng người ta làm quen với cái sự sung sướng, đầy đủ dễ dàng hơn làm quen với gian khổ, hy sinh rất nhiều. Chẳng bao lâu tôi đã không thể hút nổi một điếu thuốc rẻ tiền như chúng ta vừa hút và sáng nào không có một tách cà phê thì mồm cứ nhạt hoét và làm ăn sẽ chểnh mảng suốt cả buổi. Tôi càng khó tính trong ăn uống, hút sách bao nhiêu thì ngược lại, càng trở nên dễ tính hơn với những thói hư tật xấu của anh em trong đội bấy nhiêu. Bên tai tôi thỉnh thoảng đã vang lên lời khen ngợi của những người dưới thẩm quyền "Thủ trưởng của chúng ta dạo này chịu chơi lắm rồi!". Tôi cảm thấy yên tâm, khi lầm tưởng rằng mình đã hoà nhập được với môi trường mới.
Nhưng rồi, cái ranh giới cuối cùng cũng phải đến. Một sợi dây mỏng manh đã giăng ra trên đường. Có bước qua cái sợi dây ấy hay không? Ở bên này có nghĩa là tôi vẫn ít nhiều còn là tôi. Còn nếu bước qua bên kia tôi sẽ trở thành một kẻ khác. Bấy nay, mặc dù có lờ mờ cảm thấy những khoản tiền "phụ thu" mà anh em trong đội thỉnh thoảng chia cho là tiền bất minh. Nhưng tôi vẫn lờ đi, coi như chưa biết gì. Đã đến lúc tôi phải đối mặt với chính tôi. Số phận đã định thế rồi.
Lần ấy tôi trực tiếp đi với anh em một chuyến vào miền Nam với ý định sẽ kết hợp mua một vài thứ đồ điện về cho gia đình. Vào đến Vinh thì chúng tôi dừng lại nghỉ đêm. Tôi thấy mấy anh em lái xe thỉnh thoảng lại chụm đầu bàn bạc với cậu đi áp tải hàng. Họ bàn bạc có vẻ căng thẳng và thỉnh thoảng lại liếc mắt về phía tôi. Cuối cùng, một cậu đại diện cho họ quyết định trao đổi thẳng thừng với tôi. Sau khi rào trước, đón sau cậu ta cho tôi biết là trên xe "thừa ra" khoảng hơn chục kiện vải quý. Nghe mà kinh người! Tôi quyết định phải kiểm tra lại hàng và quả nhiên số hàng thừa trên xe hoàn toàn có thực. Mọi người đang chờ tôi quyết định "xử lý" số hàng thừa đó. Giá như nó chỉ có một ít thì họ có thể đủ gan để tự giải quyết rồi. Cái cậu được phân công vận động tôi không rời nửa bước. Cậu ta quả là có tài thuyết khách. Cậu ta vạch ra đủ mọi viễn cảnh khi chúng tôi có trong tay món tiền khổng lồ nếu đem "đẩy" số hàng ấy cho con buôn. Cậu ta hứa chuyến này vào Sài Gòn sẽ trực tiếp đi tìm mua cho tôi một tủ lạnh và một chiếc ti vi thật "nghiêm chỉnh". Cậu ta cũng không quên nhắc đi nhắc lại rằng với số tiền đó vợ con tôi có thể "tiến thẳng" từ cuộc sống còn chật vật thiếu thốn hiện nay lên một cuộc sống sung túc tiện nghi. Vả lại, có ma nào biết chứ? Hàng xuất ra khỏi kho rồi, chúng tôi cứ giao đủ cho nơi nhận theo hoá đơn, chứng từ là được rồi, ai biết đấy là đâu?
Tôi đề nghị được suy nghĩ một đêm, sáng mai tôi sẽ quyết định. Tôi có biết đâu đó là cái đêm khắc nghiệt nhất, cái đêm tôi phải quyết định lấy số phận mình, nhân cách của mình. Cái đêm tôi phải quyết định có bước qua sợi dây ghê gớm kia không? Tôi nằm trằn trọc suy nghĩ. Đêm đó trong tôi có hai con người co kéo nhau, tranh cãi với nhau. Đó là cái người đích thực của tôi, và hắn, kẻ bấy nay còn xa lạ, mặc dù đã lảng vảng quanh tôi. Cuối cùng, hắn đã thắng. Tôi bước vào một ngày mới với bộ mặt hốc hác vì mất ngủ. Thực ra, không phải tôi đang bước đi mà hắn đã bắt được tôi làm tù binh và đang giải tôi đi. Trước khi hạ vũ khí, lý lẽ của tôi thật đơn giản. Thôi, ta chỉ làm một cú này thôi. Với số tiền ấy, ta đủ để xây cho vợ con cái nhà, mua sắm vài đồ dùng cần thiết và sau đó… sẽ không bao giờ ta làm bậy nữa.
