Nhà văn Tô Hoài (1920-2014)
Cô Mì mười tám tuổi. Ðến tuổi ấy, từ mùa xuân trở đi, đôi mắt người con gái trong thẳm và đen lay láy. Cô nhìn sang hai bên, con mắt lừ đừ đưa nghiêng nghiêng. Ôi chao là say sưa. Miệng hoa chúm chím. Mỗi khi mỉm một nụ cười nhỏ, đôi má hây khẽ gợn lúm xuống hai nét vòng yêu.
Mì là cô gái đẹp nhất làng. Tất cả những người con trai đều công nhận thế. Vả anh nào cũng ngấp nghé muốn phải lòng. Nàng chẳng kiêu kỳ chi đâu, nhưng yêu được nàng cũng không phải là dễ. Bởi vì nàng nhan sắc. Bởi vì nàng lại biết chữ nữa. Sự biết chữ của một người con gái ở làng Nghĩa đô quả là một tài hoa hiếm có. Nàng viết hộ thư những người hàng xóm. Nàng đọc truyện Hoàng Trừu vanh vách. Nàng thông thạo về đường tiểu thuyết lắm. Bởi vậy, đã xảy ra một chuyện tức cười về chữ nghĩa khó khăn ấy.
Có một người con trai khác xóm yêu Mì. Một bữa kia, chẳng biết làm thế nào, anh chàng đưa đến tay Mì một bức thư. Mì đọc. Rồi Mì đi nói với các chị em bạn rằng: - Nó không biết chữ, nhờ ai viết cho cái thư,người ta lại hiểm, đi chép ở trong truyện ra. Truyện ấy tôi xem rồi. Ðã dốt đặc cán mai, lại còn ti toe, chài sao nổi mình!
Và nàng chép miệng:
-Không biết chữ, nhục thế đấy!
Những lời nói chẳng hay cho người con trai nọ lọt ra ngoài và lan đi khắp ngã ba, ngã bảy. Anh Cuông cũng rõ câu chuyện như mọi người. Nhưng anh còn biết rõ thêm hơn nhiều. Bởi Cuông có cô Nghiên, cô em con nhà chú, là bạn thân của Mì. Một lần Cuông đã được nghe Nghiên đọc những lời thư kia. Nó đọc từ đầu đến đuôi. Nhưng Cuông chỉ nhớ lõm bõm thôi; thư hay lắm. Ðại khái có những câu rằng: "Mợ yêu quý của tôi ơi! Cánh hồng bay bổng, chim xanh tuyệt vời. Mành tương lất phất. Gió đàn lung lay. Nỗi niềm ngậm đắng nuốt cay; ai ơi có biết lòng này cho không."
Những nghe mà cảm động. Thỉnh thoảng Cuông đọc lẩm bẩm trong miệng những lời văn chương ấy. Cũng bởi rằng anh Cuông đã yêu cô Mì. Cuông là một gã trai mới lớn. Tơ tình đương phơi phới nhẹ nhàng. Thường anh vẫn được trông thấy Mì, mỗi buổi chiều, dù hai người ở cách hai xóm. Chiều chiều, Mì sang chơi nhà Nghiên. Cũng chiều chiều, lúc hoàng hôn đã đỏ sạm, mọi người đều rời khung cửi, Cuông ra đứng ngẩn ngơ trước ngõ. Hư thoáng thấy cái thắt lưng lụa bạch của Mì phất phơ đằng đầu xóm, chàng đã đỏ bừng mặt, chân tay tự dưng líu ríu lại. Và khi Mì đi sắp đến nơi thì Cuông lẳng lặng thụt dần vào trong cuối ngõ. Ðể đến lúc Mì đã đi khỏi, Cuông mới nhô đầu ra cúi khom khom nhòm theo, nét mặt ra chiều đờ đẫn. Giá bấy giờ có ai chợt đi đến trông thấy Cuông thì Cuông vội đứng ngay ngắn, hai tay chắp ra đằng sau, mặt ngẩng lên trời, giả như đương đứng tơ mơ nghe tiếng diều sáo vo vo trên cao ấy, buổi chiều nào cũng tương tự như buổi chiều nào. Nếu không có một sự gì mới mẻ khác chẳng biết cuộc "tình duyên một vế" này còn kéo dài đến tận bao giờ!
Cuộc đổi thay vào sau những đêm có hát chèo bên làng Thượng. Một hôm, Nghiên nói chuyện với anh Cuông:
-Cái hôm hát trò Lục-Vân-Tiên ấy mà. Em đi xem với chị Mì.
-ừ, lúc bấy giờ tao lẻn qua chỗ cửa đình chứ gì?
-Vâng. Lúc chị Mì thấy anh đi qua, lại bảo em thế này chứ: "Anh ấy hay nhỉ?"
Cuông bừng người, thấy như đương rung từng đốt xương ống một. Anh hấp tấp hỏi dồn:
-Sao, Sao thế?
-Em cũng hỏi lại. Chị ấy cười, bảo: "Anh có vẻ hay phạm. Chiều nào cũng đứng ngoài ngõ. Trông thấy em lại đi vào."