Nhưng thật không may cho tôi. Ở tổng kho, sau khi thấy mất hàng, họ đã rà lại tất cả các đầu mối đến nhận hàng và chú ý ngay tới đoàn xe của tôi, là đơn vị nhận hàng nhiều nhất ngày hôm đó. Ngay ngày hôm sau đoàn xe của tôi đã bị ách lại dọc đường để kiểm tra. Dĩ nhiên, người ta không thấy số hàng đó trên xe nữa. Nhưng… không hiểu sao tôi lại tin rằng cuối cùng người ta vẫn cứ tìm ra thủ phạm nên ngay sau khi các đồng chí công an và thanh tra của ngành ra lệnh cho đoàn xe của tôi tiếp tục chạy thì tôi đột ngột quyết định phải thú nhận tất cả. Tôi đã làm việc đó trước những lời xỉ vả của cánh lái xe. Mặc họ! Với tôi thế là hết rồi.
Tôi được miễn truy tố vì hành động thành khẩn đó và… có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ. Thật là điều nhục nhã! Tôi chỉ bị buộc phải thôi việc. Thế là… sau hơn chục năm làm chiến sĩ tôi đã trở về quê hương như một kẻ tội phạm. Ở làng, không hiểu vì sao mọi người cũng biết được chuyện ấy? Nhiều người nhìn tôi bằng ánh mắt khinh bỉ. Tôi cắn răng chịu đựng tất cả. Nhưng một hôm, tôi đang ngồi ở nhà buồn rũ rượi thì có một người lộc cộc chống nạng bước vào sân nhà tôi. Tôi sửng sốt kêu lên khi nhận ra đó là Thân, bạn chiến đấu cũ của tôi ở cuối huyện. Anh đã bị thương trong cái lần cùng tôi chở hàng vào Tây Thừa Thiên. Đã lâu lắm tôi không gặp anh, sao hôm nay anh lại tự lần tới tận nhà tìm tôi? Tôi chồm dậy, định chạy ra đón anh thì anh đứng sững lại, cầm cây nạng chỉ thẳng vào mặt tôi mà hét lên: "Đồ hèn! Sức dài vai rộng làm gì không nuôi nổi vợ con mà phải đi ăn cắp!". Tôi chết điếng người, chưa kịp định thần thì anh đã quay mặt, lộc cộc chống nạng đi thẳng. Tôi lao vội theo anh, rên rỉ "Anh Thân! Ở đây đã… tôi muốn… tôi muốn nói…" "Thôi im mồm đi! - Anh quay lại quát - Tao lặn lội đến đây chỉ để nói với mày một câu thế thôi. Để yên cho tao đi không tao phang cho một gậy bây giờ!". Nhìn thẳng vào đôi mắt bừng bừng lửa giận của anh tôi phát hoảng. Và, tôi không đủ sức để giữ anh lại nữa.
Sau cú đó tôi gục xuống ốm một trận thập tử nhất sinh. Tất cả mọi thứ bệnh tật trong chiến tranh tưởng đã nằm yên trong người tôi bỗng ầm ầm trỗi dậy. Tôi nằm bẹp suốt hai tháng giời. Vợ tôi tất bật ngược xuôi chạy thuốc chạy thang. Những thứ tôi mua sắm về được lần lượt "đội nón ra đi". Thật là của thiên lại trả địa. Năm đó lại đúng vào năm mất mùa. Nhà tôi hết ăn ngay từ trước tết nhưng vợ tôi vẫn tần tảo chạy vạy ngược xuôi để bố con tôi vẫn có bữa rau bữa cháo. Ăn miếng cơm của vợ mà nước mắt tôi cứ trào ra. Lời xỉ mắng của Thân như một vết khắc bằng lửa vào tim tôi. Nhục nhã, ê chề quá phải không anh? Nhưng rồi tôi khỏi bệnh. Cùng với sự chiến thắng bệnh tật, một ý nghĩ lúc nào cũng thiêu đốt lòng tôi: "Ta phải tự tay ta làm nên tất cả. Phải chứng minh với mọi người rằng thằng Sức này không phải đã hoàn toàn bỏ đi, không phải chỉ ăn cắp mới sống được, mới nuôi được vợ con!" Bằng cách gì tôi chưa biết nhưng tôi quyết định phải chứng minh được điều ấy.
Anh Sức đột ngột dừng câu chuyện ở đó rồi cho bò dừng lại nghỉ. Sau khi ném cho đôi bò một ít cỏ khô, anh lấy chiếc chiếu trên xe xuống, trải ra vệ đường rồi bảo tôi:
- Ta lót dạ vài củ khoai chứ. Các cô đội xóm Trại nổi tiếng mát tay đấy. Khoai của họ ngọt lừ. Anh ăn thử vài củ đi cho vui.
Chúng tôi ngồi bên vệ đường, vừa ăn khoai luộc, uống nước chè tươi đặc sánh, vừa ngắm trăng. Câu chuyện của anh Sức vẫn còn ám ảnh tôi nên tôi ăn uống không thấy ngon miệng nữa. Hình như biết tôi sốt ruột, một lát sau anh lên tiếng kể tiếp:
- Sáng mai mời anh ghé thăm "trang trại" của tôi. Cái gì chớ sắn, khoai, lạc, đỗ thì chỗ nào trong nhà tôi cũng có. Cũng đã có lần ông Phục ghé thăm nhà tôi. Dĩ nhiên, ông đã nhìn cơ ngơi của tôi bằng con mắt ngờ vực. Sao cái thằng quái này lại giàu có thế này. Trông cứ như cơ ngơi của một thằng địa chủ vậy. Với ông ta, tôi chẳng thể giải thích gì được. Nhưng với anh thì… tôi muốn kể cho anh nghe để anh hiểu. Bởi vì, anh là đồng đội của tôi. Không gì có thể đáng buồn hơn là bị đồng đội nghi ngờ, phải không anh.
- … Sau khi khỏi bệnh - anh Sức kể tiếp - tôi quyết định ra đi. Nhiều hôm tôi nằm trên chiếc chõng tre ngoài thềm, nhìn lên ngọn Ba Vì này và nghĩ rằng ở đây vẫn còn nhiều đất, hẳn tôi có thể bằng sức lực và trí thông minh của mình làm ra ngô lúa, sắn khoai, tạo dựng được cơ nghiệp. Tôi tin như vậy và quyết định ra đi. Trước khi đi tôi đến gặp Thân. Thấy tôi đến anh không nói một lời mà chỉ lẳng lặng đi pha nước mời tôi uống. Nhưng tôi không uống, mà cũng không ngồi xuống nữa. Tôi nói luôn: - "Anh Thân ạ. Tôi biết anh rất giận tôi. Nói cho đúng ra anh rất thương tôi, anh chỉ căm ghét những gì xấu xa trong tôi thôi. Vì vậy, tôi đến để gặp anh không phải để thanh minh mà yêu cầu anh giúp đỡ. Lúc này các cháu đang đói, tôi đang gặp khó khăn. Nhưng tôi sẽ nghe lời anh, sẽ bằng sức lực và trí tuệ của mình để làm nên cơm áo nuôi vợ nuôi con và trở thành một người có ích cho xã hội. Để có thể bắt đầu, tôi muốn anh đỡ đầu tôi ít nhiều làm vốn liếng! Tôi không đi buôn đâu. Nhà tôi sẽ lên núi - Tôi vừa nói chỉ lên Ba Vì - ở đó, với bàn tay này tôi có thể làm nên tất cả". "Nếu vậy thì được - Anh Thân gật đầu và dịu giọng - Tôi sẽ không tiếc anh bất cứ cái gì nếu tôi có. Vậy, anh cần gì". "Anh cho tôi vay đỡ hai chục cân gạo và hai trăm đồng bạc. Có vậy thôi. Tôi cũng nói trước rằng số tiền gạo này có thể còn lâu tôi mới hoàn lại cho anh được".