Anh Cuông ngơ ngác, lẩm bẩm chối bâng quơ:
-Quái nhỉ Quái nhỉ Tao có đứng ngõ đâu!
Nhưng trong lòng anh nghĩ khác. Trong lòng anh đương có hoa nở. Và anh đã tương tư cô Mì lên gấp trước mười lần rồi. Bởi vì như thế là cô Mì có chú ý đến anh lắm. Ðêm hôm đó và mấy đêm hôm sau, anh Cuông nằm trằn trọc không ngủ được mấy. Chính anh cũng chẳng muốn chợp mắt.Ðôi chốc, anh mỉm cười vớ vẩn. Anh nghĩ lập lý rằng:
-Thế là cắn câu rồi. Bây giờ chỉ thả một cái thư là ăn thua ngay đấy. Nhưng chết một cái, mình lại cóc biết chữ. Nó mà hỏi đến, minh mít đặc như cái anh cu kia thì bỏ xừ.
Cuông thở dài ở đoạn này. Anh nghĩ lơ mơ, lơ mợ.
-Có lẽ mình phải đi học chữ quốc ngữ!
Một ngày phiên chợ Bưởi, Cuông xách một con gà lên chợ bán. Con gà hư quá, ăn bún rất nhiều, mà lại đẻ trứng cách nhật, nên Cuông đem bán trống nó đi. Nó to xù xù, há mỏ kêu cục te cục tác cùng đường. Bán gà xong, anh đến một hàng xén. Anh có ý tránh những hàng có cô gái ngồi bán. Anh vào hàng một ông cụ già kèm nhèm mắt. Và anh mua một quyển "Lên sáu" năm xu. Anh thu gọn lỏn ngay quyển sách vào bụng áo, chẳng một ai nhìn thấy. Rồi anh ung dung về làng.
Cuông học chữ quốc ngữ liền từ tối hôm ấy. Thằng Tế là cháu anh, học trò lớp tư ngoài trường làng, dạy anh. Mỗi phiên, anh trả công thằng bé một xu, nó bằng lòng ngay. Bắt đầu anh lẩm nhẩm những chữ cái to thô lố - gọi là chữ cái có khác - một cách nhọc nhằn và hơi chán nản. Nhưng anh chỉ gắng, chịu khó vài bữa, đã học sang đến nửa vần bằng"ba be bê bi" rồi. Tối đến, dệt cửi đầu hôm xong, Cuông mang đèn ra ngoài hiên. Thằng Tế đã đợi sẵn ở đấy. Anh ngồi xổm, chăm chú chỉ từng chữ, theo ngón tay trỏ của thằng bé. Học đuổi nhau như vậy một lát. anh đã thuộc. Thằng bé đi ngủ, để anh ngồi lẩm nhẩm gật gù một mình. Khi đã thuộc kỹ, có thể gấp sách lại mà vẫn đọc được, anh mở vở ra. Anh nằm nhoài xuống, cong hai chân lên. Bút và mực đã sẵn đấy. Anh mắm môi, nheo mắt, nghiêng đầu tô từng cái"gậy" một. Hết hàng "gậy" này xuống hàng "gậy"khác. Cầm thì cầm úp ngòi bút xuống, chấm mực vừa phải và vạch cho khỏe. Nhiều khi tức ê ẩm cả ngực mà anh vẫn chịu khó nằm thẳng duỗi ra. Viết xong một trang, anh mới bò dậy, thở phèo một cái rõ mạnh, rồi gấp sách lại, đi ngủ. Bao giờ trước khi đi ngủ, anh cũng nghĩ đến những chữ nghĩa lủng củng, lôi thôi anh vừa học: "Nào t-a-ta,n-g-a-nga, lại n-g-h-e-nghẹ.." Và thể nào anh cũng tưởng tượng lan man đến một hôm nào đó, cái Nghiên đưa tờ thư của anh cho Mì.Cô nàng mở ra, vừa đọc vừa chớp đôi hàng mi. Anh không tư lự gì hơn nữa.