Thân gọi vợ vào bảo xúc cho tôi hai chục cân gạo và đưa ngay cho tôi hai trăm đồng bạc. Tôi xin phép đi ngay mặc dù anh cố giữ tôi lại. Số tiền, gạo ấy tôi chia đôi, một nửa mang về cho vợ con, một nửa mang theo. Hành lý của tôi gồm hai bộ quần áo bộ đội đã cũ, một bộ tăng võng, một chiếc ca men bộ đội, một con dao và một cái cuốc. Ngoài ra còn phải kể đến chiếc xe đạp tồng tộc và một gói thuốc sốt rét nữa chứ. Tôi cũng không nói cho vợ con biết rằng mình sẽ đi đâu, làm gì. Vợ tôi vốn rất tin tôi nên cũng chẳng giữ, chỉ dặn tôi chú ý giữ gìn sức khoẻ và giúi cho tôi một hộp dầu cao sao vàng đề phòng khi cảm mạo, ốm đau.
Thế là tôi đến với Ba Vì.
Vùng này, như anh biết đấy, cũng không phải hoang vu gì. Đất đai đã được khai phá nhiều chỉ còn những nơi đất đã bạc màu hoặc ở thật sâu trong các khe núi, hoặc dưới trầm trũng. Tôi đạp xe đi "kiểm tra" suốt một lượt dọc theo các con đường mà chiếc xe tồng tộc có thể đưa tôi tới được. Sau đó tôi nghĩ, nếu một mình, với vốn liếng nhỏ nhoi này mà lao vào "làm ăn lớn" ngay thì sẽ gãy. Phải vừa làm vừa tự kiếm sống và thỉnh thoảng gửi được chút ít gì về để đỡ đần vợ con. Thế là tôi chọn được một phương án cực kỳ khôn ngoan. Tôi không lao vào núi mà lại đạp ngược trở ra tận ngoài dốc Đá Bạc rồi bắt đầu triển khai công việc. Cứ dọc theo hai bên đường từ đó vào tận chân núi, hễ nơi nào còn một vạt đất có thể đặt được trăm gốc sắn là tôi dừng lại, phát cỏ dọn dẹp qua loa rồi đi xin hom sắn về đặt. Những thẻo đất như thế thường còn rất nhiều ở hai bên đường, không ai chú ý tới vì chẳng bõ công. Nhưng với tôi thì lại khác. Nó đỡ tôi được bao nhiêu công sức trong việc khai phá. Hàng ngày tôi vừa trồng sắn vừa đi mót sắn được ít nào tôi cũng thái luôn rồi quẳng lên đường nhựa. Cứ như thế, hai ba tuần tôi cũng có được một hai tải sắn khô mang về cho gia đình ăn độn và chăn nuôi. Đồng thời, mỗi tuần tôi cũng đặt vào lòng đất được vài ngàn hốc sắn. Dọc theo đường quốc lộ và ven những triền đồi từ Sơn Tây vào Ba Vì nơi nào tôi cũng có sắn. Chỉ có điều không bao giờ có nương lớn cả. Ấy vậy mà trong năm đầu tôi đã có gần ba vạn hốc sắn chứ không ít ỏi gì đâu. Đôi khi gặp phải trằm bùn sụt tới bụng, đất rất tốt nhưng không ai nghĩ đến chuyện cấy lúa. Thế thì tôi làm. Tôi đi đẵn cây chuối về, ghép thành những cái bè rồi đi xin mạ. Tôi thả bè xuống mặt trằm rồi cứ ngồi trên đó mà cắm mạ xuống. Những người địa phương nhìn thấy tôi cấy lúa trằm, ai cũng lắc đầu le lưỡi. Nhưng trời ơi, lúa ở những nơi ấy mới tốt làm sao! Mà nào có phải phân gio, cỏ giả gì đâu. Có ai ngờ tôi đã thu được một tấn lúa ở những cái trằm như vậy.
Hàng ngày tôi làm việc say sưa. Tối đến, bạ đâu tôi ngủ đấy. Khi thì ngủ trọ trong nhà dân, khi thì treo võng nằm ngoài rừng. Dần dần, suốt một nẻo từ Đá Bạc vào Ba Vì ở đâu người ta cũng biết tôi.
Lúc đầu người ta cứ nghĩ rằng tôi là một thằng ngớ ngẩn. Nhưng dần dần họ hiểu tôi và nhiều người đã coi tôi như bạn bè. Tôi có thể đi về, ăn ngủ, gửi thóc lúa sắn khoai ở nhà họ bất kỳ lúc nào. Những ngày lang thang, gối đất màn sương ấy với tôi thật đáng ghi nhớ suốt đời. Anh thử tưởng tượng những đêm tôi treo võng nằm ngoài nương một mình, buồn tới mức nào? Nhưng tôi không hề nản, vì tôi tin ở ý chí của mình, tin ở bàn tay và khối óc của mình. Tôi biết trước mắt, tôi chưa có ích cho xã hội, nhưng tôi đã có ích cho gia đình. Vợ con tôi đã đỡ chật vật hơn nhờ kết quả lao động của tôi. Tới vụ thu hoạch sắn anh có biết tôi làm thế nào không? Cũng là một thứ ranh vặt thôi. Tôi bán cứ một đồng một gốc, cho dân xe thồ. Sắn của tôi hầu hết ở bên vệ đường, nên rất dễ bán. Còn đâu chưa bán được tôi thái phơi khô gửi khắp nơi. Lúa cũng vậy, tôi chỉ gửi về cho các cháu vài ba tạ, còn gửi thiên hạ tất. Thế là chỉ một năm, tôi đã có một vốn bốn liếng đáng kể để có thể tiếp tục "sự nghiệp" của mình rồi. Nhưng có được như vậy thật gian khổ, đôi khi phải chịu nhẫn nhục, cay đắng nữa. Tôi đã vượt qua được tất cả.
Tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện đưa vợ con lên định cư ở vùng này. Quê tôi là một vùng đồng chiêm trũng, lụt úng liên miên, dân số lại quá đông nên làm ăn rất chật vật. Nhưng, chỉ mới hé răng nói ra một câu, vợ tôi đã gạt phắt đi. Rồi một dịp may tới, khiến tôi buộc phải quyết định một bước ngoặt lớn của cuộc đời.
Tình cờ tôi làm quen được với ông chủ tịch xã cái xã mà hiện nay tôi đang ở. Trước ở đây ông ta đã từng chỉ huy một đội thanh niên xung phong của huyện ở hoả tuyến nên rất thông cảm với cánh lính Trường Sơn chúng tôi. Ông ta vận động tôi xin lên định cư ở xã nhà và hứa sẽ giúp tôi tạo dựng cơ nghiệp. Tôi đồng ý ngay và về xin phép xã để đưa gia đình đi định cư. Xã đồng ý, nhưng vợ tôi nhất định không chịu đi. Tôi quyết định bước đầu hãy đưa đứa con lớn lên trước. Khi bố con tôi dắt nhau lên trên này, chính quyền địa phương liền "cấp" hẳn cho một quả đồi. Ngày mai anh sẽ thấy các vị trong chính quyền địa phương ở đây hào phóng tới mức nào. Nhưng lúc đầu hai bố con tôi ra đứng ngắm khu đồi được chia mà ngao ngán cả người. Đồi trọc lóc, chỉ lơ thơ vài cây sim mua, đất đá ong trơ ra đỏ quạch. Nhưng tôi không ngán, vì tôi biết không có thứ đất nào lại là đất bỏ đi cả.
Suốt mấy tháng trời hai bố con tôi xoay trần ra, đánh vật với quả đồi ấy. Trước tiên tôi đào một con hào chạy vòng quanh quả đồi để dẫn nước vào, bởi vì tôi biết muốn cải tạo đất, muốn phủ xanh đồi trọc thì trước hết phải có nước cái đã. Đào xong hào thì số đá ong vật lên cũng đủ để hai bố con tôi xây dựng cả một "lâu dài" rồi. Ngày mai anh tới sẽ thấy, mấy ngôi nhà của tôi đều xây bằng đá ong vật từ con hào quanh đồi lên cả đấy… Bây giờ con hào ấy vừa là nơi chứa nước, vừa là nơi thả cá thả lươn của gia đình tôi… Hai bên bờ hào tôi trồng dừa, trồng chuối và đủ các loại cây ăn quả. Ngày mai mời anh ghé qua, thưởng thức những thứ cây nhà lá vườn ấy với tôi cho vui… Nhưng thôi… ta đi chứ? Ngồi lâu quá có lẽ bò nó buồn ngủ rồi đấy. À, đôi bò này tôi cũng mua vào dịp ấy đấy. Hồi ấy không đắt như bây giờ. Khi bố con tôi dắt về năm sáu con bê một lúc nhiều người đã kêu ầm lên là bố con tôi giàu ngầm. Nhưng hồi đó có đáng bao nhiêu, chỉ dăm tạ lúa là đủ. Vậy mà khi bán lại hai chú này cho nông trường, tôi đã được lời gấp mấy lần rồi. Mà bán với giá rẻ chứ đâu có bán đắt như ngoài chợ. Nào các chú mày đứng dậy cả đi chứ! Gối mỏi chân chồn rồi hả! Đường còn xa đấy chứ đừng có tưởng giỡn nhé!