Anh Cuông rất chịu khó học. Nhưng anh giấu giếm cẩn thận việc học của anh. Bạn bè không ai biết, anh lại càng kín đáo hơn đối với cái Nghiên. Bởi vì to đầu mà còn đi học, anh rất sợ xấu hổ, và nhất là sự bí mật đến tai Mì thì hỏng bét cả. Mùa đông đã sang những ngày cuối. Cuông ngồi học phải quàng chân lên tận cổ. Nhưng anh cũng sắp thành công rồi. Bởi anh đã có thể chúm nghẹo mồm đi mà ậm ực đánh vần đến u-i-cờ-lét-a-uya, đến u-i-cờ-lét-uê-c-h-uếch, rồi...Trong giấc ngủ, lẫn với bóng dáng hình ảnh cô Mì yêu quý, lòng anh xốn xang hy vọng. Thế rồi, một đêm đầu mùa xuân. Cái không khíđầm ấm, cái phong thái nhàn nhã hãy còn phảng phất trong mỗi gia đình. Cuông khuân sách vở, bút mực ra ngoài hiên. Nhưng tối nay không có cu Tế. Anh ngồi gật gưỡng, ngả nghiêng cái đầu, mắt nhìn đăm đăm vào ngọn đèn. Thoáng mơ màng một vẻ nghĩ ngợi rất xa xôi. Phải, anh Cuông đương có điều nghĩ ngợi. Anh xếp bằng tròn hai chân ngồi nghiêm như ông Phật, qua hàng giờ im lặng. Rồi anh xé ở cuối vở ra một trang giấy. Anh đặt lên trên bìa sách, vuốt hai mép cho thực phẳng.Chàng từ từ nằm bò xuống. Cái bút chấm vào lọ mực tím, chàng cứ hí hoáy đưa ngòi bút. Chiếc ngòi bút sắt, bên ánh đèn, lấp loáng màu mực, đưa đi theo dòng kẻ, như ngượng nghịu reo lên cồn cột vì được gặp mặt tờ giấy trắng. Một chữ viết, lại ngừng. Một chữ viết,lại rụt rè xóa. Song Cuông đưa bút rất nắn nót, tề chỉnh. Có khi cố gắng và đam mê công việc quá, Cuông ngoẹo cổ, trợn lồi mắt lên, méo lệch mồm để đẩy chữ "o" cho được thực tròn trặn. Mặt giấy đầy dần dần được ba dòng, rồi bốn dòng, rồi bốn dòng rưỡi thì anh buông bút xuống, bâng khuâng ngó ra ngoài vườn. Bấy giờ đã khuya lắm. Vườn tre và vườn dừa láng một chút ánh trăng xế dịu dàng.Cuông cúi xuống, hai tay nâng tờ giấy, trầm ngâm nhìn mươi hàng chữ nằm ngổn ngang, trong những đường kẻ xanh. Nhưng khi anh lắp bắp đọc lại nho nhỏ thì mắt anh sáng lên. Những tiếng chữ lẫn với tiếng"ư", "a" bật ra miệng và cả ở đôi mắt, một cách rất khó nhọc, nhưng rất kính cẩn, thiêng liêng. Thành thử, những hàng chữ xấu xí và bề bộn cũng được lây ít nhiều khí sống mạnh mẽ, trở nên quý giá và đẹp đẽ lắm. Anh Cuông đã đọc lại xong. ồ, đó là một bức thư ngắn - mà dài cho người viết - để gửi cho người yêu. Thư của Cuông gửi cho em Mì.
Thư rằng:
Em Mì ơi! bấy lâu nay tôi vẫn trộm nhớ thầm mong em lắm. Chẳng biết em có biết cho không. Tôi viết thư này là chính của tôi viết cho em đấy. Em Mì ơi! gió đưa tờ giấy lên mây; gió đưa thư này bay đến nhà em. Em mà bắt được em nên trả lời. Trăm năm xin quyết cùng nhau chung một lời vàng đá.
Nguyễn Văn Cuông viết thư.
Thực là một công trình ghê gớm của Cuông. Anh đọc lại một lần nữa, rồi hơ giấy lên ngọn đèn cho chóng khô mực. Bấy giờ anh mới cẩn thận gập lại làm tư, để vào trong quyển vở, đem nhét xuống gối đầu giường. Ðã vào canh một, gà gáy lên te te. Vừng trăng đã khuất hẳn.
Thế là Cuông cắm cuối học từ ngày vào mùa đông, đến ngoài Tết Nguyên đán thì viết được trọn lá thư đưa cho Mì. Nhưng lá thư tình đầu tiên ấy không bao giờ được gửi cho ai. Bởi vì, ngày đầu mùa xuân đó, cô Mì đi lấy chồng. Cô lấy chồng người bên làng khác. Tất nhiên là Cuông không hay biết gì trước. Cho đến khi cái Nghiên lại nói chuyện với anh thì đã muộn hẳn hoi rồi. Anh không thể dám oánai được. Bởi anh chưa có ai để mà oán hận.
Lá thư tình vô duyên nằm buồn thiu trong mép bím(*) anh được mấy hôm.Những nếp gấp đã lên nước mồ hôi mà đen xỉn lại. Một đêm, anh châm đèn lên, kề tờ giấy vào ngọn lửa mà đốt đi. Ðôi mí mắt nặng sụp xuống.
Rồi mọi người xung quanh đều biết rằng tự nhiên mà Cuông thông thạo đọc và viết nhoang nhoáng được chữ quốc ngữ.
Nhưng anh buồn lắm. Cả ngày anh chỉ giải khuây mối hận kín đáo bằng cách đọc truyện Kim-Vân-Kiều.Một hôm, anh nói với cô em:
-Truyện Kiều hay lắm. trong ấy có nhiều câu buồn ghê!
Nghiên cười:
-Ðộ còn chị Mì ở nhà, chị ấy cũng thích đọc truyện Kiều. Hoài của,giá ngày trước em làm mối cho anh nhỉ!
(1942)
(*)bím: cái ví
Thư, bài vở cộng tác vui lòng gửi tới Email:
Vui lòng ghi rõ nguồn khi copy nội dung từ website này.
© Copyright: chandungkesi.com