Sáng hôm sau, trên đường từ Sơn Tây về tôi đã trở thành một vị khách quý của gia đình anh Sức. Tôi sững sờ đứng trước cái cơ ngơi rất khang trang mà gia đình anh đã tạo lập nên do bàn tay lao động của mình. Một ngôi nhà năm gian xây bằng đá ong rất cao ráo và thoáng đãng. Ngoài ra còn chuồng lợn, chuồng gà, chuồng bò và các công trình phụ. Toàn bộ quả đồi sau nhà anh đã được phủ xanh bằng chè, dứa, mía, và các loại cây ăn quả. Trước cửa nhà là khu vườn toàn là giống mận Lạng Sơn, có lẽ chỉ năm tới là bói quả.
Khi tôi bước vào cổng, hai đàn lợn nái gần hai chục con, nghễu nghện diễu qua trước mắt như để giới thiệu với tôi sự chuyên cần của chủ nhà. Chỉ tính sơ số lượng ấy sắp sửa cho anh hơn chục ngàn bạc rồi. Anh Sức chỉ đàn lợn, rồi cười:
- Giống của nhà bác Thân đấy, anh ạ. Năm kia lên thăm tôi, bác ấy phê bình kịch liệt tôi về cái chuyện không nuôi lợn nái trong khi ở đây thức ăn rất sẵn. Khi trở về, bác cho cậu em trai mang ngay lên cho tôi một đôi lợn giống. Bây giờ thì anh thấy đấy, hai đàn lợn ấy sẽ giúp tôi bao nhiêu việc. Trước hết tôi phải mua một cái máy bơm nước, phải có máy bơm thì mới có thể mở rộng diện tích cây ăn quả được, anh ạ.
Suốt buổi sáng, tôi đi thăm vườn tược, cây cối, đàn gia súc của anh Sức. Gần trưa hai anh em tôi ra con hào đánh cá trắm cỏ về cho chị Sức làm cơm. Tôi không được biết vào cái đận anh Sức bị kỷ luật trở về, rồi lăn ra ốm, chị vất vả ra sao? Nhưng bây giờ chỉ nhìn qua cũng biết ngay rằng chị hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình.
- Tôi đi làm ở nhà cũng lấn bấn đấy, anh ạ! - Anh Sức nói khi chúng tôi đã ngồi xuống bộ bàn ghế sa lông còn thơm mùi gỗ - Việc nhà đã bận, lại còn việc hợp tác. Thằng cháu lớn thì vừa đi bộ đội. Cũng lại được đi học lái xe. Không khéo lại giẫm phải vết chân của bố thì chẳng ra làm sao. Trước hôm cháu đi, bố con tôi thức gần hết đêm. Tôi đã nói hết lẽ đời với cháu. Cũng chẳng giấu cháu điều gì về quá khứ của mình để cháu tự rút lấy bài học mà vào đời. Nhưng có lẽ cháu nó khá, anh ạ. Điều cơ bản là nó ý thức lao động, có ý chí, có lòng tự trọng và biết tôn trọng mọi người. Hồi mới vào bộ đội, tôi đâu có hiểu biết nhiều và chín chắn được như nó. Anh trông kia kìa - Anh chỉ lên một tấm ảnh lồng trong khung kính - Tôi với bác Thân chụp chung hồi vừa học xong khoá lái xe đấy. Nom cái mặt tôi mới ghét chứ, cứ câng câng ra ấy!
Tôi chăm chú nhìn bức ảnh hai người lính mà nhận ngay ra anh Sức, mặc dù anh và người lính trong ảnh chẳng còn mấy nét giống nhau. Thời gian và những nỗi gian truân vấp váp trên đường đời đã biến anh lính vô tư có đôi mắt nhìn ngước lên như thách thức với tất cả kia thành một người từng trải, dày dạn và rất hiểu mình. Đôi mắt của người đang ngồi trước mặt tôi đã thoáng xuất hiện sự mệt mỏi như đôi mắt của một người vừa đi bộ qua một chặng đường nhiều đèo dốc. Tuy vậy, đôi mắt ấy vẫn ấm áp, nhân hậu, tự tin và đôi khi vẫn ánh lên những tia sáng của một nghị lực sắt thép mà chúng ta vẫn thường nhìn thấy trong ánh mắt của những người chiến sĩ.
Khuất Quang Thụy
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com